PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG TÂY TẠNG
Nguyên tác: Buddhisme in the Tibetan Tradition của Geshe Kelsang Gyatso
Bản Việt ngữ của Thích nữ Trí Hải.
GIỚI THIỆU Một sự trình bày
rõ ràng và
trung thực về
Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày
căn bản của
Phật pháp theo một đường lối mà
mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng
tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới
tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn
cung cấp những
kiến thức quý báu cho những
đệ tử đã
thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
Tác giả trình bày
Phật pháp với một tấm
lòng từ bi và
thận trọng, giảng dạy cách thức đào luyện sự
thực chứng nội tâm để
bảo vệ chúng sinh khỏi
đau khổ. Ngài cũng vạch ra
con đường để phát huy
tâm từ và tạo được sự
yên ổn cho chính họ và những người khác. Ngài cũng bàn đến những
vấn đề như sự
tái sinh, nghiệp và quả,
tánh không,
giải thoát và
giác ngộ.
Mặc dù mỗi
con người đều có những
mục đích và
cách sống khác nhau, song
chúng ta đều
quan tâm về cách thức làm thế nào tránh những khổ đau và tìm đến
hạnh phúc cho riêng mình.
Thực hành những điều như nhẫn, bi và tâm,
thực chứng về
tánh không để đào luyện tâm
vị tha của sự
giác ngộ sẽ giúp
chúng ta đạt được điều này. Khi đọc quyển sách này, hãy
suy tưởng về
ý nghĩa của nó và đem tất cả vào
thực hành,
chúng ta sẽ
đạt được sự
thông suốt về
con đường tâm linh thâm thúy này.
LỜI NÓI ĐẦU
Thường thường những người có ý thích
nghiên cứu về
Phật giáo Tây Tạng thường bị trở ngại vì họ không thể nào tìm được một quyển sách mà họ có thể
thông hiểu được dễ dàng. Điều này càng đúng hơn nữa cho những ai đã để
cả đời để kiếm sống, sự
áp lực và căn thẳng đã làm cho họ không có
thì giờ cho chuyện gì khác.
Cùng lúc đó,
cách sống hiện tại của
chúng ta đã không giúp gì được để
giải quyết những khó khăn của
chúng ta, và thực sự, chỉ có một cách đúng nhất để sống cuộc sống ít ít
căng thẳng dường như là phát triển khả năng về
tinh thần và
tín ngưỡng.
Vì vậy tôi
sung sướng được biết Geshe Kelsang Gyatso có
ý định trình bày cái
căn bản giáo lý Phật trong một cách mà
mọi người có thể thu thập được và
thực hành trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tôi rất
cảm ơn dịch giả và nhà xuất bản cho sự đóng góp của họ.
H.H.The Dalai Lama.
CHƯƠNG 1
PHÁP LÀ GÌ?
Tất cả
chúng ta đều có được một thân người, điều ấy còn có
giá trị hơn cả cây đèn thần của Aladin - nếu
chúng ta biết
sử dụng nó.
Nếu không biệt
sử dụng thân người của mình, thì sự việc mang một thân người không có
giá trị lớn lao gì cho lắm. Không biết
sử dụng thân người của mình thì cũng giống như người có
tài sản lớn, nhưng thay vì dùng nó để giúp người thì lại hại người.
Thật
vô cùng quan trọng để
sử dụng đúng tiềm năng thân xác.
Lý do tại sao mà điều này quan trọng là bởi vì thân người thật hiếm có và đầy
ý nghĩa. Dù trên
thế giới có bao nhiêu người đi nữa, mỗi người cũng chỉ có được một cái thân mà thôi. Như
mọi người đều biết, một người không thể
duy trì hai thân xác. Mặc dù một người nam hay nữ có thể sắm nhiều nhà, nhiều xe, nhưng họ chỉ có thể giữ được một cái thân xác mà thôi. Lại nữa, khi chiếc xe hơi hay
sở hữu khác của ta bị hỏng,
chúng ta có thể thay cái khác; thế nhưng, khi thân xác
chúng ta hư hoại thì không thể nào mua hay mượn một thân khác được. Vì
thế thân người này là
tài sản hiếm hoi nhất của
chúng ta.
Thân xác
chúng ta không chỉ hiếm hoi mà còn đầy
ý nghĩa. Điều này có nghĩa rằng
chúng ta có
thể đạt đến
hạnh phúc tối thượng nhờ sự dụng thân người của ta một cách
thích đáng. Chỉ có pháp mới là
phương sách để đạt
hạnh phúc tối thượng đó.
Nói chung, pháp là những lời dạy của
đức Phật, nhưng nghĩa thật của pháp là những
thực chứng nội tâm trực tiếp
che chở cho
hữu tình (
chúng sinh)
thoát khỏi những
đau khổ (the inner realizations which directly protect living being from their sufferings).
Nếu không quán xét
bản chất của pháp, thì ta sẽ không thể hiểu được những
lợi ích, khả năng và
vai trò của pháp, và cũng không thể xét xem
chúng ta có cần pháp hay không.
Danh từ "Pháp" tiếng Phạn là "Dharma"
nghĩa đen là "cái gì gìn giữ". Chính là pháp đã
giữ gìn chúng sinh tránh khỏi những khổ đau, lo sơ và hiểm nguy.
Tuy thế, nếu
chúng ta muốn
thoát khỏi những
vấn đề và
đau khổ của chính mình, thì ta
cần phải thi thố một
nỗ lực lớn lao để
đạt đến sự
chứng ngộ pháp. Cũng như một phương thuốc dù rất
công hiệu, mà người bệnh không chịu uống thì bệnh cũng không thể lành.
Pháp
ví như thuốc, Phật như
bác sĩ, và đoàn thể những người
thực hành pháp ví như những người điều dưỡng. Như người bệnh cần
lương y, thuốc đúng bệnh và người điều dưỡng tốt, cũng vậy,
chúng ta cần nương tựa Phật như
bác sĩ, nương tựa
pháp như thuốc, nương tựa
tăng đoàn như những người điều dưỡng, nếu
chúng ta muốn
thoát khỏi những khổ đau.
Pháp bảo vệ ta một cách trực tiếp như thế nào? Nếu ta
đạt được vài
kinh nghiệm tâm linh, thì những
kinh nghiệm này
chắc chắn sẽ
giải quyết vài
vấn đề nội tâm của ta. Ví dụ nếu ta
thực chứng và có
kinh nghiệm về sự
nhẫn nhục, thì điều này sẽ
giải quyết cho ta mọi
vấn đề do
giận dữ gây nên. Cũng vậy, nếu
chúng ta thành tựu được sự
thực chứng về
lòng bi mẫn thì điều này sẽ
giải quyết mọi
rắc rối phát sinh do thói
ganh tỵ. Và
cuối cùng, nếu ta đạt
thực chứng về
tánh không (realization of emptiness) -
bản chất tối hậu của mọi
hiện tượng (the utimate nature of all phenomena) - thì sự
thực chứng này sẽ
giải quyết tất cả mọi
vấn đề của
chúng ta và
trừ khử mọi
đau khổ.
Tóm lại, những
thực chứng về pháp tận diệt mọi
vấn đề nội tâm của ta và đưa ta đến sự
bình an tạm thời và
vĩnh cửu.
Ngoài những đức tính nói trên, pháp còn có
đặc tính là làm
nơi nương tựa vững chắc cho
chúng ta. Một số người nghĩ rằng
của cải,
tài sản,
thân quyến, bạn bè có thể
giải quyết những
vấn đề của mình và giúp mình được
an tâm. Như thế là họ lấy những thứ này làm chỗ
quy y để đỡ khổ đau.
Dĩ nhiên, đôi khi
tài sản,
thân quyến hay bạn bè có thể
giải quyết một số
vấn đề và đem lại cho ta một vài
hạnh phúc. Nhưng có nhiều
vấn đề họ không thể
giải quyết mà đôi khi còn tạo thêm
rắc rối và
đau khổ cho ta. Ta không thể
dựa vào tài sản,
thân quyến, bạn bè để giúp đỡ mình trong mọi tình huống. Bởi thế đấy không phải là chỗ nương tựa
chắc chắn cho ta. Ngoài pháp ra, ta không thể
tìm thấy được một chỗ nương tựa nào thực sự.
Theo
truyền thống, trước khi
thuyết pháp, những vị
Lạt ma nói lời
dẫn nhập.
Mục đích của việc này là để
thiết lập một cách
khởi tâm chính đáng về phía vị thầy cũng như về phía
đệ tử.
Phù hợp với
truyền thống này, ở đây sẽ
giải thích một câu thơ mà bậc thầy đã làm để khuyên một ông vua, bạn của ngài. Câu thơ ấy như sau:
"Thân
thể hiện tại của bạn chỉ như vật mượn của người khác"
Điều này có nghĩa rằng nguồn gốc xác thân ta thuộc về những người khác. Cái thân ta phát triển từ sự giao hợp giữa
tinh chất của cha và trứng của mẹ.
Thần thức nhập vào sự giao hợp ấy rồi từ từ thân ta phát triển.
Khi chết
chúng ta không thể nào mang thân xác
chúng ta qua
đời sống mới.
Chúng ta không thể
ngăn cản sự tàn tạ và tan rã của thân xác
sau khi chết. Do đó mà nói rằng tâm giống như người khách ở trong cái nhà trọ - là thân xác.
Chúng ta rất nên ghi nhớ và
quán tưởng điều quan trọng này, chính vì
chúng ta thường
chấp chặt thân xác của mình (strong clinging to our body). Câu thơ này rất
thích hợp cho
chúng ta ngày nay cũng như khi nó được thốt lên cho vị vua ngày trước.
Khi chết
thần thức lìa thân xác như một
du khách rời
bỏ nhà trọ để đi đến
nơi khác. Một số người có
trình độ tu chứng cao có thể
di chuyển thần thức qua thân xác khác theo
ý muốn, y hệt như người ta dọn đến nhà mới.
Chúng ta nên luôn
quán tưởng điều không thể tránh là ta phải rời bỏ thân xác vào lúc chết, và
ý thức rằng mình chỉ như một
du khách trên đời này, không phải
vĩnh viễn dính liền với thân xác
hiện hữu.
Ý tưởng cho rằng
chúng ta sẽ ở nơi này
mãi mãi đưa đến nhiều
vấn đề rắc rối. Khi ấy
bản ngã cố gắng tự
che chở bằng cách vây quanh mình đủ thứ phụ tùng trên đời, như những
sở hữu và
thành công về mặt
thế gian.
Chúng ta quên rằng vào lúc chết, ta
cần phải để lại đằng sau tất cả những thứ ấy.
Chúng ta không
hy vọng được
lợi ích nhiều nơi pháp nếu chỉ
thụ động ngồi nghe hay đọc, như thể là đang xem truyền hình. Ta có thể được vài
lợi ích nhờ
nghiên cứu pháp trên bình diện
tri thức, nhưng muốn được lợi
toàn vẹn, thì ta phải sống với pháp bằng tất cả
con người mình và
thực chứng pháp bằng kinh nghiệm
bản thân.
"Mặc dù thân của bạn chỉ như một
nhà khách,
Nếu
thực hành pháp, bạn sẽ được nhiều kết quả".
Điều này có nghĩa rằng nên
sử dụng thân xác ta, mà ta chỉ có được trong một
thời gian ngắn, để
thực hành pháp. Ta không nên
lãng phí thân người như dụng cụ
quý báu này, vì nó có thể giúp ta đạt tới
giác ngộ. Nếu
sử dụng sai, thì thân xác này có thể phạm đủ thứ
ác nghiệp thay vì giúp
chúng ta đi trên
con đường tu tâm. Nhưng nhờ
thực hành pháp mà
chúng ta có thể
thành tựu trọn vẹn tiềm năng của thân người.
Nhờ
thực hành pháp ta có thể
thành tựu ba
ý nghĩa (hay
mục đích).
Ý nghĩa cao nhất là
đạt đến toàn giác (to reach full Enlightenment),
thành Phật ngay
trong đời này. Loại
ý nghĩa trung bình là sự đạt
giải thoát cho riêng mình khỏi những
sợ hãi và khổ đau
trong vòng sanh tử.
Mục đích thấp nhất là
cố gắng để được tâm
an ổn, để tự
giải quyết những
vấn đề nội tâm mình và để khỏi sinh vào các đọa xứ. Như thế, bậc thầy đã khuyên nhà vua bạn mình
thực hành pháp, nhắm đến một trong ba
phạm vi hay ba tầng mức
ý nghĩa này.
Loài người chúng ta có được cơ may
thực hành pháp là nhờ thân người
quý báu của
chúng ta. Khi
biết điều này và thấy được
lợi lạc rộng rãi mà
chúng ta có
thể đạt được, thì
chúng ta nên
cố gắng học hiểu và
thực hành Phật pháp. Những chương sau đây sẽ đưa ra vài
giải thích về cách thức làm sao để
thực hiện việc này.
CHƯƠNG 2
THIỆN TÂM
Khi bậc thầy vĩ đại của
Phật giáo là Atisha sống ở
Tây Tạng, có nhiều người đến thăm ngài. Mỗi khi gặp bất cứ người nào, Atisha cũng hỏi câu này:
- Bạn có
lòng tốt không?
Thông thường mỗi khi gặp ai ta hỏi:
-
Mạnh khỏe không?
Nhưng Atisha đã đặt một câu hỏi sâu sắc hơn. Ngài
công nhận rằng bất cứ người nào có tâm tốt là một người tốt. Mỗi lần Atisha khuyên dạy người nào, ngài nói:
- Hãy cố đào luyện
thiện tâm.
Tùy thuộc vào
bản chất của tâm
chúng ta mà
chúng ta làm những
hành vi tốt hay xấu. Một tâm xấu (hay tâm
tiêu cực) sẽ dẫn
chúng ta phạm vào những
hành vi tiêu cực, cũng vậy một tâm tốt hay
thiện tâm sẽ dẫn
chúng ta làm những
hoạt động tích cực.
Hậu quả của những
ác hành là những
vấn đề rắc rối; trong khi
hậu quả của
thiện hành sẽ là
hạnh phúc. Do
năng lực của
thiện tâm mà
chúng ta sẽ có được những
hạnh phúc tạm thời.
Hạnh phúc tuyệt đối của sự
giác ngộ cũng được
thành tựu nhờ
năng lực của
thiện tâm.
Ngay cả
hạnh phúc trong quan hệ
gia đình chúng ta cũng
tùy thuộc vào tâm lành.
Tình thương,
lòng trắc ẩn trong
gia đình được căn cứ trên những tấm
lòng tốt của mỗi người trong
gia đình. Ví dụ như đối với một cặp vợ chồng, thì việc có được một tương quan
tốt đẹp là nhờ họ có tâm tốt. Nếu cả người vợ lẫn người chồng đều có tâm xấu thì
hậu quả sẽ là
đau khổ. Như vậy, muốn có được
hạnh phúc - từ
hạnh phúc nhỏ nhặt tạm thời
cho đến hạnh phúc tuyệt đối của
Phật quả -
chúng ta đều
cần phải cố gắng đào luyện
thiện tâm.
Chúng ta phải
cẩn thận tra tầm làm thế nào để phát sinh tâm tốt. Đầu tiên
chúng ta phải biết
phân biệt giữa tâm trạng tốt và tâm trạng xấu. Rồi
chúng ta nên
cố gắng trừ khử những tâm trạng xấu và
tăng trưởng những tâm trạng tốt. Bất cứ một tâm nào làm
giao động sự
bình an nội tâm của
chúng ta thì đều gọi là tâm xấu. Những
tư tưởng xấu như
oán hận,
ganh tỵ,
giận dữ,
thèm khát, muốn hại người, có
tà kiến,
thái độ xấu,
phân biệt sai lầm, không có
đức tin, những
tư tưởng đó quấy động tâm ta và gây cho ta nhiều
vấn đề. Những
tư tưởng này
phá hoại hạnh phúc của
chúng ta và gây
đau khổ cho
chúng ta.
Thật dễ dàng để thấy được như thế nào một tâm ác khiến cho người ta phải
đau khổ. Ví dụ, một
con người có thể có tâm rất
tích cực nhưng bỗng nhiên họ
nổi giận. Tâm đang
an ổn mà
giận dữ nổi lên thì người đó không còn
hạnh phúc hay
bình an nữa. Một người đang giận như vậy, dù có được
phục vụ bao nhiêu món
ăn ngon lành, họ cũng không thể
thưởng thức được. Quả thế, tâm
giận dữ cướp đoạt
hạnh phúc và sự
an lạc của
con người. Mọi kẻ
hay giận dữ, thù ghét đều kinh quá nỗi
bất hạnh.
Hậu quả của sự
giận dữ là nhiều
vấn đề phát sinh. Những
hành vi xấu như gây gổ,
đánh nhau, giết hại lẫn nhau đều do sự
giận dữ gây nên. Chính vì những
hành vi tiêu cực này mà ta nếm trải nhiều
đau khổ.
Tâm
ganh tỵ,
thèm khát cũng tạo ra nhiều
vấn đề. Càng
ganh tỵ chúng ta càng
không hạnh phúc và không thể nào
tìm thấy sự
bình an. Cũng vậy, càng
bám víu chúng ta càng có nhiều
vấn đề khó khăn.
Hiện tại phần lớn những
vấn đề chúng ta tạo ra đều do sự
chấp thủ.
Thí dụ như một người
ăn trộm có thể bị tù
chung thân vì sự
chấp thủ của người ấy. Đầu tiên là y
tham luyến những
sở hữu của người khác, rồi do động cơ
tham luyến thúc đẩy mà người ấy trộm cướp và có thể giết người để có được
tài sản đó.
Hậu quả sự
tham luyến của y là tù ngục và
đau khổ khó chịu nổi. Về những mối quan hệ trong gia đìnnh
cũng thế, sự
tham ái nồng nàn có thể đưa đến những
vấn đề như tính
độc tài quá độ.
Vị đạo sư Vasubandhu cho nhiều
thí dụ cho thấy sự
chấp thủ tạo ra sự
đau khổ như thế nào.
Thí dụ đầu tiên của ngài là các con ruồi có sự
ham muốn mạnh mẽ về các
mùi hôi thối. Như thế, khi chúng đậu lên các
thức ăn,
con người giết chúng chết. Các con thiêu thân bị các ánh sáng đẹp
quyến rũ. Khi chúng thấy ánh sáng, chúng cho là nơi
lạc thú. Con thiêu thân nổi lên sự
chấp thủ mạnh mẽ và lòng
tham muốn nằm trong ánh sáng
quyến rũ của
ngọn đèn sáp. Chúng
cố gắng bay vào trong ánh sáng và
cuối cùng phải bị chết.
Một
thí dụ khác về sự
tai hại của
ham muốn mạnh mẽ là sự
quyến rũ của con cá đối với miếng mồi. Người chài thường đặt mồi ở đầu lưỡi câu. Khi cá trông thấy hoặc ngửi thấy
thức ăn, chúng cắn vào lưỡi câu. Kết quả là chúng chết. Một vài thú rừng thì bám lấy
âm thanh êm dịu. Những thợ săn thường chơi khẩu cầm hoặc thổi ống tiêu làm cho những con
thú vật tiến
đến gần họ. Khi ấy thợ săn sẽ giết những con thú này.
Theo
luận sư Vasubandhu, một vài
hữu tình chết vì tham đắm hoặc sắc, hoặc thanh, hoặc hương, hoặc vị, hoặc xúc. Nhưng
con người lại có sự
bám víu mãnh liệt đối với cả năm đối tượng
giác quan. Như những ví dụ trên đã
chứng minh, tâm
chấp thủ chính là nguồn gốc của nhiều
vấn đề. Mặc dù
chúng ta đều có tâm
tiêu cực như
chấp thủ (
bám víu), song với
tư cách con người chúng ta có cái
cơ hội quý báu để
thực hành những
phương pháp ngăn những tâm xấu
sinh khởi và để
đề phòng hậu quả đau khổ phát sinh từ đấy.
Như vậy, điều gì tạo nên một tâm tốt? Tâm tốt bao hàm
ý hướng có lợi cho người khác như là
lòng bi mẫn,
lòng từ,
bố thí, giới, sự
bao dung,
nhẫn nhục và
tinh thần ham muốn thực hành Phật pháp. Tâm mơ ước
đạt đến định, tâm mong muốn
thực chứng tánh không, tâm mong muốn
từ bỏ sinh tử luân hồi, tâm mơ ước
giác ngộ giải thoát vì
lợi lạc cho
hữu tình, tất cả những tâm đó đều là tâm tốt. Những
tư tưởng này được xếp vào loại
tư tưởng tốt lành bởi vì chúng đem lại
hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Những tâm tốt này có
năng lực giải quyết hoặc
giảm bớt những
rắc rối của
chúng ta.
Càng đào luyện tâm tốt bao nhiêu thì ta càng ít có
tư tưởng xấu bấy nhiêu. Do đó những
rắc rối của
chúng ta giảm thiểu. Càng
tăng trưởng tâm tốt ta càng có
hạnh phúc lớn lao. Có những lúc ta cần
xem lại đời sống của những thiền giả
đắc đạo trong
quá khứ để thêm niềm
cảm hứng. Những thiền giả này đã phát triển
hạnh phúc nhờ
năng lực của
thiện tâm. Bằng cách đào luyện tâm mình, những thiền giả đã
đạt đến những
trình độ rất cao trên đường
tu tập. Khi gặp
nghịch cảnh họ liền
chuyển hóa nghịch cảnh thành đường
lối tu tâm. Không giống như người đời gặp khó khăn thì
đau khổ, những thiền giả
ngày xưa đã sống từ an vui đi đến an vui.
Thiền sư Phật giáo vĩ đại Shantideva nói:
"Tôi
chưa bao giờ nản chí, bởi vì tôi đang đi trên
con đường tiến đến
giác ngộ,
con đường này đem lại hết an vui này đến an vui khác".
Nếu
cố gắng phát triển tâm tốt thì
tự nhiên ta sẽ thấy
bình an tâm hồn. Không đào luyện tâm tốt thì không bao giờ ta có
bình an thật sự. Nếu tâm ta không an, thì dù
thế giới có hòa bình cũng không đem lại
bình an cho ta được. Như vậy bổn phận của
chúng ta là phải tìm sự
bình an cho
nội tâm mình.
Hạnh phúc trong sáng và sự phát triển
an lạc nội tâm không
thể đạt được bằng cách tập trung vào
sở hữu vật chất. Muốn có được những phần thưởng
vật chất,
chúng ta phải
thi thố một
nỗ lực lớn. Trong khi
nỗ lực như thế
chúng ta cảm thấy nhiều
đau khổ hơn là
hạnh phúc. Và sau khi
đạt được mục đích vật chất,
chúng ta lại thấy rằng chúng không thể nào
thỏa mãn những nhu cầu
nội tâm của ta. Bởi vậy
chúng ta cần tu tâm hay
thực hành pháp.
Nhất là trong
thời kỳ mạt pháp, khi có nhiều chiến tranh, nhiều nguy hiểm, thì
chúng ta lại
cần phải dành rất nhiều
năng lượng để
thực hành Phật pháp. Nhưng dù ở trong
thời đại suy đồi,
chúng ta vẫn còn
may mắn vì có được cơ hội
thực hành pháp để làm cho tâm ta
an lạc.
I.- CHUYỂN HÓA TÂM TIÊU CỰC
Lúc đầu, rất khó mà biến một tâm
tiêu cực (xấu)
thành tích cực (tốt). Ví dụ, một người đang
giận dữ thì không thể bỗng dưng biến tâm
giận dữ thành tâm yêu thương được. Bất cứ một tâm
tiêu cực nào, khi đã phát sinh thì không thể tức thì được
chuyển hóa thành một tâm
lành mạnh. Cũng
như thật khó mà nhuộm vàng một tấm vải len màu đen
nếu không tẩy màu đen trước đó, cũng vậy, ta phải
diệt trừ hay
chế ngự một tâm xấu trước khi
tâm tích cực có thể khởi lên. Như vậy, nếu những tâm
tiêu cực khởi lên, thì trước hết ta phải cố
chế ngự chúng. Rồi ta nên chuyển những
tư tưởng mình thành những
tư tưởng tích cực hay
lợi ích.
Có hai
phương pháp để chuyển những
tư tưởng tiêu cực thành ra những
tư tưởng tích cực.
Phương pháp thứ nhất là
chế ngự những
tư tưởng phân biệt tiêu cực.
Phương pháp thứ hai là
cố gắng phát triển một tâm tốt thật sự. Khởi đầu,
chúng ta nên vận dụng
nỗ lực lớn để
từ bỏ những
tư tưởng xấu. Nếu ta
thực hành pháp, thì
diệt trừ những
ý tưởng phân biệt tiêu cực - bao hàm
giận dữ, thù ghét - không khó lắm. Những
ý tưởng này có thể dễ dàng bị
trừ diệt tạm thời, nhưng rất khó để nhổ tận gốc,
hoàn toàn loại trừ những
ý niệm phân biệt tiêu cực. Khi chưa có được
thực chứng trực giác về tánh không, thì ta không thể nào
trừ diệt tận gốc những
ý tưởng xấu. Nhưng có nhiều cách để tạm thời
chế ngự những
ý tưởng phân biệt tiêu cực.
Mặc dù không ai muốn sống trong một tâm trạng
bất hạnh, thế nhưng những
trạng thái tâm
đau khổ thác loạn vẫn thường
sinh khởi. Đôi khi tâm
bất hạnh phát sinh do
chấp thủ,
giận dữ,
ganh tỵ,
hà tiện hay
tham lam. Tính
hà tiện chẳng hạn, đưa đến nhiều
vấn đề làm
chúng ta đau khổ. Như có người
bỏ ra thật nhiều tiền để mua
thực phẩm đắt giá, rồi về sau lại tiếc tiền, thế là phát sinh ra một tâm trạng
đau khổ.
Nếu không có thói
hà tiện thì tâm trạng
đau khổ đã không khởi lên.
Đôi khi, một người có thể đâm ra hoảng hốt do nghĩ đến những
tái sinh trong tương lai. Vì lo
đời sau mình sẽ gặp khó khăn
nghèo nàn, người ta
cảm thấy khổ sở. Do
bám víu vào cuộc sống hiện tại, cho rằng nó rất quan trọng
quý báu, nỗi
khổ tâm phát sinh. Khi một người cứ nghĩ về
bản thân mình, về sự an nguy
của riêng mình và về những bận tâm
vị kỷ trong
hiện tại, thì nỗi
bất hạnh nội tâm của họ không bao giờ
chấm dứt.
Cần phải đạt đến sự
thực chứng tánh không mới
trừ diệt được
hoàn toàn mọi
ý tưởng phân biệt tiêu cực trong ta, nhưng muốn
giảm bớt vấn đề hay tạm thời
giải quyết chúng, thì có nhiều
phương pháp. Trước hết cần hiểu rằng một tâm
bất hạnh không
tự nhiên phát sinh, mà
tùy thuộc vào những
nguyên nhân. Mỗi
ý tưởng tiêu cực có một loạt
nguyên nhân khác nhau. Những
ý tưởng phân biệt tiêu cực có hai loại
nguyên nhân đồng thời sinh khởi, một là đối tượng của
ý tưởng ấy; hai là những luồng khí lực (prana)
bất tịnh nổi lên trong ta. Khí lực tuôn chảy qua cơ thể
chúng ta trong những huyệt đạo, và sự
vận hành của tâm ta
tùy thuộc vào những luồng khí lực ấy. Khí lực đóng
vai trò quan trọng đối với ký ức và những
tư tưởng phân biệt trong ta.
Phần lớn những
kinh điển Mật tông cho rằng
sở dĩ chúng ta có những
tư tưởng xấu xa là do khí lực uế trược. Mặc dù
hiện giờ chúng ta đang phát triển nhiều ý xấu, song chúng không
trường cửu. Những khái niệm
tiêu cực như
giận dữ chỉ là tạm thời, do khí lực
bất tịnh phát sinh, và do gặp một đối tượng ở ngoài làm ta tức giận. Những
vọng tưởng ấy không tan vào trong tâm gốc của ta, cái tâm
vi tế tiếp nối từ đời này qua đời khác.
Nếu trong ta không có khí
bất tịnh, thì sự
tiếp xúc một đối tượng ở ngoài không thể làm cho
giận dữ phát sinh. Chư Phật chẳng hạn, không bao giờ
nổi giận. Các ngài cũng
va chạm ngoại duyên, song bên trong không có khí
bất tịnh. Khi đức
Thích Ca Mâu Ni còn
tại thế,
Đề Bà Đạt Đa (Devadata) một ngườicó tâm rất xấu, thường cố hại ngài. Nhưng ngài không có khí
bất tịnh nên không bao giờ
nổi giận đối với
Đề Bà Đạt Đa.
Ngược lại, nếu ta không gặp phải đối tượng gây tức giận - mặc dù trong tâm ta
vẫn có những luồng khí
bất tịnh - thì
giận dữ cũng sẽ
không sinh khởi. Từ đấy ta có thể thấy rằng có hai
phương pháp dùng để khắc phục phục tâm
giận dữ. Một
phương pháp là
cố gắng ngăn chặn không để cho những luồng khí
bất tịnh nổi lên;
phương pháp kia là cố quên đối tượng làm ta
giận dữ.
Hai
phương pháp ấy cũng rất
ích lợi trong việc
chế ngự những
tư tưởng tiêu cực khác. Muốn
ngăn ngừa tâm
chấp thủ, ta nên cố chặn đứng luồng khí
bất tịnh đừng cho nổi lên, rồi cố quên đối tượng mà ta
chấp thủ. Nếu ta muốn
chinh phục sự
chấp thủ của
bản ngã, thì ta nên
thiền định về cách ngăn chặn sự phát triển khí
bất tịnh rồi
thiền định để quên đối tượng của sự
chấp thủ bản ngã nơi ta. Như thế ta có hai phép thiền: trước hết là ngăn khí
bất tịnh nổi lên; và sau đó là quên đối tượng xấu của
tư tưởng xấu.
Hai phép này chỉ
giải quyết tạm thời những
vấn đề của
chúng ta, chứ
không giải quyết
vĩnh viễn dứt khoát. Sau khi
hoàn tất hai phép thiền ấy, những
ý tưởng xấu vẫn còn có thể khởi lên trong ta
trở lại. Khi ấy ta nên lặp lại hai phép thiền này.
Mật chú (Secret Mantra) hay
Mật điển (Tantra) chứa đụng nhiều
phương pháp giúp
chúng ta ngăn luồng khí
bất tịnh nỗi lên. Phần lớn những luồng khí
bất tịnh của ta chảy qua huyệt đạo bên trái hay bên phải.
Thân thể ta có nhiều huyệt đạo, trong đó có ba huyệt đạo chính là: huyệt
đạo trung ương, huyệt đạo phải và huyệt đạo trái. Quan trọng nhất là huyệt
đạo trung ương.
Hiện tại những luồng khí lực không thể chảy qua huyệt
đạo trung ương của ta, mà lại chảy qua những huyệt đạo phải và trái. Nhưng chính những luồng khí lực chảy trong các huyệt đạo phải và trái này lại là những khí lực
bất tịnh có thể khiến cho
vọng tưởng và những khái niệm
tiêu cực phát triển. Vì thế ta nên
thực tập pháp thiền như sau đây để ngăn khí
bất tịnh khỏi chảy trong những huyệt đạo phải và trái khiến cho những
tư tưởng xấu
sinh khởi.
1. Thiền để thanh lọc khí ô nhiểm.
Qua sự tập luyện chín
hơi thở hay chín vòng để thanh lọc (nine-breath or nine-round purification practice),
chúng ta nên cố tống xuất những luồng khí
ô nhiễm của
chúng ta. Những khí lực
ô nhiễm trợ lực cho sự phát
triển vọng tưởng thì thường chảy trong huyệt đạo bên phải. Bởi thế ta cần làm bế tắc huyện đạo bên phải. Trước hết, hãy đặt đầu ngón cái trái ở dưới gốc ngón tay đeo nhẫn bên trái, rồi làm thành
một nắm tay bằng cách khép bốn ngón lại chồng lên ngón cái. Ta hãy dùng nắm tay trái này để đè lên bên cạnh sườn phải, làm cho nắm tay nằm ngang cùi chỏ phải, thẳng hàng với nách.
Kế tiếp, ta cũng nắm bàn tay phải lại như thế, nhưng chừa ngón trỏ duỗi ra. Với bàn tay này đưa qua lỗ mũi bên trái, ta dùng phía móng (bề lưng) của ngón trỏ phải để ép cho bít lỗ mũi trái. Rồi từ từ
hít vào bằng lỗ mũi phải,
quán tưởng năng lực gia trì của chư Phật và
Bồ tát đang tuôn vào trong ta qua lỗ mũi phải dưới dạng ánh sáng trắng
rực rỡ. Ta nên
cảm giác như đấy là phúc lành của chư Phật,
Bồ Tát rót vào tâm ta.
Hơi thở vào của
chúng ta phải thật sâu,
trọn vẹn và ta nên giữ nó lại càng lâu càng tốt.
Khi
thở ra, ta dời ngón tay trỏ phải qua lỗ mũi bên phải của ta, bít nó lại bằng bề mặt của ngón trỏ phải. Đoạn ta nên từ từ
thở ra cho hết không khí qua lỗ mũi trái, làm ba hơi
liên tiếp bằng nhau qua lỗ mũi trái. Khi
thở ra, ta hãy
quán tưởng tất cả khí
bất tịnh, nhất là những luồng khí bên trái cơ thể ta, đang được
tống ra dưới hình dạng một luồng khói đen.
Với ngón trỏ phải của
chúng ta vẫn đang bít lỗ mũi phải, bây giờ ta nên
hít vào bằng lỗ mũi trái, thực chậm và sâu, vừa
quán tưởng tất cả
năng lực gia trì của chư Phật,
Bồ tát đang ùa vào trong ta dưới dạng ánh sáng trắng
rực rỡ. Ta cũng nên tưởng như ân phước của chư Phật,
Bồ tát đang
gia trì cho tâm ta. Ta nên
duy trì cảm giác ấy, giữ
hơi thở vào của mình càng lâu càng tốt, cho tới khi nào ta
cảm thấy khó chịu.
Muốn
thở ra, ta hãy
di chuyển ngón trỏ phải của ta qua lỗ mũi trái như trước. Từ lỗ mũi phải của
chúng ta, ta
thở ra ba hơi
liên tiếp bằng nhau để tống xuất tất cả khí
bất tịnh dưới dạng khói đen. Như vậy ta lọc được khí
bất tịnh nhất là những khí từ phía phải của cơ thể.
Ba vòng thở
cuối cùng được
thở ra bằng cả hai lỗ mũi
đồng thời. Bấy giờ hai bàn tay ta có thể đặt trong tư thế
ngồi thiền - nghĩa là hai bàn tay ngửa ra, tay phải đặt trên tay trái, hai đầu ngón cái chạm nhau. Những bàn tay được đặt trong tư thế ấy sát vào thân mình, nằm ngay dưới rốn.
Ta
hít vào từ từ bằng ca hai lỗ mũi,
quán tưởng ánh sáng trắng như trên, rồi
thở ra trong ba hơi
liên tiếp bằng nhau, trong lúc
thở ra ta
quán tưởng ân phước của chư Phật,
Bồ tát đang rót vào tâm ta, làm cho tâm ấy rất
an tịnh. Khi
thở ra, ta nên nghĩ rằng từ những huyệt đạo bên phải, bên trái và những huyệt đạo
phụ thuộc, những khí
bất tịnh đang đi ra. Khi
hơi thở ra thứ chín
cuối cùng đã
hoàn tất, ta nên
quán tưởng rằng tất cả những luồng khí trong
thân thể ta bây giờ đã được thanh lọc.
Thân thể ta có
cảm giác rất dẽo dai và
thoải mái.
Sau khi
hoàn tất chín vòng thở thanh lọc khí
ô nhiễm (có thể làm nhiều lần
liên tiếp), ta có thể khởi sự
thực tập đề tài
thiền quán của mình trong
thời gian tĩnh tọa ấy. Chẳng hạn, nếu ta thích
thiền quán về
hơi thở, thì hãy dồn sự tập trung
tư tưởng vào
cảm giác tế nhị bên trong hai lỗ mũi. Khi ta hít thở
bình thường, có một
cảm giác vi tế ở bên trong lỗ mũi ta. Ta nên
để tâm chuyên chú vào
cảm giác ấy,
xem như một
cảm giác tổng quát bên trong lỗ mũi mà không
cần phải định
vị trí của nó tại một điểm nào.
Phép
thiền quán chín
hơi thở nói trên rất có ích trong việc
ngăn ngừa những
tư tưởng xấu bằng cách thanh lọc khí
ô nhiễm.
Thực tập pháp này hàng ngày sẽ đem lại cho ta nhiều
lợi lạc.
Lúc đầu vì chưa
quen thuộc, có thể sự tập luyện của ta không đạt kết quả nhanh chóng. Nhưng khi đã
quen thuộc pháp quán này, thì nó trở nên rất hữu ích để
chế ngự những
tư tưởng tiêu cực. Pháp thiền này còn giúp ta
chế ngự sự
lo lắng và những loại tâm trạng
bất hạnh khác.
Toàn thể sự tập luyện này có thể đem lại nhiều
lợi lạc, song kết quả còn
tùy thuộc cách ta
thực hành pháp ấy. Cũng như có kẻ được người ta cho một chiếc xe hơi, nhưng lại không biết lái, thì chiếc xe ấy cũng thành
vô dụng dù nó đang còn tốt. Pháp thiền này cũng vậy, nó rất
ích lợi nhưng nếu ta không
thực tập đúng cách và
cẩn trọng thì nó không giúp gì được cho ta. Nếu ta
thực tập pháp
quán tưởng chín
hơi thở này mỗi ngày, nó sẽ giúp tâm ta được
an tịnh. Khi ấy
chúng ta sẽ có cơ hội để mà phát triển những
tâm tích cực như
tâm từ,
tâm bi và tâm
bồ đề.
Nếu không thanh lọc thì rất khó phát triển những tâm tốt khi mà trong ta vẫn còn ứ đọng những
ý niệm tiêu cực.
2. Quên đối tượng của tư tưởng xấu.
Phép
thiền quán thứ hai để
chế ngự những tâm
tiêu cực là
thiền định để quên đối tượng của những
ý tưởng tiêu cực trong ta. Nói chung, bất cứ
thiền pháp tốt lành nào mà ta tập cũng giúp ta quên được đối tượng của
tư tưởng xấu. Chẳng hạn, nếu người nào có lòng
tham luyến mãnh liệt đối với
của cải, thì
quán tưởng và
thiền định về
hình tượng Phật sẽ giúp người ấy quên đối tượng của sự
tham luyến. Nhờ tập trung
ráo riết vào
hình tượng Phật mà đối tượng của
tham luyến tự nhiên bị quên mất.
Cũng thế, nếu ta nặng về
giận dữ, thì
sự quán tưởng Phật sẽ giúp ta quên đối tượng làm mình tức giận. Nếu pháp
thiền quán này
thành công, thì sự nóng giận của ta sẽ được lắng dịu.
Tâm ta không thể tập trung vào hai đối tượng khác nhau trong cùng một lúc. Ta không thể vừa tập trung vào đối tượng làm ta tức giận, lại vừa tập trung vào
đề mục thiền
tốt lành của ta. Nếu ta tập trung mạnh mẽ vào thứ này thì
tự nhiên ta quên ngay thứ kia. Bởi thế nếu ta
thực tập rất tốt về
thiền quán, thì bất cứ đối tượng nào của
tư tưởng tiêu cực sẽ bị quên đi. Pháp
thiền quan nói trên đây cũng sẽ giúp ta quên được đối tượng của sự
si mê trong ta. Khi ta quên đối tượng, thì những
tư tưởng tiêu cực như
giận dữ sẽ
giảm bớt. Tâm ta sẽ trở nên
an tịnh. Như vậy, ta có thể vận dụng bất cứ phép
thiền định tích cực nào về Phật, về
lòng từ, về
tánh không v.v... để quên đi đối tượng của những
tư tưởng tiêu cực.
Nhờ
năng lực của hai phép
thiền định này - thanh lọc luồng nội khí và quên đối tượng của
vọng tưởng - mà ta có
thể diệt trừ mọi
tư tưởng tiêu cực trong ta. Sau khi
trừ khử chúng, ta nên cố đào luyện tâm tốt. Thế là cũng như ta đã tẩy màu đen của tấm vải len và bây giờ có thể dễ dàng nhuộm vàng nó. Khi ta đã
trừ diệt được những
ý niệm tiêu cực trong ta, thì rất dễ dàng để
đạt đến những
thực chứng như tâm
đại bi và tâm
bồ đề.
II.- BA KHÍA CẠNH CHÍNH CỦA CON ĐƯỜNG TU TẬP
Trong
giáo lý Phật, có ba
con đường chính yếu để tu:
Từ bỏ,
bồ đề tâm hay tâm cao thượng mong đạt
giác ngộ để
lợi lạc nhiều người khác và
chánh kiến về
tánh Không.
Nếu không dựa vào ba
phương diện này của
con đường giác ngộ, thì không thể nào
đạt đến quả Phật. Trong
phạm vi ba
phương diện này, trước hết ta hãy cố
đạt đến sự
từ bỏ.
Từ bỏ ở đây không có nghĩa là
từ bỏ gia đình, bạn bè v.v..., mà là mong
thoát khỏi vòng
luân hồi sinh tử - cái chu kỳ sinh, chết và
tái sinh mà ta không
kiểm soát được ấy.
Nếu ta xét nỗi
sợ hãi, khổ đau và nguy hiểm mà ta đã nếm qua từ trước
đến nay, và xét đến nỗi
sợ hãi, khổ đau, nguy hiểm mà
chắc chắn ta sẽ nếm trải trong tương lai, thì ta sẽ thấy rằng không có một nơi nào
trong vòng sinh tử luân hồi mà những
vấn đề ấy không có mặt. Chẳng hạn, đâu có ai muốn già, thế nhưng
tuổi già vẫn
tự nhiên đến. Bệnh, chết và những nỗi khổ khác cũng cứ phát sinh một cách
tự nhiên,
chúng ta không có cách chọn lựa nào
ngoài ra là phải đối mặt với chúng. Nếu ta phát triển lòng
mong mỏi tự nhiên và
liên tục muốn
thoát khỏi sinh tử luân hồi, thì đó gọi là sự
từ bỏ.
Loài người có một cơ hội lớn để
đạt đến tâm từ bỏ.
Từ bỏ là một tâm
tốt lành mà chỉ riêng
con người mới có được. Không một
thú vật nào có thể khởi lên mong muốn
thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Từ trước
đến nay chúng ta đã trông thấy, đã
trải qua những
sợ hãi, khổ đau
trong vòng sinh tử, nhưng ta chưa
phát tâm mong cầu
thoát ly khỏi chúng. Đấy là vì ta chưa gặp được những bậc thầy có thể hướng dẫn ta đến
Niết bàn hay
giải thoát.
Nếu không có cơ hội nào để
thoát ly khỏi khổ
sinh tử, thì đào luyện
tâm từ bỏ hay
ước mong giải thoát thật là một
việc làm vô lối. Nhưng kỳ thực là có khả năng
giải thoát khỏi
sinh tử và có nhiều
phương pháp để làm việc ấy.
Nhiều người
cảm thấy vòng sinh tử luân chuyển như một
thiên đường và
hoạch định ở lại
lâu dài trong đó. Nhiều người bám chặt vào
sinh tử đối tượng tập
trung chính yếu của họ là
sinh tử. Nhưng những người
thực hành pháp thuần túy thì thấy
sinh tử như một lao ngục và
phát tâm mạnh mẽ muốn
thoát ly sinh tử. Họ đào luyện
tư tưởng quý báu về sự
từ bỏ (dục thoát trí).
Tâm từ bỏ có thể khó mà phát sinh ngay. Trước hết ta phải thấy rõ những
lỗi lầm của
sinh tử đã.
Lý do giáo lý của Phật
ưu tiên giảng giải về
Khổ đế (prevalence of suffering) ấy là để giúp cho
chúng ta thực chứng sự
từ bỏ.
Nếu không, thì không cần quán Khổ làm gì.
Nếu ta có
trí tuệ lớn, thì dường như ta không
cần phải xem sách mới hiểu về khổ, hay bất
toại ý.
Chúng ta thực nghiệm khổ đau bằng chính
bản thân mình, và ta lại còn
chứng kiến những người khác đang bị
đau khổ. Ta biết rằng tương lai sẽ đem lại nhiều
kinh nghiệm đau khổ cho chính mình và cho người khác. Milarepa, thiền giả vĩ đại của
Tây Tạng nói:
"Tôi không
cần phải đọc những dòng chữ đen này. Tôi thấy mọi
hiện tượng đều là những giảng dạy về pháp. Mọi tướng đều dạy cho tôi về những
lỗi lầm của
sinh tử. Mọi tướng đều dạy cho tôi
ý thức về cái chết và
chánh kiến sâu xa về tánh không"
Nếu ta
thông minh như Milarepa, thì bất cứ
kinh nghiệm nào cũng dạy ta về pháp.
Điều này có thể khó hiểu đối với
chúng ta. Ta cần
suy nghĩ,
thiền quán và
cải thiện tâm tư. Nếu làm điều này, ta có nhiều
triển vọng đạt đến những
thực chứng trong sự
tu tập. Khi ấy ta sẽ thấy đời của mình có nhiều
ý nghĩa, được
tái sinh làm người thật
quý báu.
Nếu không thực hành pháp, thì một ngày kia khi đối mặt với cái chết của mình, ta sẽ thấy đời mình thật
vô nghĩa, vì ta đã
lãng phí mất tiềm năng của thân người. Cái
duy nhất ta có thể
mang theo qua
đời sau là những
thiện nghiệp hay
bất thiện nghiệp mà ta đã
tích lũy.
Chúng ta không thể
mang theo thân quyến, bạn bè,
của cải. Bởi thế, thật quan trọng để
thực hành pháp một cách
liên tục. Nhờ nương tựa vào pháp mà ta có
thể đạt đến những
thực chứng tâm linh sẽ giúp
chúng ta trong những
đời sau.
Sự
tu tập của
chúng ta cần một
nỗ lực tăng tiến mỗi ngày, mỗi năm. Với một số người, sự
thực chứng có thể phát triển nhanh như quẹt diêm. Những người khác có thể
nhận thấy khó mà
đạt đến thực chứng. Nhưng nếu có
thực hành, ta sẽ thấy pháp càng ngày càng trở nên
rõ ràng và
liên hệ đến
đời sống. Mới đầu ta có thể
cảm thấy hoang mang trong
Phật pháp, bởi vì những
giáo lý rất sâu sắc. Có thể rằng ta thấy pháp thật khác hẳn lề lối suy tư
quen thuộc của ta, lần đầu tiên mới
nghe pháp, có thể ta
cảm thấy lạ lùng. Nhưng nhờ
quán tưởng,
thiền định và
tư duy về pháp, mà ta có thể
cảm thấy tâm ta và pháp đã hòa lẫn
với nhau, rằng tâm ta đã
thấm nhuần pháp.
Người nào
cảm thấy giữa tâm mình với pháp còn có một khoảng cách rất lớn, thì thật khó
đạt đến thực chứng. Khi
chúng ta cảm thấy tâm ta và pháp đang hòa lẫn nhau, đang gặp gỡ thì có nhiều
hy vọng đạt đến chứng ngộ tâm linh. Nhiều người có thể
trải qua nhiều năm nghe giảng
giáo lý nhưng không
đạt đến thực chứng, bởi vì chưa có sự
hòa hợp thực thụ giữa tâm họ và pháp.
Hiện tượng có một khe hở lớn giữa tâm ta và pháp. Điều mà
chúng ta cần phải làm là đưa tâm ta và pháp càng ngày càng
xích lại gần nhau. Sau một
thời gian chúng ta sẽ
cảm thấy tâm mình hòa nhập vào pháp. Rồi
chúng ta có thể
tư duy sâu xa hơn về pháp và
đạt đến chứng ngộ.
CHƯƠNG 3
VÔ THƯỜNG
Có hai thứ
vô thường.
Vô thường thô và
vô thường vi tế (gross impermanence and subtle imtermanence). Mặc dù
vô thường thô nói chung rất dễ nhận, song
chúng ta ít khi ý thức đến những đổi thay rõ rệt đang
liên tục xảy ra xung quan mình. Một ví dụ
cụ thể về
vô thường thô là cái kiểu
chúng ta thay đổi
suốt đời mình. Khi mới sanh ra đời, ta bé nhỏ
yếu đuối. Ta không thể ăn đồ ăn thô cứng và
hoàn toàn lệ thuộc vào
cha mẹ. Ít tháng sau khi ra đời, ta bắt đầu thay đổi một cách
đáng kể về hình dạng, và có được tài nghệ mới. Sau một vài năm, ta biết đi, nói có mạch lạc, và ăn đồ cứng.
Tuổi thơ trở thành tuổi trẻ,
tuổi trẻ thành trung niên, trung niên thành lão niên, và lão niên
cuối cùng đưa đến cái điển hình
sống động nhất của
vô thường - sự chết.
Nói chung, ai cũng hiểu được thứ
vô thường này, bởi vậy không
cần phải lý luận thêm nữa để
chứng minh sự có mặt của nó. Vì
lý do ấy mà thứ
vô thường nầy gọi là
vô thường thô.
Vô thường thô
thấm nhuần tất cả, không những loài
hữu tình mà cả vật
vô tri giác. Chẳng hạn khi một cái nhà mới vừa xây xong, ta bảo nó còn mới. Sau nhiều tháng nó cũ đi một chút, và sau nhiều năm nó càng cũ hơn,
cho đến khi
cuối cùng nó sụp đổ. Một cái hoa
lúc đầu tươi đẹp, nhưng chỉ sau vài ngày nó bắt đầu mất vẻ tươi mát, những cánh hoa bắt đầu rơi rụng, và
cuối cùng tàn úa, rữa nát. Ngay cả cấu trúc của
thế giới trong đó ta sống cũng đã từng có lúc còn mới. Từ lúc khởi thủy
cho đến nay, nó đã
trải qua nhiều triệu triệu năm, nhưng
cuối cùng nó cũng sẽ bị
phá hủy hoàn toàn.
Những đổi thay như thế đều là ví dụ về
vô thường thô.
Hệ thống của
thế giới chúng ta và mọi
chúng sanh,
mọi vật thể trong đó đều thuộc
bản chất vô thường. Ta không thể
tìm thấy một người nào không bao giờ già chết, hay một vật gì
mãi mãi tồn tại mà không
cuối cùng phải
diệt vong.
Mặc dù tất cả
chúng ta đều có thể dễ dàng hiểu
vô thường thô,
chúng ta vẫn
ít khi quan sát ý nghĩa của nó, hay những
hiệu quả của nó đối với
chúng ta. Nếu ta
quan sát một cách nghiêm túc những
hiệu quả của
vô thường thô, thì
chắc chắn điều này sẽ mang lại những đổi thay trong đường lối
suy nghĩ của
chúng ta. Ta sẽ phát sinh một
cảm giác khác đối với
vô thường thô, và cách nó
hoạt động trong đời mình.
Chúng ta thường xem những vật quanh mình cũng như chính mình là
trường cửu.
Tuy nhiên đó là một cái thấy
sai lầm. Nhờ quán
vô thường mà ta có
thể đạt được những
thực chứng nội tâm và phát sinh một cảm thức
đặc biệt về
vô thường. Ta nên cố mà đào luyện cái cảm thức
đặc biệt ấy.
Thiền quán vô thường làm cho tâm ta và pháp hòa lẫn nhau.
Nếu không quán
vô thường và phát sinh
tuệ giác về
vô thường, thì tâm ta và pháp sẽ không bao giờ lại gần nhau. Ta có thể hiểu
vô thường trên bình diện
trí thức, nhưng
nếu không thiền quán về
vô thường thì cho dù ta có
tiếp nhận thêm
giáo lý khác, tâm và pháp của ta vẫn không sẵn sàng
hòa hợp. Nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rằng
vô thường là
phương pháp tốt nhất để
chuyển hóa tâm ta thành pháp
thuần túy.
Đối với nhiều người, thật khó mà phát triển một tâm
thích thú đối với pháp và lòng ước muốn
thực hành pháp. Một trong những
lý do chính là vì ta tưởng như mình sẽ ở mãi trên trái đất này. Vi có
kiến chấp này về sự
trường cửu của mình,
chúng ta chỉ ưa thủ đắc những thứ làm tăng thêm
tiện nghi và
an ổn cho mình trên đời.
Cảm giác trường cửu này càng mạnh thì càng ít có sự
quan tâm đến chuyện hội nhập
đời sống của
chúng ta vào với pháp. Chính vì
lý do này mà nói rằng mỗi khi muốn
thực hành pháp, thì
bước đầu tiên là phải
ý thức đến
vô thường.
Như vậy quán
vô thường là đều cốt yếu để
thực hành pháp. Điển hình mãnh liệt nhất của
vô thường là cái chết, bởi thế thật
ích lợi nếu ta
quan sát nó.
Lúc đầu ta có thể khó mà đối mặt với
ý nghĩ rằng
cuối cùng, ta phải chết. Nhưng nếu ta không
để ý đến cái chết thì rất dễ rơi vào
ảnh hưởng của cái
tư tưởng lừa dối tâm ta, khiến cho ta có
cảm giác rằng mình
trường cửu, sống hoài không chết.
Mặc dù có nhiều ví dụ điển hình về
vô thường thô (hay rõ rệt) mà ta có thể
quan sát, song
thiền quán về một cái chết là một nhân tố rất hữu hiệu khiến ta
chuyên tâm thực hành diệu pháp.
Bước đầu tiên của
đức Thế Tôn để
đạt đến giác ngộ là
tư duy về
vô thường. Chính nhờ
năng lực của sự liễu trí (understanding) về
vô thường mà
đức Phật đã
phát tâm mạnh mẽ
tu hành diệu pháp (pure dharma), và nhờ
thực hành diệu pháp,
cuối cùng ngài đã đạt
giác ngộ. Lần đầu tiên giảng dạy,
chuyển bánh xe pháp,
đức Phật đã giảng dạy
lý vô thường. Ngài dạy rằng
vô thường là
đề mục tư duy tốt nhất cho kẻ mới
học đạo (the best meditation for beginners).
Phần lớn những trở ngại của
chúng ta phát sinh đều do sự
suy nghĩ rằng mọi sự - kể cả chính ta - là
trường cửu. Nếu nhận chân được mọi sự kể cả chính mình đều thuộc
bản chất vô thường, thì ta sẽ bớt được nhiều
vấn đề. Như vậy, nhờ quán
vô thường chẳng những ta
giải quyết được những
vấn đề tạm bợ, mà nó còn giúp cho sự
tu tập của ta
trở thành rất
trong sáng.
Thiền quán về sự chết và
vô thường là
phương pháp tốt nhất để đánh tan sự lười biếng. Nó cũng giúp cho
chúng ta mau chóng đạt
giác ngộ.
Có thể có người nghĩ rằng
vô thường là một phép quán
sơ đẳng chỉ
thích hợp cho những người
sơ cơ (beginners), nhưng kỳ
thực không phải thế. Ngay cả những vị đã
tu chứng cao vẫn phải quán
vô thường. Những
hành giả Mật tông thường giữ những xương người như xương đùi, và những
vật dụng làm bằng xương ngưòi, như chén tách bằng sọ người, để tự nhắc nhở về
vô thường. Nếu một
hành giả Mật tông mà không nhớ đến
vô thường, thì sự
hành trì Mật tông của họ chỉ có
lợi ích cho đời này mà thôi.
Hành trì pháp mà chỉ
vì lợi ích cho đời này thì không phải là sự
tu tập thuần túy. Như vậy,
tư duy thiền quán về
vô thường là việc quan trọng đối với tất cả mọi
trình độ tu tập pháp.
Nếu ta biết cách quán vô thưòng (how to meditate on impermanence) thì có nhiều
lợi ích đặc biệt. Việc này dễ làm phát triển một
cảm giác nội tâm về
vô thường hơn là đối với những
đề mục thiền quán khác, bởi vì có rất nhiều điển hình về tính
vô thường để cho ta có thể
tư duy về chúng. Bởi thế, quán
vô thường là một pháp thiền có nhiều
năng lực hơn các kỷ thuật khác.
I.- THIỀN QUÁN VỀ CÁI CHẾT VÀ VÔ THƯỜNG
Thiền quán về cái chết có ba căn nguyên (roots), chín
lý do (reasons) và ba
quyết định (determinations). Nếu
chúng ta biết được những thứ này, thì việc
thiền quán về cái chết và sự
vô thường của ta sẽ rất
đắc lực. Ba căn nguyên là:
1. Chết là
chắc chắn.
2.
Thời gian của cái chết là
bất định.
3. Vào lúc chết, chỉ có pháp mới có thể giúp ta.
Chín
lý do được Je Tsong Khapa
giải thích là
phương pháp để thu nhập
kinh nghiệm về pháp
thiền quán vô thường. Mặc dù
mọi người đều biết chết là
điều chắc chắn, song chỉ một số ít người có được
kinh nghiệm của phép
thiền quán về cái chết và sự
vô thường. Nhờ
thiền định về ba căn nguyên và chín
lý do,
chúng ta có thể nhận được
kinh nghiệm ấy.
1.- Chết là điều chắc chắn:
-
Lý do đầu tiên trong ba
lý do tại sao chết là
điều chắc chắn là bởi vì tiến trình của sự chết không thể nào bị ngăn chận lại được bởi bất cứ một
phương pháp nào. Khi chưa đạt
Niết bàn hay
giác ngộ thì dù có
nỗ lực đến đâu ta cũng không thể nào
vượt qua được sự chết. Ta không thể hối lộ thần chết, chiến đấu với cái chết, hay
trốn thoát nó. Ngay cả đến một vị
lương y tài giỏi như Phật cũng không thể ngăn được sự chết của
chúng ta. Bởi vì
chúng ta đã sanh
trong vòng sống chết thì
chắc chắn là ta phải chết. Từ đó ta có thể
kết luận rằng một
điều chắc chắn là tôi, chính tôi, phải chết.
Nếu qua pháp
thiền quán này, ta phát triển được một
cảm giác mới mẻ,
tích cực thì ta nên cố mà tập trung vào
cảm giác ấy. Thiền có nghĩa là tập
trung tâm vào một đối tượng lành thiện không
quên lãng nó. Chẳng hạn, nếu ta phát sinh được một ước muốn mạnh mẽ
tìm ra vài
ý nghĩa cho
cuộc đời mình bằng cách
thực hành pháp, thì thế là sự
tu quán vô thường của ta ngày càng ít có những
vấn đề nội tâm, thế cũng có nghĩa
thiền quán nơi ta đã
thành công.
-
Lý do thứ hai của việc tại sao
cái chết là chắc chắn, là bởi vì tuổi thọ của
chúng ta giảm dần theo từng giây phút
trôi qua, không thể kéo dài. Từng giây phút,
thời gian ta còn sống trên đời này càng ngắn lại. Dù
chúng ta đang làm gì - đang làm việc, đang nghỉ ngơi, đang ngủ - sự sống của
chúng ta cũng đang giảm dần. Ngay cả trong lúc đọc chương này, cuộc sống của
chúng ta cũng đang
trôi qua.
Đời sống như một cây nến đang cháy. Khi mới nhìn ta không thấy cây nến ngắn bớt nhưng thật sự nó đang ngắn dần.
Đức Phật đã
so sánh đời sống của
chúng ta như làm chớp, tia chớp lóe lên rồi nhanh chóng nmất đi.
Cũng thế cuộc đời chúng ta trôi qua rất nhanh, chẳng mấy chốc đã
chấm dứt.
Khi nghĩ đến như thế, ta nên đi đến
kết luận:
"Chắc chắn
chúng ta sẽ chết bởi vì
thọ mạng chúng ta mỗi phút một ngắn dần. Không có một khoảng
thời gian nào trong đó sự sống của tôi không
giảm bớt. Việc này cũng như tôi đang lăn một hòn đá xuống từ trên đỉnh núi cao. Hòn đá sẽ không bao giờ dừng lại trên cuộc
hành trình mà cứ
tiếp tục lăn cho tới khi chạm vào chân núi".
Vị thầy vĩ đại của
Phật giáo là Shantideva nói rằng
đời sống chúng ta đang
trôi qua trong từng giây phút và không cách nào để làm tăng tuổi thọ. Mọi thứ khác thì bị tiêu mòn đều có thể thay, nhưng không cách nào thay thế
đời sống một khi nó đã
hao mòn. Ngay cả khi
chúng ta đủ
may mắn để sống đến tám mươi năm, thì với mỗi khoảnh khắc trong tám mươi năm,
thọ mạng cũng đã từ từ giảm không thể kéo dài hơn.
Cuộc đời này đang tiến dần đến
chấm dứt.
Trong kinh đã nói, ngay lúc vừa sanh ra là ta đang tiến dần đến cái chết.
Chúng ta đang
liên tục càng lúc càng
đến gần,
cho đến khi gặp
tử thần.
Quan sát những
lý do này,
chúng ta nên
nhận thức rằng:
"Điều
chắc chắn là tôi sẽ chết".
Khi xét đến sự giảm dần
liên tục của
đời sống và sự
chắc chắn của cái chết, ta phải
cố gắng nhận lãnh những điều có
ý nghĩa từ sự sống, trước khi cái chết đến.
-
Lý do thứ ba là, cái chết
chắc chắn sẽ đến dù cho ta chưa có
thì giờ tu tập. Dù có dành một ít
thời gian để tu hay không ta vẫn chết như thường.
Chúng ta nên tìm xem
chúng ta đã dành bao nhiêu
thời giờ để
thực hành diệu pháp. Những hành động
thế tục đã chiếm phần lớn
thời giờ của
chúng ta. Từ sáng
cho đến chiều
chúng ta luôn luôn bận rộn, chuẩn bị những
bữa ăn, tìm những trò chơi
giải trí...
Chúng ta có
thực hành pháp khi
chúng ta có
thời gian rảnh không? Thường thì rất
ít khi. Sau đó đời ta
chấm dứt và ta phải đối mặt với cái chết cho dù ta chưa
thực hành pháp nhiều lắm. Dù
chúng ta chưa
thu nhận được điều gì có
ý nghĩa từ
cuộc đời này, cái chết vẫn xảy đến. Để rút
kinh nghiệm từ
lý do thứ ba này, ta phải
quán sát nó theo
kinh nghiệm của riêng ta.
Chúng ta hãy nghĩ xem ta sẽ
cảm thấy thế nào nếu cứ sống như vậy
cho đến khi cái chết gần kề.
Bằng cách này
chúng ta có thể cố
sử dụng phương pháp này để rút những
kinh nghiệm thiền quán. Tất cả những
lý do này đều là
phương tiện để có được
kinh nghiệm về quán
vô thường. Từ ba
lý do này,
chúng ta nên cố rút ra
kinh nghiệm rằng cái chết là điều chắn chắn.
Đối với mỗi một trong ba căn nguyên trên đây có một
quyết định tương ứng mà ta nên làm. Sau khi
thiền quán rằng
cái chết là chắc chắn,
chúng ta nên
quyết định:
"Tôi sẽ
thực hành Phật pháp".
Quyết định này là kết quả của
thiền quán, nếu
chúng ta thật sự
quyết định như vậy, thì điều ấy
chứng tỏ ta đã rút ra được
kinh nghiệm từ pháp thiền này.
2.- Thời điểm của sự chết bất định.
-
Lý do đầu tiên trong ba
lý do cho căn nguyên này là
thọ mạng của mỗi
chúng sinh trên trái đất này không có định trước. Nghĩa là không có cách nào để biết
chúng ta sống bao lâu. Không có sự khác nhau giữa già và trẻ, người trẻ có thể chết trước người già. Một vài
chúng sinh chết trong
bào thai, một vài người chết sau khi sanh ra và nhiều người sống đến già. Nói về chết chóc thì không có
trật tự nhất định về già trẻ.
Cũng thế, không có sự khác nhau giữa người khỏe mạnh và người đau ốm. Có nhiều người đau ốm lại sống lâu trong khi những người khỏe mạnh lại chết vì
tai nạn hoặc chết bất ngờ trước cả người bị bệnh. Nhiều người bị
tù túng trong bệnh viện mà lại sống lâu hơn người đang
tiếp tục cuộc sống
bình thường. Vì thế
chúng ta nên nghĩ
thời gian chết là bất trắc bởi vì nó không
phụ thuộc vào
tình trạng sức khỏe của
chúng ta. Cũng vậy, không
chắc chắn là già chết trước trẻ.
-
Lý do thứ hai tại sao
thời gian chết
bất định là vì có nhiều
điều kiện đưa đến cái chết mà rất ít
điều kiện nâng đỡ sự sống.
Đời sống tùy thuộc vào những
điều kiện chắc chắn như nước,
thức ăn, không khí để
thở ra và mức nhiệt độ
đặc biệt cho sự sống. Nếu
chúng ta thiếu những
điều kiện này hay gặp những
điều kiện bất lợi như quá lạnh, thì cái chết sẽ
theo sau. Như vậy,
thời gian chết không
chắc chắn vì có nhiều
điều kiện bất lợi trong cuộc sống, mà
chúng ta không thể
chắc chắn rằng mình không bao giờ gặp những
điều kiện như thế.
-
Lý do thứ ba tại sao cái chết
bất định, là vì
thân thể của
chúng ta rất
mong manh. Không
cần phải có vũ khí ghê gớm mới giết được nó. Vì
thân thể của
chúng ta rất
mong manh nên có nhiều cách để gặp cái chết. Rắn cắn,
một lượng thuốc độc rất nhỏ,
thức ăn nước uống bị nhiểm độc có thể dễ dàng đem đến cái chết. Vì thế
chúng ta nên
suy nghĩ:
"Chính vì thân xác tôi quá
mong manh, nên lúc nào
nguyên nhân gây chết chóc cũng có thể xảy ra.
Thời gian chết của tôi
hoàn toàn bất định".
Tóm lại,
chúng ta không biết được điều gì sẽ đến trước - ngày mai hay
đời sau. Có thể
đời sau của
chúng ta sẽ đến trước cả
bữa ăn kế tiếp của
chúng ta.
Chúng ta nên
suy nghĩ sâu xa về
nguyên nhân đưa đến cái chết.
Chúng ta có thể thấy rằng nhiều người đi ra ngoài với niềm
hạnh phúc tràn trề vào buổi sáng nhưng không bao giờ
trở về lại nhà.
Chúng ta không thể
đoán trước được điều gì sẽ xảy đến trong tương lai. Mặc dù ta có thể nhớ lại những gì đã xảy ra trong
quá khứ,
chúng ta không biết ngày mai ngày mốt đang dành cho ta những gì. Tương lai của
chúng ta hoàn toàn bất định, và
chúng ta không bao giờ có thể loại trừ khả năng chết chóc.
Trong ba căn nguyên nói trên, thì sự
suy nghĩ thời gian chết
bất định là căn nguyên có
hiệu lực nhất. Nếu
chúng ta cứ nghĩ: "Hôm nay mình sẽ không chết",
ý tưởng ấy sẽ
đánh lừa chúng ta.
Chắc chắn một ngày nào đó
chúng ta sẽ phải chết.
Ví dụ, nếu
chúng ta biết rằng
kẻ thù sẽ đến giết
chúng ta nội trong tháng này, nhưng không chắc ngày nào hắn đến thì
chúng ta sẽ rất
thận trọng.
Tuy nhiên, nếu ngày nào
chúng ta cũng nghĩ, hôm nay không phải là ngày mà nó đến, thì
chúng ta sẽ bị một cú bất ngờ khi hắn đến và sẽ bị đánh gục. Nhưng nếu ngày nào
chúng ta cũng nghĩ rằng hôm nay hắn sẽ đến, thì
chúng ta sẽ sẵn sàng để
đối phó với
kẻ thù. Cũng vậy, nếu
chúng ta biết rằng cái chết sẽ đến bất cứ lúc nào
trong suốt cuộc đời mình, thì khi nó đến thật sự,
chúng ta cũng đã chuẩn bị chu đáo rồi.
Qua
sự quán sát ba
lý do tại sao
thời gian cái chết của
chúng ta là
bất định,
chúng ta nên lập nguyện mạnh mẽ là sẽ rút tỉa được một vài
ý nghĩa hay
kinh nghiệm tâm linh trong lúc
chúng ta còn có cơ hội.
Chúng ta sẽ phải chết với hai bàn tay trắng nếu
chúng ta sống mà không
đạt được kinh nghiệm nào về pháp.
Chúng ta nên
kết luận:
"Vì
sự thật là tôi có thể chết bất kỳ lúc nào, tôi sẽ
thực hành pháp ngay bây giờ".
3.- Vào lúc chết chỉ có pháp mới có thể giúp chúng ta
-
Lý do đầu tiên tại sao chỉ có pháp mới có thể giúp
chúng ta vào lúc chết, vì lúc đó
tài sản của
chúng ta trở nên
vô dụng. Không có gì mà ta
sở hữu có thể giúp ta, dù
suốt đời ta có yêu quý và
đánh giá cao những
sở hữu ấy đến mức nào. Nếu
chúng ta nghĩ về tất cả những
sở hữu khác như tiền, nhà cửa, xe hơi...
chúng ta có thể
nhận thấy rằng không có cái gì trong đó cản ngăn được cái chết một khi nó đến. Vào lúc chết,
cầu cứu sự giúp đỡ của
tài sản thì thật
vô ích.
Chúng ta phải để lại mọi thứ ở đàng sau, khi ta từ giả cõi đời.
-
Lý do thứ hai chỉ có pháp mới có thể giúp ta khi chết, là vì bằng hữu,
thân quyến không thể nào giúp ta
lúc ấy. Cho dù bạn bè
thân quyến của
chúng ta, vợ hay chồng có
thân thiết cách mấy, những người này cũng chẳng giúp gì được cho ta khi ta chết. Vào lúc chết,
chúng ta phải
một mình ra đi khỏi
cuộc đời này.
-
Lý do thứ ba là ngay cả cái thân ta sinh ra từ thai mẹ cũng không giúp gì cho ta được vào lúc chết. Suốt
cuộc đời,
chúng ta đã
bảo vệ, yêu quý cái thân xác của
chúng ta. Nhưng thân này không thể nào ngăn được cái chết, và khi chết ta sẽ phải bỏ lại thân xác đằng sau.
Như vậy vào lúc chết,
sở hữu, bạn bè và chính cái thân xác ta đều không giúp gì được. Vậy điều gì có thể giúp ta vào lúc chết? Chỉ có pháp mới có thể giúp được. Nhờ
năng lực của
thiền quán và
thực hành pháp mà
chúng ta đạt được vài
thực chứng tâm linh, điều này sẽ giúp
chúng ta. Nếu
chúng ta đạt được vài
kinh nghiệm về pháp và rút được vài
ý nghĩa từ
cuộc đời mình, thì điều này sẽ giúp
chúng ta vào lúc chết và trong những
đời sống tương lai của
chúng ta.
Khi
suy nghĩ sâu xa về ba
lý do tại sao chỉ có pháp mới có thể giúp
chúng ta vào lúc chết,
chúng ta nên lập một
lời nguyện.
Chúng ta nên
quyết định thực hành pháp một cách
thuần túy và nghĩ rằng:
"Trong suốt quãng đời ngắn ngủi này, tôi chỉ
thực hành pháp mà thôi".
Như đã được
giải thích,
thiền quán về cái chết, về
vô thường có ba căn nguyên, chín
lý do và ba
quyết định. Lập ba
lời nguyện này một cách
trọn vẹn chính là kết quả của
thiền quán và là dấu hiệu
chứng tỏ chúng ta đã rút được
kinh nghiệm.
Chúng ta nên
thiền quán về
vô thường cho đến khi đã lập ba
lời nguyện đó một cách
trọn vẹn.
Chúng ta nên
tư duy về
giáo lý vô thường hàng ngày và luôn luôn tự nhắc nhở mình cái chết là điều không thể tránh. Dù y học
hiện đại có
năng lực đến đâu,
bác sĩ có tài ba cách mấy, cũng không có
phương cách nào để chữa trị được cái già và sự chết.
Sau đây là
tóm tắt ba căn nguyên, chín
lý do, ba
lời nguyện:
1. Căn nguyên một:- Chết là điều chắc chắn.
- Ba
lý do:
o Tiến trình chết không thể
tránh khỏi.
o
Thọ mạng giảm dần với từng
sát na trôi qua và không thể kéo dài.
o Cái chết
chắc chắn sẽ đến cho dù
chúng ta không có
thời gian để
thực hành pháp.
-
Lời nguyện 1:- Phải
thực hành pháp.
2. Căn nguyên hai:- Thời gian chết bất định.
- Ba
lý do:
o
Thọ mạng bất định.
o Có nhiều
điều kiện đưa đến cái chết và ít
điều kiện nâng đỡ sự sống.
o
Thân thể mong manh.
-
Lời nguyện 2:-
Thực hành pháp ngay bây giờ.
3. Căn nguyên ba:- Vào lúc chết chỉ có pháp mới có thể giúp ta.
- Ba
lý do:
o
Tài sản và
sở hữu không thể giúp
chúng ta.
o Thân bằng,
quyến thuộc không thể giúp gì cho
chúng ta.
o
Thân thể ta cũng không thể giúp gì được.
-
Lời nguyện 3:- Chỉ
thực hành pháp mà thôi.
II.- VÔ THƯỜNG VI TẾ
Tất cả những ví dụ về
vô thường thô như là cái chết, đều phát sinh từ
vô thường vi tế. Biết được điều này thật là quan trọng.
Vô thường vi tế khó hiểu hơn
vô thường thô rất nhiều;
tuy nhiên, nếu
chúng ta suy nghĩ một cách sâu sắc và
chính xác về
vô thường vi tế,
chúng ta có thể bắt đầu hiểu nó.
Vô thường vi tế ám chỉ sự thay đổi
vi tế đang
liên tục xảy ra trong các
pháp hữu vi.
Nếu
chúng ta quan sát một cái đồng hồ,
chúng ta có thể dễ dàng thấy kim giây chuyển động và thay đổi rất nhanh. Tuy vậy
chúng ta không
ý thức rằng
thân thể chúng ta, nhà cửa... cũng đang thay đổi trong từng giây phút. Nhưng kỳ thực
vạn vật biến chuyển trong từng
sát na trôi qua.
Nhờ
quán sát một cách
cẩn thận và
chính xác chúng ta có thể
nhận thấy rằng thân xác và
sở hữu có những thay đổi
vi tế đang diễn ra bên trong chúng. Điều này gọi là
vô thường vi tế.
CHƯƠNG 4 SỰ TÁI SANH
Một người nam hay nữ, nếu là
Phật tử chân chánh, sẽ tin vào sự
tái sinh. Nhờ nghe và
học hỏi giáo lý Phật,
thực hành Pháp, nhiều người có thể hiểu được
tái sinh bằng chính
kinh nghiệm bản thân của họ.
Tuy nhiên, những người khác kể cả những trường phái
triết học ngoại đạo thì
không chấp nhận sự
hiện hữu của
tái sinh.
Có một trường phái
triết học tên là Charvakas không tin vào sự
tái sinh. Khi được hỏi tại sao không có
tái sinh, thì trường phái này không có câu
trả lời hoàn hảo và
chính xác. Họ nói rằng sự
tái sinh không
hiện hữu, vì bất kỳ
hiện tượng nào
hiện hữu cũng phải được thấy rõ. Họ không tin vào
tái sinh vì họ không thể thấy bằng chính mắt của họ. Trường phái này chỉ tin vào những đối tượng hiện rõ, không tin những gì bị che kín hay
hoàn toàn ẩn khuất.
Ngoài trường phái nói trên, có nhiều người phủ nhận sự
tái sinh,
lý do chính là vì họ chưa từng tận mắt thấy sự
tái sinh một cách trực tiếp. Nhưng điều này thật
sai lầm: điều thực quan trọng là biết được có đời trước và
đời sau. Nếu
chúng ta không cần biết đến đời trước
đời sau gì cả, thì ta sẽ ôm giữ những
tà kiến như phủ nhận
tái sinh. Theo
đạo Phật, ai tin rằng không có
tái sinh là người đó ôm giữ một cái thấy
sai lạc (
tà kiến). Một lối nhìn cong quẹo như
thế phát sinh do không biết có
hiện hữu đời
quá khứ và
vị lai.
Ngày nay, phần lớn người ta tin vào những gì đang
ẩn khuất như nguyên tử, hay những hành tin rất xa mà họ không thể nhìn thấy. Nhờ
lý luận chặt chẽ và những bằng chứng khoa học khác, họ có thể biết được những vật ấy
hiện hữu. Cũng vậy,
chúng ta có thể biết về
tái sinh cho dù
chúng ta không thể nhìn thấy nó.
Có hai
phương pháp để hiểu sự
tái sinh. Cách thứ nhứt giúp cho ta tin vào đời trước hay
một đời trong
quá khứ.
Phương pháp thứ hai khiến ta tin vào
đời sau hay
một đời sống trong tương lai. Sự
giải thích ở đây sẽ tập trung vào
phương pháp thứ nhứt. Nếu
chúng ta biết rằng có
một đời trước, thì thật dễ dàng để hiểu sẽ có
một đời sau. Có tất cả năm kỹ thuật để hiểu rằng
chúng ta đã có
một đời sống về trước. Kỹ thuật thứ nhất, nhờ
bản năng và dấu vết
tâm linh chúng ta có thể biết rằng đã có
một đời trước. Kỹ thuật thứ hai bao hàm sự
hiểu biết dòng tâm tương tục... Kỹ thuật thứ ba
sử dụng năng lực của
mộng tưởng để
chứng minh đã có
một đời trước. Kỹ thuật thứ tư là nhờ
năng lực của những ví dụ về
tái sinh. Kỹ thuật thứ năm là nhờ
năng lực của
thẩm quyền kinh điển,
chúng ta có thể biết được
chúng ta đã
trải qua một đời trước.
Nếu
chúng ta thiền quán về năm kỹ thuật này một cách
liên tục, thì thật là không có gì khó để hiểu việc đã có
một đời trước. Nếu ta có
thái độ phân biệt thích đáng, thì nói chung rất dễ dàng để hiểu có đời trước và
đời sau. Nhưng nếu ta có
thái độ hay
động lực tà vạy, thì ngay cả Phật hay Chúa cũng không thể làm cho
chúng ta tin vào sự
tái sinh. Ngay dù có một
đức Phật còn
tại thế giảng giải về
tái sinh thì cũng khó mà hiểu được. Nhưng nếu với
thái độ và
động lực đúng đắn, chung ta
suy nghĩ sâu xa về năm kỹ thuật này, thì sẽ khá dễ dàng để hiểu sự
tái sinh.
Tuy nhiên sự
phân biệt sai lầm có thể
xen vào sự
hiểu biết của
chúng ta. Ví dụ nếu một người đang nghiện thuốc phiện, mà có người bạn khuyên đừng dùng thuốc phiện nữa, thì anh ta sẽ không thích
lời khuyên này. Người ấy có
nhận thức sai lạc. Nếu người nào có
thái độ sai lầm hay cong quẹo như
vậy thì rất khó hiểu về
tái sinh.
I.- DẤU ẤN TÂM LINH
Mặc dù tất cả
chúng ta đều là người, nhưng có sự khác nhau về dấu
ấn tâm linh (mental imprints) và khuynh hướng (tendencies) giữa những conn gười. Một số người có dấu
ấn tâm linh lành thiện trong khi những người khác có dấu
ấn tâm linh không tốt. Dấu
ấn tâm linh và khuynh hướng của mỗi người không giống nhau.
Chẳng hạn, hai đứa trẻ con trong một
gia đình có thể có khuynh hướng
tinh thần hoàn toàn khác nhau. Đứa thứ nhất có thể có khuynh hướng xấu mạnh như chỉ muốn hại người, dễ dàng
nổi giận và không thích làm
việc thiện. Nhưng có thể đứa thứ hai thì lại
tốt bụng, mong muốn giúp đỡ người khác và thích làm những
việc lành có
thiện ý. Cái gì là
nguyên do khiến
cha mẹ sinh ra những đứa con có
tâm tính hoàn toàn khác nhau như vậy? Xét cho sâu thì những khuynh hướng
tâm linh này là do những
kinh nghiệm thuộc về đời trước. Đứa trẻ có tâm tốt là vì nó đã
tích lũy những dấu ấn hay
thói quen tốt, còn đứa trẻ kia đã
tích lũy những dấu ấn
tiêu cực do những
ý nghĩ và hành động xấu trong
quá khứ.
Người lớn cũng vậy, có
tâm lý và
ấn tượng tâm linh khác nhau. Có người ghét
tôn giáo xem như thuốc độc, trong khi người khác khi nghe về
tôn giáo và
giáo lý lại
xem như là liều thuốc bổ.
Nguyên nhân gì khiến họ có những cách
suy nghĩ khác nhau như thế? Một người
bản năng vốn không thích
tôn giáo thì đã không thích
tôn giáo từ những đời trước. Còn người có
bản năng yêu thích
tôn giáo là vì đã có những
ấn tượng tất về
tôn giáo từ những đời trước đây.
Một ví dụ khác, nhiều người có thể học một
ngôn ngữ khác rất nhanh và dễ dàng, trong khi người khác học ngoại ngữ
hết sức khó khăn. Sự khác nhau này
chứng tỏ ấn tướng tâm linh từ đời trước. Ta cũng có thể
quan sát dấu
ấn tâm linh và những khuynh hướng trong số những
Phật tử. Một số người dù
nỗ lực gắt gao vẫn rất khó khăn trong việc
đạt đến những
thực chứng tâm linh. Nhưng có những
Phật tử khác lại đạt
chứng ngộ tâm linh rất dễ dàng, không cần
cố gắng gì nhiều. Vì thế có thể nói sự
chứng ngộ tâm linh không chỉ là kết quả của những
nỗ lực trong đời này mà còn là kết quả những
nỗ lực và khuynh hướng từ đời trước.
Nếu
suy nghĩ về khuynh hướng và dấu
ấn tâm linh của chính mình, thì ta có thể hiểu rằng đã có những đời trước.
Ta khó mà
tìm ra những điển hình rõ rệt về đời trước, nhưng cũng như làn khói
cuồn cuộn bay lên sau một ngọn núi cho
chúng ta biết ở đó có lửa. Cũng vậy, kết quả những dấu
ấn tâm linh đời trước nơi
chúng ta cho
chúng ta thấy rằng đã có những đời trước.
II.- DÒNG TÂM THỨC TƯƠNG TỤC
Tất cả những vật bên ngoài (
ngoại pháp) có hai
nguyên nhân (causes). Ví dụ một cái bình bằng đất sét có cả hai
nguyên nhân chính và
nguyên nhân phụ.
Nguyên nhân chính là đất sét làm nên chiếc bình. Nhưng cùng với
nguyên nhân chính ấy còn có
nguyên nhân phụ như thợ gốm,
việc làm của thợ gốm, đôi bàn tay và những dụng cụ
cần thiết. Vậy tất cả vật bên ngoài đều cần hai
nguyên nhân này:
Nguyên nhân đầu tiên (hay nhân) (substantial cause), được chuyển thành
bản chất của sản phẩm, và
nguyên nhân phụ (hay duyên) (contributing cause),
yếu tố giúp
chuyển đổi nguyên nhân chính thành ra sản phẩm.
Tương tự như thế, tất cả những
nội pháp (internal things) như
tâm thức (mind) cũng có hai
nguyên nhân: chính và phụ.
Nguyên nhân chính của tâm là
dòng tâm thức tương tục từ đời trước (previous continuum of mind),
nguyên nhân phụ là xúc tiếp đối tượng (meeting objects), nghĩa là do sự
tiếp xúc của
giác quan và đối tượng mà
tâm thức phát sinh. Muốn phát triển bất kỳ một hình thái nào của tâm thì hai nhân này -
dòng tâm thức tương tục đời trước và sự
tiếp xúc một đối tượng - phải có
hiện diện đầy đủ.
Nhân chính của tâm hôm nay là tâm ngày hôm qua, tâm hôm nay phát sinh
từ tâm hôm qua. Nếu
chúng ta xem xét một hài nhi, tâm của em bé ấy phát sinh từ cái tâm khi nằm trong
bào thai mẹ.
Thần thức của đứa bé
đi vào thai mẹ lần đầu khi có sự giao hợp giữa tinh cha và trứng mẹ. Nhưng tâm của đứa bé ấy cũng
xuất phát từ cái tâm trước đấy
trong đời sống
quá khứ của nó. Bằng
phương pháp theo dấu trở ngược về dòng
tương tục của
tâm thức,
chúng ta có thể biết rằng đã có
một đời sống
quá khứ.
III.- NHỮNG MỘNG TƯỞNG
Nhờ
năng lực của
mộng tưởng (dream appearances),
chúng ta có thể hiểu có
một đời trước. Nói chung, có ba loại
mộng tưởng. Loại thứ nhất là
mộng tưởng về những
sự cố đã xảy ra từ trước
trong đời này. Loại
mộng tưởng thứ hai
ám chỉ những
sự cố ta sẽ gặp về sau
trong đời này. Loại
mộng tưởng thứ ba
liên quan đến những đời khác, nghĩa là những kiếp
tái sanh trong
quá khứ và trong tương lai.
Những
mộng tưởng về
thời gian đầu đời này tức là những giấc mơ mà
chúng ta có về những sự việc trong
quá khứ, ví dụ mơ về thời
thơ ấu,
chúng ta có thể mơ về những kỳ nghỉ đã qua, những ngôi nhà cũ, những người bạn cũ,
quyến thuộc hay
cha mẹ đã khuất. Bây giờ
chúng ta có thể thấy lại những điều này trong những giấc mơ khoảng đầu đời của
chúng ta.
Đôi khi
mộng tưởng còn cho thấy một vài việc sẽ xảy ra về sau
trong đời này.
Chúng ta có thể mơ thấy
cha mẹ cho quà, và ngày hôm sau quả thực
cha mẹ đã gởi tiền cho ta. Đôi khi những
giấc mộng của
chúng ta rất đúng với
sự thật.
Chúng ta có thể mơ về một nơi ta
chưa bao giờ viếng thăm, và rồi nhiều năm sau quả thực
chúng ta viếng thăm nơi đó. Những giấc mơ có thể
đoán trước những sự việc sẽ xảy ra về sau
trong đời này.
Ngoài hai loại
mộng tưởng này (nghĩa là mơ về thời
thơ ấu và về
thời gian sau
trong đời này), bất kỳ loại
mộng tưởng nào khác cũng
ám chỉ một hành động hoặc
trong đời quá khứ hoặc
trong đời vị lai. Đôi khi ta mộng thấy một việc không thể xảy ra
trong đời này. Ví dụ nhiều ngườiphàm nằm mơ thấy mình có thể bay
trên trời. Nếu một người thường mơ thấy mình bay, điều này
chứng tỏ trong
kiếp trước họ đã
thiền định đạt đến "an chỉ" (concentration) hay "tịnh trú" (trangquil) hoặc
kiếp trước họ đã từng làm một loài chủng sinh biết bay.
Một
giấc mộng luôn luôn cho thấy
đời sống quá khứ hay
vị lai nếu không có
liên hệ gì đến
hiện tại. Nhờ
xem xét những
mộng tưởng mà
chúng ta dễ dàng hiểu về
đời sống quá khứ,
vị lai. Có vài điều
chúng ta thấy trong mộng dường như
vô lý đối với đời này, nhưng nó có thể xảy ra ở
vị lai hay đã xảy ra trong
quá khứ.
Nếu không có những
nguyên do (nhân) và
điều kiện (duyên) thì những
mộng tưởng như thế
không sinh khởi.
IV.- NĂNG LỰC CỦA NHỮNG VÍ DỤ
Nhiều người ngoài
đạo Phật cho rằng
tái sanh là chuyện không thể xảy ra vì không có ví dụ
cụ thể về
tái sinh. Họ có thể chưa gặp những người nhớ được đời trước của mình, trong khi quả thực có những người như vậy.
Chúng ta không thể
kết luận rằng một việc gì đó là không có chỉ vì một số người chưa từng thấy việc ấy. Nhưng thực sự là có nhiều
trường hợp về những người nhớ được những
tiền kiếp. Ở đây xin trình bày hai ví dụ:
Ở miền Nam
Ấn Độ, có một bé trai sinh ra trong một
gia đình thương gia. Những lời đầu tiên của nó là:
- Thầy của con đâu?
Mẹ nó rất
ngạc nhiên hỏi:
- Ai là thầy của con?
Đứa bé
trả lời, thầy nó là bậc
đạo sư Thế Thân. Ngày hôm sau, cậu bé bảo nó muốn đi thăm thầy hiện ở Magadha, một thành phố khác ở
Ấn Độ.
Cha mẹ cậu bé hởi thăm những
thương gia về bậc thầy trong
đạo Phật mà con trai họ đã nói. Những
thương gia cho họ biết có một bậc thầy
tu chứng rất cao tên là
Thế Thân (Vasubandhu) ở Magadha. Sau khi nhận được tin này,
cha mẹ liền đưa cậu con đến Magadha để
diện kiến ngài
Thế Thân.
Khi đến Magadha, họ hỏi ngài
Thế Thân về
bản chất mối quan hệ giữa ngài với con trai của họ. Ngài
Thế Thân cho họ biết rằng, khi ngài còn ở trong một hang động trên núi để tụng
đọc kinh điển, có một chú chim
bồ câu ở trong hang. Con chim
bồ câu thường nghe ngài
tụng kinh hàng ngày. Sau đó chim
bồ câu chết, và nhờ
năng lực nghe kinh Phật, những
ác nghiệp của nó được thanh lọc và nó được
tái sinh làm con trai của ông bà ấy.
Khi lớn lên, câu bé học mọi điều thầy dạy rất dễ dàng. Từ đời
quá khứ cậu đã có
nhân duyên lớn với ngài
Thế Thân. Cậu
trở thành một
hành giả tu chứng rất cao tên là Stirmati. Đây là
câu chuyện có thật cho
chúng ta thấy có
một đời trước.
Có một ví dụ khác
gần đây hơn về sự
tái sinh xảy ra trong
thế hệ này. Khi còn bé, tôi có một vị thầy rất
thông tuệ tên là Kachen Pella, sống ở phía Tây nước
Tây Tạng. Kachen Pella có rất nhiều
đệ tử. Khi
biết mình gần chết, ngài
phân chia sách cho các
đệ tử của ngài.
Không lâu trước lúc ngài chết, có một
phụ nữ ở cách thành phố một ngàn dặm đi đến chỗ vị thầy đang ở. Vị thầy già nói chuyện với ngườiphụ nữ mà ngài
chưa bao giờ gặp trước đây, mời bà ta cùng uống trà. Trước khi người đàn bà từ giả, vị thầy tặng cho bà chiếc khăn
quàng cổ màu trắng và nói:
- Tôi sẽ đến thăm nhà bà,(*) lúc đó xin hãy đối xử tử tế với tôi.
Bà hỏi ngài có biết nhà bà không, ngài
trả lời:
- Tôi sẽ biết nhà bà.
Người đàn bà tưởng vị thầy già muốn làm một chuyến
hành hương nên bà nói xin mời ngài đến nhà, con sẽ đón tiếp tử tế. Rồi bà ra đi, và mười ngày sau vị thầy chết đúng vào ngày giờ mà ngài đã tiên đoán. Những người có
niềm tin nơi thầy thì
tin tưởng rằng ngày biết được cái chết là nhờ
thần thông, còn những người không tin thì cho rằng ngài đoán được là nhờ biết xem
thiên văn tử vi.
Sau khi vị thầy chết không lâu, người đàn bà đã đến thăm ngài khi trước, sinh được một hài nhi. Khi con bà mới biết nói, nó đã nóivề đời trước của nó, về ngôi
tu viện, và tên những
đệ tử của mình. Khi biết vị thầy già đã chết, bà thầm nghĩ rằng, con trai bà có thể là vị thầy già, người đã nói là sẽ đến nhà bà. Mặc dù bà không
tiết lộ cho ai
biết điều gì, nhưng
cuối cùng tin tức đứa bé nói về đời trước của nó đã lan đến
tu viện và
đệ tử của vị thầy già. Một
phái đoàn tăng sĩ đến thăm cậu bé và cũng để xem đứa bé có phải là
tái sinh của thầy mình không. Khi họ đến, cậu bé gọi tên tục của hai vị
tu sĩ và chọn đúng
tràng hạt đời trước của mình trong sáu xâu
tràng hạt giống nhau. Những vị
tu sĩ này
tin chắc đây chính là
tái sinh của thầy họ.
Những vị tăng sĩ
yêu cầu người mẹ cho họ được đưa cậu bé về
tu viện để chăm sóc cậu bé cho chu đáo. Người mẹ bảo rằng bà không còn
nghi ngờ gì nữa về việc đứa bé ấy chính là
tái sinh của vị thầy, nhưng vì bà chỉ có một mụn con trai
duy nhất nên bà không thể nào cho nó theo các thầy về
tu viện được.
Hai năm sau cậu bé bị bệnh nặng
gần chết. Mẹ cậu hỏi
ý kiến vị
Lạt ma ở địa phương về bịnh tình cậu bé. Vị
Lạt ma khuyên bà nên để cho cậu bé đến
tu viện,
nếu không nó sẽ chết. Vì không muốn con trai mình phải chết nên bà đành gởi nó đến
tu viện.
Cậu bé
trở thành một vị thầy tu và được đặt tên là Kachen Pella trùng tên với vị thầy
ngày xưa. Tôi là một trong những
đệ tử của ngài và còn nhiều
đệ tử khác nữa hiện đang sống ở
Ấn Độ, họ có thể xác minh đây là
câu chuyện có thật. Thân
tái sinh của vị thầy này bây giờ độ ba mươi tuổi và đang sống ở
Tây Tạng.
Không phải người
Tây Tạng tin lời tất cả những đứa bé
tuyên bố chúng nhớ được
tiền kiếp. Họ
tra xét những
tuyên bố này một cách
cẩn thận trước khi có
quyết định có thật hay không. Họ lập một ban giám khảo để trắc nghiệm người nào nhớ lại đời trước có đúng
thật không. Những người đã
chứng ngộ nhớ được đời trước của mình là những điển hình
chân thật về việc có đời trước và
đời sau.
Hơn nữa có nhiều người ở
Tây phương cũng như
Đông phương có thể nhớ lại đời trước của họ. Nhiều đứa bé có thể nhớ vài
chi tiết về
một đời quá khứ như là tên của
cha mẹ. Những điều này cũng là những bằng chứng thực sự về cuộc sống
quá khứ. Nếu
chúng ta xem xét các bằng chứng trên đây thật kỹ lưỡng, thì
thật không có gì có thể
nghi ngờ về việc
tái sinh đã xảy ra.
GHI CHÚ:
(*) Phong tục người
Tây Tạng thường tặng một khăn quàng trắng như là một biểu hiệu của sự
may mắn.
V.- CHÂN KINH Dựa vào chân kinh để
chứng minh sự
tái sinh tùy thuộc vào
đức tin của họ đối với kinh, tức là những lời giảng của Phật. Đối với những người không phảilà
Phật tử, sự
xác nhận của
đức Phật về sự
tái sinh có
thể không đủ để đánh tan sự
nghi ngờ. Nhưng một người
Phật tử đã có
lòng tin tuyệt đối vào
đức Phật sẽ
hết lòng tin tưởng vào những gì mà
đức Phật đã nói về sự
tái sinh.
Có nhiều kinh sách trong đó
đức Phật đã
giải thích rằng có sự
tái sinh. Trong một quyển kinh,
đức Phật đã nói:
"Trong một
cuộc đời của
kiếp trước, ta đã bị
hành hạ bởi vua nước Kalinga. Nhà vua đã chặt xương sườn của ta, nhưng ngay
lúc ấy ta không có
ngã chấp, không
tham ái, và không nổi giận".
Như vậy
chúng ta có thể thấy rằng
đức Phật đã là một
hữu tình tu chứng cao ở đời trước. Trong quyển kinh này thực
rõ ràng chỉ dạy bởi lời
đức Phật xác nhận rằng đã có đời trước.
Có một
tiểu sử nói về 108 đời trước của
đức Phật.
Tiểu sử này
dựa trên chân kinh của
đức Phật. Nếu
chúng ta có
lòng tin,
chúng ta có thể biết được từ
chân kinh rằng có sự
tái sinh. Nếu
chúng ta không có lòng
tín ngưỡng, thì
chúng ta có thể dùng sự
hợp lý để lý luận mà
chứng tỏ rằng có sự
tái sinh. Nếu chúng xử dụng năm kỹ thuật đã
giải thích trên đây thì không có gì khó khăn cho lắm để mà hiểu được sự
tái sinh. Một khi
chúng ta đã biết rằng có đời trước, thì lý đương nhiên là sẽ có
đời sau.
Cuối cùng thân xác
chúng ta sẽ tàn tạ và chết, nhưng tâm ta không bao giờ chết.
Sau khi chết, thân xác ta có thể bị thiêu cháy, nhưng tâm ta thì không. Thân và tâm
hoàn toàn khác nhau. Vào lúc chết, hay có khi ngay cả trước lúc chết, tâm đã rời khỏi xác.
Những thiền
giả tu chứng cao có thể làm cho
thần thức của họ lìa khỏi xác và
đi vào thân xác khác. Con trai của Marpa, một vị
Bồ tát - tức là một
hữu tình đang tìm sự
toàn giác để làm
lợi lạc cho
mọi người - là người có khả năng làm pháp
chuyển di tâm thức ấy. Sau khi
thân thể của ông bị
tổn thương trầm trọng trong một
tai nạn cưỡi ngựa, con trai của Marpa
quyết định đi tìm một thân xác mới để
chuyển di tâm thức của mình vào đó. Muốn đạt
mục đích này, ông cần một
xác chết toàn vẹn. Ông không thể
tìm ra ngay một xác người, nhung tìm được cái xác của một con chim
bồ câu. Con trai Marpa
chuyển thức mình vào xác chim
bồ câu và con
bồ câu sống lại. Với thân chim, con trai Marpa không thể làm diều gì nhiều để giúp người, vì thế ông
tiếp tục đi tìm một thân người để
thỏa mãn được
ước mong làm
lợi lạc hữu tình.
Nhờ
năng lực thấu thị (clairvoyance) của cha ông,
cuối cùng con trai Marpa đã tìm được ở
Ấn Độ thân
xác chết của một thiền giả
Du già đã
thực chứng.
Thần thức của con trai Marpa lìa khỏi xác chim
bồ câu và nhập vào xác của thiền giả. Với thân người này, con trai Marpa đã sống nhiều năm ở
Ấn Độ, giảng dạy
Phật pháp. Nhiều người từ
Tây Tạng cũng đến
thọ giáo với ông.
Theo
Phật giáo Tây Tạng, có nhiều kỹ thuận để làm cho
tâm thức nhập vào một thân xác khác. Sự
thực hành này
thịnh hành trong một
thời gian. Nếu tâm có thể rời khỏi thân trước khi chết theo cách ấy, thì
dĩ nhiên vào lúc chết tâm cũng rời khỏi thân xác chứ không chết. Còn có một cái gì khác nữa sau đời này. Nhờ
nghiên cứu năm kỹ thuật này mà
chúng ta có thể biết được có
một đời sống nữa
tiếp nối đời sau này.
Nói chung, người theo
đạo Phật xem những
đời sau còn quan trọng hơn đời này. Nghĩa là dù có gặp nhiều khổ đau và
nghịch cảnh trong đời này,
chúng ta cũng không nên nản chí. Thay vì thế, ta nên
nhận thức rằng bây giờ
chúng ta đang có cơ hội để
thực hành pháp, để
cải thiện tâm ta bằng cách
diệt trừ ác nghiệp và
thực hành giới hạnh. Như vậy, ta có thể tạo những
điều kiện để có những
tái sinh thù thắng (higher rebirths), để
tu tập pháp trong những
đời sau và để
cuối cùng đạt đến giác ngộ hoàn toàn.