SƠ LƯỢC VỀ MẬT TÔNG TÂY TẠNG
Vajra
Trong các
quốc gia có
Phật Tử tu theo
Phật Giáo Đại Thừa thì
Tây Tạng chỉ tu theo
Mật Tông mà thôi. Ở
Tây Tạng có 4
tông phái Mật Tông chính đó là 1)Nyingmapa, 2)Sakyapa, 3)Kagyupa, 4)Gelupa.
Mỗi một
tông phái thì đều có
phương pháp tu hành khác nhau theo các Kinh
Mật Tông khác nhau nhưng tất cả các
tông phái đều cùng
thực hành 4 bậc
Mật Tông đó là: 1)
Lễ Bái Mật Tông, 2)
Nghi Lễ Mật Tông, 3)
Thiền Quán Mật Tông, 4)
Tối Thượng Mật Tông.
Mật Tông thì tiếng Phạn gọi là Tantra. Đạo
Bà La Môn (Hinduism) cũng có Tantra nhưng mà cái Tantra này không phải là Tantra của trong Kinh
Mật Tông dạy.
Đây là
sơ lược về 4
tông phái Mật Tông tại
Tây Tạng:
1)Nyingmapa: Tông phái Nyingmapa được khai sáng do Ngài Padmasambhava, là vị đem
Phật Giáo Mật Tông từ
Ấn Độ truyền sang
Tây Tạng vào đầu thế kỷ thứ 7 sau TL. Ngài Padmasambhava
đem theo tất cả Kinh
Mật Tông bằng tiếng Phạn qua
Tây Tạng vì vậy mà hiện nay chỉ có ở
Tây Tạng là có đủ tất cả các Kinh
Mật Tông. Ngài Padmasambhava đã dịch rất nhiều Kinh
Mật Tông từ tiếng Phạn ra tiếng
Tây Tạng. Ngài Padmasambhava đã truyền lại
giáo lý Mật Tông cho 25 người
đệ tử và sự
truyền thừa đó vẫn
tiếp tục cho đến bây giờ.
Theo truyền thyết thì Ngài Padmasambhava đã
hàng phục vị
Thần Chủ xứ
Tây Tạng cùng nhiều
quỷ thần khác để cho họ
quy y theo
Phật Pháp và
trở thành các vị
Hộ Pháp tại các
tu viện.
2)Kagyupa
Do Marpa Chokyi Lodoe Khai sáng vào đầu thế kỷ thứ 10 sau TL. Ngài Marpa là
đệ tử của Ngài Naropa. Ngài Naropa là vị đã truyền dạy về 6 pháp
Thiền Quán về
Mật Tông và
Đại Thủ Ấn cho ngài Marpa và Ngài Marpa đã truyền lại cho
đệ tử là Ngài Milarepa và Ngài Milarepa đã truyền lại cho hai vị
đệ tử là các Ngài Gampopa, Rechungpa và sự
truyền thừa vẫn
liên tục không
gián đoạn cho đến nay.
3)Kadampa
Do Ngài Atisa khai sáng vào giữa thế kỷ thứ 9 sau TL. Ngài Atisa đã cho dịch ra rất nhiều kinh
Mật Tông từ tiếng Phạn sang tiếng
Tây Tạng. Ngài Atisa đã
truyền giáo lý
Mật Tông cho các vị
đệ tử và sự
truyền thừa vẫn
liên tục không
gián đoạn cho đến nay.
4)Sakya
Do Ngài Khon Konchok Gyelpo Khai sáng vào đầu thế kỷ thứ 11 sau TL. Ngài Khon Konchok Gyelpo đã truyền lại
giáo lý và các pháp tu cho các
đệ tử và sự
truyền thừa vẫn
liên tục không
gián đoạn cho đến nay.
5)Gelupa
Do Ngài Je Tsongkhapa khai sáng vào đầu thế kỷ thứ 15 sau TL. và sự
truyền thừa vẫn
liên tục không
gián đoạn cho đến nay.
Trong các
tông phái kể trên thì chỉ có
tông phái Gelupa là các vị
xuất gia còn các
tông phái Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa thì
đa số là các
vị cư sĩ
vì vậy mà rất nhiều người không
hiểu biết nói là các sư
Tây Tạng có vợ là một sự
sai lầm rất lớn.
Giáo lý Mật Tông có hai phần
Hiển Giáo và
Mật Giáo.
Hiển Giáo: Là tất cả cá
giáo lý Tiểu Thừa,
Đại Thừa và tất cả các Kinh, Luật, Luận của
Tiểu Thừa và
Đại Thừa.
Mật Giáo: Là tất cả các
giáo lý trong các kinh
Mật Tông thí dụ như là
phương pháp Thiền Quán Tưởng
Đức Phật Bổn Tôn,
phương pháp Chuyển Hoá Thân Thành Thân Bổn Tôn,
phương pháp tạo đồ hình
Mạn Đà La,
phương pháp Tự Thọ
Quán Đảnh, phuơng pháp
Truyền Pháp Quán Đảnh, phuơng pháp
Chuyển Di Thần Thức,
phương pháp Cung Thỉnh Chư Bổn Tôn,
phương pháp Câu Triệu và
Hàng Phục Thiên Long Quỷ Thần v.v rất là nhiều các
pháp hành trì của
Mật Tông khác.
Rất nhiều kinh
Mật Tông chỉ có trong
Đại Tạng Kinh Tây Tạng chứ không có trong
Đại Tạng Kinh Hán là bởi vì các vì
phiên dịch kinh Phật từ Phạn sang Hán khi xưa không có
tu hành theo
Mật Tông. Ngay cả khi Ngài
Huyền Trang thỉnh Kinh Phật từ
Ấn Độ về thì cũng chỉ đem về một số lượng rất là ít ỏi so với hàng ngàn
bộ Kinh Mật Tông hiện có bằng tiếng
Tây Tạng và tiếng Phạn ở tại các
tu viện Tây Tạng.
Nền tảng của triết lý
Mật Tông là triết lý của
Duy Thức,
Hoa Nghiêm,
Bát Nhã,
Bồ Đề Tâm. Triết lý
Mật Tông đặt nền tảng trên các Kinh của
Đại Thừa và
Mật Tông và các bộ Luận như là
Trung Luận,
Du Già Sư Địa Luận,
Nhân Minh Luận,
Nhập Trung Luận,
Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận,
Biện Trung Biên Luận,
Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận v.v.
Triết lý và
phương pháp hành trì của
Mật Tông căn bản vẫn
xây dựng theo tiến trình Giới-Định-Tuệ như tất cả mọi đường
lối tu tập khác của
Phật giáo.
Tuy nhiên Mật Tông đặt nặng về
Gia Trì Lực của Chư Phật Bổn Tôn nên hay có nhiều sự
thần thông biến hoá.
Ba
yếu tố chính trong sự
tu hành của
Mật Tông Tây Tạng là
Từ Bi,
Trí Tuệ,
Phương Tiện Thiện Xảo.
Mật tông có bốn bậc khác nhau từ cao xuống thấp là:
Tối Thượng Mật Tông Thiền Quán Mật Tông Nghi Thức Mật Tông Lễ Bái Mật Tông Tối Thượng Mật Tông: Là đã đầy đủ các
pháp hành trì của ba bậc thấp hơn và
thành tựu đầy đủ các pháp
quán tưởng chuyển hoá thân thành vị Phật Bổn Tôn được
thành tựu Tam Mật tức là
Thân Mật,
Ngữ Mật,
Ý Mật.
Thiền Quán Mật Tông: Là đã đầy đủ các
pháp hành trì của hai bậc thấp hơn.
Hành giả phải biết rõ pháp
tu quán tưởng
chuyển hoá thân thành Đức Phật Bổn Tôn.
Hành giả phải biết rõ
phương pháp tu Quán Tưởng
Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các
Chân Ngôn, biết rõ các
Thủ Ấn của bậc này, biết
phương pháp tạo đồ hình
Mạn Đà La, biết các
Chân Ngôn, các
nghi thức về làm Pháp
Quán Đảnh, làm lễ
cúng dường và còn rất nhiều
nghi thức khác nữa v.v. của bậc
Mật Tông này
Nghi Thức Mật Tông: Là đã đầy đủ các
pháp hành trì của bậc thấp hơn.
Hành giả phải biết rõ
phương pháp tu Quán Tưởng
Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các
Chân Ngôn, biết rõ các
Thủ Ấn của bậc này, biết
phương pháp tạo đồ hình
Mạn Đà La, biết các
Chân Ngôn, các
nghi thức về làm Pháp
Quán Đảnh, làm lễ
cúng dường và còn rất nhiều
nghi thức khác nữa v.v. của bậc
Mật Tông này
Lễ Bái Mật Tông: Là
hành giả phải
tu hành đầy đủ các pháp lạy
sám hối, trì tụng.
Hành giả phải biết rõ
phương pháp tu Quán Tưởng
Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các
Chân Ngôn, biết rõ các
Thủ Ấn của bậc này, biết
phương pháp tạo đồ hình
Mạn Đà La, biết các
Chân Ngôn, các
nghi thức về làm Pháp
Quán Đảnh, làm lễ
cúng dường và còn rất nhiều
nghi thức khác nữa v.v. của bậc
Mật Tông này
Trong mỗi bậc
Mật Tông lại có hai phần là Nội Mật và Ngoại Mật.
Ở tại
Việt Nam khi nói đến
Mật Tông là nói đến hai loại
Mật Tông đầu đó là
Lễ Bái Mật Tông và
Nghi Thức Mật Tông.
Các Kinh về
Thiền Quán Mật Tông và
Tối Thượng Mật Tông thì chỉ có ở trong
Đại Tạng Kinh Tây Tạng mà thôi.
Chư Tăng và
Phật Tử Việt Nam sở dĩ không có tin việc
tu hành theo
Mật Tông trong
một đời mà có thể
thành Phật là bởi vì không có ai biết về
Thiền Quán Mật Tông và
Tối Thượng Mật Tông.
Không phải là hễ ai tu theo
Mật Tông thì cũng
thành Phật trong
một đời cả mà chỉ có các vị tu theo pháp
Tối Thượng Mật Tông lúc được
thành tựu viên mãn thì mới có thể
chứng quả Phật trong hiện đời.
Pháp
Tối Thượng Mật Tông rất là
thâm sâu vì vậy một người muốn
tu hành pháp
Tối Thượng Mật Tông thì phải có
căn bản vững chắc về
Mật Tông của các bậc dưới rồi và
hành giả trước hết phải nhận được Pháp
Quán Đảnh của một vị
Kim Cang Pháp Sư đã
thành tựu về Pháp
Tối Thượng Mật Tông truyền dạy.
Hành giả cũng phải có sự
chứng nhập thâm sâu về
Tánh Không và
Bồ Đề Tâm thì mới có thể
tu hành Pháp
Tối Thượng Mật Tông .