Thư Viện Hoa Sen

100 Vấn Đáp Được Biên Soạn Bởi Thiền Sư Tharmanaykyaw Sayādaw Dành Cho Chương Trình Tu Tập Tại Châu Âu, Tháng 5-6 Năm 2023

10/10/20241:41 SA(Xem: 747)
100 Vấn Đáp Được Biên Soạn Bởi Thiền Sư Tharmanaykyaw Sayādaw Dành Cho Chương Trình Tu Tập Tại Châu Âu, Tháng 5-6 Năm 2023
100 VẤN ĐÁP ĐƯỢC BIÊN SOẠN
BỞI THIỀN SƯ THARMANAYKYAW SAYĀDAW
DÀNH CHO CHƯƠNG TRÌNH TU TẬP TẠI CHÂU ÂU, THÁNG 5-6 NĂM 2023

Sharing Ven. Mahāsī Sayādaw’s Abroad Dhamma Talks
100 Quentions are created by Tharmanaykyaw Sayādaw Europe Retreat 2023, May-June
Chia sẻ “Pháp thoại tại hải ngoại” của Thiền Sư Mahāsī Sayādaw
100 Vấn Đáp được biên soạn bởi Thiền Sư Tharmanaykyaw Sayādaw dành cho Chương trình tu tập tại châu Âu, tháng 5-6 năm 2023
 
The Way to Happiness
 
Thiền Sư Tharmanaykyaw Sayādaw
Thiền Sư Tharmanaykyaw Sayādaw

Q.001 • Everyone wants to be happy, but what must one do and how should one live to be happy?

• Everyone should know this much. Because of his great compassion, the Buddha taught us about this ‘Way to Happiness.’ Happiness is of two kinds: happiness in this very life, and happiness in the future lives. Happiness in this life can be gained by four accomplishments (sampadā), namely: uṭṭhānasampadā, ārakkhasampadā, kalyāṇamittatā and samajivitā.

Q.001 • Mọi người đều muốn được hạnh phúc, nhưng để đạt được hạnh phúc, ta cần làm gì và phải sống như thế nào?

Mọi người nên biết điều này. Với tâm từ rộng lớn, Đức Phật đã dạy chúng ta về ‘Con đường đến Hạnh phúc’. Hạnh phúc có hai loại: hạnh phúc ngay trong kiếp sống này và hạnh phúc trong các kiếp sau. Hạnh phúc trong cuộc sống này có thể có được nhờ bốn thành tựu (sampadā), đó là: uṭṭhānasampadā, ārakkhasampadā, kalyāṇamittatā và samajivitā.

Q.002 • What does uṭṭhānasampadā mean?

• Uṭṭhānasampadā means alertness or diligence in one’s work. In whatever work that you do, whether it is agriculture, commerce or education, you should apply your skill, and work diligently. If you do so, you will earn what you deserve, which is obvious.

Q.002 • Uṭṭhānasampadā nghĩa là gì?

• Uṭṭhānasampadā có nghĩa là sự tỉnh thức hoặc cần cù trong công việc của mình. Trong bất cứ công việc nào bạn làm, dù đó là nông nghiệp, thương mại hay giáo dục, bạn phải dùng tài năng của mình và làm việc cần cù. Nếu bạn làm như vậy, bạn sẽ nhận được những gì bạn đáng nhận, và điều này thật là rõ ràng.

Q.003 • What does Ārakkhasampadā mean?

• Ārakkhasampadā means wariness or watchfulness so that your worldly possessions may not be lost. This too is clear.

Q.003 • Ārakkhasampadā có nghĩa là gì?

• Ārakkhasampadā có nghĩa là sự cảnh giác hoặc sự để mắt để tài sản thế gian của bạn không bị mất đi. Điều này cũng rõ ràng.

Q.004 • What does Kalyāṇamittatā mean?

• Kalyāṇamittatā means association with good friends, who can help you work for your well-being. To get such good friends, it is important that your dealings with people be motivated by good-will (mettā). According to the Buddha, a good friend should be one who has the virtues of faith (saddhā), morality (sīla), generosity (cāga) and wisdom (paññā). If a friend is lacking in faith, your faith can fail. If a friend is lacking in morality, your morality can fail. If a friend is lacking in generosity or wisdom, you too may lack them.

Q.004 • Kalyāṇamittatā có nghĩa là gì?

• Kalyāṇamittatā có nghĩa là giao thiệp với những người bạn tốt, những người có thể giúp bạn tạo ra sự tốt đẹp cho mình. Để có được những người bạn tốt như vậy, điều quan trọng là mối quan hệ của bạn với mọi người phải dựa trên tâm từ (mettā). Theo Đức Phật, người bạn tốt là người có đức tính của niềm tin (saddhā), đạo đức (sīla), sự rộng lượng (cāga) và trí tuệ (paññā). Nếu một người bạn thiếu lòng tin, lòng tin của bạn cũng có thể bị hư hại. Nếu người bạn thiếu đạo đức, đạo đức của chính bạn cũng có thể suy giảm. Nếu một người bạn thiếu lòng rộng lượng hoặc trí tuệ, bạn cũng có thể thiếu chúng.

Q.005 • What does Samajivitā mean?

• Samajivitā means to live within your means. You should spend less than your income, not more. If possible, you should set aside a quarter of your income and spend only three-quarters. There are many examples of people who became wealthy by living within their means. There are similar examples of people who became rich by cultivating the other accomplishments. Therefore, to be happy and prosperous one should try to fulfil these accomplishments.

Q.005 • Samajivitā có nghĩa là gì?

• Samajivitā có nghĩa là sống trong khả năng của bạn. Bạn nên tiêu ít hơn thu nhập của mình, không nhiều hơn. Nếu có thể, bạn nên dành một phần tư thu nhập và chỉ tiêu ba phần tư. Có nhiều ví dụ về những người đã trở nên giàu có bằng cách sống trong khả năng của họ. Cũng có những ví dụ tương tự về những người đã trở nên giàu có bằng cách phát triển những thành tựu khác. Do đó, để hạnh phúcthịnh vượng, bạn nên cố gắng thực hiện những thành tựu này.

Q.006 • Is it more important to be happy in one’s future lives than it is to be happy just in this life?

• However, it is more important to be happy in one’s future lives than it is to be happy just in this life, so the Buddha taught us four further accomplishments. They are: accomplishment in faith (saddhāsampadā), accomplishment in morality (sīlasampadā) [*], accomplishment in generosity (cāgasampadā) and accomplishment in wisdom (paññāsampadā).

Q.006 • Hạnh phúc trong các kiếp sau của mình có quan trọng hơn là hạnh phúc trong kiếp sống này không?

Tuy nhiên, quan trọng hơn là hạnh phúc trong kiếp sau của chúng ta hơn là chỉ hạnh phúc trong kiếp này, vì vậy Đức Phật đã dạy cho chúng ta bốn thành tựu khác. Chúng là: thành tựu trong lòng tin (saddhāsampadā), thành tựu trong đạo đức (sīlasampadā), thành tựu trong lòng rộng lượng (cāgasampadā) và thành tựu trong trí tuệ (paññāsampadā).

[*] Sīlasampadā fem. attainment of virtue; moral success; being accomplished in ethical conduct [sīla + sampadā] ✓

Q.007 • What does saddhāsampadā mean?

• Of these four, saddhāsampadā means to have faith in what one should have faith in.

Q.007 • Saddhāsampadā có nghĩa là gì?

• Trong số bốn thành tựu này, saddhāsampadā có nghĩa là có lòng tin vào những điều mà ta nên tin.

Q.008 • What should one have faith in?

• One should have faith in the true Buddha, the true Dhamma, the true Saṅgha and in the law of kamma and its effects.

Q.008 • Ta nên tin vào đâu?

• Ta nên tin vào chân Phật, chân Pháp, chân Tăng và vào luật của nghiệp và hậu quả của nghiệp hay nghiệp báo.

Q.009 • What does arahaṃ mean?

• Arahaṃ means one who is purified of all defilements such as greed, hatred, delusion and so forth.

Q.009 • Arahaṃ có nghĩa là gì?

• Arahaṃ có nghĩa là người đã được thanh lọc hoàn toàn khỏi tất cả các phiền não như tham, sân, si vv...

Q.010 • What does Sammāsambuddha mean?

• Sammāsambuddha means one who knows the four truths by his own knowledge.

Q.010 • Sammāsambuddha có nghĩa là gì?

• Sammāsambuddha có nghĩa là người hiểu biết bốn chân đế bằng kiến thức của riêng mình.

Q.011 • What is Faith in the law of kamma and its effects?

• Faith in the law of kamma and its effects, believing that unwholesome actions bring unpleasant results and that wholesome actions bring pleasant results, is also well-placed faith or saddhāsampadā.

- To have faith in kamma and its effects is essential. If one does not believe in kamma, but wrongly believes that someone such as an Almighty Being will save us, or is responsible for the good and bad results that we get, then one will not do good deeds and will do mostly bad deeds instead. If one has not done good deeds, one will not enjoy happiness, but will meet only suffering, which is the result of bad deeds. It is just like someone who has to suffer illness after eating rotten or unsuitable food instead of fresh or suitable food.

Q.011 • Niềm tin vào Nghiệp và hậu quả của Nghiệp là gì?

Niềm tin vào luật của nghiệp và hậu quả của nó là tin rằng hành động bất thiện đem lại kết quả khó chịu và rằng hành động thiện đem lại kết quả dễ chịu, cũng là niềm tin đặt đúng chỗ hay saddhāsampadā.

- Tin vào nghiệp và hậu quả của nó là điều cần thiết. Nếu ai không tin vào nghiệp, mà sai lầm tin rằng một Đấng Tối Cao nào đó sẽ cứu chúng ta hoặc chịu trách nhiệm cho kết quả tốt và xấu mà chúng ta nhận được, thì người đó sẽ không làm việc thiện mà thay vào đó làm nhiều việc ác hơn. Nếu ta không làm việc thiện, ta sẽ không được hưởng hạnh phúc, mà chỉ gặp gỡ khổ đau, đó là kết quả của những việc ác. Điều đó giống như người nào phải chịu đựng bệnh tật sau khi ăn thức ăn hỏng hoặc không thích hợp thay vì thức ăn tươi và thích hợp.

Q.012 • What is true story about this?

• In the days of the Buddha there was a rich Bà-la-môn called Todeyya living at Sāvatthī who was the king’s adviser. He had fabulous wealth, but did not give anything to anyone, and told others, “If you give, you lose what you have, so do not give anything.” He died greatly attached to his wealth and was reborn as a dog in his own house.

- One day the Buddha came to that house on his round for alms because he wanted to teach the true Dhamma to the young man Subha, the son of Todeyya. The dog that was formerly Todeyya came running out and barked at the Buddha. The Buddha spoke to the dog, “Hey Todeyya, you showed disrespect to me in your former birth, so now you have become a dog. Now you are barking at me and will be reborn in Avīci hell for this bad action.” On hearing this the dog thought, “This recluse Gotama knows me.” Feeling very ill at ease he went to the kitchen and lay down to sleep in the ashes there. As he was the young Brahmin’s pet, he used to sleep in his own comfortable bed. When the young man Subha saw him sleeping in the ashes, he asked his servants why, and was told what had happened.

- Young Subha thought to himself, “According to the Bà-la-môn religion my father should have been reborn as a Brahmā, but the recluse Gotama called the dog ‘Todeyya.’ Thus he is saying that my father has been reborn as a dog. He just says whatever he likes.” Thus he was deeply offended and came to the Buddha to accuse him of speaking a falsehood. He asked the Buddha what he had said to Todeyya the dog and the Buddha told him. Then to arouse faith in the young man the Buddha asked him, “Is there any wealth that your father didn’t reveal before he died?”

- The young man replied that four hundred thousand was missing.

- The Buddha said to him, “Feed the dog well, and before he falls asleep ask him where the treasure is; he will reveal everything.”

- So Subha thought, “If what the recluse Gotama says turns out to be true, I will find the treasure; if it is wrong then I can accuse him of a falsehood.” So he fed the dog and asked him about the treasure. The dog led him to the buried treasure. On recovering his wealth, Subha thought to himself, “The recluse Gotama knows the secrets hidden to us by death. He is indeed the Buddha who knows all things.” So he began to have faith in the Buddha. Later he came to the Buddha with fourteen difficult questions.

Q.012 • Sự thật về chuyện này là gì?

• Vào thời của Đức Phật có một người Bà-la-môn giàu có tên Todeyya sống tại Sāvatthī và là cố vấn của vua. Ông ta sở hữu một tài sản to lớn, nhưng không cho ai cái gì và nói với người khác rằng: “Nếu bạn cho đi, bạn sẽ mất những gì bạn có, vì vậy đừng cho cái gì cả.” Ông ta qua đời nhưng vẫn quá dính mắc với tài sản của mình nên tái sinh thành một con chó trong ngôi nhà của mình.

- Một ngày nọ, Đức Phật đến ngôi nhà đó để xin ăn, vì Ngài muốn truyền dạy Chân lý thật cho chàng trai trẻ Subha, con trai của Todeyya. Con chó trước đây là Todeyya chạy ra và sủa Đức Phật. Đức Phật nói với con chó: “Ở kiếp trước, Todeyya, bạn đã không tôn trọng tôi, vì vậy giờ bạn đã trở thành con chó. Bây giờ bạn đang sủa tôi và sẽ được tái sinh vào địa ngục Avīci vì hành động xấu này.” Nghe điều này, con chó nghĩ, “Nhà tu này Gotama biết về tôi.” Cảm thấy khó chịuj, nó đi vào nhà bếp và nằm xuống ngủ trên đống tro tàn. Bởi vì nó là thú cưng của người Bà-la-môn trẻ, nó thường ngủ trên giường thoải mái nên khi chàng trai trẻ Subha thấy nó ngủ trên tro tàn, anh ta hỏi nhân viên vì sao và được kể lại về chuyện đã xảy ra.

- Subha tự nghĩ, “Theo tôn giáo Bà-la-môn, cha tôi phải được tái sinh thành một vị Phạm thiên, nhưng tu sĩ Gotama gọi con chó là ‘Todeyya’. Như vậy Ngài đang nói rằng cha tôi đã tái sinh thành một con chó. Ngài chỉ nói những gì Ngài muốn.” Vì vậy, anh ta cảm thấy bị tổn thương và đến gặp Đức Phật để cáo buộc Ngài nói dối. Anh ta hỏi Đức Phật đã nói gì với con chó Todeyya và Đức Phật kể cho anh ta nghe. Sau đó, để khơi dậy lòng tin của chàng trai trẻ, Đức Phật hỏi anh ta, “Có kho báu nào mà cha anh không tiết lộ trước khi qua đời không?”

- Chàng trai trả lời rằng thiếu đi bốn trăm ngàn.

- Đức Phật nói với anh ta, “Hãy cho con chó ăn ngon, và trước khi nó thiếp ngủ, hãy hỏi nó nơi kho báu ở đâu; nó sẽ tiết lộ tất cả.”

- Vì vậy, Subha nghĩ, “Nếu những gì mà nhà tu Gotama nói đúng, tôi sẽ tìm thấy kho báu; nếu sai, tôi có thể cáo buộc Ngài nói dối.” Vì vậy, anh ta cho con chó ngon và hỏi nó về kho báu. Con chó dẫn anh ta đến kho báu được chôn giấu. Khi lấy lại tài sản, Subha tự nghĩ, “Nhà tu Gotama biết những bí mật bị che giấu khỏi chúng ta bởi cái chết. Ngài thực sự là một vị Phật biết mọi điều.” Vì vậy, anh ta bắt đầu niềm tin nơi Đức Phật. Sau đó, anh ta đến gặp Đức Phật và hỏi mười bốn câu hỏi khó khăn.

Q.013 • What are his questions, in brief?

• His questions, in brief, were as follows: “Why is it that among human beings, some live a short life while others live long; some have poor health while others are healthy; some are ugly while others are pleasing to look at; some are friendless while others have many friends; some are poor while others are rich; some are low-born while others are of noble birth; and some are ignorant while others are intelligent? What is it that divides them into these high and low states?”

Q.013 • Các câu hỏi của anh ta, tóm gọn lại là gì?

• Câu hỏi của anh ta, tóm gọn, như sau: “Tại sao trong chúng sanh, có người sống ngắn ngủi có người sống lâu; có người kém sức khỏe có người khỏe mạnh; có người xấu xí, có người khác đáng yêu; có người không có bạn bè, có người nhiều bạn; có người nghèo có người giàu; có người sinh ra thấp hèn, có người sinh ra trong cao sang; và có người đần độn, có người thông minh? Điều gì đã phân chia họ thành những hoàn cảnh cao thấp này?”

Q.014 • How did The Buddha reply?

• The Buddha replied, “Young man, beings are owners of their deeds, heirs to their deeds, their deeds are the womb that bears them, their deeds are their relatives and their refuge. Their deeds divide them into high and low states.”

Q.014 • Đức Phật trả lời như thế nào?

Đức Phật trả lời, “Chàng trai trẻ, chúng sinh là chủ nhân của hành động của họ, kế thừa từ hành động của họ, hành động của họ là tử cung sinh họ, hành động của họ là người thân và nơi trú ẩn của họ. Hành động của họ chia cắt họ thành những trạng thái cao thấp.”

Q.015 • What is a full statement on the law of kamma?

• The young man Subha did not understand this brief statement so he asked the Buddha to explain it more fully.

▪ Short and Long Lives: If a man or women kills a living being, because of this deed of killing, he or she will be reborn in a state of suffering – in hell. If born as a man or women again, he or she will live a short life. One who abstains from killing will be reborn in heaven. If born as a human being, one will live a long time.
▪ Sickness and Health: One who harms others will arise in a state of suffering. If born as a human being, one will have many diseases. If one does not harm living beings, one will be reborn in heaven. If born as a human being, one will enjoy good health.
▪ Ugliness and Beauty: One who is full of anger will be reborn in a state of suffering. If born as a human being, one will be ugly. If one controls one’s anger and shows forbearance, one will be reborn in heaven. If born as a human being one will be good-looking.
▪ Having Few or Many Friends: If one envies the good fortune of others, one will be reborn in a state of suffering. If born as a human being, one will be friendless. If one rejoices at the success of others, one will be reborn in heaven. If born as a human being, one will have many friends.
▪ Poverty and Wealth: If one does not give and discourages others from giving, one will be reborn in a state of suffering. If born as a human being, one will be poor. If one gives to others, one will be reborn in heaven. If one is born as a human being, one will be wealthy.
▪ Low Birth and Noble Birth: If, being proud, one does not show respect to those who deserve it, one will be reborn in a state of suffering. If born as a human being one will be low born. If one pays respect to others, one will be reborn in heaven. If born as a human being, one will have a noble birth.
▪ Foolishness and Wisdom: If one never asks what is wholesome and what is unwholesome, one will be reborn in a state of suffering. If born as a human being, one will be foolish.

Q.015 • Giải thích đầy đủ về đạo luật nhân quả là gì?

• Chàng trai trẻ không hiểu câu trả lời vắn tắt của Đức Phật nên cậu thỉnh cầu Đức Phật giải thích cặn kẽ hơn.

▪ Cuộc sống ngắn và dài: Nếu một người đàn ông hoặc người phụ nữ giết một chúng sinh, vì hành động giết hại này, họ sẽ được tái sinh trong khổ cảnh - trong địa ngục. Nếu họ sinh ra làm người, họ sẽ có một cuộc sống ngắn. Người tránh giết hại sinh vật sẽ được tái sinhthiên đường. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ được sống lâu.
▪ Bệnh tật và Sức khỏe: Người gây hại cho kẻ khác sẽ tái sanh trong khổ cảnh. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ mắc nhiều bệnh tật. Nếu ai không gây hại cho chúng sanh khác, họ sẽ tái sinhthiên đường. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ có sức khỏe tốt.
Xấu xíĐẹp đẽ: Người đầy oán hận sẽ tái sinh vào khổ cảnh. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ bị xấu xí. Nếu ai kiềm chế được sự tức giận và biết nhẫn nhịn, họ sẽ tái sinhthiên đường. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ có sắc đẹp.
▪ Có ít hoặc có nhiều bạn bè: Nếu ai ganh tỵ với may mắn của người khác, họ sẽ tái sinh trong khổ cảnh. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ không có bạn bè. Nếu ai hoan hỷ với thành công của người khác, họ sẽ tái sinhthiên đường. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ có nhiều bạn bè.
Nghèo khóGiàu có: Nếu ai không biết bố thíngăn cản người khác bố thí, họ sẽ tái sinh trong khổ cảnh. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ nghèo khó. Nếu ai biết bố thí cho người khác, họ sẽ tái sinhthiên đường. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ giàu có.
▪ Sinh ra thấp hèn và Sinh ra cao quý: Nếu vì kiêu ngạo, ai không tôn trọng những người xứng đáng tôn trọng, họ sẽ tái sinh trong khổ cảnh. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ sinh ra thấp hèn. Nếu ai biết tôn trọng kẻ khác, họ sẽ tái sinhthiên đường. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ sinh ra cao quý.
▪ Ngốc nghếch và Khôn ngoan: Nếu ai không bao giờ hỏi điều gì là thiện và điều gì là bất thiện, họ sẽ tái sinh trong khổ cảnh. Nếu sinh ra làm người, họ sẽ ngốc nghếch.
Q.016 • How should you constantly cultivate loving-kindness (mettā)?

• So if you constantly cultivate loving-kindness (mettā), There will be no occasion for unwholesome deeds to occur. Everyone wants to be happy and no one likes to suffer. Also, one wishes for others to be peaceful and happy. This is a very good attitude indeed and no one can find any fault with it. To cultivate kindness one should think of other living beings individually or collectively and mentally recite, “May they be happy!”

- You can think of someone, or anyone you can see, and cultivate mettā towards them. “May he be happy! May she be happy! May they be happy!” You need to do this in your mind only. If occasion arises, you can also speak some kind words, or if there is something you can do to help, you can do it personally.

Q.016 • Bạn nên liên tục trau dồi tâm từ (mettā) như thế nào?

• Nếu bạn liên tục trau dồi tâm từ (mettā), những hành động bất thiện sẽ không có cơ hội để xảy ra. Ai cũng muốn có hạnh phúc và không ai thích đau khổ. Hơn nữa, mỗi người đều mong muốn người khác được yên bình và hạnh phúc. Đây thực sự là một thái độ tốt và không ai có thể tìm thấy bất kỳ lỗi lầm nào trong đó. Để trau dồi lòng từ bi, bạn nên nghĩ đến các chúng sanh khác, từng cá thể hay tập thể và trong tâm tự đọc thầm: “Mong cho họ được hạnh phúc!”

- Bạn có thể nghĩ về ai đó, hoặc bất kỳ ai bạn có thể thấy và rải tâm từ đến với họ. “Mong cho anh ấy được hạnh phúc! Mong cho cô ấy được hạnh phúc! Mong cho họ được hạnh phúc!” Bạn chỉ cần làm điều này trong tâm mình mà thôi. Nếu có cơ hội, bạn cũng có thể nói những lời tốt đẹp, hoặc nếu có điều gì bạn có thể giúp đỡ được, bạn có thể thực hiện điều ấy.

Q.017 • Even if you cannot help others by kind actions or words, what can you do?

• Even if you cannot help others by kind actions or words, if you refrain from improper speech and actions, this is also cultivating kindness in deeds and words.

- Although you may not have seen them, you can imagine all beings and wish, “May they be happy!” You can cultivate kindness in the mind only. You may do this for five minutes, ten minutes, half an hour, an hour or more, as much as you can spare the time. If your practice goes well you may gain jhāna and will be reborn in the Phạm thiên world, where you can live happily for aeons.

Q.017 • Dù bạn không thể giúp đỡ người khác bằng những hành động hay lời nói tử tế, bạn vẫn có thể làm gì?

• Dù bạn không thể giúp đỡ người khác bằng những hành động hay lời nói tử tế, nếu bạn tránh nói và hành động không đúng đắn, điều này cũng là việc trau dồi tâm từ trong hành động và lời nói.

- Dù bạn có thể chưa từng thấy họ, bạn có thể tưởng tượng tất cả các chúng sinh và nguyện rằng: “Mong cho họ được hạnh phúc!” Bạn chỉ có thể trau dồi tâm từ trong tâm mà thôi. Bạn có thể thực hành điều này trong năm phút, mười phút, nửa giờ, một giờ hoặc thậm chí càng lâu càng tốt, tùy theo thời gian bạn có. Nếu thực hành của bạn thuận lợi, bạn có thể đạt được jhāna và sẽ tái sinh trong thế giới Brahmā, nơi bạn có thể sống hạnh phúc trong hàng ngàn năm.

Q.018 • The Buddha did not want us to be content with the bliss of the Phạm thiên heavens only, didn’t he?

• The Buddha did not want us to be content with the bliss of the Phạm thiên heavens only. Once an old Bà-la-môn named Dhanañjāni, who was on his deathbed, sent for Đại đức Sāriputta to listen to the Dhamma from him. Đại đức Sāriputta taught to him how to cultivate love and compassion – a practice that leads to rebirth in the Phạm thiên world. Then he returned to his monastery. The Brahmin, Dhanañjāni, meditated on mettā and very soon passed away. Because of his mettā jhāna, he was reborn in the Phạm thiên heaven. It may not have taken him more than an hour, for he died and became a Phạm thiên before Đại đức Sāriputta had reached his monastery.

Q.018 • Đức Phật không muốn chúng ta chỉ hài lòng với hạnh phúc của cõi Phạm thiên mà thôi, có đúng vậy không?

Đức Phật không muốn chúng ta chỉ hài lòng với hạnh phúc của cõi Phạm thiên mà thôi. Một lần, có một người Bà-la-môn già tên Dhanañjāni, đang nằm trên giường sắp chết, mời ngài Sāriputta đến để ông được nghe pháp từ ngài. Ngài Sāriputta đã dạy cho ông cách phát triển tâm từ bi - một thực hành dẫn đến sự tái sinh trong cảnh giới Phạm thiên. Sau đó, ông trở về tu viện của mình. Bà-la-môn Dhanañjāni hành thiền tâm từ và sau đó qua đời. Nhờ sự đạt được jhāna của tâm từ (mettā), ông được tái sinh ở cõi Phạm thiên. Có thể không mất quá một giờ, để ông qua đời và trở thành một Phạm thiên trước khi Đại đức Sāriputta về đến tu viện của mình.

Q.019 • Did the Buddha blame Đại đức Sāriputta for failing to teach about insight meditation (vipassanā)?

• The Buddha blamed Đại đức Sāriputta for failing to teach about insight meditation (vipassanā). So Đại đức Sāriputta went at once to the Dhanañjāni Phạm thiên and taught to him about vipassanā, the teaching that leads to the path and its fruition, and to Nibbāna. The Phạm thiên meditated as instructed and realised the path and its fruition.

- Therefore, it is not suitable for us to stop our talk after just speaking about mettā, the practice that can lead one to jhāna.

Q.019 • Đức Phật có trách Đại đức Sāriputta vì không dạy về thiền quán (vipassanā) không?

Đức Phật đã trách Đại đức Sāriputta vì không dạy về thiền quán (vipassanā). Vì vậy, Đại đức Sāriputta ngay lập tức đi đến Phạm thiên Dhanañjāni và dạy ông về vipassanā, những giảng dạy dẫn đến Đạo, Quả và Niết Bàn. Vị Phạm thiên hành thiền theo lời dạy và chứng ngộ Đạo, Quả và Niết Bàn.

- Do đó, không thích hợp cho chúng ta dừng bài pháp sau khi chỉ nói về mettā, một thực hành chỉ có thể dẫn đến jhāna.

Q.020 • Should we also talk about insight meditation, the practice that leads to Nibbāna?

• We should also talk about insight meditation, the practice that leads to Nibbāna.

Q.020 • Chúng ta có nên nói về thiền quán, sự thực hành dẫn đến Nibbāna không?

Chúng ta cũng nên nói về thiền quán, thực hành dẫn đến Nibbāna.

Q.021 • What does Insight meditation mean?

• Insight meditation means to contemplate the arising and passing away of the five aggregates of attachment (upādānakkhandhā), to realise that they are all impermanent (anicca), unsatisfactory (dukkha) and not-self (anatta). Attachment (upādāna) includes craving (taṇhā) and wrong view (diṭṭhi) – the view that there is a permanent soul or self in a living being. The five mental and material aggregates grasped by craving are called the aggregates of attachment. These aggregates manifest whenever one sees, hears, smells, tastes, touches or thinks. If one fails to notice these events immediately, one does not know them accurately, but mistakes them for permanent, pleasant or good things, or as persons or beings. So one clings to them with craving and wrong view. To overcome attachment to them, we must note all mental and material phenomena at the moment of their occurrence.

Q.021 • Thiền quán có nghĩa là gì?

Thiền quán có nghĩa là quán tưởng về sự sanh diệt của sự bám níu vào năm uẩn hay ngũ uẩn thủ (upādānakkhandhā), nhận ra rằng tất cả chúng là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Bám níu (upādāna) bao gồm sự khao khát (taṇhā) và tà kiến (diṭṭhi) - quan điểm rằng có một linh hồn thường còn hay một cái ngã trong mỗi chúng sanh. Năm uẩn về thân tâm bị nắm chặt bởi khao khát được gọi là ngũ uẩn của tham đắm. Các uẩn này biểu hiện mỗi khi chúng ta nhìn, nghe, ngửi, nếm, chạm hoặc suy nghĩ. Nếu chúng ta không ghi nhận những sự kiện này ngay lập tức, chúng ta sẽ không hiểu chúng một cách chính xác, mà nhầm lẫn chúng là những gì vĩnh viễn, dễ yêu hoặc tốt đẹp, hoặc nhận chúng là những người hoặc chúng sinh. Do đó, chúng ta bám níu vào chúng với sự khao khát và tà kiến. Để vượt qua sự bám níu này, chúng ta cần ghi nhận tất cả hiện tượng tâm-vật lý ngay khi chúng xuất hiện.

Q.022 • In the Satipaṭṭhāna Sutta how are we taught?

• In the Satipaṭṭhāna Sutta we are taught to observe the bodily movements like walking, standing, sitting and so on, and to note them as ‘walking,’ ‘standing,’ ‘sitting’ and so forth. Pleasant and unpleasant feelings, must be noted as ‘pleasant’ or ‘unpleasant.’ Mind-objects or thoughts, too, should be noted as ‘passionate,’ ‘dispassionate,’ ‘angry,’ ‘not angry’ and so on. We must also be aware of the visible objects and visual consciousness as ‘seeing’ and so on. When you hear something, you should note it as ‘hearing.’ Although it should be taught in full as ‘I am seeing’ or ‘I am hearing,’ to quicken the noting, we teach our disciples to note just as ‘seeing,’ ‘hearing,’ etc.

Q.022 • Trong Kinh Satipaṭṭhāna, chúng ta được dạy như thế nào?

• Trong Kinh Satipaṭṭhāna, chúng ta được dạy hãy quan sát các chuyển động của cơ thể như đi, đứng, ngồi vv..., và ghi nhận chúng như là ‘đi,’ ‘đứng,’ ‘ngồi’ vv... Cảm giác dễ chịu và khó chịu cũng phải được ghi nhận là ‘dễ chịu’ hoặc ‘khó chịu’. Đối tượng tâm hay các suy nghĩ cũng nên được ghi nhận là ‘yêu thích,’ ‘không yêu thích’ ‘tức giận,’ ‘không tức giận’ vv... Chúng ta cũng phải nhận biết các đối tượng thấy và tâm thấy là ‘thấy’ v.v... Khi bạn nghe một điều gì đó, bạn nên ghi nhận nó là ‘nghe’. Mặc dù nên được dạy đầy đủ là ‘Tôi đang nhìn’ hoặc ‘Tôi đang nghe,’ để tăng tốc độ ghi nhận, chúng ta dạy đệ tử của mình chỉ ghi nhận như là ‘thấy,’ ‘nghe,’ v.v...

Q.023 • If you fail to note clearly and do not know things as they really are when you see or hear something, what will happen to you?

• If you fail to note clearly and do not know things as they really are when you see or hear something, then lust or delight arises regarding the things seen or heard. Such defilements lead to moral or immoral deeds. Because of these deeds you may be reborn in states of suffering, or you may be reborn as a man or celestial being and suffer old age, disease and death, or other suffering. So one who fails to contemplate the arising mental and physical phenomena, fails to know them as they really are, and is far away from Nibbāna. This is explained in the Mālukyaputta Sutta.

- One who makes a habit of noting whatever he or she sees or hears, knows empirically that things come and go without remaining for a moment, and so understands that they are impermanent, unsatisfactory phenomena without an abiding self. Knowing them as they really are, he or she allows no opportunity for the arising of defilements such as lust or anger regarding the things seen or heard. The defilements are pacified, so one is free from both moral and immoral deeds. Thus, one is free from the suffering of rebirth in the lower realms and from the worlds of gods and men, where one must endure old age, sickness and death.

Q.023 • Nếu bạn không ghi nhận rõ ràng và không biết đối tượng như nó là vậy khi bạn thấy hoặc nghe, điều gì sẽ xảy ra với bạn?

• Nếu bạn không ghi nhận rõ ràng và không biết như nó là vậy khi thấy hoặc nghe, thì ham muốn hoặc sự vui thích nảy sinh liên quan đến những điều bạn nhìn hoặc nghe. Những phiền não này dẫn đến hành động đạo đức hoặc phi đạo đức. Bởi vì những hành động này, bạn có thể bị tái sinh trong khổ cảnh, hoặc bạn có thể được tái sinh thành người đàn ông hoặc một vị trời và chịu đựng tuổi già, bệnh tật và cái chết, hoặc những khổ đau khác. Vì vậy, người không quán tưởng về sự phát sinh của các hiện tượng tâm lývật lý, không biết chúng như chúng là vậy nên người ấy còn cách Nibbāna rất xa. Điều này được giải thích trong kinh Mālukyaputta.

- Người nào có thói quen ghi nhận bất cứ điều gì mình thấy hoặc nghe, biết qua kinh nghiệm rằng mọi thứ đến và đi mà không tồn tại trong một khoảnh khắc, và vì vậy hiểu rằng chúng là những hiện tượng vô thường, bất toại nguyệnvô ngã. Biết chúng như chúng là vậy, ta không để cho cơ hội nảy sinh những phiền não như ham muốn hoặc tức giận liên quan đến những điều thấy hoặc nghe. Những phiền não này được nằm yên, nên ta được thoát khỏi các hành động đạo đứcphi đạo đức. Như vậy, ta được thoát khỏi sự đau khổ của việc tái sinh trong các cõi thấp hèn và khỏi cõi trời và người, nơi mà ta phải chịu đựng già, bệnh và chết.

Q.024 • Who is close to Nibbāna - the end of suffering?

• When this insight meditation is fully developed, one realises Nibbāna through the path and fruition of Arahantship eradicates all suffering. Therefore one who contemplates all phenomena to understand them as they really are when seeing, hearing, etc., is close to Nibbāna, the end of suffering. This is also explained in the Mālukyaputta Sutta.

- Whatever enters through the six sense doors, must be noted and observed as ‘seeing,’ ‘hearing,’ etc.

Q.024 • Ai được tới gần Nibbāna hay sự kết thúc của đau khổ?

• Khi thiền quán này được phát triển đầy đủ, ta chứng ngộ Niết Bàn bằng Đạo và Quả của bậc A-la-hán và được thoát khỏi mọi đau khổ. Do đó, người nào quán tưởng tất cả các hiện tượng để hiểu chúng như chúng là vậy khi thấy, nghe, v.v., người ấy gần với Nibbāna, sự kết thúc của sự đau khổ. Điều này cũng được giải thích trong kinh Mālukyaputta.

- Bất kể điều gì đi vào qua sáu cửa giác quan, phải được ghi nhậnquan sát như ‘thấy’, ‘nghe’, v.v.

Q.025 • Why should one begin with only a few things that can be easily discerned. Thus, concentration can be developed and lead to insight knowledge?

• However, for the beginner, to be aware of everything is quite impossible, so one should begin with only a few things that can be easily discerned. Thus, concentration can be developed and lead to insight knowledge.

- Every time you breathe, your abdomen moves and its rising and falling movement is quite plain to contemplate. That is why we instruct our disciples to begin by noting the abdominal movements as ‘rising’ and ‘falling.’ This rising and falling movement is the element of motion, or the air element (vāyodhātu). The words ‘rising’ and ‘falling’ are not important. The point is to discern the phenomenon of movement.

Q.025 • Tại sao người ta chỉ nên bắt đầu với một số ít đối tượng để có thể nhận biết dễ dàng?

• Như vậy, tâm định có thể được phát triển và dẫn đến tuệ quán? Đối với người mới bắt đầu, nhận biết tất cả đề mục là điều không thể làm được, vì vậy người ta nên bắt đầu với chỉ một số ít đề mục để có thể nhận biết dễ dàng. Như vậy, tâm định có thể được phát triển và dẫn đến tuệ quán.

- Mỗi khi bạn thở, bụng bạn di chuyển và chuyển động lên xuống của nó rất rõ ràng để quán chiếu. Đó là lý do tại sao chúng tôi chỉ dạy thiền sinh bắt đầu bằng cách ghi nhận sự chuyển động của bụng như ‘phồng’ và ‘xẹp’. Chuyển động phồng xẹp này là yếu tố chuyển động, hoặc yếu tố gió (phong đại) (vāyodhātu). Những từ ‘phồng’ và ‘xẹp’ không quan trọng. Điểm quan trọng là nhận biết được hiện tượng chuyển động.

Q.026 • What is contemplation of the mind (cittānupassanā satipaṭṭhāna)?

• If, while noting the rising and falling of the abdomen, any thought or imagination occurs, note it as ‘imagining’ or ‘thinking.’ This is contemplation of the mind (cittānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.026 • Quán tâm (cittānupassanā satipaṭṭhāna) là gì?

• Nếu, trong khi ghi nhận phồng và xẹp của bụng, bất kỳ suy nghĩ hoặc tưởng tượng nào xuất hiện, hãy ghi nhận nó là ‘tưởng tượng’ hoặc ‘suy nghĩ’. Đây là sự quán tâm (cittānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.027 • What is contemplation of feelings (vedanānupassanā satipaṭṭhāna)?

• If a painful sensation should occur in the body, you must note it. This is contemplation of feelings (vedanānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.027 • Quán thọ là gì (vedanānupassanā satipaṭṭhāna)?

• Nếu một cảm giác đau đớn xuất hiện trên cơ thể, bạn phải ghi nhận nó. Đây là quán thọ (vedanānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.028 • What is contemplation of the body (kāyānupassanā satipaṭṭhāna)?

• If there is any bending or stretching of the limbs, you must note as ‘bending,’ ‘stretching.’ Whatever bodily movement there is, you must note it. This is contemplation of the body (kāyānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.028 • Quán thân (kāyānupassanā satipaṭṭhāna) là gì?

• Nếu có bất kỳ sự co hay duỗi nào của tay chân, bạn phải ghi nhận nó là ‘co,’ ‘duỗi.’ Bất kỳ chuyển động cơ thể nào có, bạn phải ghi nhận nó. Đây là quán thân (kāyānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.029 • What is contemplation of mental-objects (dhammānupassanā satipaṭṭhāna)?

• When you see, you must note as ‘seeing,’ ‘seeing.’ When you hear, you must note as ‘hearing,’ ‘hearing.’ This is contemplation of mental-objects (dhammānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.029 • Quán pháp (dhammānupassanā satipaṭṭhāna) là gì?

• Khi bạn thấy, bạn phải ghi nhận là ‘thấy, thấy.’ Khi bạn nghe, bạn phải ghi nhận là ‘nghe, nghe.’ Đây là quán pháp (dhammānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.030 • If you continue meditating on whatever occurs, what will happen to you?

• If you continue meditating on whatever occurs, your concentration will gradually become powerful. Then you will be able to distinguish clearly between the material phenomena, which are known, and the mental phenomena, which know. You will also come to know how each cause brings its corresponding effect, and how this causal process goes on. You will realise how each new phenomenon arises and passes away repeatedly. Then you plainly see for yourself that things come and go without remaining for a moment. So they are all impermanent. You will see that death can come at any moment, so all is suffering. You will see how they all occur in spite of your wish, so they are not self. While you are thus meditating, your insight gradually develops, and eventually the knowledge of the noble path and its fruition will arise. If you attain the first path of Streamwinning, you will be saved from the lower states of suffering for ever. You will be reborn only in noble and happy existences in the worlds of gods and men. Within seven of these happy existences you will attain the path and fruition of Arahantship and become a worthy one. After passing away as an Arahant, there will be no new births, which means eternal peace.

- By meditating on arising phenomena beginning with the movements of the abdomen, may you strive to develop insight and realise the impermanent, suffering and egolessness of mental and physical phenomena. May you very soon reach the noble path and attain Nibbāna.

Q.030 • Nếu bạn tiếp tục thiền trên bất cứ đề mục nào đang sanh khởi, thì điều gì sẽ xảy ra với bạn?

• Nếu bạn tiếp tục thiền trên bất cứ đề mục nào đang sanh khởi, tâm định của bạn sẽ dần dà trở nên mạnh mẽ. Sau đó, bạn sẽ có thể phân biệt rõ ràng giữa các hiện tượng vật chất được biết đến, và các hiện tượng tâm linh mà biết. Bạn cũng sẽ hiểu rõ luôn mỗi nguyên nhân mang đến cái quả tương ứng của nó và quá trình nhân quả này diễn ra như thế nào. Bạn sẽ nhận ra rằng mỗi hiện tượng đều sinh và diệt một các liên tục. Khi đó, bạn thấy rõ rằng mọi thứ đến và đi mà không tồn tại trong một khoảnh khắc nào. Vì vậy, chúng đều là vô thường. Bạn sẽ thấy rằng cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, vì vậy mọi thứ đều là khổ. Bạn sẽ thấy cách chúng xảy ra ngược với mong muốn của bạn, vì vậy chúng không phải là ngã (của ta). Khi bạn đang thiền định như vậy, sự quán chiếu của bạn dần phát triển, và cuối cùng, tuệ của Đạo và Quả sẽ nảy sinh. Nếu bạn đạt được đạo đầu tiên của bậc Nhập Lưu, bạn sẽ được giải thoát mãi mãi mọi đau khổ của cảnh giới thấp hèn. Bạn chỉ còn tái sinh trong các cảnh giới cao quý và hạnh phúc trong thế giới của các vị trời và người. Trong bảy kiếp ở nhàn cảnh đó, bạn sẽ đạt được Đạo và Quả A-la-hán và trở thành bậc Xứng Đáng. Sau khi qua đời như là một Arahant, bạn sẽ không còn tái sanh, có nghĩa là sự bình an vĩnh viễn.

- Bằng cách thiền trên những hiện tượng đang sanh khởi bắt đầu bằng sự chuyển động của bụng, mong bạn cố gắng phát triển tuệ minh sát và hiểu ra đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của hiện tượng tâm-vật lý. Chúc bạn sớm đạt được chánh đạogiác ngộ Nibbāna.


The Teachings of the Buddha

Q.031 • For what did The Buddha appear on Earth?

• The Buddha appeared on Earth for the welfare of all humans, devas (celestial beings or shining ones) and Brahmās (pure or chaste ones).

- It is very rare for a Buddha to appear on Earth. There are far more world cycles (kappas) in which Buddhas do not appear than those in which they do. Among the world cycles in which Buddhas appear, there are those in which only one Buddha appears and those in which two, three or four Buddhas appear.

Q.031 • Đức Phật hiện ra trên trái đất để làm gì?

Đức Phật hiện ra trên trái đất vì sự phúc lợi cho người, trời (chư thiên hoặc những người tỏa sáng) và Phạm thiên (những người thuần khiết hoặc trong sạch).

- Rất hiếm để có một Đức Phật hiện ra trên trái đất. Có nhiều chu kỳ thế giới (kappa) mà trong đó không có Đức Phật hiện ra hơn là những chu kỳ mà họ hiện ra. Trong số các chu kỳ thế giớiĐức Phật hiện ra, có những chu kỳ mà chỉ có một Đức Phật hiện ra và những chu kỳ mà hai, ba hoặc bốn Đức Phật hiện ra.

Q.032 • What is the present world cycle one in which a maximum of five Buddhas appears?

• Of these five Buddhas, the Buddha Metteyya will not appear until millions of years after the disappearance of the present (Gotama) Buddha’s teaching. The teachings of the former Buddhas also disappeared from the world long after their final release from the cycle of birth and death. The eras in which the Buddhas’ teachings lasted so long are rare. According to the Commentaries, the teaching of Gotama Buddha will last for only five thousand years before its disappearance from the world. It is now 2.567 years (in 2023) since the Buddha’s parinibbāna. Already the number of people in the world who respect and accept the true teaching of the Buddha has dwindled. The disappearance of this sāsana in another 2.500 years is already approaching.

Q.032 • Chu kỳ thế giới hiện tại là gì mà trong đó có đến năm Đức Phật xuất hiện?

• Trong số năm Đức Phật này, Đức Phật Metteyya sẽ không xuất hiện cho đến hàng triệu năm sau khi Đức Phật hiện tại (Gotama) mất đi. Những lời dạy của các vị Phật trước đó cũng biến mất khỏi thế giới sau một thời gian dài kể từ khi các Ngài được giải thoát khỏi vòng sinh tử. Những thời kỳ mà lời dạy của Đức Phật kéo dài trong thời gian dài rất là hiếm. Theo các chú giải, lời dạy của Đức Phật Gotama chỉ kéo dài trong vòng năm ngàn năm trước khi biến mất khỏi thế giới. Ngày nay đã là 2.567 năm (vào năm 2023) kể từ khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Số người trên thế giới tôn trọngchấp nhận lời dạy chân thật của Đức Phật đã giảm đi. Sự biến mất của sāsana này trong 2.500 năm nữa đã đến gần.

Q.033 • Gotama Buddha was born 2.647 years ago (in 2023). Before that, for many millions of years, did anybody have a chance to listen to the true teaching of the Buddha, to know it and to practise it?

• Gotama Buddha was born 2.647 years ago (in 2023). Before that, for many millions of years, nobody had a chance to listen to the true teaching of the Buddha, to know it and to practise it. People of those former times were generally lacking in wholesome kamma (meritorious deeds) and very few of them attained fortunate, noble and happy existences after death.

Q.033 • Đức Phật Gotama được sinh ra cách đây 2.647 năm (tính từ năm 2023). Trước đó, trong hàng triệu năm, liệu có ai đã có cơ hội nghe giảng chân pháp của Đức Phật, biết và hành theo nó không?

Đức Phật Gotama được sinh ra cách đây 2.647 năm (năm 2023). Trước đó, trong hàng triệu năm, không ai có cơ hội nghe giảng đúng pháp của Đức Phật, biết và hành theo nó. Con người ở thời điểm đó nói chung thiếu công đức thiện và rất ít người có được cuộc sống hạnh phúc, cao thượng và hạnh phúc sau khi qua đời.


Listening to and Practising the Dhamma
Nghe và Thực hành Pháp

Q.034 • How long did he teach the Dhamma in that region?

• With the appearance of the Buddha, the true Dhamma was taught. After listening to his teaching, many people practised charity (dāna) and morality (sīla), and so prospered and were reborn in the celestial realms. Millions also became Arahants and attained Nibbāna. Most of those people would have been from Nepal and India, because Prince Siddhattha was born in Nepal, and practised the Dhamma and attained Enlightenment in India. He taught the Dhamma in that region for forty-five years and the people there usually practised it, so they prospered and attained Nibbāna, gaining release from all suffering.

Q.034 • Trong khu vực đó, Ngài đã dạy Pháp trong bao lâu?

• Với sự xuất hiện của Đức Phật, chân Pháp đã được dạy. Sau khi nghe lời dạy của Ngài, nhiều người hành hạnh bố thí (dāna) và đạo đức (sīla), và vì vậy họ thịnh vượng và được sanh lại trong các cõi trời. Hàng triệu người cũng trở thành Arahant và chứng ngộ Nibbāna. Hầu hết những người đó có thể ở Nepal và Ấn Độ, vì Hoàng tử Siddhattha sinh ra ở Nepal và thực hành Phápgiác ngộẤn Độ. Ngài dạy Pháp trong khu vực đó trong bốn mươi lăm năm và người dân ở đó thực hành Pháp, vì vậy họ thịnh vượnggiác ngộ Nibbāna, giải thoát khỏi mọi khổ đau.


The Dhamma should also be practised now


Q.035 • What are those true teachings of the Buddha?

• Today, those who can listen to the true teaching of the Buddha should consider themselves very fortunate, so they should religiously follow and practise the Dhamma. The people now living in Nepal and India, where the true teaching originated, should be especially devoted to practising it.

- “Sabbā pāpassa ākaranaṃ, kusalassa upasampadā, sacitta pariyodāpanaṃ. Etaṃ Buddhāna sāsanaṃ.”

- “Abstain from all unwholesome deeds, cultivate wholesome deeds and purify your mind. This is the teaching of all the Buddhas.”

Q.035 • Những giáo lý đích thực của Đức Phật là gì?

• Ngày nay, những người nghe được lời dạy đích thực của Đức Phật phải tự xem là rất may mắn, và do đó họ nên tuân thủthực hành giáo Pháp một cách tín thác. Những người hiện đang sống ở Nepal và Ấn Độ, nơi giáo lý đích thực bắt nguồn, nên đặc biệt tận tụy trong việc thực hành nó.

- “Sabbā pāpassa ākaranaṃ, kusalassa upasampadā, sacitta pariyodāpanaṃ, etaṃ Buddhāna sāsanaṃ.”

- “Tránh bất thiện nghiệp, trau dồi thiện nghiệp và thanh lọc tâm. Đây là lời dạy của chư Phật.”

Q.036 • Three bodily unwholesome deeds should always be avoided, what are they?

• Bodily misdeeds means killing or harming living beings, unlawfully taking the property of others, and sexual misconduct. These three unwholesome deeds should always be avoided.

Q.036 • Ba bất thiện nghiệp liên quan đến thân nên luôn tránh, chúng là gì?

Bất thiện nghiệp của thân gồm giết hoặc làm hại chúng sanh, chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách bất hợp pháp, và tà dâm. Ba hành động không tốt này nên luôn tránh.

Q.037 • What four kinds of speech are unwholesome and should always be avoided?

• Verbal misdeeds means telling lies that harm others, creating discord by tale-bearing, using harsh or abusive language, and speaking untruths as if they were true (this concerns teaching false doctrines). These four kinds of speech are unwholesome and should always be avoided.

Q.037 • Có bốn loại bất thiện nghiệp liên quan đến lời nói và cần luôn tránh, đó là gì?

Bất thiện khẩu nghiệp bao gồm nói dối gây hại người khác, gây sự chia rẽ bằng nói lời đâm thọt, nói lời hằn học hoặc phỉ báng, và nói những điều không thật như chúng là thật (điều này liên quan đến việc giảng dạy các giáo lý sai lầm). Bốn loại lời nói này không tốt và cần luôn tránh.

Q.038 • What is a wrong livelihood, which should always be avoided?

• Acting or speaking to gain the property of others unlawfully is a wrong livelihood, which should always be avoided.

Q.038 • Tà nghiệp là gì, và cái nào nên luôn tránh?

• Hành động hoặc lời nói nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác trái phép là một tà nghiệp, nên luôn tránh.

Q.039 • Does careful observance of the five precepts amount to obeying the Buddha’s advice to abstain from all evil deeds and to live a good life?

• Careful observance of the five precepts amounts to obeying the Buddha’s advice to abstain from all evil deeds and to live a good life.

Q.039 • Có phải việc giữ gìn cẩn thận năm giới có nghĩa là tuân theo lời khuyên của Phật tránh mọi hành vi ác và sống một cuộc sống thiện lành?

• Việc giữ gìn cẩn thận năm giớituân theo lời khuyên của Phật tránh mọi hành vi ác và sống một cuộc sống thiện lành.

Q.040 • What are Wholesome Deeds (Kusala Kamma)?

• Briefly, wholesome deeds consist of charity, morality and mental development through concentration and insight. Of these, charity or almsgiving is appreciated by almost every Buddhist.

Q.040 • Những thiện nghiệp (Kusala Kamma) là gì?

Tóm lại, những thiện nghiệp bao gồm bố thí, trì giới và phái triển tâm linh bằng tâm địnhminh sát tuệ. Trong số đó, bố thí hoặc cúng dường được trân quý bởi hầu hết mọi Phật tử.

Q.041 • Who can earn the praise of others and enjoy freedom from blame?

• Those who practice charity as much as they can, earn the praise of others and enjoy freedom from blame. The recipients of their charity come to respect and like them, and therefore help them whenever they can. They will be reborn in fortunate and noble existences, and will prosper in all manner of ways.

Q.041 • Ai được khen ngợi bởi người khác và không bị trách móc?

• Những người bố thí nhiều trong khả năng của họ được khen ngợi bởi người khác và không bị trách móc. Những người nhận được sợ bố thí của họ sẽ kính trọng và yêu mến họ, và vì vậy sẽ giúp đỡ họ mỗi khi họ cần. Họ sẽ được tái sanh trong những cảnh giới tốt đẹp và cao thượng, và họ sẽ được thịnh vượng dưới mọi hình thức.

Q.042 • What does Morality mean?

• Morality means observing the rules of moral conduct such as the five or eight precepts together with taking refuge in the three gems of Buddhism: the Buddha, the Dhamma and the Saṅgha. Buddhists express their faith in and reliance on the three refuges and undertake to observe the precepts. Thus, they are protected from future rebirths in the lower worlds such as in hell, as animals, as hungry ghosts or as demons (asūra). Instead they are reborn in the fortunate human and celestial realms where they can continue to prosper.

Q.042 • Giới đứcý nghĩa gì?

Giới đức có nghĩa là tuân thủ các quy tắc đạo đức như năm giới hoặc tám giới cùng với việc quy y nơi tam bảo: Phật, Đạo và Tăng. Phật tử thể hiện lòng tinnương nhờ vào ba nơi ẩn náu và cam kết giữ giới. Do đó, họ được bảo vệ không bị tái sanh trong các thế giới thấp hèn như địa ngục, xúc sanh, ngạ quỷ hay a-tu-la (asūra). Thay vào đó, họ được sanh lại trong các giới người và trời, nơi họ tiếp tục thăng tiến.

Q.043 • How many kinds of Mental Development are there?

• Mental Development is of two kinds: tranquillity meditation (samatha) and insight meditation (vipassanā). There is also a third kind, which is known as ‘Ariya Magga Bhāvanā’ (mind training leading to the supramundane path). Tranquillity meditation includes ten kinds of concentration devices (kasiṇa), ten kinds of impurity (asubha), ten kinds of recollection (anussati) and ten others, making a total of forty. Among these types of meditation, Buddhānussati means contemplation and veneration of the Buddha’s virtues such as the virtue of Arahaṃ (worthiness of reverence by human beings, devas and Brahmās).

Q.043 • Có bao nhiêu loại Phát triển Tâm?

• Phát triển Tâm có hai loại: thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassanā). Cũng có một loại thứ ba được gọi là ‘Ariya Magga Bhāvanā’ (pháp luyện tâm dẫn đến con đường siêu thế). Thiền chỉ bao gồm mười loại công cụ tâm định (kasiṇa), mười loại bất tịnh (asubha), mười loại hồi tưởng (anussati) và mười loại khác, tổng cộng là bốn mươi. Trong số các loại thiền này, Buddhānussati có nghĩa là quán tưởngtôn kính đức Phật và những đức hạnh của Ngài, như đức hạnh Arahaṃ (đáng tôn kính bởi người, trời và Phạm thiên).

Q.044 • How should these meditations be practised?

• By contemplating that the Buddha was endowed with the loftiest virtues of morality, concentration and wisdom, revering him will bring rebirth in fortunate and noble existences hereafter. Another of the Buddha’s virtues, Sammāsambuddho, is his unaided realisation of the Four Noble Truths. This virtue also entitles the Buddha to special veneration. Because of his omniscience and compassion in teaching what he knew to all beings to liberate them from suffering, he was also endowed with the virtue of Buddho. This virtue should also be contemplated. Buddhānussati may also be practised by reflecting on his other virtues. Every time Buddhists respect and venerate the Buddha, they are practising Buddhānussati.

- The Buddha’s teachings are the fruit of his own practice and experience, which he faithfully transmitted to his disciples. If the Dhamma is religiously and rightly practised it can lead to extraordinary insights. Every time one reflects on the special virtues of the Buddha’s teaching and puts one ust in it, one is cultivating kusala kamma in the form of Dhammānussati.

- Respectfully contemplating the good and noble virtues well-practised by the disciples of the Buddha amounts to cultivating Saṅghānussati.

Q.044 • Luyện tập như thế nào với những pháp thiền này?

• Bằng cách quán tưởng rằng Đức Phật có những đức hạnh cao quý nhất về giới đức, tâm địnhtrí tuệ, tôn kính Ngài sẽ đưa đến sự tái sanh trong những kiếp tốt đẹp và cao thhượng sau này. Một đức hạnh khác của Đức Phật, Sammāsambuddho, là việc Ngài tự chứng ngộ Tứ Diệu Đế. Đức hạnh này khiến cho Đức Phật được tôn kính một cách đặc biệt. Bởi vì có chánh biến tritâm bi trong việc dạy bảo, Ngài biết cách giúp chúng sanh giải thoát họ khỏi đau khổ, Ngài cũng được ban tặng đức hạnh Buddho. Đức hạnh này cũng nên được suy ngẫm. Buddhānussati cũng có thể được luyện tập bằng cách quán tưởng về những đức hạnh khác của Ngài. Mỗi khi Phật tử tôn trọngtôn kính Đức Phật, họ đang luyện tập Buddhānussati, quán tưởng Phật.

- Những lời dạy của Đức Phật là kết quả của sự luyện tập và kinh nghiệm của Ngài, được Ngài truyền lại cho các đệ tử. Nếu các lời dạy (dhamma) được luyện tập một cách kiên trìđúng đắn, nó có thể dẫn đến những hiểu biết phi thường. Mỗi khi ta quán tưởng về những đức hạnh đặc biệt của lời dạy của Đức Phật và đặt lòng tin vào đó, ta đang trau dồi thiện nghiệp (kusala kamma) dưới hình thức Dhammānussati, quán tưởng Pháp.

- Quán tưởng với sự tôn trọng về những đức hạnh tốt và cao thượng, thực hành đúng đắn bởi các đệ tử của Đức Phật chính là đang trau dồi Saṅghānussati, quán tưởng Tăng.

Q.045 • What is Cultivation of Loving-Kindness?

• Just as one wants to be free from suffering and to dwell at ease, all others wish for the same. Practising mettā means to cultivate the sincere desire for the happiness of others, whether particular individuals or all living beings without discrimination.

- By practising Mettā Bhāvanā, Buddhānussati and so forth as much as one can, one will be following the Buddha’s advice to cultivate wholesome deeds (kusalassa upasampadā).

Q.045 • Phát triển tâm từ là gì?

• Giống như mình muốn được thoát khỏi đau khổ và sống an lành, tất cả mọi người khác cũng mong muốn điều tương tự. Luyện tập tâm từ - mettā có nghĩa là trau dồi lòng mong muốn chân thành cho hạnh phúc của người khác, dù đó là một cá nhân hay tất cả chúng sanh mà không phân biệt.

- Bằng cách luyện tập Mettā Bhāvanā, Buddhānussati v.v... càng nhiều càng tốt, ta sẽ tuân theo lời khuyên của Đức Phật để trau dồi những thiện nghiệp (kusalassa upasampadā).

Q.046 • What is The Wholesome Deed of Insight?

• This means to accumulate merit by meditating constantly on the impermanent, unsatisfactory and not-self nature of the mental and physical phenomena within oneself and in others. This kind of meditation is following the Buddha’s own practice, which was directed towards realisation of the true nature of the aggregates of attachment (upādānakkhandhā). When this merit matures, it leads to attainment of the noble path and Nibbāna.

- After the realisation of the four stages of the noble path, the Buddha urged his disciples to cultivate the four fruitions. How the mind is purified after the arising of the four phala cittas will be explained in another talk.

Q.046 • Thiện Nghiệp của Minh Sát là gì?

• Điều này có nghĩa là tích lũy công đức bằng cách hành thiền liên tục về tính vô thường, bất toại nguyệnvô ngã của các hiện tượng tâm lývật lý trong chính bản thân mình và trong người khác. Loại thiền này là tập theo pháp hành của Đức Phật, để hướng đến hiểu biết bản chất thật sự của ngũ uẩn thủ (upādānakkhandhā). Khi công đức này chín muồi, nó dẫn sự chứng đắc Đạo, Quả và Niết Bàn.

- Sau khi kinh nghiệm được bốn giai đoạn của chánh đạo, Đức Phật khuyến khích đệ tử của Ngài trau dồi bốn quả. Làm sao mà tâm được thanh lọc sau sự sanh kởi cuả bốn quả tâm sẽ được giải thích trong bài giảng khác.


Practising Insight Meditation


Q.047 • What is Vipassanā practice?

• Vipassanā is the practice of observing the arising and passing away of mental and physical phenomena so that we may know them as they really are. Every time that we see, hear, smell, taste, touch or know, these phenomena are constantly appearing and disappearing. It is important that we observe them and be aware of them constantly.

- However, at first it will not be possible to notice everything. We should, therefore, begin by noticing what we can. Every time we breathe, the abdomen rises and falls. This is the manifestation of the air element called vāyodhātu.

Q.047 • Hành thiền quán Vipassanā là gì?

• Vipassanā là việc quan sát sự sanh diệt của hiện tượng tâm vật lý để chúng ta có thể hiểu chúng như chú là vậy. Mỗi khi chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm vào hoặc biết được, tất cả những hiện tượng này liên tục xuất hiện và biến mất. Quan trọng là chúng ta quan sát và biết chúng một cách liên tục.

- Tuy nhiên, ban đầu có thể chúng ta không thể nhận thấy tất cả mọi thứ. Do đó, chúng ta nên bắt đầu bằng việc ghi nhận những gì chúng ta có thể nhận thấy. Mỗi khi thở, bụng phồng và xẹp. Đây là sự biểu hiện của yếu tố gió (phong đại) được gọi là vāyodhātu.

Q.048 • Should we begin by observing this process?

• We should begin by observing this process. Let us do this for three minutes, after sitting in a suitable position for meditation.

- As there is no need to look around, the eyes should be closed. Focus your mind on the abdomen. When the abdomen rises, note ‘rising.’ When it falls, note ‘falling.’ It is not necessary to say ‘rising’ and ‘falling’ verbally, just make a mental note while observing the process with awareness.

- If the mind wanders elsewhere, notice the wandering of the mind. Then return to noting the rising and falling of the abdomen.

Q.048 • Chúng ta có nên bắt đầu bằng việc quan sát quá trình này không?

Chúng ta nên bắt đầu bằng việc quan sát quá trình này. Hãy thực hiện việc này trong ba phút, sau khi ngồi ở nơi thích hợp để thiền.

- Vì không cần nhìn xung quanh, mắt nên nhắm lại. Chú tâm vào bụng. Khi bụng phồng lên, hãy niệm ‘phồng’. Khi nó xẹp, hãy niệm ‘xẹp’. Không cần phải nói ‘phồng’ và ‘xẹp’ bằng lời nói, chỉ cần ghi nhận trong tâm trong khi quan sát quá trình này với sự tỉnh thức.

- Nếu tâm phóng ra ngoài, hãy ghi nhận sự phóng tâm. Sau đó quay trở lại để ghi nhận sự phồng và xẹp của bụng.

Q.049 • If bodily fatigue or discomfort intervenes, how many times should you note?

• If bodily fatigue or discomfort intervenes, note it two or three times, then return to noting the rising and falling movements.

Q.049 • Nếu thân mệt mỏi hoặc không thoải mái, bạn nên ghi nhận bao nhiêu lần?

• Nếu cơ thể mệt mỏi hoặc không thoải mái, hãy ghi nhận nó hai hoặc ba lần, sau đó quay trở lại để ghi nhận sự phồng và xẹp.

Q.050 • If a sound is heard, how many times should you note?

• If a sound is heard, note it two or three times, then return to the rising and falling. Continue to note in this way for just three minutes.

Q.050 • Nếu bạn nghe thấy một tiếng động, bạn nên ghi nhận bao nhiêu lần?

• Nếu bạn nghe thấy một tiếng động, hãy ghi nhận nó hai hoặc ba lần, sau đó quay trở lại để ghi nhận sự phồng và xẹp. Tiếp tục ghi nhận theo cách này trong chỉ ba phút.

Q.051 • In three minutes are there less than a hundred and fifty such moments?

• Within a minute there are about fifty or sixty moments of noting, so in three minutes there are no less than a hundred and fity such moments. All of these acts of noting are cultivation of vipassanā kusala in accordance with the Buddha’s teaching. When our concentration deepens as we go on noting in this way, we will come to know mind and matter as distinct phenomena, and the causal relationship between them. We will realise that they arise and pass away constantly, which is their characteristic of impermanence. In the process we will develop progressive stages of insight, eventually realising Nibbāna with the knowledge of the path and its fruition. May you therefore practise this vipassanā meditation with as much vigour as you can and quickly attain Nibbāna.

Q.051 • Trong ba phút có ít hơn một trăm năm mươi khoảnh khắc như vậy không?

• Trong một phút có khoảng 50 hoặc 60 khoảnh khắc để ghi nhận; vì vậy trong ba phút sẽ không ít hơn 150 khoảnh khắc như vậy. Tất cả sự ghi nhận này là việc phát triển thiện nghiệp Minh sát (kusala vipassanā) theo như giảng dạy của Đức Phật. Khi tâm định của chúng ta sâu sắc hơn vi chúng ta tiếp tục ghi nhận theo cách này, chúng ta sẽ hiểu được thân và tâm là những hiện tượng riêng biệt và mối tương quan nhân quả giữa chúng. Chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng liên tục sanh và diệt, và đó là đặc tính vô thường của chúng. Trong quá trình này, chúng ta sẽ phát triển các giai đoạn tiến triển của tuệ minh sát, và cuối cùng chứng ngộ Niết Bàn với hiểu biết về Đạo và Quả. Chúc bạn hãy hành thiền vipassanā này với nhiều năng lực có thể và nhanh chóng chứng ngộ Niết Bàn.


Mindfulness – The Only Way
Chánh NiệmCon Đường Độc Nhất


Q.052 • How many kinds of benefits of mindfulness can you get?

• The Buddha taught us in the Satipaṭṭhāna Sutta:

- “Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo, sattānaṃ visuddhiyā, sokaparidevānaṃ samatikkamāya, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya, Nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā.”

- “This is the only way, monks, leading to the purification of beings, to the transcendence of grief and lamentation, to the cessation of pain and sorrow, to the attainment of the right method, and to the realisation of Nibbāna; namely, the four foundations of mindfulness.”

Q.052 • Bạn có được bao nhiêu loại lợi ích từ chánh niệm?

Đức Phật đã dạy chúng ta trong Kinh Satipaṭṭhāna:

- “Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo, sattānaṃ visuddhiyā, sokaparidevānaṃ samatikkamāya, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya, Nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā.”

- “Này các tỳ kheo, đây là con đường duy nhất, dẫn đến sự thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, đạt được phương pháp đúng đắnchứng ngộ Niết Bàn; đó là bốn nền tảng của chánh niệm.”

Q.053 • Why do living beings do such evil things as killing, causing injury, stealing, robbery, and lying?

• Because they have defilements (kilesa) like greed and hatred, living beings do such evil things as killing, causing injury, stealing, robbery, and lying. As a result of these evils they suffer in the four lower worlds (apāya). Even if, as a result of some good deed, they are born in the human realm, they suffer such miseries as early death, illness and poverty. These defilements cause them to be reborn repeatedly and thus to undergo suffering like old age, disease and death. If one wishes to be free from this suffering, one must strive to purify oneself of these defilements.

Q.053 • Tại sao chúng sanh lại làm những hành vi độc ác như giết người, gây tổn thương, trộm cắp, cướp đoạt và nói dối?

• Bởi vì họ có những các phiền não (kilesa) như tham lamsân hận, chúng sanh làm những hành vi ác độc như giết người, gây tổn thương, trộm cắp, cướp đoạt và nói dối. Kết quả của những điều ác này là họ phải chịu khổ ở bốn cõi thấp hèn (apāya). Ngay cả khi, nhờ một thiện nghiệp nào đó, họ được sinh ra làm người, họ vẫn phải chịu nhiều đau khổ như chết sớm, bệnh tật và nghèo đói. Những phiền não này khiến họ luân hồi và trải nghiệm những đau khổ như già, bệnh và chết. Nếu ai muốn thoát khỏi sự đau khổ này, họ phải cố gắng làm sạch khỏi bản thân những phiền não đó.

Q.054 • What is only one way to remove these defilements?

• There is only one way to remove these defilements – the way of mindfulness (Satipaṭṭhāna), by which one contemplates what is going on in one’s own mind and body. If one wishes to get rid of the defilements like greed and hatred, one has to follow this only way of Satipaṭṭhāna. “Ekāyana” means “The Only Way” – there is no other way, no alternative. If you walk straight on along the only road, you will not go astray, as there is no junction, you are sure to reach your destination. Similarly, since Satipaṭṭhāna is the only way, if you continue training yourself in mindfulness, you will ultimately attain Arahantship, the noble state of complete purity from all defilements. That is why the Buddha taught us to follow this way of mindfulness.

Q.054 • Chỉ có một cách duy nhất để loại bỏ những phiền não này là gì?

• Chỉ có một cách duy nhất để loại bỏ những phiền não này – đó là con đường của chánh niệm (Satipaṭṭhāna), bằng cách quan sát những điều đang diễn ra trong tâm và thân của mình. Nếu ai muốn loại bỏ những phiền não như tham lam và thù hận, họ phải tuân theo con đường duy nhất này của chánh niệm. “Ekāyana” có nghĩa là “Con Đường Duy Nhất” – không có con đường khác, không có lựa chọn khác. Nếu bạn đi thẳng trên con đường duy nhất, bạn sẽ không lạc đường, vì không có ngã tư, bạn chắc chắn sẽ đến được đích. Tương tự như vậy, vì Satipaṭṭhāna là con đường duy nhất, nếu bạn tiếp tục huấn luyện mình với chánh niệm, cuối cùng bạn sẽ đạt được quả vị A-la-hán, trạng thái cao thượng hoàn toàn rửa sạch mọi phiền não. Đó là lý do tại sao Đức Phật đã dạy chúng ta đi theo con đường của chánh niệm này.

Q.055 • How can they eradicate all suffering, In this case, what are examples?

• Only by training themselves in this Satipaṭṭhāna method can they eradicate all suffering. During the Buddha’s time there was a young woman called Patācārā, who lost her husband, her two sons, her parents and her brother – all those near and dear to her. She was so overwhelmed with grief that she was driven to madness. One day she came to the Blessed One, heard the Dhamma, took up Satipaṭṭhāna meditation and dispelled all her grief and lamentation, gaining peace of mind forever.

- Today too, many people have lost sons, daughters, husbands, wives and parents. They were so stricken with grief that they could not eat or sleep. They came to me, and after taking up Satipaṭṭhāna meditation under my guidance, were relieved of their sorrows in a manner of four, five or ten days. The number of such people is now more than a thousand.

- The practice of Satipaṭṭhāna will lead one to the cessation of grief and lamentation, not only in this existence, but in all existences to come as well.

Q.055 • Làm sao họ có thể diệt trừ được mọi khổ đau?

• Trong trường hợp này, có những ví dụ nào? Chỉ bằng việc hành phương pháp Satipaṭṭhāna này, họ mới có thể diệt trừ mọi đau khổ. Vào thời Đức Phật, có một người phụ nữ trẻ tên Patācārā, người đã mất chồng, hai người con trai, bố mẹ và anh trai - những người thân yêu gần gũi nhất của cô. Cô ấy bị đè nến bởi nỗi đau buồn quá mức nên trở thành điên rồ. Một ngày, cô đến gặp Đức Phật, nghe pháp, bắt đầu hành thiền Satipaṭṭhāna và xua tan hết nỗi sầu muộn, có được sự an bình trong nội tâm.

- Ngày nay, nhiều người đã mất con trai, con gái, chồng, vợ và cha mẹ. Họ bị áp chế bởi sự đau buồn đến độ không ăn ngủ được. Họ đến gặp tôi và sau khi hành thiền Satipaṭṭhāna dưới sự hướng dẫn của tôi, họ giải thoát khỏi nỗi đau buồn của mình trong vòng bốn, năm hoặc mười ngày. Số người như vậy hiện nay cũng đã lên hơn một ngàn.

- Việc hành Satipaṭṭhāna sẽ đưa ta đến sự chấm dứt đau buồn và than khóc, không những chỉ trong kiếp này, mà còn trong tất cả các kiếp tương lai.

Q.056 • If you want to eradicate suffering, what should you do?

• The practice of Satipaṭṭhāna will lead one to the cessation of grief and lamentation, not only in this existence, but in all existences to come as well. So If you want to eradicate suffering, you must take up the practice of Satipaṭṭhāna meditation.

Q.056 • Nếu bạn muốn tiêu diệt nỗi đau khổ, bạn nên làm gì?

• Sự tu luyện của Satipaṭṭhāna sẽ dẫn đến sự chấm dứt của khổ ưu, không chỉ trong kiếp này, mà còn trong tất cả các kiếp tương lai. Vì vậy, nếu bạn muốn tiêu diệt nỗi khổ ưu, bạn phải bắt đầu hành thiền Satipaṭṭhāna.

Q.057 • What is the practice of Satipaṭṭhāna?

• The practice of Satipaṭṭhāna has four aspects:

  1. Mindfulness of the body (kāyānupassanā satipaṭṭhāna).

  2. Mindfulness of feelings (vedanānupassanā satipaṭṭhāna).

  3. Mindfulness of thoughts (cittānupassanā satipaṭṭhāna).

  4. Mindfulness of mind-objects (dhammānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.057 • Thực hành Satipaṭṭhāna là gì?

Thực hành Satipaṭṭhāna bao gồm bốn khía cạnh:

  1. Niệm thân (kāyānupassanā satipaṭṭhāna).

  2. Niệm thọ (vedanānupassanā satipaṭṭhāna).

  3. Niệm tâm (cittānupassanā satipaṭṭhāna).

  4. Niệm pháp (dhammānupassanā satipaṭṭhāna).

Mindfulness of the Body


Q.058 • How many ways of contemplating the body are there?

• There are fourteen ways of contemplating the body.

Q.058 • Có bao nhiêu cách để niệm thân?

• Có mười bốn cách để niệm thân.

Q.059 • What is the first way?

• Ānāpāna’ means the inhaled and exhaled breath. Every time air is breathed in and out through the nostrils, one makes a note of the in-breathing and out-breathing. By so doing, jhānic concentration can be developed, and from this jhana one can develop insight into the impermanent nature of mental and physical phenomena. This is how it is explained in the commentaries.

Q.059 • Cách thứ nhất là gì?

Phương pháp đầu tiên là “Ānāpāna”, có nghĩa là hơi thở vào và thở ra. Mỗi khi hơi thở đi vào và đi ra qua mũi, ta ghi nhận về sự hít vàothở ra. Bằng cách này, ta có thể phát triển tâm định jhāna và từ đó, ta có thể phát triển tuệ minh sát về đặc tính vô thường của các hiện tượng thân tâm. Đây là cách được giải thích trong các chú giải.

Q.060 • What is the second way?

• The second way is contemplation of the four postures: standing, sitting, walking and lying down.

Q.060 • Cách thứ hai là gì?

Phương pháp thứ hai là quan sát bốn oai nghi: đứng, ngồi, đi và nằm.

Q.061 • What is the third way?

• The third way is the four modes of clear comprehension (sampajañña).

Q.061 • Cách thứ ba là gì?

Phương pháp thứ ba là bốn cách hiểu rõ ràng (sampajañña).

Q.062 • What is the fourth way?

• The fourth way is to contemplate the thirty-two parts of the body: hairs of the head, hairs of the body, nails, teeth, skin, and so on. When jhānic concentration is developed, it can be used to cultivate insight.

Q.062 • Cách thứ tư là gì?

Phương pháp thứ tư là quán tưởng về 32 phần của cơ thể: tóc trên đầu, tóc trên cơ thể, móng tay, răng, da v.v… Khi tâm định jhāna được phát triển, nó có thể được sử dụng để phát triển tuệ minh sát (insight).

Q.063 • What is the fifth way?

• The fifth way is developing insight by contemplating the four elements.

Q.063 • Cách thứ năm là gì?

Phương pháp thứ năm là phát triển tuệ minh sát bằng cách quán bốn yếu tố hay tứ đại.

Q.064 • What are the nine remaining contemplations?

• The nine remaining contemplations are comparing one’s own body with a dead body to arouse loathsomeness.

Q.064 • Còn chín cách quán tưởng còn lại là gì?

• Chín phương pháp quán tưởng còn lại là so sánh cơ thể của mình với một tử thi để đánh thức sự nhàm chán.

Q.065 • Where must you concentrate on when you walk?

• When you walk, you must concentrate on the bodily movements involved in walking and note ‘walking, walking.’ You must note every part of the step from lifting the foot to pulling it down. When walking fast you must note ‘right step,’ ‘left step.’ When walking slowly you must note ‘lifting,’ ‘pushing forward,’ ‘dropping.’

Q.065 • Khi đang đi, bạn phải chú tâm vào đâu?

• Khi bạn đi, bạn phải chú tâm vào những chuyển động cơ thể liên quan đến sự đi và ghi nhận ‘đi, đi’. Bạn phải ghi nhận từng phần của bước đi, từ việc nhấc chân lên đến việc đặt chân xuống. Khi đi nhanh, bạn phải ghi nhận ‘phải bước’, ‘trái bước’. Khi đi chậm, bạn phải ghi nhận ‘nhấc chân lên’, ‘đẩy về phía trước’, ‘đặt chân xuống’.

Q.066 • Where must you concentrate on when you stop walking and stand still?

• When you stop walking and stand still, you concentrate on the erect body and note as ‘standing, standing’.

Q.066 • Khi bạn dừng đi và đứng lại, bạn phải chú tâm vào đâu?

• Khi bạn dừng đi và đứng yên, bạn phải chú tâm vào thâm mình đang thẳng đứng và ghi nhận là ‘đứng, đứng’.

Q.067 • Where must you concentrate on when you sit down?

• When you sit down, you concentrate on the manner of sitting down and note ‘sitting down.’ When you have sat down, you arrange the positions of your limbs. Note every movement.

Q.067 • Khi bạn ngồi xuống, bạn phải chú tâm vào đâu?

• Khi bạn ngồi xuống, bạn phải chú tâm vào cách ngồi xuống và ghi nhận là ‘ngồi xuống’. Khi bạn đã ngồi xuống, bạn sắp xếp lại vị trí tay chân của mình. Bạn phải ghi nhận từng chuyển động một.

Q.068 • If there is no movement and you are just sitting still, where must you concentrate on?

• If there is no movement and you are just sitting still, concentrate on the erect position of the body and note as ‘sitting, sitting.

Q.068 • Nếu không chuyển động và bạn chỉ đang ngồi yên thì bạn phải chú tâm vào đâu?

Nếu không có chuyển động và bạn chỉ đang ngồi yên, hãy chú tâm vào tư thế thẳng đứng của cơ thể và ghi nhận là ‘ngồi, ngồi’.

Q.069 • Our effort may soon slacken if you note only one object like ‘sitting.’ In that case what should you do?

• Your effort may soon slacken if you note only one object like ‘sitting.’ In that case you can combine it with some other object such as touching and note as ‘sitting, touching.’

Q.069 • Nếu chỉ ghi nhận một đối tượng duy nhất như ‘ngồi’, sự tinh tấn của bạn có thể sớm bị giảm đi. Trong trường hợp đó bạn phải làm gì?

• Nếu chỉ ghi nhận một đối tượng duy nhất như ‘ngồi’, sự tinh tấn của bạn có thể sớm bị giảm đi. Trong trường hợp đó, bạn có thể kết hợp nó với một đối tượng khác như đụng vào và ghi nhận là ‘ngồi, đụng’.

Q.070 • Where must you concentrate on when you note as ‘rising,’ ‘falling?

• You must concentrate on this movement and note as ‘rising,’ ‘falling.

Q.070 • Bạn phải chú tâm vào đâu khi bạn ghi nhận ‘phồng’, ‘xẹp’?

• Bạn phải chú tâm vào sự chuyển động này và ghi nhận là ‘phồng’, ‘xẹp’.

Q.071 • Why is it important to note whatever bodily movement there is?

• Enlightenment can be very quick indeed! So it is important to note whatever bodily movement there is.

Q.071 • Tại sao việc ghi nhận mọi chuyển động cơ thể là quan trọng?

Giác ngộ thật sự có thể xảy ra rất nhanh chóng! Do đó việc ghi nhận mọi chuyển động cơ thể thật là quan trọng.

Q.072 • How do you distinguish between mind and matter, when you note ‘walking,’ ‘rising’?

• When you note ‘walking,’ the walking is matter, a non-sentient thing. The noting is mind, which is sentient. So you distinguish between mind and matter. When you note the abdomen as ‘rising’ the rising is matter, and the noting is mind. So you distinguish between mind and matter.

Q.072 • Làm sao bạn phân biệt thân và tâm khi bạn ghi nhận ‘đi’, ‘phồng’?

• Khi bạn ghi nhận ‘đi’, thì việc đi là vật chất, một thứ không có ý thức. Việc ghi nhận là tâm, có ý thức. Vì vậy, bạn phân biệt giữa tâm và vật chất. Khi bạn ghi nhận ở bụng ‘phồng’, cái phồng là vật chất và sự ghi nhận là tâm. Vì vậy, bạn phân biệt giữa tâm và vật chất.

Q.073 • When will you realise Nibbāna and attain the noble path and fruition?

• Once your knowledge of these three characteristics is perfected, you will realise Nibbāna and attain the noble path and fruition, you will become an Arahant. Then you will be free from all suffering after your final passing away (parinibbāna). At least you will attain the path and fruition of a Stream-winner. Then you will never be reborn in the lower realms of existence again. So we must strive until we attain at least the stage of a Stream-winner.

Q.073 • Khi nào bạn sẽ chứng ngộ Niết Bànđạt được Đạo và Quả cao thượng?

• Khi sự hiểu biết của bạn về ba đặc điểm này được hoàn thiện, bạn sẽ chứng ngộ Nibbāna và đạt được Đạo và Quả cao thượng, bạn sẽ trở thành một vị Arahant. Sau đó, bạn sẽ được giải thoát khỏi mọi sự đau khổ sau khi qua đời lần cuối cùng (parinibbāna). Ít nhất, bạn sẽ đạt được đaọ và quả của một vị Nhập Lưu. Sau đó, bạn sẽ không bao giờ phải tái sinh vào các cõi thấp hèn nữa. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng cho đến khi ta đạt được ít nhất giai đoạn của một vị Nhập Lưu.

Q.074 • What are The Four Modes of Clear Comprehension? [*]

• Now we come to cultivating the four modes of clear comprehension:

  1. Sātthaka sampajañña: clear comprehension of benefit.

  2. Sappāya sampajañña: clear comprehension of suitability.

  3. Gocara sampajañña: clear comprehension of domain.

  4. Asammoha sampajañña: clear comprehension of non-delusion.

Q.074 • Có Bốn cách Hiểu Biết Rõ Ràng là gì?

• Bây giờ chúng ta bàn đến việc trau dồi bốn cách hiểu biết rõ ràng:

  1. Sātthaka sampajañña: Hiểu biết rõ ràng về sự lợi ích của hành động.

  2. Sappāya sampajañña: Hiểu biết rõ ràng về sự thích nghi của hành động.

  3. Gocara sampajañña: Hiểu biết rõ ràng về phạm vi và đối tượng của hành động.

  4. Asammoha sampajañña: Hiểu biết rõ ràng không bị mê muội, không bị mơ hồ, với sự tỉnh táotâm định đầy đủ.

[*] Spk comments at length on the practice of clear comprehension. For a translation see Soma, The Way of Mindfulness, pp. 83-132, and Bodhi, Discourse on the Fruits of Recluseship, pp. 96- 134. Briefly, the four are: (1) clear comprehension of purpose-fulness (sātthaka-sampajañña), discerning a worthy purpose in one’s intended action; (2) clear comprehension of suitability (sappāya-sampajañña), discerning a suitable means of achieving one’s aim; (3) clear comprehension of the resort (gocara-sampajañña), maintaining awareness of one’s meditation subject when engaged in various activities; and (4) clear comprehension as nondelusion (asammoha-sampajañña), discerning one’s actions as conditioned processes devoid of a substantial self. For a good contemporary explanation, see Nyanaponika, The Heart of Buddhist Meditation, pp. 46-57.

Q.075 • What kind of consideration is called ‘sātthaka sampajañña?

• When you are about to do or say something, you should consider whether it will be useful or not, and then you should do or say only what is useful. This kind of consideration is called ‘sātthaka sampajañña’.

Q.075 • Loại suy nghĩ nào được gọi là ‘sātthaka sampajañña’?

• Khi bạn chuẩn bị làm hoặc nói điều gì, bạn nên xem xét liệu điều đó có hữu ích hay không, sau đó bạn chỉ nên làm hoặc nói những điều có ích. Loại suy nghĩ như vậy được gọi là ‘sātthaka sampajañña’.

Q.076 • What kind of consideration is called ‘sappāya sampajañña? 

• Even if it is useful, you should also consider whether it is suitable or not, and then you should do or say only what is suitable. This is called ‘sappāya sampajañña.’ These two modes of clear comprehension are beneficial in worldly matters as well. When meditating, you may consider whether you should do walking or sitting, then do whichever is more suitable. However, when you are contemplating in earnest, you do not need to make these considerations, but just go on with your noting.

Q.076 • Xem xét như thế nào được gọi là ‘sappāya sampajañña’?

• Ngay cả khi điều đó có ích, bạn cũng nên xem xét liệu nó thích hợp hay không, và sau đó bạn chỉ nên làm hoặc nói những điều thích hợp. Điều này được gọi là ‘sappāya sampajañña’. Hai loại suy nghĩ rõ ràng này cũng có lợi trong các vấn đề thế tục. Khi thiền, bạn có thể xem xét liệu nên đi hay ngồi, sau đó hãy làm những gì thích hợp hơn. Tuy nhiên, khi bạn thiền một cách nghiêm túc, bạn không cần phải suy nghĩ như vậy, mà chỉ cần tiếp tục với việc ghi nhận.

Q.077 • What is the third comprehension, gocara sampajañña, for the meditator?

• The third comprehension, gocara sampajañña, for the meditator, is just noting the physical and mental phenomena without any let-up.

Q.077 • Sự tỉnh thức thứ ba, gocara sampajañña, cho người thiền là gì?

• Sự nhận thức thứ ba, gocara sampajañña, cho người thiền, chỉ là ghi nhận ghi nhận các hiện tượng vật lýtâm lý mà không có bất kỳ gián đoạn nào.

Q.078 • What is is asammoha sampajañña?

• As you go on meditating with gocara sampajañña, your concentration becomes strong and see for yourself the incessant arising and passing away of things. You very clearly understand how these phenomena are impermanent, unsatisfactory and not-self. This understanding is asammoha sampajañña, which means comprehension without delusion.

Q.078 • Asammoha sampajañña có ý nghĩa là gì?

• Khi bạn tiếp tục thiền với gocara sampajañña, tâm định của bạn trở nên mạnh mẽ và bạn tự thấy sự danh diệt liên tục của các hiện tượng. Bạn hiểu rõ ràng là những hiện tượng này là vô thường, bất toại nguyệnvô ngã. Sự hiểu biết này được gọi là asammoha sampajañña, có nghĩa là sự tỉnh giác không bị mê hoặc.

Q.079 • What is gocara sampajañña in going or coming?

• This practice of clear comprehension is explained in the text as, “Abhikkante paṭikkante sampajānakāri hoti” which means, “Both in advancing and returning he practises clear comprehension”. This reminds us to note and know every step taken in going or coming, Thus noting the meditation objects relentlessly is gocara sampajañña.

Q.079 • Gocara sampajañña có nghĩa là gì khi đi tới hoặc đi lui?

Thực hành của sự tỉnh giác này được giải thích trong văn bản như sau: “Abhikkante paṭikkante sampajānakāri hoti” có nghĩa là “Cả khi đi tới và đi lui, người ấy thực hành sự tỉnh giác”. Điều này nhắc nhở chúng ta hãy ghi nhận và biết mỗi bước đi trong lúc đi tới hoặc đi lui. Do đó, việc ghi nhận không ngừng nghỉ các đối tượng thiền là gocara sampajañña.

Q.080 • What is asammoha sampajañña in walking?

• As you go on noting, your concentration becomes very strong and you come to distinguish between mind and matter. You know the walking as matter and the noting of it as mind. You may not know the Pāḷi words ‘nāma’ and ‘rūpa’, but if you know the difference between what is cognised and what cognises, then that is enough. Again, you understand that the intention to walk gives rise to walking, and that walking gives rise to the noting of the walking. So you distinguish between cause and effect. The intention to walk, the walking and the noting of it all pass away immediately, so you understand very clearly that they are all impermanent. This is comprehension of things as they really are, or asammoha sampajañña.

Q.080 • Asammoha sampajañña có nghĩa là gì khi đi?

• Khi bạn tiếp tục ghi nhận, tâm định của bạn trở nên rất mạnh mẽ và bạn bắt đầu phân biệt được giữa tâm và vật chất. Bạn nhận ra việc đi là vật chất và việc ghi nhận là tâm. Bạn có thể không biết các từ Pāḷi như ‘nāma’ hay ‘rūpa’, nhưng nếu bạn hiểu được sự khác biệt giữa cái được biết và cái biết, và chừng đó là đủ rồi. Một lần nữa, bạn hiểu rằng ý muốn đi dẫn đến việc đi và việc đi dẫn đến việc ghi nhận cái đi. Vì vậy, bạn phân biệt được nguyên nhân và kết quả. Ý muốn đi, việc đi và việc ghi nhận đều biến mất ngay lập tức, vì vậy bạn hiểu rõ rằng chúng đều tạm thời. Đây là sự hiểu biết về các vấn đề theo thực tế, hay còn gọi là asammoha sampajañña.

Q.081 • What is gocara sampajañña and asammoha sampajañña in ‘looking’, ‘seeing?

• Then it says in the text, “Alokite vilokite sampajānakāri hoti.” This means, “In looking forward or looking aside, he practises clear comprehendsion.” Whenever you look and see you must note, ‘looking,’ ‘seeing,’ which is gocara sampajañña.

- This understanding of their true characteristics is asammoha sampajañña.

- As you continue to note, you realise how all the phenomena of looking, seeing and noting pass away instantly. These acts of noting clearly are gocara sampajañña and understanding impermanence and so forth is asammoha sampajañña.

Q.081 • Gocara sampajañña và asammoha sampajañña trong lúc ‘nhìn’, ‘thấy’ là gì?

Tiếp theo, trong kinh, có nói, “Alokite vilokite sampajānakāri hoti.” Điều này có nghĩa là “Trong khi nhìn về phía trước hoặc nhìn sang một bên, hành gỉa hiểu rõ ràng.” Khi bạn nhìn và thấy, bạn phải ghi nhận, ‘nhìn,’ ‘thấy,’ đó là gocara sampajañña.

- Sự hiểu biết về đặc tính của chúng là asammoha sampajañña.

- Khi bạn tiếp tục ghi nhận, bạn hiểu làm sao tất cả các hiện tượng nhìn, thấy và ghi nhận biến mất ngay lập tức. Cách ghi nhận rõ ràng như vậy là gocara sampajañña và sự hiểu biết về đặc tính vô thường v.v... là asammoha sampajañña.

Q.082 • What is Mindfulness of The Four Elements?

• As you go on meditating in the way we have explained, you may come across what feels hard and rigid. Then you know the earth element (paṭhavīdhātu). When heat, warmth or cold is manifest, you know the fire element (tejodhātu). When tension, stiffness, pushing or motion is manifest, you know the air element (vāyodhātu). When liquidity, fluidity or wetness is manifest, you know the water element (āpodhātu). You clearly perceive that there are only these four elements in this physical body and that there is no self or soul. Again, since these four elements arise and pass away very rapidly you understand how they are impermanent, unsatisfactory and not-self. When you know these things as they really are, and when your knowledge has matured, you can realise Nibbāna by the noble path. You can then become a Stream-winner and so on.

Q.082 • Chánh niệm về Bốn Yếu Tố (hay tứ đại) là gì?

• Khi bạn tiếp tục thiền như cách đã giải thích, bạn có thể kinh nghiệm những cảm giác cứng và chắc. Lúc đó, bạn đang kinh nghiệm yếu tố đất (paṭhavīdhātu). Khi cảm nhận được sự nóng, ấm hoặc lạnh, bạn đang kinh nghiệm yếu tố lửa (tejodhātu). Khi cảm nhận được sự căng, cứng, đẩy hoặc chuyển động, bạn đang kinh nghiệm yếu tố gió (phong đại) (vāyodhātu). Khi cảm nhận được sự lỏng lẻo, lưu động hoặc ẩm ướt, bạn đang kinh nghiệm yếu tố nước (āpodhātu). Bạn rõ ràng biết rằng chỉ có bốn yếu tố này trong cái thân này và không có một cái ngã hay linh hồn nào cả. Một lần nữa, vì bốn yếu tố này sanh diệt rất nhanh, bạn hiểu rõ là chúng là vô thường, bất toại nguyệnvô ngã. Khi bạn nhận thức các hiện tượng này như chúng là vậy và khi trí tuệ của bạn đã trưởng thành, bạn có thể chứng đắc Niết Bàn bằng thánh đạo. Bạn có thể trở thành một vị Nhập Lưu v.v...

Q.083 • What is Mindfulness of Feelings?

• Regarding the contemplation of feelings, the Buddha said, “Sukhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno, ‘Sukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti, dukkhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno, ‘Dukkhaṃ vedanaṃ vedayāmī’ ti pajānāti, adukkhamasukhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno ‘Adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti.”

- This means, “When feeling a pleasant feeling one knows, ‘I feel a pleasant feeling,’ when feeling a painful feeling one knows, ‘I feel a painful feeling,’ when feeling a neutral feeling one knows, ‘I feel a neutral feeling.’”

- If sensations of tiredness or pain occur in the body while noting the rising and falling of the abdomen, you should concentrate on them and note as ‘tired’ or ‘painful.’ If the feelings disappear as you note, you can return to noting the rising and falling.

Q.083 • Niệm thọ là gì?

• Về niệm thọ, Đức Phật nói: “Sukhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno, ‘Sukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti, dukkhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno, ‘Dukkhaṃ vedanaṃ vedayāmī’ ti pajānāti, adukkhamasukhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno ‘Adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedayāmī’ti pajānāti.”

- Điều này có nghĩa là, “Khi trải nghiệm một cảm giác dễ chịu, người biết, ‘Tôi trải nghiệm một cảm giác dễ chịu,’ khi trải nghiệm một cảm giác đau đớn, người biết, ‘Tôi trải nghiệm một cảm giác đau đớn,’ khi trải nghiệm một cảm giác trung lập, người biết, ‘Tôi trải nghiệm một cảm giác trung lập’.”

- Nếu có cảm giác mệt mỏi hoặc đau đớn nổi lên trong cơ thể trong khi đang ghi nhận phồng xẹp của bụng, bạn nên chú tâm vào chúng và ghi nhận ‘mệt mỏi, mệt mỏi’ hoặc ‘đau đớn, đau đớn’. Nếu các cảm giác này biến mất khi bạn ghi nhận, bạn có thể quay trở lại việc ghi nhận phồng và xẹp.

Q.084 • If the unpleasant sensations increase, what should you try?

• If the unpleasant sensations increase, you should try to bear them as much as you can. When you have to note sharp pains, it is good to remember the Burmese saying, “Patience leads to Nibbāna.” If you can bear the pain and go on noting it, the pain often disappears. If so, go on noting the rising and falling, and your insight will make great progress.

Q.084 • Nếu những cảm giác khó chịu tăng lên, bạn phải làm gì?

• Nếu những cảm giác khó chịu tăng lên, bạn nên cố gắng chịu đựng chúng càng lâu càng tốt. Khi bạn phải ghi nhận những cơn đau nhói, hãy nhớ câu nói của người Miến “Nhẫn nại dẫn đến Nibbāna.” Nếu bạn có thể chịu đựng đau đớntiếp tục ghi nhận, đau đớn thường sẽ biến mất. Nếu điều đó xảy ra, hãy tiếp tục ghi nhận phồng và xẹp, và tuệ minh sát của bạn sẽ tiến bộ rất nhanh.

Q.085 • If, however, the pain persists and proves almost unbearable, what should you do?

• If, however, the pain persists and proves almost unbearable, you may change your posture. However, when you change, you must do so slowly and note every movement very carefully. This is how one should meditate on feelings in the body.

- As you are noting, unpleasant thoughts too may arise. You may feel miserable or disheartened. Then you should note as ‘miserable’ or ‘disheartened.’ They will very soon pass away as you note on. Then return to noting the rising and falling again. If a pleasant feeling arises in the body, note it as ‘pleasant, pleasant.’ If happiness or joy arises in the mind, just note ‘happy’ or ‘joyful.’ Such happy moods will come to you in torrents when you gain the knowledge of arising and passing away (udayabbaya-ñāṇa). You will also experience great joy or rapture (pīti). This too, you must note as ‘rapture, rapture.’

Q.085 • Tuy nhiên, nếu cơn đau vẫn kéo dài đến độ không chịu nổi, bạn phải làm gì?

Tuy nhiên, nỗi đau vẫn kéo dài và gần như không chịu được, bạn có thể thay đổi tư thế. Tuy nhiên, khi thay đổi, bạn phải làm thật chậm và ghi nhận mỗi chuyển động một cách cẩn thận. Đây là cách bạn nên hành thiền về cảm thọ trong thân.
- Khi bạn đang ghi nhận, các ý nghĩ khó chịu cũng có thể nảy sinh. Bạn có thể cảm thấy khốn khổ hoặc thất vọng. Sau đó, bạn nên ghi nhận như là “khốn khổ” hoặc “thất vọng”. Chúng sẽ rất nhanh chóng qua đi khi bạn tiếp tục ghi nhận. Sau đó, hãy trở lại ghi nhận phồng và xẹp. Nếu một cảm giác dễ chịu nảy sinh trong cơ thể, hãy ghi nhận nó là “dễ chịu, dễ chịu”. Nếu hạnh phúc hoặc niềm vui nảy sinh trong tâm trí, hãy ghi nhận “vui mừng” hoặc “niềm vui”. Những trạng thái tâm trạng vui vẻ như vậy sẽ đến với bạn một cách dồn dập khi bạn đạt được tuệ sanh diệt (udayabbaya-ñāṇa). Bạn cũng sẽ trải nghiệm được hỷ lạc mạnh (pīti). Điều này cũng cần phải ghi nhận là “hỷ lạc, hỷ lạc”.

Q.086 • When will this neutral feeling become prominent?

• The neutral feeling, which is neither pleasant nor unpleasant, very often occurs in both the mind and the body, but it is hard to discern. Only when concentration is especially strong, will this neutral feeling become prominent after the disappearance of pain and before the appearance of pleasure, or after the disappearance of pleasure and before the appearance of pain.

- These sensations break into small pieces. You should note this neutral feeling too. When the knowledge of arising and passing away is well developed and the knowledge of dissolution (bhaṅga-ñāṇa) is gained, this neutral feeling will become apparent. At the stage of knowledge of equanimity about formations (saṅkhārupekkha-ñāṇa) it will be even more prominent. Then you must note this neutral feeling.

Q.086 • Khi nào thọ trung tính trở nên rõ ràng?

Cảm giác trung lập, không dễ chịu cũng không khó chịu, thường xảy ra nhiều lần trong thân tâm, nhưng khó nhận biệt. Chỉ khi có tâm định thật mạnh, cảm giác trung lập này mới trở nên rõ ràng sau khi nỗi đau biến mất và trước sự xuất hiện của niềm vui, hoặc sau khi niềm vui biến mất và trước sự xuất hiện của nỗi đau.

- Những cảm giác này bị vỡ ra thành những mảnh nhỏ. Bạn cũng phải ghi nhận cảm giác trung lập này. Khi tuệ sinh diệt đã phát triển tốt và đạt đến tuệ diệt (bhaṅga-ñāṇa), cảm giác trung lập này sẽ trở nên rõ ràng. Ở tầng tuệ xả hành (saṅkhārupekkha-ñāṇa), nó sẽ trở nên nổi bật hơn nữa. Lúc ấy bạn lại càng phải ghi nhận cảm giác trung lập này.

Q.087 • When will you find that these sensations break into small pieces?

• When your concentration is very strong, while you note ‘tired,’ ‘hot’ or ‘painful’ you will find that these sensations break into small pieces. To the untrained mind, tiredness, heat and pain seem to last very long, but to the mindful meditator they are just small pieces and do not cause much discomfort, so he or she feels unperturbed. If one goes on meditating, even severe pains can be overcome. So it is said, “Samudaya-dhammānupassī vā … vaya-dhammānupassī vā … samudayavaya-dhammānupassī vā vedanāsu viharati.” – “He abides contemplating the arising of things in feelings, or he abides contemplating the passing away of things in feelings, or he abides contemplating both the arising and passing away of things in feelings.”

- While thus contemplating the arising and passing away of feelings, one can reach the noble path and become a Stream-winner. This is the contemplation of feelings (vedanānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.087 • Khi nào bạn thấy các cảm giác này vỡ thành từng mảng nhỏ?

• Khi tâm định rất mạnh, trong khi bạn đang ghi nhận ‘mệt mỏi, mệt mỏi’ ‘nóng, nóng’ hoặc ‘đau, đau’ bạn sẽ nhận thấy rằng những cảm giác này vỡ ra thành từng mảng nhỏ. Đối với tâm chưa thuần thục, sự mệt mỏi, nóng và đau có vẻ như diễn ra trong thời gian dài, nhưng đối với hành gỉa có chánh niệm, chúng chỉ là những mảnh nhỏ và không gây nhiều phiền toái, vì vậy hành giả cảm thấy không bị khuyấy động. Nếu tiếp tục hành trì, thậm chí cơn đau nặng cũng có thể được vượt qua. Vì vậy, sách nói rằng: “Samudaya-dhammānupassī vā ... vaya-dhammānupassī vā ... samudaya-vaya-dhammānupassī vā vedanāsu viharati.” – “hành giả quán sự sanh của pháp trong thọ, hay hành giả sống quán sự diệt của pháp trong thọ, hay hành giả sống quán cả hai sự sanh và sự diệt của pháp trong thọ.”

- Như vậy trong khi quán sự sanh diệt của thọ, hành gỉa có thể đạt được chánh đạođắc quả Nhập lưu. Đây là quán thọ niệm xứ (vedanānupassanā satipaṭṭhāna).

Q.088 • What is Mindfulness of Thoughts?

• (Regarding contemplation of mind (cittānupassanā) it is said, “Sarāgaṃ vā cittaṃ ‘Sarāgaṃ cittan’ ti pajānāti, vitarāgaṃ vā cittaṃ ‘Vitarāgaṃ cittan’ ti pajānāti” – “(A monk) is aware of a passionate mind as ‘passionate mind’; of a dispassionate mind as ‘dispassionate mind.’” There are sixteen kinds of mind to contemplate. So, while contemplating the rising and falling, if a passionate mind arises, you must note ‘passionate mind.’ As you note thus, the passionate mind will disappear. Then a dispassionate mind appears. Note it as ‘dispassionate mind.’ Likewise, if an angry mind arises, note as ‘angry mind.’ If a deluded thought occurs such as “I am permanent”, “I am happy” or “I am”, note it as ‘delusion.’

- Similarly, if a wandering mind appears, note it as ‘wandering.’ If a lazy mind appears, note it as ‘lazy.’ You must note whatever mind appears and be aware of it as it is. When concentration is strong, whenever you note, you will find such minds arising and passing away, never remaining for a moment. So it is said, “Samudaya-dhammānupassī vā … vaya-dhammānupassī vā … samudayavaya-dhammānupassī vā cittasmiṃ viharati” – “He abides contemplating the arising of things in the mind, or he abides contemplating the passing away of things in the mind, or he abides contemplating both the arising and passing away of things in the mind.”

Q.088 • Niệm tâm là gì?

• Về niệm tâm (cittānupassanā), sách có nói: “Sarāgaṃ vā cittaṃ ‘Sarāgaṃ cittan’ ti pajānāti, vitarāgaṃ vā cittaṃ ‘Vitarāgaṃ cittan’ ti pajānāti” – “hành giả nhận biết tâm đam mê là ‘tâm đam mê’; nhận biết tâm không đam mê là ‘tâm không đam mê’.” Có mười sáu loại tâm để quán. Vì vậy, trong khi quán phồng và xẹp, nếu một tâm đam mê nổi lên, bạn phải ghi nhận là ‘tâm đam mê’. Khi bạn ghi nhận như vậy, tâm đam mê sẽ biến mất. Sau đó, một tâm không đam mê xuất hiện. Ghi nhận nó là ‘tâm không đam mê’.

- Tương tự, nếu một tâm tức giận nổi lên, hãy ghi nhận là ‘tâm tức giận’. Nếu có một suy nghĩ mê muội xuất hiện chẳng hạn như “Tôi là vĩnh cửu”, “Tôi là hạnh phúc” hoặc “Tôi là”, ghi nhận là ‘mê muội, mê muội’. Tương tự, nếu phóng tâm xuất hiện, ghi nhận là ‘phóng tâm’. Nếu một tâm lười biếng xuất hiện, ghi nhận là ‘lười biếng’. Bạn phải ghi nhận bất kỳ tâm nào xuất hiệnnhận biết nó như nó là vậy. Khi tâm định mạnh, mỗi khi bạn ghi nhận, bạn sẽ nhận thấy những tâm này sanh và diệt, không tồn tại trong một khoảnh khắc nào. Vì vậy, sách có nói: “Samudaya-dhammānupassī vā ... vaya-dhammānupassī vā ... samudaya-vayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati” – “hành gỉa sống quán sự sanh của các hiện tượng trong tâm, hoặc hành gỉa sống quán sự diệt của các hiện tượng trong tâm, hoặc hành gỉa sống quán cả hai: sự sanh và sự diệt của các hiện tượng trong tâm.”

Q.089 • What is Mindfulness of Mind Objects?

• Now we will deal briefly with contemplation of mind-objects or mental phenomena (dhammānupassanā Satipaṭṭhāna). The Buddha taught the contemplation of mental-objects in five sections.

Q.089 • Niệm Pháp là gì?

• Bây giờ chúng ta sẽ tóm tắt về niệm pháp hay hiện tượng tâm lý (dhammānupassanā Satipaṭṭhāna). Đức Phật đã dạy về niệm pháp trong trong năm phần.

Q.090 • What is Mindfulness of the Hindrances?

• The first section is the contemplation of the hindrances (nīvaraṇa). There are five of them:

  1. Sensual desire (kāmacchanda).

  2. Anger or ill-will (vyāpāda).

  3. Sloth and torpor (thīna-middha).

  4. Restlessness and remorse (uddhacca-kukkucca).

  5. Sceptical doubt (vicikicchā).

- This is the classification according to the Pāḷi text, but if one separates thīna and middha, and uddhacca and kukkucca, there will seven in all.

- If, while you are noting the rising and falling of the abdomen, sensual desire arises, you should note as ‘pleasure,’ ‘desire’ and so forth. This is explained in the text of the Satipaṭṭhāna Sutta as, “Santaṃvā ajjhajjaṃ kāmacchandaṃ ‘Atthi me ajjhattaṃ kāmacchando’ti pajānāti.” – “(A monk) who has sensual desire in him is aware, ‘There is sensual desire in me.’” As one notes thus, the sensual desire disappears. This disappearance of desire, too, should be noted. Sensual desire arises because of ignorance, because one has failed to note the first thought. One must understand that this ignorance of the real nature of things gives rise to desire. As one meditates and understands the truth, sensual desire ceases to arise. This fact, too, should be understood. When one reaches the path of Arahantship, one has completely eradicated such desires. You must understand that an Arahant is free from such desires. Thus, one should know about sensual desire.

- In the same way, when anger arises one notes and is aware ‘I am angry.’ When one feels dull and lazy, note as ‘I feel dull’ or ‘I feel lazy.’ When one gets restless, note as ‘I am getting restless.’ When one feels remorse at having done something wrong, one must note as ‘I feel remorseful.’ If one harbours doubts about the Buddha or the Dhamma, one must note and be aware of these doubts. One often mistakes doubt for ideas. If a meditator keeps on noting whatever arises, the hindrances will be dispelled. They come about because of ignorance. Once one is fully aware of them, they cease to arise. The noble path eradicates them completely. While meditating, one understands the arising and passing away of the particular hindrance one is noting. This understanding will lead one to the noble path and its fruition. One can become a Stream-winner. This, in brief, is contemplation of the hindrances.

Q.090 • Niệm Chướng Ngại là gì?

• Phần đầu tiên là niệm những các chướng ngại (nīvaraṇa). Có năm chướng ngại:

  1. Ái dục (kāmacchanda).

  2. Sân hận (vyāpāda).

  3. Lười biếng và buồn ngủ (thīna-middha).

  4. Trạo cửhối tiếc (uddhacca-kukkucca).

  5. Hoài Nghi (vicikicchā).

- Đây là phân loại theo văn bản Pāḷi, nhưng nếu tách riêng thīna và middha, uddhacca và kukkucca, thì tổng cộng có bảy chướng ngại.

- Nếu, trong khi bạn ghi nhận phồng và xẹp của bụng, ái dục nổi lên, bạn nên ghi nhận như là ‘sướng, sướng’ ‘muốn, muốn’ v.v... Điều này được giải thích trong Kinh Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) như sau: “Santaṃvā ajjhajjaṃ kāmacchandaṃ ‘Atthi me ajjhattaṃ kāmacchando’ti pajānāti.” - “Một tỳ kheo mà có ham ái dục trong mình biết rằng, ‘Có ái dục trong tôi’.” Khi bạn ghi nhận như vậy ái dục sẽ biến mất. Việc biến mất này cũng nên được ghi nhận. Ái dục sanh khởisi mê, vì đã không ghi nhận suy nghĩ đầu tiên. Ta phải hiểu rằng cái không biết về bản chất thực sự của các pháp làm ái dục sanh khởi. Khi ta hành thiền và hiểu sự thật, ái dục ngừng nổi lên. Điều nà cũng cần được hiểu. Khi đạt được A-la-hán đạo, ta đã hoàn toàn cắt đứt mọi ham muốn như vậy. Bạn phải hiểu rằng một vị A-la-hán không còn các ham muốn như vậy. Bạn nên hiểu về ái dục như vậy.

- Cùng cách ấy, khi sự sân giận nổi lên, bạn ghi nhận và biết ‘Tôi đang giận.’ Khi bạn cảm thấy lờ đờ và lười biếng, hãy ghi nhận: ‘Tôi cảm thấy lờ đờ’ hoặc ‘Tôi cảm thấy lười biếng.’ Khi bạn trở nên xôn xao, ghi nhận như ‘Tôi đang xôn xao.’ Khi bạn cảm thấy hối tiếc vì đã làm sai điều gì đó, bạn phải ghi nhận ‘Tôi cảm thấy hối tiếc.’ Nếu bạn có nghi ngờ về Đức Phật hoặc Pháp, bạn phải ghi nhận và biết những nghi ngờ này. Thường thì người ta nhầm lẫn nghi ngờ với ý tưởng. Nếu hành giả tiếp tục ghi nhận vào mọi điều nổi lên, các chướng ngại sẽ tan biến. Chúng phát sinh do vô minh. Một khi bạn biết rõ ràng về chúng, chúng ngừng phát sinh. Thánh đạo cắt bỏ chúng hoàn toàn. Trong lúc hành thiền, bạn hiểu sự sanh diệt của một chướng ngại nào đó mà bạn đang ghi nhận. Sự hiểu biết này sẽ dẫn bạn đến thánh đạo và quả của nó. Bạn có thể trở thành bậc Nhập Lưu. Tóm lại, đây là niệm các chướng ngại.

Q.091 • What is Contemplation of the Aggregates?

• As you contemplate the body by noting, ‘walking,’ ‘standing,’ ‘sitting,’ ‘rising,’ or ‘falling,’ you know for yourself, “This is matter, which is insentient. It arises and passes away thus.” When you note ‘pain,’ ‘pleasure,’ ‘happy’ and so on you know, “This is pleasant or unpleasant feeling. It arises and passes away thus.” When you note ‘perceiving’ you know, “This is perception, which perceives sight and so forth. It arises and passes away thus.” When you note volitions like ‘striving,’ ‘doing,’ ‘speaking’ and so forth you know, “These are mental formations. They arise and pass away thus.” When you note ‘thinking’ you know, “This is consciousness. It arises and passes away thus.” While you meditate on the arising and passing away of matter, feeling, perception, mental formations and consciousness, you can reach the noble path and its fruition, becoming a Stream-winner. This, in brief is contemplation of the five aggregates.

Q.091 • Niệm các uẩn là gì?

• Khi bạn quán thân bằng cách ghi nhận ‘đi, đi’ ‘đứng, đứng’ ‘ngồi, ngồi’ ‘đứng lên, đứng lên’ hoặc ‘xẹp, xẹp’ bạn tự biết rằng, “Đây là sắc pháp, không có sự biết. Nó sanh và diệt như vậy.” Khi bạn ghi nhận ‘đau, đau,’ ‘vui thích, vui thích’ ‘hạnh phúc, hạnh phúc’ v.v..., bạn biết rằng, “Đây là cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu. Nó sanh và diệt như vậy.” Khi bạn ghi nhận ‘biết, biết’ bạn biết rằng, “Đây là sự biết, biết thấ v.v... Nó sanh và diệt như vậy.” Khi bạn ghi nhận các ý muốn như ‘cố gắng, cố gắng’ ‘làm, làm’ ‘nói, nói’ v.v... bạn biết rằng, “Đây là các tạo tác của tâm. Chúng nổi lên và qua đi như vậy.” Khi bạn ghi nhận ‘suy nghĩ,’ bạn biết rằng, “Đây là ý thức. Chúng sanh và diệt như vậy.” Khi bạn ghi nhận ‘suy nghĩ, suy nghĩ’, bạn biết ‘đây là tâm. Nó sanh và diệt như vậy’. Khi bạn đang hành thiền về sự sanh diệt của sắc, thọ, tưởng, hành và thức, bạn có thể đạt được thánh đạo và quả của nó, trở thành bậc Nhập Lưu. Tóm lại, đó là niệm ngũ uẩn.

Q.092 • What is Contemplation of the Six Senses?

• If, while seeing, one notes ‘seeing, seeing,’ concentration will gradually develop and one comes to know the eye, the visible object and the seeing as distinct phenomena. The eye is called ‘cakkhāyatana’ – the eye organ from which arises visual consciousness (cakkhuviññāṇa). The visible object is called ‘rūpāyatana,’ the sight from which arises visual consciousness. The seeing is called manāyatana, mind organ, from which arises the act of consciousness (that is phassa, vedanā and so on). Failure to note what you see, or even if you note it, failing to understand impermanence and so on, gives rise to fetters such as taking pleasure in the visible object. You must also know the arising of the fetters. If the fetter passes away because of noting it, you must know this too. Once you reach the noble path, these fetters cease to arise and this must also be known. This is how you should meditate and understand with regard to seeing.

- In the same way, if one note ‘hearing, hearing’ one understands the physical phenomena of the ear and the sound. If one notes ‘smelling, smelling’ one understands the physical phenomena of the nose and the odour. If one notes ‘tasting, tasting’ one understands the physical phenomena of the tongue and the taste. If one notes ‘touching, touching’ one understands the physical phenomena of the body and tangible objects. (Contemplation of walking, standing, sitting, rising and so on belong to this contemplation of touch. That is why we say ‘touching’ and so on). One who notes ‘thinking, thinking’ while thinking understands the physical phenomenon of the base of consciousness and the mental phenomenon of ideas or mind-consciousness. If you do not know them as they really are, because you have failed to note them properly, fetters like sensual desire arise from the six senses. This arising of fetters must also be noted. If, on being promptly noted, they pass away, note this too. When, on reaching the noble path, these fetters cease to arise altogether, you must know this too.

- By noting ‘seeing,’ ‘hearing,’ and so on, and by understanding the real nature of the eye, visible objects, seeing and so on, you can gain the noble path and become a Stream-winner. This, in brief, is the contemplation of the six senses.

- The fetters (saṃyojana) referred to here are defilements or base instincts, which, like the ropes that restrain oxen, bind us firmly to the round of rebirth (saṃsāra). They are:

  1. Sensual desire (kāmarāga).

  2. Anger or aversion (paṭigha).

  3. Pride (māna).

  4. Wrong views (diṭṭhi) that mistake mind and matter as self.

  5. Scepticism or doubt (vicikicchā).

  6. Adherence to rites and rituals (sīlabbataparāmāsa). This means to believe than any practice other than the Eightfold Noble Path will lead to liberation. 

  7. Craving rooted in eternalism (bhavarāga). Believing that one will continue to exist after death, one craves for continual pleasure.

  8. Craving rooted in annihilationism (vibhavarāga). Believing that one will not exist after death, one craves to enjoy the present life.

  9. Avarice (macchariyā).

  10. Ignorance (avijjā) or delusion through which one mistakes what is impermanent, unsatisfactory and not-self as permanent, happy and as having a self.

Q.092 • Chánh niệm sáu giác quan (lục căn) là gì?

• Nếu trong lúc thấy, bạn ghi nhận ‘thấy, thấy,’ tâm định sẽ dần dần phát triển và bạn sẽ hiểu rằng con mắt, đối tượng có thể thấy và sự thấy là các hiện tượng riêng biệt. Mắt được gọi là ‘cakkhāyatana’ – nhãn căn mà từ đó nhãn thức sanh khởi (cakkhuviññāṇa). Đối tượng có thể thấy được gọi là ‘rūpāyatana’ - hình dạng từ đó phát sinh nhãn thức. Sự thấy là ‘manāyatana’, thức căn, từ đó phát sinh hoạt động của tâm (tức là phassa, vedanā v.v...). Nếu bạn không ghi nhận vào những gì bạn thấy, hoặc ngay cả khi bạn ghi nhận vào nó, nếu không hiểu được sự vô thường v.v..., những ràng buộc như thích thú trong đối tượng có thể thấy sẽ phát sinh. Bạn cũng phải hiểu về sự phát sinh của những ràng buộc. Nếu những ràng buộc này biến mất nhờ ghi nhận chúng, bạn cũng phải biết điều này. Khi bạn đạt được thánh đạo, những ràng buộc này ngừng phát sinh và điều này cũng phải biết. Đây là cách bạn nên hành thiền và hiểu về sự thấy.

- Tương tự như vậy, nếu bạn ghi nhận ‘nghe, nghe’ bạn sẽ hiểu về hiện tượng vật lý của tai và âm thanh. Nếu bạn ghi nhận ‘ngửi, ngửi’ bạn sẽ hiểu về hiện tượng vật lý của mũi và mùi hương. Nếu bạn ghi nhận ‘nếm, nếm’ bạn sẽ hiểu về hiện tượng vật lý của lưỡi và vị. Nếu bạn ghi nhận ‘chạm, chạm’ bạn sẽ hiểu về hiện tượng vật lý của cơ thể và các đối tượng có thể cảm nhận. (Chánh niệm khi đi, đứng, ngồi, đứng dậy v.v... thuộc về chánh niệm chạm. Đó là lý do tại sao ta nói ‘chạm’ v.v...). Người ghi nhận ‘suy nghĩ, suy nghĩ’ trong khi suy nghĩ sẽ hiểu về hiện tượng vật lý của ý cănhiện tượng tâm lý của ý nghĩ hoặc tâm-thức. Nếu bạn không hiểu chúng như chúng là vậy, vì bạn đã không ghi nhận đúng cách, những ràng buộc ái dục phát sinh từ sáu căn. Sự phát sinh này của những ràng buộc cũng phải được ghi nhận. Nếu chúng biến mất ngay sau khi được ghi nhận, bạn cũng phải ghi nhận điều này. Khi đạt được thánh đạo, những ràng buộc này ngừng phát sinh hoàn toàn, và bạn cũng phải biết điều này.

- Bằng cách ghi nhận ‘thấy,’ ‘nghe,’ v.v... và vì hiểu bản chất thực sự của mắt, đối tượng có thể thấy, sự thấy v.v..., bạn có thể đạt được thánh đạotrở thành bậc Nhập Lưu. Tóm lại đây là chánh niệm về sáu căn.

- Những ràng buộc (saṃyojana) được đề cập ở đây là những phiền não hoặc các bản năng cơ bản, tương tự như những sợi dây buộc trâu, ràng buộc chúng ta chặt chẽ vào vòng luân hồi (saṃsāra). Chúng bao gồm:

  1. Ái dục (kāmarāga).

  2. Sân hận (paṭigha).

  3. Kiêu ngạo (māna).

  4. Tà kiến (diṭṭhi) hay sai lầm khi cho rằng thân và tâm là ngã.

  5. Hoài nghi hoặc sự nghi ngờ (vicikicchā).

  6. Sự gắn bó với nghi lễnghi thức (sīlabbataparāmāsa). Điều này có nghĩa là tin rằng bất kỳ phương pháp nào khác ngoài Bát Chánh Đạo sẽ dẫn đến giải thoát.

  7. Sự khao khát dựa trên niềm tin vào sự tồn tại mãi mãi (bhavarāga). Tin rằng sau khi chết, ta sẽ tiếp tục tồn tại, ta khao khát để tiếp tục được vui thú.

  8. Sự khao khát dựa trên niềm tin vào sự diệt vong (vibhavarāga). Tin rằng sau khi chết, ta sẽ không tồn tại, ta khao khát để tận hưởng cuộc sống hiện tại.

  9. Ích kỷ (macchariyā).

  10. Vô minh (avijjā) hoặc mê muội khi lầm tưởng những gì vô thường, bất toại nguyệnvô ngã là thường, hạnh phúc và có ngã.

Q.093 • What are eradicated by the path of a Stream-winner (sotāpattmagga) and by the path of a Nonreturner (anāgāmi-magga?)

• Of the above ten fetters, wrong view, doubt and adherence to rites and rituals are eradicated by the path of a Stream-winner (sotāpati-magga); sensual desire and anger are eradicated by the path of a Non-returner (anāgāmi-magga) and the remaining fetters are eradicated by Arahantship.

Q.093 • Những ràng buộc nào bị loại bỏ bởi Nhập Lưu đạo (sotāpattimagga) và Bất Lai đạo (anāgāmimagga)?

• Trong số mười ràng buộc trên, tà kiến, hoài nghi và sự tuân thủ các nghi lễnghi thức được loại bỏ bởi con đường của Vị Nhập Lưu (sotāpati-magga); ái dụcsân hận được loại bỏ bởi con đường của vị Bất lai (anāgāmi-magga) và những ràng buộc còn lại được loại bỏ bởi A-la-hán đạo.

Q.094 • What is Contemplation of the Factors of Enlightenment?

• The factors of enlightenment (bojjhaṅga) are the means by which one realises Nibbāna. There are seven of them:

  1. Mindfulness (sati).

  2. Investigation of phenomena (dhammavicaya).

  3. Energy (viriya).

  4. Joy or rapture (pīti).

  5. Tranquility (passaddhi).

  6. Concentration (samādhi).

  7. Equanimity (upekkhā).

- It is said in the Satipaṭṭhāna Sutta that if any of these arise, one should be aware of it. If any are absent, one should be aware of this too. The factors of enlightenment do not arise in the beginner. They occur only when one has attained the knowledge of arising and passing away (udayabbayañāṇa) or higher stages. If you persistently contemplate all phenomena, as explained in the section on mindfulness of the body, by noting ‘walking,’ ‘standing,’ ‘sitting,’ ‘bending,’ ‘stretching,’ ‘rising,’ ‘falling,’ ‘tired,’ ‘hot,’ etc., you will soon attain the knowledge of arising and passing away. Then you will clearly understand the impermanence of things. Every time you note the arising and passing away of things, you have the enlightenment factor ‘mindfulness.’ When your concentration slackens and you are not so mindful, you are aware that the factor of mindfulness is absent. Similarly, when the factor arises that investigates mind and matter, you are aware that it is present, and when it is absent you are aware that it is absent. Through this awareness your concentration will become very strong. As you develop your awareness of the arising and passing away of these factors, you will in due course attain the noble path and its fruition, and become a Stream-winner. This, in brief, is the contemplation of the factors of enlightenment.

Q.094 • Quán về các yếu tố của sự giác ngộ (giác chi) là gì?

• Những yếu tố của sự giác ngộ (bojjhaṅga) là những phương tiện để ta chứng ngộ Niết Bàn. Có tổng cộng bảy yếu tố:

  1. Niệm (sati).

  2. Trạch pháp (dhammavicaya).

  3. Tinh Tấn (viriya).

  4. Hỉ (pīti).

  5. Khinh An (passaddhi).

  6. Định (samādhi).

  7. Xả (upekkhā).

- Trong kinh Satipaṭṭhāna, được nói rằng nếu bất kỳ yếu tố nào sanh khởi, ta phải biết nó. Nếu bất kỳ yếu tố nào vắng mặt, ta cũng biết đến điều này. Các giác chi không sanh khởi ở người mới học. Chúng chỉ xuất hiện khi người đạt được tuệ sanh diệt (udayabbaya-ñāṇa) hoặc giai đoạn cao hơn. Nếu ta kiên trì tìm hiểu tất cả các hiện tượng, như được giải thích trong phần chánh niệm về thân thể, bằng cách ghi nhận ‘đi,’ ‘đứng,’ ‘ngồi,’ ‘cúi,’ ‘duỗi,’ ‘phồng,’ ‘xẹp,’ ‘mệt mỏi,’ ‘nóng,’ vv., ta sẽ nhanh chóng đạt được tuệ sanh diệt. Sau đó, ta sẽ hiểu rõ ràng sự vô thường của các pháp. Mỗi khi ta niệm sự sanh diệt của các pháp, ta có yếu tố giác ngộ ‘chánh niệm.’ Khi tâm định của ta yếu đi và ta không chánh niệm như trước, ta biết rằng yếu tố chánh niệm không có mặt. Tương tự, khi trạch giác chi xuất hiện để điều tra về tâm và thân, ta biết rằng nó có mặt, và khi nó không có mặt, ta biết rằng nó không có mặt. Qua sự biết này, tâm định của ta sẽ trở nên rất mạnh. Khi ta phát triển nhận thức về sự sanh diệt của những yếu tố này, ta sẽ đạt được thánh đạo và Quả của nó, và trở thành một vị Nhập Lưu. Tóm tắt đây là chánh niệm về những yếu tố của sự giác ngộ.

Q.095 • What is Contemplation of the Four Noble Truths?

• Regarding the contemplation of the Four Noble Truths the Buddha taught, “Idaṃ dukkhan’ti yathabhūtaṃ pajānāti, ‘Ayaṃ dukkha-samudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘Ayaṃ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘Ayaṃ dukkha-nirodha gāmini paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti.” – “He comprehends as it really is, ‘This is suffering.’ He comprehends as it really is, ‘This is the cessation of suffering.’ He comprehends as it really is, ‘This is the Path leading to the cessation of suffering.’”

Q.095 • Quán về Tứ Diệu Đế là gì?

• Nói đến Quán về Tứ Diệu Đế, Đức Phật đã dạy: ‘Idaṃ dukkhan’ti yathabhūtaṃ pajānāti, ‘Ayaṃ dukkha-samudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘Ayaṃ dukkha-nirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘Ayaṃ dukkha-nirodha gāmini paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti.” - “Người hiểu rõ như là vậy, ‘Đây là khổ.’ Người hiểu rõ như là vậy, ‘Đây là sự chấm dứt của khổ.’ Người hiểu rõ như là vậy, ‘Đây là Con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ.’”

Q.096 • The mental and physical phenomena occurring in the body are really just suffering. Why?

• Because they are the basis of suffering like physical pain, mental pain, old age, death and so on. Since they are impermanent, death can come at any moment. Physical suffering like aches and pains occur because there is a physical body and consciousness. Without a physical body, physical pain is quite impossible.

Q.096 • Các hiện tượng danh sắc diễn ra trong cái thân này thật sự chỉ là khổ. Tại sao vậy?

• Bởi vì chúng là nền tảng của sự khổ như đau thân, đau tâm, tuổi già, cái chết v.v... Bởi chúng là không thường, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Sự đau đớn của thân như nhức nhối và đau đớn xảy ra vì có cái thân và cái tâm. Nếu khôngthân tâm thì đau thân sẽ không thể xảy ra.

Q.097 • Though there is a body, if there is no consciousness, pain or suffering is also impossible. Why?

• If a log or a stone or a lump of clay is beaten with a stick, struck with a knife, or put into a fire, it will suffer no pain because it lacks consciousness. So the physical body without consciousness is no cause for physical pain. However, sentient beings have got both a physical body and consciousness, so they have to endure all kinds of physical and mental suffering. Therefore, mind and manner are really nothing but suffering.

- Moreover, every time we are reborn, we must undergo the suffering of old age, death and so on, because we have these mental and physical phenomena, which are subject to decay and dissolution. So they are really suffering. They do not last for a second – not even a millisecond. They pass away very rapidly. If no more mental and physical phenomena arise when they pass away, that is the moment to die. How terrible it is to depend for one’s support on these unreliable phenomena, which can bring death so suddenly. That is why they are nothing but suffering.

- However, those who do not meditate on the arising and passing away of phenomena do not understand how unstable they are, and so are not alarmed. Even those who meditate, if they haven’t yet realised the fleeting nature of things, will not be afraid.

Q.097 • Mặc dù có cơ thể, nếu không có tâm thì đau đớn hay khổ đau cũng là không thể xảy ra. Tại sao vậy?

• Nếu một khúc gỗ, một tảng đá hay một miếng đất sét bị gậy đập, bị dao đâm, hoặc bị lửa đốt, chúng sẽ không đau đớn vì chúng không có tâm. Do đó, một cơ thể vật chất không có tâm thì không bị đau đớn. Tuy nhiên, các sinh chúng có cả thân và tâm, và do đó, họ phải chịu đựng mọi loại đau đớn vế thể chấttinh thần. Vì vậy, tâm và thân thực sự không gì khác ngoài sự khổ đau.

- Hơn nữa, mỗi khi chúng ta tái sanh, chúng ta phải trải nghiệm sự khổ đau của già, chết v.v... vì chúng ta sở hữu những hiện tượng tâm lývật chất này, mà chúng thì dễ bị suy tàn và tan rã. Do đó, chúng thực sự là sự khổ đau. Chúng không tồn tại nổi một giây hay một phần nghìn giây; chúng qua đi rất nhanh. Khi không có thêm hiện tượng tâm lývật chất nảy sinh khi chúng qua đi, đó chính là lúc chết. Thật đáng sợ khi phải phụ thuộc vào những hiện tượng không đáng tin cậy này để tồn tại, vì chúng có thể mang cái chết đến một cách đột ngột. Đó là lý do tại sao chúng không gì khác ngoài sự khổ đau.

- Tuy nhiên, những ai không thiền về sự sanh diệt của cac pháp thì không hiểu rõ chúng bất ổn như thế nào nên không thấy lo ngại. Ngay cả những người hành thiền, nếu họ chưa kinh nghiệm được tính tạm thời của các pháp, họ cũng sẽ không lo ngại.

Q.098 • When will one gain the deep kind of concentration that can perceive the fleeting nature of things?

• Only then will one understand that death can come at any moment, and one will be alarmed. One will realise that what is the basis of pain, misery, old age and death is indeed suffering. One knows this for oneself, which is what the Buddha meant by the words, “Idaṃ dukkhan’ti yathābhūtaṃ pajānāti.” – “He comprehends as it really is, ‘This is suffering.’”

- Once you understand suffering as it really is, your attachment to these mental and physical phenomena is eliminated. This is comprehending by eliminating craving, which is the true cause of suffering. Every time you eliminate craving, you achieve the momentary cessation of suffering. By developing the path of insight you achieve the knowledge of the truth of the path. This is how you understand the Four Noble Truths every time you meditate on suffering. As you continue to meditate and your insight is perfected, you will realise Nibbāna. This is knowing the truth of the cessation of suffering by the knowledge of the right path. By such knowledge the realisation of the truth of suffering is accomplished. The realisation of the truth of the cause of suffering is accomplished by eliminating it, and the truth of the path is accomplished by developing it. When you realise the Four Noble Truths by such meditation, you become at least a Stream-winner and are saved from the lower realms (apāya) for ever. This, in brief, is contemplation of the Four Noble Truths.

Q.098 • Khi nào ta sẽ đạt được tâm định sâu sắc để nhận thức được bản chất nhất thời của mọi pháp?

• Chỉ khi ta thật sự hiểu rằng cái chết có thể xảy bất cứ lúc nào và biết lo ngại. Ta sẽ nhận ra rằng, cái gì là nền tảng của đau khổ, khốn cùng, già và chết, cái đó chính là sự khổ đau. Điều này ta tự hiểu, đó là ý nghĩa của lời Phật dạy: “Idaṃ dukkhan’ti yathābhūtaṃ pajānāti.” – “Người ấy hiểu như nó là vậy, ‘Đây chính là khổ.’”.

- Một khi ta hiểu khổ như nó là vậy, sự bám níu của ta với các hiện tượng tâm lývật lý này sẽ được loại bỏ. Điều này là hiểu biết bằng cách loại bỏ tham ái, nguyên nhân thực sự gây ra sự khổ đau. Mỗi khi ta loại bỏ tham ái, ta đạt được sự ngừng nghỉ tạm thời của khổ. Bằng cách phát triển con đường tuệ minh sát, ta đạt được hiểu biết về Đạo đế. Đây là cách ta hiểu Tứ Diệu Đế mỗi khi tu tập về khổ. Khi ta tiếp tục tu tậpminh sát tuệ của ta được hoàn thiện, ta sẽ chứng ngộ Niết Bàn. Đây là sự hiểu biết về diệt đế bằng chánh đạo tuệ. Bằng sự hiểu biết như vậy, sự chứng ngộ của khổ đế được hoàn mãn. Sự nhận thức về sự thật của tập đế được hoàn mãn bằng cách loại bỏ nó, và đạo đế được hoàn mãn bằng cách phát triển nó. Khi ta chứng ngộ Tứ Diệu Đế bằng các hành thiền như vậy, ta ít nhất trở thành một vị Nhập Lưuđược giải thoát khỏi các cõi thấp hèn (apāya) mãi mãi. Tóm lại, đây chính là sự tu tập về Tứ Diệu Đế.

Q.099 • What are The Fruits of Mindfulness?

• Regarding the benefits that one will enjoy from the development of this mindfulness the Buddha said, “Yo hi koci bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya, sattā vassāni … sattā māsāni … sattāhaṃ, tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññātaraṃ phalaṃ paṭikaṅkhaṃ, diṭṭhe va dhamme aññā sati va upādisesa anāgāmitā.” – “Whoever, monks, practises these four foundations of mindfulness for seven years … even for seven months … even for seven days will win one of two fruits, in this very life he will win the highest knowledge or, if there is some attachment remaining, he will win the path of a Non-returner.”

- If you cannot become a Non-returner as stated above, you can certainly become a Stream-winner.

Q.099 • Những Quả của Chánh niệm là gì?

• Nói về những lợi ích mà một người sẽ được hưởng từ việc phát triển tính chánh niệm này, Đức Phật đã nói: “Yo hi koci bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya, sattā vassāni … sattā māsāni … sattāhaṃ, tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññātaraṃ phalaṃ paṭikaṅkhaṃ, diṭṭhe va dhamme aññā sati va upādisesa anāgāmitā.” – “Này chư tỳ kheo, ai trong các quý ông tu Tứ Niệm Xứ này trong bảy năm... trong bảy tháng... trong bảy ngày sẽ đạt được một trong hai quả, ngay trong cuộc sống này, người đó sẽ đạt được tri thức cao nhất hoặc, hoặc nếu còn sót lại một ít dính mắc, người đó sẽ đạt được con đường của bậc Bất Lai.”

- Nếu như bạn không trở thành vị Bất Lai như đã nêu ở trên, thì chắc chắn bạn có thể trở thành một vị Nhập Lưu.

Q.100 • Do people have now realised the path, its fruition and Nibbāna after meditating for one or two months on bodily movements, mental states, feelings or the six senses? Are they a few or many?

• Many have now realised the path, its fruition and Nibbāna after meditating for one or two months on bodily movements, mental states, feelings or the six senses. So by practising this Satipaṭṭhāna method to the best of your ability, may you be able to attain the path and its fruition, and may you realise Nibbāna very soon.

Q.100 • Hiện nay, có người nào đã Đạo, Quả và Niết Bàn sau khi thiền định một hoặc hai tháng về những chuyển động của thân, trạng thái của tâm, cảm thọ hay sáu giác quan không? Những người này ít hay nhiều?

• Rất nhiều người hiện nay đã chứng ngộ đạo, quả và Niết Bàn sau khi thiền định một hoặc hai tháng về những chuyển động cơ thể, trạng thái tâm, cảm giác hay sáu giác quan. Vì vậy, bằng cách thực hành phương pháp Satipaṭṭhāna này với hết khả năng của bạn, mong rằng bạn sẽ có thể đạt được đạo và quả, và mong rằng bạn sớm chứng ngộ Niết Bàn.


Nguồn: https://archive.org/details/europe-retreat-2023-viet


Tạo bài viết
Tết cổ truyền của dân tộc lại về trên đất nước thân yêu. Trong không khí hân hoan đón chào Xuân Ất Tỵ - 2025, thay mặt Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi gởi lời chúc mừng năm mới đến tất cả các cấp Giáo hội, tới chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; thân chúc quý vị một năm mới thân khỏe tâm an, cát tường như ý.
QUẬN CAM (VB/PTH) --- Có gì dị biệt giữa Tết Quận Cam và Tết Sài Gòn? Dĩ nhiên là nhiều dị biệt. Và cũng dĩ nhiên là rất nhiều tương đồng. Bởi vì rất nhiều truyền thống đón Tết vẫn còn lưu truyền nơi thủ đô người Việt Hải ngoại.