Đoàn người đi hết con đường đất thì vừa tới khu rừng. Họ dừng chân lại, ngắm nghía, bàn tán rồi lại cất bước đi. Họ luồn qua những cành lá, những dây leo vắt từ cây nọ sang cây kia như chiếc võng. Họ cầm dao phạt tả, phạt hữu, có lúc cúi lom khom, có lúc nằm bò xuống cỏ. Mỗi lưỡi dao hạ xuống là một cành cây gãy, mỗi nhát búa vung lên là hàng nắm lá rơi lả tả xuống. Những tiếng chí chát lúc khoan thai, lúc dồn dập, làm vang động cả rừng, khiến cho từng đàn chim ríu rít vù vù tung cánh bay thành những chấm đen trên nền trời xanh biếc.
Họ kiên nhẫn, dò dẫm, len lỏi giữa đám lau sậy um tùm, những cành gai nhọn hoắt, bị đàn muỗi dầy đặc tấn cống tới tấp, đỉa vát bám vào chân tay để hút máu. Trước cảnh rùng rợn, hùng vĩ của rừng rậm, họ không hề sờn lòng; họ tin tưởng ở sự giúp đỡ của thần linh, ở sức mạnh của con người giàu nghị lực, và nhất quyết đem cánh tay gân guốc gạt hết mọi trở ngại của thiên nhiên đã bày ra.
Người đi đầu là Tư Chiềng. Hắn cầm một chiếc búa lớn, mắc quắc, cằm bạnh ra, hung dữ như thiên thần. Hắn xông xáo, rẽ lau vạch cỏ tiến sâu vào giữa rừng.
Ánh nắng trên không bị lọc qua những chòm lá; rơi xuống đât thành những chấm vàng nhợt. Một cụm hoa hồng dại, khép nép giữa đám cỏ gà, thoảng đưa một mùi thơm êm dịu. Đàn bướm lượn lờ bay chung quanh mọi người như những cánh hoa sặc sỡ lả tả rơi trước trận gió. Tư Chiềng đang đi bỗng kêu lên một tiếng, rồi đứng dừng lại.
Bọn đi sau nhao nhao lên hỏi :
- Cái gì thế? Chú Tư ?
- Rắn, anh em ạ.
Một giọng nói như gắt gỏng đưa lên :
- Cho một búa là xong. Sao nhát thế?
Tư Chiềng quay gót lại, tay vung chiếc búa, thét to :
- Lui lại mau, chết bây giờ.
Họ rùng rùng kéo nhau trở lại độ dăm bước rồi chia nhau đứng vây tròn chung quanh, tay nắm chặt khí giới để phòng thân. Hàng trăm con mắt đổ dồn vào chỗ Tư Chiềng chỉ.
Cách hắn độ mươi thước, một con rắn to bằng hai chét tay người lớn, đang cuộn khúc, đầu lắc la, lắc lư, hai mắt đỏ như lửa, trừng trừng nhìn một cách hằn học và dữ tợn. Gần đấy, những khúc sương trắng hồng còn dính thịt, nằm rải rác trên bãi cỏ xanh loang lổ vết máu.
Sư già tiến lên một bước rồi nói :
- Xin tráng sĩ để mặc bần tăng.
Lão Mộc cũng dơ chiếc cung lên, tiếp lời :
- Để tôi giúp sư phụ một tay.
Dây cung vừa buông một mũi tên bay vụt cắm vào mắt bên trái con rắn. Như cuộn giây tơ, dần dần cái thân hình dài tới hai trượng, bỗng quăng mạnh về phía trước, đuôi cuộn tròn lấy một cành cây dại, còn đầu chúc xuống, há miệng to như cái chậu định ngoạm lấy cánh tay Tư Chiềng. Sư già thét to lên một tiếng, phi bộ nhảy tới, dùng chiếc đao chém hất lên. Con rắn tránh thoát được, lao đầu bổ xuống. Nhanh như cắt, sư già nghiêng mình đâm thóc ngược một mũi dao lên trúng cổ địch thủ. Một tia máu phọt ra bắn cả vào mặt Tư Chiềng. Sư già toan xông vào đâm tiếp một mũi dao thứ hai, thì phát tên đã bay vù đến cắm vào mắt bên phải độc xà.
Ngay lúc ấy, Tư Chiềng nhảy tới, cầm chiếc búa nặng tới hai mươi cân, nhắm trúng đầu con rắn, giáng xuống một búa rất mạnh. Thật là một cảnh tượng rùng rợn, cái đầu đứ phăng bắn tít ra xa, máu ồng ộc chảy như suối, thân hình cuồn cuộn rời khỏi cành cây, lăn xuống đất. Tiếp luôn một búa nữa, một khúc mình đứt lòi cả gan ruột. Mọi người vui mừng hét to :
- Giỏi thật.
Lão Mộc nhìn con rắn, lắc đầu nói :
- Không biết con độc xà này sống từ đời nào mà to lớn thế. Có lẽ nó mới ở đâu lạc về, chứ khu rừng này làm gì có.
Một người tiếp lời :
- Có thể lắm! Rừng rậm, hang sâu, đường lối hiểm trở. Độc xà ở đã lâu hay mới đến cũng chả ai biết rõ. Nó sống ở khu rừng này có lẻ tới vài trăm năm.
Có tiếng người phản đối :
- Không chắc. Cách đây 50 năm, dân mấy làng chung quanh, đã có lần vào giữa rừng để xây chùa. Nếu bảo nó sống đã được hai trăm năm, thì trong khoảng thời gian chùa còn có người đèn nhang, khách thập phương đi lại lễ bái cũng đông, lại không có một người nào bị hại về nó, thì lạ quá! Lấy lý ra mà xét thì nó mới về đây chỉ độ mười năm là cùng.
Một người lên tiếng :
- Cũng không đúng. Nếu nó ở đây đã mười năm, thì vùng Đông Ngàn đã bị nó tàn hại rồi còn gì. Đến như con hổ kia, mới có mấy hôm, mà dân chúng đã nháo cả lên, huống hồ 10 năm với một con rắn to lớn như thế kia, thì có lẻ người và vật đều chui vào bụng nó cả.
Cả bọn đều nhao nhao lên bàn tán mỗi người một câu. Trong lúc ấy, sư già đang đi đi lại lại cạnh vũng máu đào, mắt đăm đăm nhìn dưới đất như đang tìm tòi vật gì. Chợt thấy một khúc ruột rắn rơi gần đấy, sẵn chiếc gậy cầm ở tay, sư già chọc chọc vài cái thì thấy một nắm rễ cây lòi ra ngoài. Nhìn kỹ một lúc, sư già bỗng kêu lên ra ý vui mừng :
- Phải rồi.
Mọi người ngạc nhiên, dồn dập hỏi :
- Gì thế?
Sư già tươi cười nói :
- Bần tăng cũng ngờ rằng con rắn này không phải ở đây đã lâu, nhưng chưa tìm ra được chứng cớ cụ thể nên chưa dám quyết đoán. Thì đây nắm rễ cây nhỏ mọn này cũng đủ đánh tan hết mối nghi ngờ của chúng ta.
Nói xong, sư già quay lại hỏi lão Mộc :
- Lão trượng là tay lịch lãm giang hồ đã nhận ra được rễ cây gì chưa?
Lão Mộc lắc đầu.
Sư già thong thả tiếp lời :
- Hồi bần tăng ở Đường Lâm đã có lần sang Bạch Hạc chơi, và ngẫu nhiên gặp một người cho xem một thứ rễ cây. Rễ cái to bằng hai ba chét tay, những rễ con mọc tua tủa chung quanh, sắc hoi vàng. Rễ cây đó đào được ở sườn núi Tản Viên, nhưng vì không biết nó thuộc về loại cây gì và công dụng của nó ra sao, nên đành phải đem vùi ở sau vườn, phó mặc cho mưa nắng. Sau bần tăng có dịp về Bình Kiều gặp sư trưởng Trọng Minh, có nhắc đến thứ rễ cây lạ lùng đó. Sư trưởng ngạc nhiên nói :
"Ta cũng thường được nghe đồn ở núi Tản Viên có thứ rễ cây rất quý, nhưng thực chưa được trông thấy. Ăn vào, thân thể khoẻ mạnh, tránh được những bệnh tật hiểm nghèo và có thể hưởng thêm được tuổi thọ. Nhà người trông thấy mà không được dùng. Đáng tiếc thay!" Thứ rễ cây này chỉ ở sườn núi Tản Viên mới có, con rắn này chắc chắn là ở trên ấy rồi, mà nó đã nhiều lần ăn, nên trong ruột còn lại một ít rễ chưa tiêu hết. Xem như thế thì ta có thể kết luận rằng nó mới về độ vài ba hôm nay thôi. Từ núi Tản Viên về đây, đường xá hiểm trở, có tới non một trăm dặm, mà nó vượt một cách dễ dàng thì đủ biết nó có sức khoẻ vô cùng.
Cả bọn đều lấy làm kinh dị. Sư già nói tiếp :
- Từ đây đến chùa cũng chỉ còn một thôi ngắn nữa, chúng ta chia làm 2 toán :
một toán cứ việc rẽ lau, vạch cỏ, mở đường; còn một toán ở lại tìm cách mang những khúc rắn này về làng, xả thịt, nấu nướng, bày cỗ để đến chiều ăn mừng ngày chiến thắng.
Mọi người biểu đồng tình. Lão Mộc chọn vài chục người khoẻ mạnh và can trường cho theo Tư Chiềng đi trước. Còn bao nhiêu, để lại làm công việc bện chão, làm quang gánh khiêng rắn về làng. Tư Chiềng lại vác búa hăm hở đi đầu. Đến quá trưa thì họ tới nơi.
Sư già dắt lão Mộc đi thăm chùa. Trên một gò đất rộng độ nửa sào, hai dãy nhà dựng chung quanh một cái sân hẹp, hiện ra một cảnh tượng điêu tàn giữa nơi hoang vu ủ dột. Những đống gạch vụn ngổn ngang đè lên một vài cái dui, hoành đã mục nát, hay những gióng tre rời rạc, lẫn với bùn và lá cây. Trên Tam Bảo, mái ngói đã sụt một nửa, chỉ còn trơ lại mấy cái bệ gạch long lở. Chiếc chuông đồng han rỉ nằm chỏng gọng dưới đất. Riêng mấy chiếc nhà ngang lợp ra. dùng làm tăng phòng thì hoàn toàn bị hư hỏng. Ở ngoài vườn, sừng sững giữa đám cỏ gai rậm rạp, một chiếc tháp màu xám tro đứng vươn mình nhìn trời như muốn thi gan cùng tuế nguyệt. Ngọn thép này xây rất cẩn thận, bằng thứ đá rất tốt nên không bị đổ nát.
Sư già nhìn vào trong tháp. Một bát bình hương đã bị lật đổ, nằm nghiêng nhưng không vỡ, lá cây rơi xuống che lấp cả cái bệ con. Chợt sư già khẻ thốt một tiếng kêu, nửa như ngạc nhiên, nửa như sợ sệt, rồi sẽ kéo tay lão Mộc, nói :
- Một bài thơ, lão trượng ạ.
Lão thò đầu vào trong tháp, cặp mắt để ý ngay đến một phiến đá nhẵn thín, rộng độ bằng bàn tay, gắn chặt vào cái bệ con. Trên mặt phiến đá, khắc lờ mờ mấy dòng chữ bị đất và vôi bám vào che lấp quá nửa. Lão cầm phiến đá, lắc lắc mấy cái, rồi nhấc lên mang ra ngoài. Lão lấy dao cạo sạch bùn, rồi sẵn có vũng nước bên cạnh, lấy vạt áo sấp nước lau cẩn thận. Hai dòng chữ khắc nét đậm, nét nhạt, rõ rệt tinh vi, hiện ra dưới con mắt tò mò của hai người. Sư già lẩm nhẩm đọc :
" Khánh Vân thu dưỡng tử Vạn Hạnh thu đệ tử Thập bát tử xuất thế Thăng Long phân bát diệp Lập nghiệp nhị bách niên".
Lão Mộc giật mình nói :
- Sao lại có cả tên của sư phụ, lạ lùng quá.
Sư già gật đầu đáp :
- Đây là lời tiên tri của vị Hoà Thượng đã viên tịch ở chùa này, bần tăng thử đoán qua loa xem có hợp ý lão trượng không nhé! Câu đầu dễ hiểu lắm. Khánh Vân nhận con nuôi. Câu thứ hai :
Vạn Hạnh nhận học trò. Vạn Hạnh là tên vị tăng tu ở chùa Tiêu Sơn. Câu thứ ba :
mười tám người con ra đời. Câu thứ tư :
Thăng Long chia ra tám lá, không biết Thăng Long là danh hiệu người nào? Câu thứ năm :