TUYỂN TẬP TƯỞNG NIỆM
CƯ SĨ TỊNH LIÊN NGHIÊM XUÂN HỒNG
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
NHỮNG VẦN THƠ
Coeur MultipleNgười về bứt
áng mây hồng
Dệt y trăm sắc
ngại ngùng lòng ai
Tôi về mơ giấc mơ dài
Sông hồ hư ảnh trăng cài
sắc khôngNgười về bước nhỏ
thong dongNgậm ngùi tình muộn vương lòng đỗ quyên
Tôi về mở sách
u huyềnMưa hoa lãng đãng mấy miền tịch dương…
Người về nhặt nụ
hướng dươngTô thêm khóe mắt cô nường Huyền-âm
Tôi về khép cánh
hư khôngBồ đoàn che khắp nửa vòng trần duyên…
Người về tiệc rượu
đảo điênChê ly quá nhỏ, hài sen rót đầy
Tôi về tỉa nhánh trúc gầy
Đèn khuya rải bóng vơi đầy Hoa Nghiêm…
Người về lìa suối
tịch nhiênChênh vênh gót ngọc,
đảo điên nụ cười,
Tôi về gấp
áng mây trời
Ôm trăng đổ giấc bên đồi Tào-Khê.
BịnhCành tùng lả ngọn
tuyết sươngThân tàn trăm bệnh biết đường nào ra
Mắt sưng ướt lệ quan hà
Tâm phiền vương giấc hòang hoa rộn lòng
Ô hô mớ lửa phiêu bồng
Thong dong vỗ cánh thoát lồng nhàn du
Nhẹ tay quờ hái nắng thu
Đem về rải chốn vi vu bụi hồng
Nghiêng hồn né ngọn quải phong
Hạt mưa Trích-Lịch gạn lòng phù vân…
Chiều Tâm LượngChiều tàn nở nụ
tâm hoaNắng tàn chợp giấc phai nhòa tình thu
Nửa khuya vượt cửa Thần phù
Khéo tu chẳng nổi vụng tu chẳng chìm
Đường tâm mờ ảo cánh chim
In
như không nọ sao tìm dấu đây?
Ngàn xưa chót lỡ cuồng ngây
Đã bao nhiêu thuở lệ đầy biển vơi!
Giờ đây quảng
giấc mộng đời
Mơ chùm sao rụng nghiêng trời biển Đông,
Mơ miền
hương thủy thong dongLời kinh hư thực rải lòng huyền-không
Chừ đây
thiêm thiếp trăng hồng
Mở tâm
vô lượng soi vòng
trần aiThấy than
bước tới Kim đài
Hóa hình cát bụi hiện ngòai thinh không
Gặp người
thiên nữ thần thôngTung hoa diệu ý toại lòng xót thương…
Tỉnh ra thấy bóng cành dương
Lắc tay song cửa
vô thường mênh mang
Bãi song cồn ngọc cát vàng
Lung linh tâm nở giữa tràng khổ hoa…
Giấc Ngủ ChiềuNắng vàng từ thuở nguyên sơ
Mây bâng khuâng nối tình thu ngập ngừng
Lá mây mở lớp chập chùng
Lớp nào là lớp huyền tâm hỡi người?
Lá xanh ngậm đắng ánh trời
Mây
lơ lửng rải tình đời khó nguôi
Sâm Thương bao thuở chia phôi
Mây xanh mấy độ
bùi ngùi tịch dương
Khép xong ủ kín
đoạn trườngNghiêng tâm đổ giấc
hoang đường giữa thu
Lạ thay nắng quái phù du
Qua mây chiếu lóe
thiên thu ngậm ngùiTâm tư chìm giấc ngủ vùi
Nắng thu rơi rụng kéo lùi
chiêm baoMuộn màng trẩy trái yêu đào
Bóc lần từng lớp hư hao ngỡ ngàng
Lỡ tay dứt sợi nắng vàng
Phai nhòa nhân ảnh
bàng hoàng thu xưa.
Gửi Họ VŨ *
Người đã đi rồi ta vẫn đây
Ngàn năm mây trắng, gíó thu gầy
Sửng sơ lê bước trường quan tái
Chẳng hiểu bao giờ rũ cánh bay…
Ngắt nhành dương liễu
tiễn đưa người
Tụng nửa câu kinh vọng tiếng cười
Văng vẳng đâu đây còn nhịp phách
Của người con gái áo hoa xưa
Có nhớ rượu chăng rượu
ngậm ngùiHồ-trường bảng lảng rót buồn vui,
Rót nơi
muôn thuở không hư ấy
Tưới nở hoa đèn trí-tuệ say
Bốn chục năm qua làn gió thoảng
Có còn chăng vài nét tà huy
Còn chăng
vẻ mặt ngẫm cười ấy
Và giọng
chửi thề tịch mịch say
Ta cũng nhớ người chẳng nhớ ngươi
Nhớ ngươi như nhớ bóng thu gầy
Ngàn xưa nhiều kẻ ra đi quá
Ai ª ai đi biết nói gì?
* tÙc nhà væn VÛ Kh¡c Khoan
Hình Hài Vô LượngHắn qua sông gần hết nhịp phù kiều
Mới
nhận thấy lòng mình không xiết kể,
Lòng
vô lượng nhưng
hình hài duy chỉ một
Từ sơ sinh trơ trụi có vậy thôi…
Lòng vô hạn
ẩn thân hình hữu hạn
Này hóa nhi, như vậy chán hay không?!
Trời đất
bao la như không ngằn mé
Xoạc đôi chân sao lấp khoảng mênh mông?..
Vòm trời sao cơ man như riễu cợt
Cười thầm người chẳng biết cái chi chi,
Mà chẳng thể giơ đôi tay
vít xuốngĐể che mờ nhưng ánh mắt trêu ngươi.
Khắp nơi nơi lao xao bao giọng nói
Của muôn trùng hoa có hẹn hò nhau
Mà chẳng thể mang đôi tai khờ khạo
Lén lặng
nghe lời thề thốt nỉ non.
Thân
thiên nữ tỏa diệu hương bảng lảng
Mọi cỏ hoa bát ngát tiết tịnh hương,
Mà chiếc mũi ngẩn ngơ đầy cát bụi
Chỉ
nhận ra như nhuốm
vị trần ai.
Sông núi trăng sao trầm tư giấc dài
mộng tưởngNiềm
ước mơ dằng dặc ý
triền miên,
Mà chẳng sao phóng ý tình phổ nhập
Những
áng mây chới với buổi hoàng hôn…
Có những lúc
soi gương ngắm nhìn vọng ảnh
Thấy ý tình
vô tận bóng phù du!
Hình
thô kệch làm sao theo nổi ý
Vào những nơi sâu thẳm mịt mùng khơi?…
Hắn
ước mơ được
phân thân thành
vô lượngĐể
ẩn mình từng
hạt bụi cánh hoa,
Để có thể phất vung tà áo rộng
Quơ vào trong muôn ức ánh trăng sao…
Huyền hoặc mà thôi… nhưng thực chẳng có gì huyền hoặc,
Vì
thế gian này… tuồng huyền hoặc khôn nguôi…
Nên hắn si ngây,
Tiếp tục mơ giấc mơ
hình hài vô lượng (1)
Để gieo mình nơi
vô lượng cuộc bể dâu…
Chú thích: (1) Chỉ có
giáo lý nhà Phật mới có thể nói tới vụ
phân thân vô lượng hay
hóa thân vô lượng… Các nền
giáo lý khác đều chưa dám nói tới vụ này.
Hoa Tạng Trầm TưGửi một người đã rũ bỏ
bụi trần ai
Mặt trời đã lặn từ lầu nhưng trăng chưa mọc
Bầu trời
thăm thẳm chỉ có những vì sao lấp lánh
Như muốn
thì thầm nhắn nhủ một điều bẩn dị kỳ…
Mặt trời Đại bi đã lặn rồi.
Mà vầng trăng
Lăng già chưa chịu ló dạng.
Thế gian như trống vắng quạnh hiu
Các hàng trời người đều như quờ quạng
Trong bóng đêm tối đêm sâu,
Chẳng biết nghĩ sao về
thân phận mình
Cũng như về bổn lai cái
vũ trụ lạnh lùng huyền hoặc này
Ngay đến đàn chim cũng
xào xạc thức giấc trong lùm cây
Trong bóng tối đêm sâu,
Chắc rằng có những đàn tiểu quỉ
lũ lượtĐương nghiêng ngả
cả cười..
Nhưng may thay là vẫn còn những vì sao
Tương tự như ánh mắt xa khơi
Đương muốn
thì thầm nhắn nhủ một điều gì…
Khép cánh cửa sài vì thoảng cơn gió lạnh,
Thắp nén
tâm hương khơi dậy
ngọn đèn hiu hắt.
Lần giở những trang tôn linh, đắm mình theo giòng chữ…
Bỗng thấy
bàng hoàng như bơi lội giữa một biển đầy sao…
Và thoáng như nghe hiểu lời
thì thầm nhắn nhủ
Của các
tinh cầu thiên chủ.
Muốn
di ngôn cho các kiếp xưa sau…
Từ thuở không tên.
Ai, Ai đã vén lên tấm màn này?
Tấm màn vừa dị kỳ huyền hoặc vừa hết mực
hiển nhiên.
Khiến cho, thoạt nghe,
Các loài
hữu tình đều dụi mắt thẫn thờ
Vì không tin ở mắt mình,
nghi ngờ tai mình
Ai đã nói lên được cái
Chân lý không thể khác ấy
Về
Đạo lý vận hành của
vũ trụ kiếp sống này?!
Chắc chắn không phải vì một vị vua
trời Phạm Thiên sơ thiền nào đó.
Cũng không phải một vị
Thượng Đế mờ mờ nhân ảnh.
Vì cái
tâm lượng hữu hạn làm sao nói được vô hạn,
Cái có số lượng làm sao nói
vô lượng,
Cái chưa ra khỏi
một thế giới làm sao
mô tả thế giới võng
Và cái còn rơi rớt
vọng tưởng vọng tình,
chấp trước có không,
Thì làm sao
luận bàn rốt ráo về hư kh6ng??
Ai đã nói lên
giáo lý như thực như hư
Về nhịp điệu sở hành của cái
Thâm tâm Diệu quang minh hải ấy???
Ai đã nói lên điều khó thể nói, khó thể biết
Từ mẫn nhắc nhở
chúng sanh si ngây
Trong các cõi nhiều như hạt bøi…
Chỉ rõ biển
Không hải uyên nguyên
hào quang sáng ngời không có một vật
Cùng
bí ẩn của sự động niệm
mê sảng muốn tư chiếu soi
Khiến cho cái
vô tận hiến hình thành tận…
Diễn nói về những
đám bụi hào quang xoay vần
miên viễnLàm lóe lên cơ man còn lốc
ảnh hiện thức biến chập chùng.
Lung linh mê đô ảo phố…
Giảng giải rằng tuy mỗi tia chớp nháng đều mềm niệm diệt,
Nhưng vì suy động bởi sức nghiệp tương tợ
tương tụcNên vẫn
hiện lên như có vật và có tác vi…
Nói về nhịp điệu của
thâm tâm hành
Vừa chu kỳ (cyclique) vừa
cực độ chuyển hiện,
Vừa ly tâm vừa hướng tâm
Và trong đó, những
trạng thái như trái ngược
Vẫn thường
thành tựu lẫn nhau…
Diễn giải không ngừng…
Về
thời gian không gian ngang dọc huyễn mộng
vọng tưởngChỉ là do nhịp điệu bồng bềnh
vô thủy của
tâm thức hữu tìnhVề huyễn số, huyễn tế, huyễn trí
Về cái tâm đại-ảo- sư nổi cơn cuồng mị
Dệt nên Đại-ảo-thành nhốt kín kẻ u mê!…
Nhắc đi nhắc lại
pháp giới này chẳng thực chẳng hư
Chẳng vật chẳng phi vật
Không đoạn không thường, không lai khứ, không
nhất dịChẳng onde chẳng corpuscule
Vì chỉ là
ảnh hiệnVì chỉ là một trường thức-biến mênh mang
Vì mọi sự vật đều không
mảy may tự tánh…
Và sự phủ
định không cùng (negation) chính là chuyển
sang khẳng định (affirmation)
tối thượngVà hết thảy vô-tự-tánh chính là chỉ rõ nơi
thể tánh bờ mé khó thể chỉ bày…
Ai, Ai là bậc Nan-tư có thể khoan thai
từ ái Nói lên những điều như vậy…?
Nhưng trong cái màn lưới thế-giới-võng chập chùng
Dệt nên bởi
đám bụi trần ai nghiệp dĩ,
Ai là những bậc tỏa sức
hào quangĐể làm nơi nương về của
thế giới cùng hư không?
Ai là bậc có đủ
nhãn lựcĐể nhìn thấy cả thế-giới-hải
bao la,
Chỉ nhỏ như một bông hoa khi nở ra lúc cụp lại
Lại nhìn thấy mỗi
hạt bụi cũng nở ra
Thành
một thế giới có đủ trăm vạn ức
Nhật nguyệt tinh tú Tu di cùng
hải hội nhiệm mầu?
Ai là bậc biết rõ và
quở trách các thứ
thiên đường thấp kémCủa ngọai-đạo còn nặng nề
kiến chấp có-không,
Nên chỉ biết
loanh quanh lẩn quẩn nơi mấy tầng trời?
Lại dung tâm-nhãn
tịnh diệuVượt ra khỏi tiểu-thiên
thế giới,
Ra khỏi trung-thiên, khỏi đai-thiên
Trải qua kiếp số, lặng
ngắm nhìn các thứ cõi
Hoặc thô hoặc diệu, hoặc uế tịnh
Để
chỉ đường cho các
chúng sanh hoang loạn
Biết cách xin sang
Tịnh Độ thắng duyên…
Ai là bậc có
thể hiện thân-vô-biên
Tỏa
hào quang bao trùm nhiều cõi
Để biết rõ từng hạt mưa, từng
tâm niệm chúng sanh?
Là bậc
hiện thân mình làm một cõi
Để dung chứa
chúng sanh lăng xăng ngụ vùi…
Có thể bóp nát nhiều
thế giớiThành vi-trần thành bụi
quang minh,
Rồi lại tØ
vi trần kết thành
thế giớiMà chẳng làm kinh động chúng sanh…?
Ai có thể
tùy nghi biến hình các cõi
Làm nơi
thắng duyên hay chỗ trả nghiệp của
chúng sanhAi có thể trụ thân mình trong
vô lượng kiếpĐể chờ đợi một
chúng sanh thành thục căn lành…
Hoặc thay đổi nhịp điệu tâm-hành
Đem một liếp vào một
sát naHay kéo dài
sát na thành nhiều liếp…?
Ai, Ai đây! Ai là bậc Nan-thắng này???
Ai có thể nói rằng:
Diệt tận định cây-khô-tro-nguội chưa phải là bờ mé,
Và tầng trời Phi-tưởng kia vẫn còn chưa phải bến cũ tịch liêu…
Ai là bậc ra vào
thung dung các cơn
đại định,
LÃy m¶t than nhÆp ÇÎnh, lúc xuất lại nhiều thân…
Ai dám nói rằng cơn
tam muội có cơ man không xiết kể,
Nhưng mọi sở hành đều
thu gọn nơi Sat-na-tế-phổ-quang minh???
Ai là bậc
tùy tâm dọc ngang
pháp giới,
Tuy vẫn ngồi
bất động tịch nhiênMà vẫn hiện
hoá thân nườm nượp tỏa khắp hư không…
Mỗi bước chân đi đều
chấn động các cõi
Khiến các nẻo mê-đồ thoắt trÓng vắng rỗng không…?
Ai là bậc giữa những cơn tam-tai kiếp hoại
Làm nổi lên những luồng
phong luân rào rạt
Đầy các
chúng sanh lên những tầng trời sơ-nhị-tam-thiền
Tương tự như làn sóng cồn làm
sống lại đám cá tích ngất ngư…?
Ai biết rõ
chúng sanh dường như mộng-ảo
Song những niềm
đau khổ vẫn có thật triền miên…
Ai dám tự nói mình cũng chỉ là huyễn mộng
Mà chẳng ngừng hứng khởi Đại-bi tâm…
Ai biết rõ các hạnh đều như mơ, như tia nắng quái
Mà vẫn
phân thân hoá độ chẳng ngừng tay…
Ai biết rõ tất cả
thế gian chỉ là huyễn hiện
Mà vẫn
liên miên biến hóa tràn đầy thế gian…?
Ai đã
ân cần khuyên nhủ
Tất cả
chúng sanhPhải làm con cá tích lội-ngược-giòng năm lớp sương mù
Rồi chỉ rõ các hạnh, các địa,
Các
giải thoát môn, các tràng
hạnh nguyện,
Mọi thứ
tâm hành biến hóa,
Để
trở thành những bậc
Tuy vẫn ở
thế gian mà vẫn siêu
xuất thế gian…
Ai là bậc đã nói lên những điều như vậy,
Khiến cho ngàn trước, ngàn sau,
Trải những kiếp số không
thể tính đếm,
Chẳng có một cái gì có thể
thoát khỏiChân lý vận hành của những lời này…?
Ai, Ai là bậc Nan ngộ ấy??…
Ai là ai vậy, những lời ấy là lời gì?…
Sương khuya đã thấm lạnh miền đất sa mạc
Đột khởi lên từ đáy biển sâu do một bàn tay nào đó…
Ngọn đèn như heo hút, lụn bấc vơi dầu
Nhưng trang tôn lánh như im lìm mờ nhạt,
Chỉ nghe gió khuya xào xạc…
Thấy hình như,
thực ra, chẳng có ai nói cả
Và lời kia chỉ là tiếng vọng
thì thầmCủa
pháp giới cùng
tâm thức lặng thinh…
Trên
vòm trời, những cánh buồm sao đã ẩn đi mất dạng
Vì trăng tà đã
hiện lênGiữa thinh không
Lững-lờ-không-bạn
Tỏa
sáng ngời trên bến cũ chẳng có một ai…!
Hư Tình KhúcMây cũng xưa rồi nước cũng xưa
Thu gầy ngơ ngác thoáng hương thừa
Đất trời
thăm thẳm trùng trùng hiện
Nổi khúc hư tình nặng hạt mưa.
Lòng vẫn không hư tự thuở nào
Nẻo đường
lẽo đẽo bặt
chiêm baoNghiêng đầu soi bóng hình
tiều tụyHái đóa phù dung lạt má đào
Nghĩ tới tình xưa lòng
diệu vợiThấy hồn
thuần khiết tóc phân ly
Thấy chữ
ân tình muôn ẩn hiện
Bàn tay gầy guộc lúc phân kỳ
Thoáng mái tóc huyền tung lộng gíó
Nụ cười huyền hoặc nét bâng khuâng
Mảnh thân tinh đẩu chòm sao lạc
Mộng ảo chân tình khó nỗi phân
Bằn bặt hợp chia là thế đó
Là hư là thực nửa hào ly
Vung tay nhịp phách mê-đồ hiện
Bặt khúc hư tình ào phố tan…
Lạc nẻo cố nhânTừ ai tắm suối
Hoa NghiêmSoi mình giòng nước, khép duyên nụ cười.
Giơ tay vớt
ánh sao rời,
Tấm thân cây cỏ
ngậm ngùi trúc tơ,
Rừng phong rụng lá
ước mơSuối trong rũ mộng bên bờ
tịch liêuRằng xưa…nơi bến Phong Kiều
Vẽ lầm…trăng úa,
tiêu điều nhøy hoa…
Trang
kinh hồn mộng chói lòa
Nửa cơn địa chấn phai nhòa tang thương…
Lối đi dặm liễu mờ sương
Tấm y
hoại sắc vô thường…hư nhiên,
Nhẹ bàn tay ngát hương thiền
Thong dong Bửu nữ tới miền Kim-Luân,
Gặp người lạc nẻo cố nhân
Trao bông linh-thoại
ân cần nắng mưa,
Rằng xưa nhiều kiếp hương thừa
Rằng nay mới thực là vừa
cơ duyênCho hay túc trái triền miênBăng khe
tình lụy tới miền thênh thang…
Ai đi
công quả cho đời,
Cho ta đứng lặng
ngậm ngùi chiếc thân…
Qua Sông Ni LiênNiranjana…*
Làm sao nối lại giòng
tâm tưởngCho kiếp
phù trần chớ lãng quên
Làm sao trả sạch
ân tình cũ
Để thả một giòng giấc thụy miên?!…
Qua sông Ni-Liên, giòng sông cạn
Nhìn cát
bạc màu, lòng xót xa
Nhớ một buổi mưa sông đầy ắp
Cùng những bầy chim bay la đà
Chúng tìm gì đây trên giòng nước
SÕi đá
biến thiên nước nhạt nhoà
Có ai lê bước
rừng khổ hạnhĐể tới vũng sông rửa mắt lòa
Linh Thứu núi xưa
mặt trời hồng
Nửa khuya
biến hình thành trăng lu
Có ai gõ trống trên gềnh đá
Bàng bạc thinh
không hoa trời sa
Ngày về bỗng nhận tập “Đọc kinh”
Của người gửi tới từ
hiu quạnhÝ tưởng ngẩn ngơ lời ngập ngừng
Bàng hoàng như cười như rơi lệ…
Chú thích: *
Ni Liên Thiền hay còn gọi là Ni
Liên Hà, chảy gần núi Tượng Đầu và gần xóm
Ưu Lâu Tần Loa, trong nước
Ma Kiệt Đà (nay là
Bồ Đề Đạo Tràng, bang Bihar,
Ấn Độ). Đức
Thích Ca từng ở đây
tu khổ hạnh suốt 6 năm.
Cuối cùng Ngài hiểu rằng
lối tu khổ hạnh này không thể
đưa tới sự giải thoát và từ đó bỏ
lối tu này. Một
tín nữ ở làng kế cận dâng Ngài bát nước cháo (milk rice) và Ngài xuống sông Ni Liên tắm gội…
Say Vào Hoa Tạng*
Xưa kia Lý Bạch (1) sầu
vô lượngHát khúc trầm kha theo Khuất nguyên,
Trăng hồng chênh chếch trời
mã nãoĐáy nước mò trăng có ảo huyền?
Xót người m¥t phấn duyên đòi đoạn
Hay thấy
kiếp người luống nhọc công
Thấy lòng
phiền muộn không bờ bến
Lại gặp trăng gầy úa sắc không?
Họ Lý
ngang tàng vang một thuở
Nhưng chưa hề hiểu mộng “Cuồng Ngây”,
Si ngây ôm mộng nghiêng trời biển
Mà vẫn
thung dung nửa tỉnh say…
Đáy thẳm không hư còn
lồng lộngNghiệp dĩ ngàn xưa mây trắng bay,
Xá chi một mảnh trăng
phiền muộnMà phải
ngậm ngùi mấy kiếp say!
Chẳng thấy Trang Châu(2) người áo vải
Đêm thu lất phất hạt thu bay,
Co tay đổ giấc mơ làm bướm
Cùng với trăng xanh lờ l»ng say.
Hãy học gương “Cuồng” người Đồng-Tử(3)
Si ngây ngồi lặng ngắm trùng dương
Trùng dương bất tận tràn hư ảnh
Mà chẳng giăng sầu lụy vấn vương!
Học người
Đồng Tử miền
Hoa TạngTúy lúy
càn khôn một lỗ lông,
Thấy Sái-cam-lồ bừng chiếu sáng
Hào quang muôn trượng…dạ thong dong!
Đáy nước mò trăng, trăng nào thấy
Chỉ thấy
muôn vàn đốm lửa yêu,
Hãy mò tâm để quang
lồng lộngMột điểm không hư
vạn kiếp đầy…
Chú thích:
(*)
Hoa Tạng: tức
Liên Hoa Tạng thế giới, tên
cõi Tịnh Độ của Phật Tỳ
Lô giá na, được nói tới nhiều trong
kinh Hoa Nghiêm. Theo đó ở biển
Hương Thủy mọc ra một đóa
Đại Liên Hoa, trong
hoa sen bao gồm thế giới nhiều như bụi nhỏ.
Tóm lại,
thế giới Liên Hoa Tạng hay
Hoa Tạng là tên gọi chung các cõi
báo độ của chư Phật, và ở đây hiểu
đơn giản là
cõi Phật theo
tinh thần kinh Hoa Nghiêm.
(1)Lý Bạch:
Thi hào đời Đường bên Tầu, theo
truyền thuyết khi uống rượu say trên thuyền nhìn thấy ánh trăng ở đáy song rất đẹp, ông bèn nhẩy xuống định vớt trăng lên mà chết đuối, chắc nhiều người đều đã biết. Nhắc lại để thấy đó chỉ là một thứ “si mộng” thôi và được coi là thi thoại đẹp.
(2)Trang Châu hay Trang Chu: cũng được nhiều người nhớ. Ông là
triết gia lớn thời cổ đại Trung Hoa, sống
Thanh Đạm, cơm giỏ, nước bầu, co tay làm gối, khi ngủ nằm mơ thấy mình
hóa thành bướm bay rất thảnh. Lúc
tỉnh dậy cứ băn khoăn không biết ông đã mơ hóa bướm hay bướm mơ thành Trang Chu, và
câu chuyện đó
trở thành một “suy tư” có
tính cách triết lý về
chân giả, thực hư trong cuộc sống.
(3)
Đồng Tử:
Thiện Tài Đồng Tử, tên một
đệ tử của Phật. Theo
kinh Hoa Nghiêm, phẩm
Nhập Pháp giới, thì
Đồng Tử Thiện Tài từng theo học với 53 vị
thiện tri thức, và người độ cho
Thiện Tài là hai
Bồ Tát Di Lặc và
Văn Thù. Ở trong các chùa, bên trái tượng
Bồ Tát Quan Âm có đặt tượng
Đồng Tử Thiện Tài, là lấy tích khi
Thiện Tài đi
tham học 53 vị
thiện trí thức, đến vị thứ 27 mới có duyên gặp được
Quan Âm đại sĩ, và
trở thành vị hiệp sĩ của
Bồ Tát.
Chú thích của ông Nguyễn Hữu Hoà: Tôi nghĩ bài thơ này được
tác giả làm vào lúc để hết
tâm chú giảng rất
công phu phẩm
Nhập Pháp Giới, trong
kinh Hoa Nghiêm và sau được in thành ba hay bốn cuốn quyển.
Trăng cài Cổ ĐộNhư kẻ si ngây, hắn lữ hành từ cổ độ,
Trải
hình hài vô lượng bến phù hoa
Mái tóc biếc nhuốm ngàn lần ánh bạc
Vẫn chưa sao bặt hết ý
bềnh bồngNằm nơi đây, lắng song cồn
xào xạcHắn
mơ màng một giọt lửa
tinh vânRớt xoáy trái tim, cháy hừng hực đọ
Đốt tan tành kiếp sống chỉ trăm năm.
Từ thuở xa khơi đã từng nhiều kẻ
Quảng
hình hài mong nhập suốI
hư vôHoá thành cây thông
lạnh lùng réo rắt
Hay hòn đá lỳ đổ giấc vạn năm…
Nhưng hỡi ơi! Hư-vô cũng vẫn là hoài-vọng
Hòn đá kia đâu có thật vô tri!
Và
sống chết chẳng cắt nổi giòng
thức giấcChẳng thể ngừng mừng sợ lẫn say mê…!?
Lạ thay! Lạ thay! Chẳng sao ngừng
tri giácChẳng sao ngừng làm loé ánh hư-minh
Tựa lớp mù-sa bàn tay yêu huyễn
Dệt ảo-thành nhốt kín kiếp phù sinh!
Từ thuở không tên đắm mình giòng hư ảnh
Hết chuỗi này lại chuỗi khác nổi lên
Các thứ
ước mơ theo nhau trỗi dậy
Vung bàn tay nắm bắt: chỉ
hư khôngHư ảnh mà thôi, chẳng gì ngừng chảy
Chẳng có gì nán lại giữa vòng tay
Giấc mộng xa xưa lâu đài yêu mị
Nay tiêu chìm nơi nắng quái
hoàng hônNhưng dị kỳ thay! Hắn lặng lờ khép mí,
Lắng
quên mình, quên tiệt mộng phù hoa
Bỗng thấy nổi lên từ đáy từng
vực thẳmMảnh trăng cài nơi cổ độ hoang vu…
Hoang vu, hoang vu! Chẳng còn một vật
Chỉ
diệu huyền vằng vặc ánh trăng xanh
Xanh thắm trong veo xanh bát ngát:
Duy một con tằm hoá bướm lũng lờ bay?
Trang Kinh Xanh Ngắt
Thần thánh xa rồi…rớt lại đây
Trang kinh xanh ngắt dưới trăng gầy
Chong đèn mờ tỏ lần tờ cũ
Tinh đẩu
quay cuồng lộng gíó bay…
Chạnh nhớ
tiền thân mộng liêu trai
Hồn
ma quỷ mị rỡn trăng say,
Cô gái hồ ly đa phấn diện
Gia hồn
thục nữ ghẹo
chiêm baoMới thấy
lưới tình man mác qúa
Tình dài đằng đặc hận
miên man Tình giăng lồng lộng…ai ra khỏi
Làm khách phiêu bồng đi thế gian?
Lại nhớ
tiền thân đọc Lão Trang
Nghe hồn hóa bướm dưới hoa vàng,
Cho hay mộng túy
trường sinh ấy
Kết tưởng liên thành cánh Nhược tiên…
Tình tưởng là chi mà gớm thế
Là trùng là điệp chẳng gì ngăn,
Tuyệt không ngằn mé…Ai là kẻ
Giăng mắc tưởng tình kín thế gian?…
Nay tụng trang kinh thấy
rõ ràngTờ hoa
lặng lẽ HIỆN trăng vàng
Trăng vàng bỗng vỡ thành muôn mảnh
Hoá hiện hình hài ngập thế gian…
Là tình là say là vật đó
Là tâm
mê sảng hiện
trần aiTrần ai lớp lớp
trùng trùng xoáy
Khởi
đại phong luân vẽ
thế gianTrăng chiếu
tiền thân vô lượng cõi
Lúc vinh lúc nhục cảnh phù hoa
Hiện thân sư tử nghênh đầu núi
Lại hóa muôn trùng núp cánh hoa…
Vô lượng tình duyên như bỗng dứt
Mộng túy
trường sinh cũng dứt thôi,
Thân vẫn bước giữa bờ
sanh tửMà lòng bát ngát huệ vô sanh….
Varranasi
Hắn đứng trơ đây, lặng nhìn
thiên đường vỡ lở,
Những mảnh
thiên đường tan tác giữa trần gian…
Đất của Maya, của những lingams
sừng sững,
Của Shiva ôm nghËt
nữ thần Shakti…
Đất của những kẻ
đạo sĩ trần truồng như nhộng
Ngạo nghễ đứng trên kè đá dọc
sông Hằng,
Soi mình xuống giòng sông như
ngắm nhìn cửa âm môn
mở rộngCủa những loài n» quái trùng điệp sóng Ganga…
Của những kẻ Ni-Kiền, bốc bã rượu trong chiếc sọ người
Để nhắm đưa cay miếng thịt rữa của thây ma,
Hoặc ăn phân mình, uống nước tiểu chính mình
Bài bác nhân quả, tự cho là
La Hán hiện thân.
Hoặc của những bậc
đạo sĩ khá cao siêu như
Uất Đầu Lam Phất,
Triền miên trong cơn
định Phi Tưởng, tự cho là
Niết Bàn tịch tĩnh,
Của những bầy
ăn mày đui mù què cụt đông như bầy ruồi,
Và của những ngõ hẻm không cùng trùng điệp của
vọng thức chúng sanh…
Nơi đây, nơi đây…từng nổi lên trong giấc mơ của hắn,
Từ những trang kinh huyền hoặc khôn dò…
Nơi đây hình như là điềm của đất trời giao hợp
Để các tiểu
thần linh lởn vởn ve vãn gái trần gian…
Nơi đây, nơi đây vừa mịt mùng cát bụi,
Vừa êm ả như cûa ngõ nước Nhược non Bồng
Nên hắn lê gót tới đây, để đứng trơ
bàng hoàng ngơ ngẩnChẳng hiểu mình ở
thiên đường hay
cửa địa ngục trần gian?…
Nơi đây từ lúc rạng đông đã văng vẳng tiếng sáo Krishna,
Và giữa đêm trường tịch mịch,
vẫn có tiếng hát
nghêu ngao tán than thần Shiva,
Nơi đây có
mặt trăng lưỡi liềm ẩn hiện,
Như tranh tối sángvới
mặt trời lúc sắp rạng đông…
Nơi đây có những đàn quạ lúc bay cao rợp bóng tầng mây,
Lúc
sa xuống những ngõ hẻm không cùng tranh nhau mấy miếng ruột hôi thối…
Có những thây ma cháy dở vàng
mùi khét lẹt,
Và những đám người cùi hủi há hốc chiếc miệng không môi…
Có những người đàn bà gầy guộc vú nheo chẳng khác
con la con ngựa,
Nhưng cũng có những người con gái mặc sarees nhiều màu như chiếc cầu vồng,
Mắt biếc như hồ phương tây,
Và nụ cười huyền hoặc như tượng
nữ thần Durga…
Nơi đây có những bầy khỉ trầm tư
giấc mộng tiền thân,
Những bầy trâu đen bóng loáng, những con thằn lằn óng ánh đổi mầu,
Có những đống phân trâu bò cao như gò đống,
Và những giàn hoa vàng gầy phủ kín mái tranh…
Nơi có những buổi chiều êm ả như lướt đi trong mộng,
Hang cùng ngõ hẻm đều bảng lảng các thứ mùi hương,
Mùi hương trầm, hương
chiên đàn cùng hoa cỏ,
Xen lẫn với mùi cống rãnh cùng các thứ mùi phân…
Nhưng bao trùm trên hết vẫn là Ganga Goddess,
Khởi đầu từ miền
tuyết sơn đất trời giao hợp,
Mỗi năm lại dâng những ngọn sóng trùng điệp đục ngầu
ñể phủ kín thành phố Kashi như ôm lấy người tình muôn thuở…
Cũng vì nơi đây nửa
thiên cung nửa tiền
địa ngụcNên bậc
Tĩnh mặc Vô thượng đã
lựa chọn để
xuất hiện với trần gian…
Vì cạnh nơi đây là khu rừng Sarnath
Bát ngát những tang cây xanh mướt như mặt biển Tâm…
Chính vì nơi đây là thành trì của mọi
tà kiến trùng điệp,
Của những kẻ
Hư vô ngông cuồng thách đố,
Của những
đạo sĩ đắm chìm trong niŒm
thiền lạc thiên cung,
Nên bậc
Tuệ Giác Vô Thượng đã đặt bước chân thiên bức luân đầu tiên,
Tới nơi, gõ cửa thành trì,
Và dạy rằng:
Tất cả mọi lòng mong cầu
hoài vọng xoay vần từ
vô thủy,
Đều tạo dựng nên những hình thái
hiện hữu,
Và mọi hình thái
hiện hữuñều chỉ có một
mùi vị khổ đau…
Dù là
khổ khổ,
hoại khổ,
hành khổVẫn chỉ là một
mùi vị khổ đau…
Tất cả chỉ là do những
tập khí vọng tưởngXoay vần
miên viễn từ
vô thủyVà các ông chưa
thông suốt được những cửa ngõ Diệt tận
Để tận diệt những
vọng tưởng điêu linh,
Những người
Bà La Môn các ông chẳng phải thật
Bà La Môn,
Và
Sa Môn, các ông chẳng phải thật
Sa MônVà
Bà La Môn các ông chỉ là kẻ
thủ từ ngồi thu oản chuối,
Và
Sa Môn các ông chỉ biết mơ tưởng
thiên cung,
Đắm chìm trong những cơn
tam muội nông cạn
đảo điênThì làm sao siêu xuân được tam giới?
Ngay đến vị thần Shiva của các ông
Cũng chưa phải là cao cả
tối thượng,
Chỉ là một vị vua trời vào mức
Ly Cấu Nhị Địa,
Mà cũng chẳng thể tạo dựng nên
thế gian nầy
Vì
thế gian này chẳng phải tự sanh, chẳng tha sanh, chẳng cộng sanh,
cũng chẳng phải không nhân,
Vì
thế gian này chỉ là m¶t tuÒng huyÍn m¶ng, một tuồng huyễn hoặc khó nguôi…
Hắn
chợt nhớ được mấy lời kinh
Thấy lòng
vui mừng khấp khởi,
Vội vã rời thành Kashi
Đi xe lôi để vào Samath…
Tới nơi chỉ thấy tàng cây xanh um bát ngát,
Và mấy con dê
thơ thẩn giữa đường…
Sực nhớ đây là
vườn Lộc Uyển,
Nên hắn mua nải chuối
Cúng dường mấy con dê lang bạt…
Lại cũng
sực nhớ đây là nơi
Mà bọn năm người của ngài
Kiều Trần NhưTừng rớt
tóc rụng râu và trút
phiền não,
Nên hắn nhờ một ông thợ cạo ngồi xổm lề đường
Xén cụt mái tóc phong sương
và phải trả mất 4 rupias…
Rồi khoa chân lảng đảng
Bước vào một ngôi chùa gần đó,
Thấy một bầy chim mầu hoa lý
xào xạc rúc rich trong tàng cây,
Lại thấy một ông sư già mặt nhăn nheo như quả táo tầu,
Đương ngồi xoạc cẳng gõ thanh la, lớn tiếng niệm kinh…
Hắn chẳng hiểu gì về lời kinh
chữ nghĩa lạ hoắc,
Nhưng cũng đoán mò đó chỉ có thể là
Đại Bi và
Bát Nhã,
Vì chẳng thể nào khác được…
Nên hắn
đến gần vị sư,
Cúi xuống lấy tay sờ vào bàn chân khô như que củi
Rồi đặt tay lên đầu mình…
Và
bồi hồi tự nhủ:
Thôi! Thôi! Hãy về bứt trái tim hồng,
Bóp tim nhỏ máu trên giòng Hoa Nghiêm…
Vẽ Mạn Đà LaTôi vẫn đi giữa đôi bờ mê tỉnh
Lòng ngạt ngào niềm
ước vọng triền miênNửa xót xa như
tuyệt vọng không bờ
Nửa khấp khởi những chân trời hé rạng.
Tôi chẳng hiểu lòng mình tràn đầy vơi cạn
Sóng gợn
mênh mông mặt nước biển Đông
Hay héo hắt tựa
ao tù rêu phủ
Cạnh bến bờ lau lách quạnh hiu
Tôi khép mắt gợi lên những tinh hà vô hạn
Góc biển chân trời lúc nhúc cảnh
đau thươngNhững hạt bøi vô vàn không xiết kể
Bỗng
biến hình thành biển cả tang thương
Cũng thấy những
hình hài la đà nữ quái
Lốm đốm
tinh vân đốt rực sức mê say
Vết ruồi son trên làn da đọng tuyết
Bỗng lắc mình thành
vực thẳm trùng khơi
Thấy than mìnhhiện hình trên các cõi
Lúc
rỡ ràng như nét vẽ đọng
hào quangLúc
lờ mờ như đám bèo rêu phủ
Và trong than lúc nhúc những thi trùng
Nhưng ở trên, trên tất cả
Chỗ tận cùng của các cõi, các
vi trầnBỗng thấy nổi lên một vùng
hào quang rạng ngời sáng chói
Của các bậc
thần linh ngồi nơi
hải hội nhiệm mầu
Hỡi các bậc
thần linh tịch nhiên bất độngXin đừng động thân, vì chẳng cần gì phải động
Chỉ xin giơ một ngón tay trăm báu
Tỏa luồng
hào quang quán đảnh tới đầu tôi
Như
xưa kia, Ngài
Văn Thù chẳng hề thèm động bước
Chỉ đứng
xa di động nửa bàn tay
Để
quán đảnh một
Thiện tài đầng ngưỡng vọng
Khiến tràn đầy niềm
diệu lạc vô biênTôi cũng là
Thiện tài đây, nhưng
Thiện tài chìm nổi
Là
Thiện tài cuồng vọng động
Phù vânXin
ban cho lồng lộng phút giây này
Để rũ sạch
buồn phiền từ thạch kiếp
Tôi cũng là dồng tử đây vì
tâm hồn si dại
Vì
tâm hồn đầy
ảo tưởng cuồng ngây
Những cơn lốc từ nguyên sơ nổi dậy
Huyền hoặc
hiện hình Long nữ đa đoanTôi chẳng sống bằng cơm khí trời lửa nhật
Mà chỉ sống chờ cơn giao hợp phút giây này
Một phút giây đất trời ngơ ngác
Chợt tan tành giữa mây sáng diệu nghiêm
Xin biển
thức tâm tôi thành
hoa đàm Không tuệBiển ái tâm thành lượn sang Hoá than
Để vỗ cánh vượt muôn
trùng không xiết kể
Ẩn than mình làn mây sang lung linh
Mộng xưa giờ đã thôi rồi
Mộng nay còn luống
ngậm ngùi mấy thân…
HÀO QUANG BỤIgửi Vũ và MT
Đêm không trăng
Bầu trời
thăm thẳm với ngàn sao lấp lánh
Như những ánh mắt xa khơi,
tinh quái riễu cợt
Bên
tai tiếng sóng vỗ ầm ỷ
Xa xa là một thành phố có thể đóan được sự rẫy rụa
cuồng nhiệt Giữa đám xe cộ rập rìu ...
Hắn đứng bậm chân trên nền cát lạo xạo
Thẫn thờ như một kẻ không
chịu đựng nổi nữa
Như nặng chĩu đôi vai cả một trái đất này
Hắn nhủ thầm: sao mình có thể lạc điệu đến thế ?!
Đất vẫn quay, sóng vẫn vỗ
Những
hạt bụi li ti vẫn rộn rã hẹn hò nhau
Những chiếc lá non vẫn
đầu thai để thầm thì
Nơi đầu cành
Mà nào có mệt nhọc gì đâu !
Trên kia, những ánh mắt sao
Vẫn tình tứ chào mời
Và trên những dặm trường bụi
hào quang lãng đãng
Những bộ cánh
thiên thần chắc vẫn lượn lờ bay lượn
Trao đổi cùng nhau những tiếng nói lặng thinh
Thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn xuống các nẻo đường
nhân thếVẫn thấy những đàn hồ ly lóc cóc gót giầy nhung lụa
Xô nhau rình rập những nhịp đập của trái tim khát vọng
Mà nào có mệt nhọc gì đâu ?
Hắn nhìn đăm đăm vào những miền bóng tối
Của bầu trời
thăm thẳmRồi lại nhìn một vì sao lấp lánh
Rồi lại nhìn
ngọn đèn bên lề đường biển
Chợt một khoảnh khắc, chợt hắn như chợt
nhận raCái
bí ẩn muôn thuở của
vũ trụ đùa cợt này
Hắn nhếch mép cười như mếu
A! Thì ra là vậy!
Có lẽ như vậy, không thể khác được!
Thì ra những cái gì lấp lánh thì còn được coi là
hiện hữuVà cái gì tạm thôi lấp lánh
Thì mờ nhạt vào bóng tối mịt mùng
Và tất cả chỉ là những
đám bụi hào quang lãng đãng
Chập chùng mờ tỏ
Trên những dặm trường huyền hoặc
vô lượng này
Hắn bỗng
nhận thấy trái tim
già nuaNhư rộn ràng muốn đập
Tương tự như một người bạn cũ đã mòn lời tâm sự
Nay mỉm một nụ cười
nhận ra nhau
Vì muốn cầm tay mà chẳng nắm được !
Nắm sao được ? Mộng sao được !
Vì mọi bàn tay đều trôi dạt lung linh
Chỉ có một người, độc một người, nắm được những
đám bụi hào quang Hắn
hân hoan nguyện thầm trong bụng
Ta về bứt trái tim hồng
Ngồi yên lặng đếm từng giòng
hào quang Nghiêm Xuân Hồng(đăng trên báo Văn do Mai Thảo chủ biên số 37 tháng 7 năm 1985)
Độc Đăng ĐàiChiều chiều, hắn
lững thững tản bộ tới đó là
y như thấy mỏi cẳng.
Có lẽ nơi đó có mấy lùm cây um tùm rậm rạp
Trông mát rượi, mà hắn thì thích lùm cây.
Nơi đó có mấy bức thềm tam cấp
Của ngôi nhà thờ Methodist Church.
Nên hắn hay ngồi trên thềm
Hút thuốc phì phèo
nghĩ ngợi vẩn vơ Vừa lúc nãy, hắn đi qua mấy cái sạp lồng kính bày bán báo
Thấy đăng tải 1 giòng tin: Sartre, giant of philosopher, dies
Hắn lẩm bẩm: Thì ra y đã chết, đã chết, nhà
triết gia của những con ruồi Hy Lạp
Nhưng không hiểu chết ra sao ?
Hay lại chết trong một cơn lucidité đầy mê
mê muội muội ?
Hắn thầm nghĩ tay này có qúa nhiều chất não.
Đã nhìn thấy cái rỗng - không của tâm - thức
con ngườiNhưng không biết đường nhập vào cái không - hư ấy
Nên
rút cuộc, chỉ vẽ ra một
mê đồ vọng - tưởng
Rồi sa lầy trong đó như con ruồi mắc lưới nhện tơ !!
Ngồi nơi đây, hắn lặng nhìn
quang cảnh buổi chiều chủ nhật.
Phía
trước mặt là chiếc sân trống nhà trường
Chỉ có mấy đứa nhỏ cầm chầy đương quật bóng base ball
Quang cảnh buồn nản, trống vắng, ngắc ngoải
Vì những ngày cuối tuần tàn rỗi, và mai là ngày thứ 2
Ngày mai thì
mặt trời vẫn mọc, nhưng
mặt trời của
lầm than" ... Các người sẽ phải đổ một bát mồ hôi
Để đổi lấy một khúc bánh mì ..."
Đó là lời dạy chua xót của một bậc có nét mặt
thiên thầnNói vọng lại từ miền sa mạc Galilee
Ôi ! Khúc bánh mì nâu hay bát cơm đỏ quạch
Thì cũng đồng một vị nhọc nhằn
cay đắng ...
Chợt nhìn thấy trên vách nhà thờ một tờ khuyến tấn
Có hàng chữ in to bằng nắm tay:
Be awake
Jesus will come again
Đó là một điệp khúc
tín giải vững vàngHay chỉ là ảo-ảnh hy-vọng
tương tự như chiếc cầu vồng khí ánh dương xuyên làn mưa bụi ?...
Nhưng
loài người trên trái đất hình như nhọc nhằn qúa rồi
Và đã chia thành 2 phe rõ rệt:
Một
đa số thì bị đày ải,
đói khát,
rã rời,
kinh hoàng như một lũ ứng viên
địa ngụcCòn 1
thiểu số thì mê loạn: cuồng điên, nghiền máu và mùi thuốc súng như một đàn qủy
đầu thaiNên
con người đành phải nhắc lại điệp khúc: Let Thou Come Again
Nhưng các bậc
Thần Linh hình như còn
lẩn mặtCó lẽ chán nản vì mùi xú khí nồng nặc của
loài ngườiNên chưa chịu chìa bàn tay có ngàn mắt để
độ trì cứu chuộc ...
Bao giờ đây ? Bao giờ đây ?
Hắn nghĩ lan man, nhớ tới mấy lời trong kinh L'Ecclesiaste:
"Hư Không của
Hư Không .... Tất cả chỉ là
Hư Không ..."
Nếu vậy, thì những niềm
thống khổ kia cũng chỉ là
hư không sao ?
Như vậy, thì hơi đâu mà nhỏ lệ than van ? ...
Bỗng nghe những nhịp chân chạy lạch bạch
Thì ra một cặp vợ chồng trẻ
Mặc quần ngắn phô cặp đùi phốp pháp
Đương cùng nhau chạy bộ theo kiểu đường trường
Theo sau là một con chó lông xù
thỉnh thoảng kêu lên ăng ẳng
Cả bọn qua rồi lại thấy một cô gái đi tới
Giầy vải, quần tím buộc túm mắt cá
Tóc vàng, mắt xanh, môi đỏ
Đôi vú căng phồng dưới làn áo có in mấy chữ Handle with care
Nét mặt
mãn nguyện về tấm
hình hàiHắn ngẩn ngơ hồi lâu suy tư về đôi vú của Eva
Rồi
bùi ngùi tự hỏi:
Không lẽ hai trái đồi tươi mát ấy lại chính là rừng rậm của khổ đau ?
Không lẽ 2 trái cấm địa đàng ấy lại là Không Hư cả sao ! ?
Lòng hắn chợt vui lên: một con chim gáy đang đủng đỉnh khoan thai
Bước những bước nhỏ qua mặt đường nhựa
Rồi leo lên lề cỏ
Hắn nhìn kỹ con chim có bộ lông nầu hồng phơn phớt
Lần đầu tiên, hắn thấy con chim có phong thái
Ung dung tao nhã như cô gái không đẹp nhưng có phong tư
Con vật bước
lăng xăng trong cỏ, chẳng biết định đi đâu ....
Vừa lúc ấy thì cặp vợ chồng chạy bộ
Chắc đã qua hết lộ trình nên vòng
trở lạiCon chó thấy hắn ngồi lù lù
bất độngBèn dừng lại, vểnh mõm sủa gâu gâu
Nó sủa một cách
chân thành tin tưởngKhiến hắn nẩy
tình thương con vật
Nên nhủ thầm:
Này chó, đừng nên sủa nữa
Đừng nên
thêm thắt những
âm thanh vô nghĩa vào cái
vũ trụ đã qúa
vô nghĩa này
Nếu mi cứ
tiếp tục sủa như vậy
Thì cái nghiệp chó của mi vẫn cứ dằng dặc
triền miênHãy
chịu khó suy tư một chút
Và
cầu xin chuyển
thân thành 1
hình hài khác thì hơn
Còn 2 ông bà chủ mi nữa
Nếu chỉ biết nâng niu chi chút cái mảnh
hình hài bị thịt
Thì ngàn vạn năm nữa, trái đất này vẫn
mãi mãiLy-loạn-loạn-ly
Hắn ngồi đã thấy ê đít, nên
uể oải đứng dậyNgước mắt nhìn 1 lần nữa tờ giấy trên tường
Jesus will com again
Rồi bước đi.
Nhưng ra tới đầu đường lại nhìn thấy con chim gáy
Con vật không đi
lăng xăng nữa, mà đương nằm phủ kín 2 chân
Nó nằm
yên ổn, bình thản giữa
vũ trụ quay cuồngĐôi mắt nhỏ tròn, hiền hoà lấp loáng như 2 chấm mực.
Người và chim nhìn nhau, nhưng con vật vẫn không nhúc nhích
Tròng mắt long lanh như thoáng một nụ cười thầm ...
Hắn bỗng lẩm bẩm: Biết sao được ! Biết sao được !
Có thể, có thể lắm, HE will come again
Rồi hắn bước vòng xuống mặt đường để nhường lối cho chim
Nghiêm Xuân Hồng
(báo Đất Mới, Seattle, số 195, ngày 29-2-1984)