TUYỂN TẬP TƯỞNG NIỆM
CƯ SĨ TỊNH LIÊN NGHIÊM XUÂN HỒNG
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
MỘT BUỔI CHIỀU Ở TÂY HỒ
VỚI NGHIÊM XUÂN HỒNG TIÊN SINH
Tịnh Thủy
Chúng tôi đến Bắc Kinh bằng chuyến xe lửa đêm, từ thành phố
Đại Đồng và rời Bắc Kinh bằng chuyến bay chiều, để tới
Hàng Châu. Phi trường không lớn, thưa người, lại trời mưa nên
tỏ ra ảm đạm.
Lặng lẽ,
chúng tôi theo người hướng dẫn viên du lịch ra xe về khách sạn. Thành phố
Hàng Châu ướt sũng trong mưa vào buổi chiều
chúng tôi đến. Nhưng qua ngày hôm sau, trời nắng ráo, không khí trong lành và bầu trời thật xanh.
Không biết duyên thơ, duyên đạo hay
nhân duyên nào đã đưa đẩy
chúng tôi
có dịp cùng Nghiêm
tiên sinh dạo chơi bên bờ Tây Hồ, thành phố
Hàng Châu vào một buổi chiều sắp tắt nắng, của ngày cuối cuộc
hành trình du lịch thành phố này.
Chúng tôi đã cùng cụ chậm rãi,
thong thả và nhẩn nha bước từng bước chân
trên bờ hồ,
ngắm nhìn những đóa sen nở muộn, trong váng chiều vàng lãng
đãng rơi trên mặt hồ. Cụ
nói nhiều lắm về những
thế giới mông lung
huyền ảo, về
thế giới quỷ thần, về trăng, về sen và về những thi sĩ lừng danh đời Đường, nào Lý Bạch,
Đỗ Phủ,
Bạch Cư Dị với
Bạch Y cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du
của
Việt Nam, người đã từng đặt chân đến Hồ Tây này, đã từng bơi thuyền ngắm trăng, xem
hoa sen nở và xem những người con gái hái sen.
Tôi không còn nhớ hết
chi tiết nội dung
câu chuyện giữa
chúng tôi và cụ,
vì đã hơn một thập niên rồi, nhưng bây giờ mỗi khi kể cho ai nghe
câu chuyện về Tây Hồ
Hàng Châu, thì tôi nhắc thêm về cụ Hồng, một nhà thơ, một nhà văn, một
học giả, một nhà
tư tưởng và một
Cư sĩ uyên thâm Phật Pháp, của
Việt Nam cận đại, cũng đã đặt chân đến đây,
ngắm nhìn sen nở, nhìn
ánh mặt trời tắt dần trên Tây Hồ và rải những câu
thần chú khắp mặt hồ, để cầu cho một nước
Việt Nam thanh bình, cho
chúng sinh mọi miền
an lạc.
Khi nhắc đến Nguyễn Du, tôi có
trao đổi với cụ về một
giai thoại mà hầu như ít người biết đến, nửa như thực, nửa như hư, về một thời Nguyễn
Du tiên sinh ở
Hàng Châu, do
nghe được từ một người bạn già, trong một
hội ái hữu của chồng tôi kể lại. Không biết cụ có nghe rõ hay nghe hết
câu chuyện tôi kể lại không, nhưng nay, tôi xin kể lại, viết lại thành văn, như là một kỷ niệm với cụ, vào một buổi chiều tối ở Tây Hồ, đầu Thu năm 1991.
Số là trong một
bữa ăn tối, tại một nhà hàng
trước mặt Hồ Tây, vào cuối thu năm 1986, người kể chuyện (*) được làm quen với một người Tầu mang hai dòng máu Việt Hoa, đã già, từng sống ở
Việt Nam lâu năm, và nói được
tiếng Việt, tên là Quách Hán. Quách Hán mời về nhà dùng trà xem tranh và
giới thiệu bức tranh thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du làm năm 1813, khi ghé thăm Tây Hồ.
Như gặp được
tri kỷ, ông Quách Hán kể về nguồn gốc
bức tranh thơ: “Năm 1813, cụ Nguyễn Du được vua Gia Long cử đi công cán tại Trung Hoa. Khi tới
Hàng Châu, cụ nghỉ tại
nhà khách chính phủ. Một buổi chiều, trong lúc
nhàn rỗi, giong thuyền
hóng mát ở Tây Hồ và đọc cuốn “Tiểu Thanh Ký”, kể chuyện nàng Tiểu Thanh, một nữ sĩ
nổi tiếng đời vua Hiến Tông nhà Minh. Nàng là người
tài sắc vẹn toàn, nhưng tình duyên
lận đận, lấy
phải người chồng đã có
gia đình, thườnghay bị vợ cả
la mắng đánh đập, lại bị chồng phụ rẫy tình xưa.... Tiểu Thanh phải trốn ra ở trong một gian nhà tranh ven Tây Hồ, rồi
buồn phiền lâm bệnh. Một đêm kia,
tự nhiên lửa bốc cháy từ gian nhà tranh của Tiểu Thanh. Khi dân làng tới cứu,
dập tắt được ngọn lửa thì nàng đã ra người
thiên cổ. Trong đống tro tàn còn sót lại một số thơ văn của nàng mới làm. Sau đó một
văn nhân, vì
xót thương người
tài hoa bạc mệnh, nên thu thập
tài liệu viết thành sách nhan đề “Tiểu Thanh Ký’, trong đó ghi chép
tiểu sử và
văn chương của nàng. Sau khi đọc
xong chuyện nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du thấy
lòng chạnh buồn, liền làm bài thơ bằng chữ Hán, khóc người
tài hoa vắn số và bài thơ này được
truyền tụng trong giới thi văn ở
Hàng Châu từ hơn
100 năm nay...”
Bài thơ chữ Hán nhan đề là “Độc Tiểu Thanh Ký Cảm Tác”, được ông Quách Hán chép lại ra giấy, trao tặng cho người mới quen, và ông đã
dịch thoát
ý ra văn Việt như sau:
“Cành mai ở Tây Hồ đã
biến thành nấm mồ hoang,
trong gió
thu nhỏ lệ khóc người phận mỏng,
trời sanh có thấu mối sầu này không,
vì nghiệp
văn chương mà nàng mang lụy,
tôi và nàng
cùng chung một nỗi niềm.
Không biết ba trăm năm sau nữa trên trần gian có ai khóc Tố Như không”.
Đó là
câu chuyện được viết lại ra đây để kỷ niệm, một buổi chiều tối ở Tây Hồ,
Hàng Châu với Nghiêm
tiên sinh, để nhớ về cụ, nhớ lại cảnh Hồ Tây trong sương chiều mờ ảo, trong ánh trăng huyền hoặc lúc đêm về. Chỉ
tiếc là sự
hiểu biết của tôi về vẻ đẹp
thiên nhiên, về văn thơ của cụ, không có là bao nhiêu, nên không thể viết ra được những nét đẹp kỳ ảo của Tây Hồ trong cảnh
hoàng hôn sương mờ và những nét đẹp
kỳ diệu thâm mật trong văn thơ của cụ. Xin trang trọng thắp lên một nén hương lòng, tưởng nhớ đến cụ, nhân ngày giỗ đại tường.
Tịnh Thủy
Chú Thích:
(*) Người kể chuyện lại, là ông Tôn Thất Tùng, công chức Bộ Công Chánh, VNCH trước năm 1975.