So Sánh Triết Học Bà La Môn (Triết Học Ấn Độ) Và Đạo Lý Phật Giáo (Hoàng Nguyên)

04/12/201112:00 SA(Xem: 28484)
So Sánh Triết Học Bà La Môn (Triết Học Ấn Độ) Và Đạo Lý Phật Giáo (Hoàng Nguyên)
SO SÁNH TRIẾT HỌC
BÀ LA MÔN (TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ) &

ĐẠO LÝ PHẬT GIÁO
(Hoàng Nguyên)

Đây là tiểu luận sau khi tôi học xong môn Triết học Ấn Độ. môn này do Tiến sĩ Đại Đức Thích Lệ Thọ hướng dẫn....nay đăng lên để cho các bạn muốn tìm hiểu thêm về Phật giáo tham khảo, nếu bài viết về Trung Đạo mang tính nghiên cứu khoa học vì nó đưa ra quan điểm riêng của người viết thì bài này chỉ mang tính phổ biến khoa học mà thôi (tiểu luận so sánh đối chiếu)

Dẫn nhập
Lý do chọn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Nội dung
I. Học thuyết Bà la Môn
1. Tư tưởng luận
1.1 Thực tại tối cao
1.2 Tự ngã và luân hồi
2. Giải thoát luận
2.1 Tư tưởng giải thoát trong triết học
2.2 Biện pháp và các trạng thái tâm linh trong quá trình giải thoát
2.2.1 Biện pháp giải thoát
2.2.2 Trạng thái tâm linh trong quá trình giải thoát
II. Đạo lý Phật giáo
1. Tư tưởng luận
1.1 Thực tại tối cao
1.1.1 Quan điểm của Phật giáo về thần linh
1.1.2 Quan điểm Phật giáo về nguồn gốc của con người và vũ tru
1.2 Tự ngã và luân hồi
2. Giải thoát luận
2.1 Tư tưởng giải thoát của Phật giáo
2.2 Biện pháp và các trạng thái tâm linh trong quá trình giải thoát
2.2.1 Biện pháp giải thoát
2.2.2 Trạng thái tâm linh trong quá trình giải thoát
III. Tương đồng và dị biệt
1. Điểm tương đồng
2. Điểm dị biệt
2.1 Về thực tại tối cao
2.2 Về tự ngã và luân hồi
2.3 Về phương pháp tu tập để giải thoát
2.3.1 Con đường tu tập
2.3.2 Các trạng thái tâm linh đưa đến giải thoát
3. Ảnh hưởng của học thuyết Bà la Môn trên Phật giáo
4.Ảnh hưởng của Phật giáo trên Bà la môn giáo

IV. Kết luận


Lý do chọn đề tài và phạm vi nghiên cứu

Có thể thấy rằng Đức Phật, giáo chủ khai sáng Đạo Phật, là một người được giáo dục trong môi trường của Veda. Từ khi sinh ra, lớn lên và thậm chí cả khi đi xuất gia tu hành, ngài cũng trang bị cho bản thân bằng những kinh nghiệm đã được hấp thu từ nền giáo dục của truyền thống Veda. Sự tham cầu học và đạt được những kết quả tối cao trong phương pháp của hai đạo sĩ A-la-la và Uất-đầu-ca, sự tìm cầu giải thoát bằng đường hướng khổ hạnh , đã cho thấy rõ điều đó. Hơn nữa, cùng bắt nguồn trên mảnh đất của triết lý, lẽ tất nhiên Phật giáo và Bà-la-môn giáo không thể nào không có những mối quan hệ nhất định được,
Do vậy, để làm rõ mối tương quan này thì cần thiết so sánh những điểm tương đồng và dị biệt của hai khối tư tưởng triết lýđạo học đã được coi là chủ yếu nhất của Ấn Độ.
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận ngắn không phải là một bài khảo cứu chuyên ngành – nên nó chỉ được giới hạn trong những điểm cơ bản nhất mà bằng phương pháp phân tích so sánh người viết đã sử dụng để đánh giá về sự tương đồng và dị biệt của hai trào lưu tư tưởng đã có quan hệ sâu đậm lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử. Việc phân tích mở rộng nó sẽ được đặt trong các bài luận văn mang tính chuyên sâu hơn.

Nội dung

I. Học thuyết Bà la Môn


Bà-la-môn (zh. 婆羅門, sa., pi. brāhmaṇa)
Là danh từ chỉ một đẳng cấp, một hạng người tại Ấn Độ Thuộc về đẳng cấp Bà-la-môn là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lĩnh đạo tôn giáo. Dân chúng Ấn Độ rất tôn trọng đẳng cấp này.
Đạo Bà La-Môn (Brahmanism)
Cũng gọi Ấn giáo hay Ấn Độ giáo (Hinduism), là đạo bản địa của người Ấn (Hindus), hình thành ở Ấn Độ khoảng năm 1.500 trước Công nguyên hoặc sớm hơn nữa, tức là có trước Phật giáo ít lắm cũng khoảng 10 thế kỷ. Không xác định ai là giáo chủ hay người mở đạo. Bậc chân sư đắc đạo hướng dẫn tâm linh cho tín đồ được gọi là guru. [1]

Nói đến học thuyết, triết lý đặc biệt là triết lý Đông phương thì cần phải tìm hiểu quan điểm của nó về thực tại tối cao, về tự ngã và tư tưởng giải thoát của nó.
1. Tư tưởng luận
1.1 Thực tại tối cao:
Trong một xã hội còn thô sơ, thì niềm tin tưởng Thần quyền rất mãnh liệt, những bộ lạc Ấn thời cổ do nhận thức còn đơn giản, lại phải đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn, họ luôn có ý nghĩ nương nhờ vào thần linh và để thỏa mãn các yêu cầu của thần linh thì họ đã bày ra các phương pháp cúng tế, dâng các vật sống lên cho các vị thần linh. Các vị thần của họ bao gồm rất nhiều như thần gió, thần lửa, thần sấm, thần mưa, thần Ruda (hung thần)…Có thể thấy rõ điều này trong bộ kinh Veda, bộ sách có mặt đầu tiên trong văn hóatư tưởng Ấn Độ, nội dung của nó gồm nhiều bài thơ mang tính thần khải, như bài tế Vata ( thần gió)
“Travelling on paths of air’s mid region no single day doth he take rest or slumber
“Holy and earliest born, Friend of the waters, where did he spring and from what region came he,
“Germ of the world, the Deities vital spirit, this god moves ever as his will inclines hill
“His voice is heard, his shape is ever viewless.
“Let us adore this wind with our oblation (Rig. Veda X.160)
“Phi hành khắp không gian, chẳng giờ phút tạm an, thánh linh từ vô thủy, người bạn của sơn thủy, nơi đâu được xuất hiện, người đều đủ phương tiện. Thần linh rất vĩ đại, tự do bay không ngại, tiếng vang khắp không gian, hình bong không thấy dạng, thành kính thần Veta, cúng dâng đọc thánh ca.[2]
Nền tín ngưỡng được bắt đầu là nền tín ngưỡng đa thần giáo (Polytheism)
Lịch sử Ấn Độ đã cho thấy, bộ lạc đầu tiên Aryan ngày càng phát triển, họ bắt đầu xâm chiếm các bộ lạc khác, mở rộng đất đai và từ đó xã hội cũng được thay đổi về tổ chức cũng như chính trị và tư tưởng. Tù trưởng bộ lạc được bầu lên, và các nhóm bộ lạc cũng liên kết với nhau để bầu lên một tiểu vương để giữ dây liên lạc trong hệ thống bô lạc và bảo vệ an ninh chung.
Tổ chức xã hộiliên quan đến tín ngưỡng dân tộc, từ tư tưởng đa thần giáo họ đã quan niện nhất thần quyền giống như khái niệm của một tiểu vương cai trị nhiều bộ lạc và có các quan chuyên ngành phụ giúp, vị thần tối cao đó là Phạm thiên (Brahman). Từ đó, Phạm thiên được phổ biến trong dân chúng và trở thành một tập tục truyền thống ở Ấn Độ, Phạm Thiên vị chúa tể đầu tiên có quyền năng sáng tạo. Như vậy,nền tín ngưỡng đa thần giáo trở thành nền tín ngưỡng nhất thần giáo.
Tuy nhiên, tư tưởng tín ngưỡng của con người không phải đứng im một chỗ, nó cũng được phát triển dựa trên sự phát triển của đời sống xã hộitôn giáo, con người Ấn Độ thời đó bắt đầu suy tư từ những câu hỏi triết lý: Ai tạo ra vũ trụ, con người, con người từ đâu mà tới và chết sẽ đi về đâu?…
Để đáp ứng yêu cầu tư tưởng triết lý đó, Triết học Veda cũng được khai triển và cho rằng Brahman là căn bản của vũ trụ, tất cả sự vật đều là hình thái của Brahman. Brahman và Atman (Thần ngã) chu biến khắp pháp giới.
Tư tưởng xuyên suốt của Bà La Môn giáohọc thuyết Phạm thiên “Phạm ngã đồng nhất”, phạm chuyển biến sinh ra vạn vật. Upanishad cho rằng: “vào lúc sơ khai có một vị Phạm thiên (Bràhman) đột nhiên phát nóng và nổ tung ra thành tứ đại; tứ đại kết hợp sinh ra vạn pháp”. Như vậy Upanishad quan niệm vạn pháp do Phạm chuyển biến sinh ra nên mỗi cá thể đều có mặt của Phạm thiên.
1.2 Tự ngã (Atman) và luân hồi
Tự ngã Atman là một thực thể nội tại trong mỗi cá nhân. Hơi thở là nguồn sống vật chất thì Atman là hơi thở siêu nhiên, là nguồn sống thiêng liêng. Atman là thực thể làm cho con nguời vượt lên trên vạn vật. Có thể nói Atman là thành phần của Brahman trong con người. Brahman là cái ngã vũ trụ đại đồng, còn Atman là cái ngã cá nhân. Braman chỉ có một, Atman là số nhiều, nhưng cái nhiều ấy chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai chỉ là một. Học thuyết Bà la môn cho rằng khi thân xác chết thì Tự ngã (Atman) lại trở về hợp nhất với Đại ngã (Brahman).
Và khi thuyết minh sự tương tục của linh hồn sau khi chết, bảo rằng tự ngã như viên đạn, nhờ hoả lực của nghiệp đưa đến một nơi nhất định, rồi lại từ nơi ấy nhờ hoả lực mới đưa đến một nơi khác. Như thế căn cứ vào sự bất diệt của linh hồn mà nhận có luân hồi.
2. Giải thoát luận
2.1 Tư tưởng giải thoát trong triết học
Cứu cánh của mọi triết học, tôn giáo chính là vấn đề giải thoát. Brihad Aranyaka Upanishad nói: “Bậc chân tri sau khi chết sẽ vượt qua không gian lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng”.
Tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ tuy đa dạng muôn hình muôn vẻ nhưng đều đưa đến một mục tiêu duy nhất là “tìm ra chỗ quy hướng của kiếp người, tìm lấy một phương châm thực tiễn để quyết định cho lẽ sống”
Hay nói một cách khác, triết học Ấn Độ luôn tìm cách vén mở chính thế giới nội tâm của con người, giúp con người giải thoát trọn vẹn về mặt tâm linh thoát khỏi cảnh đau khổ của kiếp người. Và cũng chính điều này nên triết học Ấn Độ luôn gắn liền với tôn giáo, từ thời Áo nghĩa thư về sau, tất cả các trường phái triết họctôn giáo Ấn Độ không chỉ lấy tư tưởng giải thoát làm mục đích tối cao cho tư tưởng triết học của mình mà còn tận tâm tận lực bằng mọi con đường cách thức và phương pháp khác nhau để cố gắng đưa con người ta đạt tới sự giải thoát [3]
2.2 Biện pháp và các trạng thái tâm linh giải thoát
2.2.1 Biện pháp giải thoát
Và làm thế nào để giải thoát, thì phái Vaisesika cho rằng : muốn giải thoát luân hồi phải tu tập khổ hạnh để đạt đến cảnh giới thuần tuý của Àtman. Upanishad cũng như phái Yoga thì lại dùng phương pháp thiền định để thể nhập Atman (tiểu ngã) vào Bràhman (đại ngã). Tóm lại Có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát:
- Con đường tri thức đòi hỏi tu hành khổ hạnh, chuyên tâm rèn luyện, sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
- Con đường hành động theo nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích chung, vì cái thiện, vì đại ngã.
- Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất, dành cho mọi người đó là con đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng tối cao – Atman có thể hoà nhập với Braman trong tình yêu và bằng tình yêu cao cả thiêng liêng.
Nhìn chung, tuy phương pháp tu của Bà La Môn có khác nhau nhưng mục đích hướng đến chỉ là một, đều mong muốn thể nhập Atman vào Bràhman, đó là cảnh giới vĩnh hằng của Bràhman.
2.2.2 Trạng thái tâm linh của quá trình giải thoát
Trong Bà-la-môn giáo, Chàndogya Upanisads đã phải dùng đến câu chuyện giữa Prajapati và Indra. Trong câu chuyện này đề cập đến 4 giai đoạn thể nghiệm Atman của Indra. Bốn giai đoạn đó là:
- Thức(Vishva) - Mộng(Taijasa)
- Ngủ say không mộng(Pràjna) - Ý thức tâm linh(Turiya)
Với sự hoàn tất cả bốn giai đoạn trên, người Bà-la-môn có thể được đồng nhất Atman với Brahman đồng thời tận hưởng hạnh phúc của sự vĩnh hằng giải thoát mọi đau khổ.

II. ĐẠO LÝ PHẬT GIÁO

1. Tư tưởng luận

1.1 Thực tại tối cao:
1.1.1 Quan niệm Phật giáo về các vị thần linh
Đạo Phật cũng công nhận có các vị thần như chư thiêncõi trời, các vị Long thần hộ pháp phát nguyện hộ trì chánh pháp, hay cũng có những người do đời trước có công lớn với đất nước, sau khi qua đời được làm thần… Đạo Phật đặt các vị thần linh bình đẳng với con người trên tương quan nhân quả. Tuy các vị thần ấy có nhiều phước báo, sống sung sướngcõi trời, nhưng đến một lúc nào đó hết phước, theo nghiệp tái sanh trở lại trong sáu đường. Đạo Phật khẳng định khôngthần linh vạn năng bắt buộc tín đồ phải sợ hải, cúi đầu vâng lịnh. Do đó Phật tử không quỳ lạy phục vụ một oai lực siêu nhiên nào, chẳng những cầu nguyện van xinvô ích, mà còn là thái độ nô lệ tinh thần. Trong Phật Giáo, người Phật tử lễ bái Đức Phật chỉ là để bày tỏ lòng tri ân, ngưỡng mộ.Trong nghi lễ, tụng kinh chỉ là phương tiện để lắng tâm trở lại, tụng đọc lại lời dạy của Đức Phật rồi theo đó tự mình tu tập, tự mình giải thoát phiền não khổ đau, chứ Đức Phật không ban ơn, giáng hoạ một ai. Đức Phật nhấn mạnh: “Người tôn kính Như Lai nhất là người thực hành theo giáo lý của Như Lai”
1.1.2 Quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc của con ngườivũ trụ
Theo quan niệm của Đạo Phật, mọi vật tồn tại trong thế gian này, từ những vật lớn như sơn hà đại địa đến những vật nhỏ như hạt cát đều do duyên sinh rồi do duyên diệt. Đức Phật dạy: “Duyên sanh là thực tánh của vạn pháp, sự thật này không thay đổi dù Như Laixuất hiện hay không xuất hiện”. Duyên khởi nói lên bản chất của các pháp là “duyên sanh tánh” hay “ vô ngã tánh”. Do vậy, Phật giáo đã không cho rằng Phạm thiênđấng sáng tạo vũ trụ vạn vật
1.2 Tự ngã và luân hồi
Về tự ngã, Đạo Phật cho rằng con người được tổng hợp từ năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thuộc phần vật lý; thọ, tưởng, hành, thức thuộc phần tinh thần. Con người ngũ uẩn do Mười Hai Nhân Duyên sinh khởi, Mười hai Nhân duyên diệt thì con người ngũ uẩn diệt. “Diệt” không phải là mất hẳn mà tuỳ theo nghiệp tạo tác trong đời hiện tại dẫn đến hình thành đời sống trong vị lai.

2. Giải thoát luận

2.1 Tư tưởng giải thoát của Phật giáo


Theo Đạo Phật, giải thoát là một trạng thái tâm linh, trong đó vắng bóng mọi sự ràng buộc của dục vọng, tâm hoàn toàn thanh tịnh, an lạc, bất sinh bất diệttự do tự tại.

"Lập trường chủ yếu của giải thoát Phật giáo là vượt ra ngoài cõi Dục (Dục giới). Phật giáo không thừa nhận thế-giới quan Thần quyền, lại không thừa nhận cái "Ngã" cá nhân bất biến, mà chủ trương hết thảy đều do nhân duyên hòa hợphiển hiện, và sở cứ của nhân duyêný chí của chúng ta. Do đó, nếu muốn được giải thoát, con người phải cắt đứt mọi nhân duyên, nghĩa là diệt hết dục vọng của ý chí. Theo các học phái khác, giải thoát tức là đưa cái tiểu ngã của cá nhân trở về với Đại ngã của một đấng sáng tạo ra vũ trụ. Nhưng Phật giáo vì không thừa nhận Thần quyền, nên gọi giải thoátNiết Bàn. Mà Niết-Bàn theo nghĩa đen là "dập tắt", nghĩa là dập tắt hết dục vọng tồn tại và lấy đó làm lý tưởng cứu kính. Các Kinh điển Đại Thừa, nhất là Kinh Bát Nhã, đặc biệt thuyết minh về điểm này và mệnh danh là "Không", "Không Không" rốt ráo là "Không", đó là chân tướng của vũ trụ, và khi ta đã đạt được chân tướng ấy tức là đạt đến giải thoát , đến Niết Bàn... [3]

Giải thoát ở đây là giải thoát khỏi ba độc tham, sân, si cố hữu của con người. Hay nói cách khác là giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của vô minh, ái, thủ, thấy được thực tướng các pháp, đạt đến trạng thái tịch tĩnh Niết Bàn không sanh, không diệt, không đến, không đi.

2.2 Biện pháp và các trạng thái tâm linh giải thoát trong Đạo Phật

2.2.1 Biện pháp giải thoát
Để được giải thoát mọi đau khổ của kiếp người, Đạo Phật chủ trương tu tập theo con đường Trung Đạo, con đường này xa lìa hai cực đoan: khổ hạnh ép xác và hưởng thụ. Con đường Trung Đạocon đường Bát Chánh Đạo, bao gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường lấy chánh kiến làm nền tảng tu tập, là con đường duy nhất giải thoát hết thảy các lậu hoặc. Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo không phải là sự tuyệt diệt, bởi vì không có cái chi thường còn để tuyệt diệt ; cũng không phải sự trường tồn vĩnh cửu bởi không có một linh hồn trường cửu để vĩnh viễn hoá. Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo có thể giải thoát ngay trong chính kiếp sống này chứ không phải tìm đến cảnh giới vĩnh hằng nào sau khi chết.
2.2.2 Trạng thái tâm linh của quá trình giải thoát
Trong Phật giáo, sự giải thoát tuy là rất khó nói nhưng không phải mang màu sắc của huyền thoại như trong Veda. Nó đã được đức Phật và chư vị Đại đệ tử Phật chứng ngộ một cách rõ ràng. Trong kinh Trung Bộ, đức Phật đã mô tả lại những gì Ngài đã thành tựu được sau 49 ngày nhập định quán sát. Nó có thể được tóm tắt vào những giai đoạn:
- Giai đoạn Sơ thiền: diệt trừ dục và các bất thiện pháp, đi kèm với tầm và tứ, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
- Giai đoạn Nhị thiền: diệt tầm và tứ, phát triển nội tĩnh và nhất tâm, một trạng thái hỷ lạc do định sanh.
- Giai đoạn Tam thiền: diệt hỷ, chánh niệm tỉnh giác với một lạc thọ về thân.
- Giai đoạn Tứ thiền: diệt trừ các cảm thọ lạc và khổ, ly hỷ và ưu, phát triển xả và niệm thanh tịnh.
Bốn giai đoạn trên là sắc giới thiền, tiếp đến là là bốn trạng thái của thiền về các đối tượng vô sắc giới
- Giai đoạn ngũ thiền (hư không vô biên xứ) loại bỏ sắc tướng và có 2 pháp xuất hiện tưởng về hư khôngvô biênnhất tâm
- Giai đoạn lục thiền (Thức vô biên xứ) tưởng về hư không vô biên được loại bỏ và 2 pháp có mặt: tưởng về thức vô biên xứ, nhất tâm
- Giai đoạn thất thiền (vô sở hữu xứ thiền) tưởng về vô biên được từ bỏ và 2 pháp có mặt: tưởng về vô sở hữu xứnhất tâm
- Giai đoạn bát thiền (phi tưởng phi phi tưởng xứ) tưởng về vô sở hữu xứ được từ bỏphi tưởng phi phi tưởng xứ có mặt
- Giai đoạn cửu thiền (Diệt thọ tưởng) phi tưởng phi phi tưởng xứ được từ bỏ và các thọ, tưởng cũng bị dừng. [4]
Đây là trạng thái Thiền cao nhất mà đức Phật đã đạt được để chứng ngộ Phật quả.

III. TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT

Qua phân tích các phần trên đã cho thấy giữa học thuyết Bà la mônđạo lý Phật giáo đã có những điểm tương đồng và dị biệt như sau:

1. Những điểm tương đồng

Căn cứ trên cái nhìn của Phật giáo, Bà-la-môn giáo với tư tưởng Veda vẫn xứng đáng là nguồn cảm hứng cho sự bộc phát những tư tưởng triết học của dân tộc Ấn. Và Phật giáo cũng nhìn nhận rằng, trong một giới hạn nào đó, giữa Bà-la-môn và Phật giáo đã tìm thấy nhau ở những điểm chung:

1.1 Công nhận cuộc đờiđau khổ và đưa ra những phương pháp để hỗ trợ chúng nhân được giải thoát khỏi những đau khổ ấy.

Đây là điểm chung nhất mà ta có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong giáo lý Phật giáo so với học thuyết Bà-la-môn . Có thể nói đây là hai phạm trù không riêng gì giáo phái nào mà hầu như tất cả những trào lưu tư tưởng Ấn đều đặc biệt quan tâm và luôn tìm cách lý giải. Và do xuất phát từ xu hướng đó mà gần như những danh từ, những thuộc tính, những phương pháp thi thiết của cả hai giáo phái đều có biểu hiện cho thấy nó rất gần gũi mà đã không ít người gần như không còn phân biệt được đâu là của Phật giáo, đâu là của Bà-la-môn giáo. Thật vậy, tư tưởng đời là bể khổ đã được diễn tả đây đó trong Upanisad (Áo nghĩa thư):

“Ai biết ngã (atman) thì vượt qua bể khổ. Chúa ơi, con khổ lắm hãy đưa con vượt qua bể khổ” (Chandogya-Upanisad ChU.VII, 1, 3)

1.2 Lấy con người làm trung tâm để khảo sát mặc dù Bà-la-môn giáo vẫn cho rằng con người là một phần thuộc về cái Tuyệt đối.
1.3 Đều lấy sự phát triển trí tuệ làm cơ sở để diệt trừ vô minh ái dục, là những nguyên nhân đưa con người vào vòng sinh tử luân hồi.
1.4 Đối với hiện tượngnhân sinh, cả hai đều chấp nhận quy luật nhân duyên nghiệp báo chi phối cuộc sống con người.
1.5 Sự chung đụng về ngôn ngữ đã dẫn đến những sự giao thoa không thể tránh khỏi khi cả hai cùng phát triển trên một mảnh đất của triết lý này. [5]

2. Những điểm khác biệt

2.1 Khác biệt về thực tại tối cao

Phật Giáo phủ nhận sự siêu nhiên phi thực tại là Phạm sinh ra vạn pháp, vì Phạm Thiên chẳng ai thấy mà cũng chẳng ai biết, như lời Đức Phật trả lời Bà Tất Tra trong kinh Trường A Hàm, quyển 16 như sau :
“ Nếu Bà La Môn thông Tam Minh kia không thấy Phạm thiên, tiên sư của Bà La Môn thông Tam Minh cũng không thấy Phạm thiên, các Bà La Môn thông Tam Minh, những cựu tiên nhân như A Tra Ma… cũng không một ai thấy Phạm thiên. Thế thì biết rằng nhũng điều Bà La Môn thông Tam Minh nói không phải sự thật”
Với lý luận này, Đạo Phật phủ nhận sự có mặt của Phạm thiên. Phạm thiên chẳng qua do con người tưởng tượng ra, chứ thực sự không hề có sự tồn tại nào của một vị Phạm chi phối, hình thành nên vạn vật.
Nếu như triết lý Bà La Môn thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao chi phối vạn vậtthừa nhận Bràhman thường còn bất biến, thì theo Duyên Khởi: Sự vật luôn luôn biến hóa không cùng tận, đó không phải là vật này (Bràhman) sinh ra vật kia (vạn vật) mà là vật này làm nhân duyên sinh khởi vật kia. Hay nói cách khác:
“Cái này có thì cái kia có,
Cái này không thì cái kia không.
Cái này sanh thì cái kia sanh,
Cái này diệt thì cái kia diệt”. (Tiểu Bộ I, tr. 291)
Như vậy chỉ bằng vào sự phủ nhận tính thực hữu của bản thể Brahman và thay vào đó là tự tính vô hữu ngã thôi, Phật giáo gần như đánh đổ cả hệ thống giáo lý của Veda, ít nhất là trên bình diện triết học.

2.2 Về nghiệp và luân hồi

Thuyết nghiệp và luân hồi đã xuất hiện vào cuối thời Bràhmana và tới thời Upanishad nó mới được hình thành cùng một lúc với thuyết “thường ngã”. Tuy Phật GiáoBà La Môn giáo cùng nói đến nghiệp và luân hồi nhưng một bên thừa nhận “ngã thể thường còn”, một bên thì dựa vào “vô ngã luận”, nên tuy thấy giống nhau, nhưng thật ra trái ngược nhau về bản thể.

2.3 Về phương pháp tu tập đạt đến giải thoát

2.3.1 Con đường tu tập
Học thuyết Bà la môn cũng cho rằng khổ hạnhcon đường thiền địnhcon đường tu tập dẫn đến giải thoát nhưng Phật giáo lại đi theo con đường Trung đạo
2.3.2 Các trạng thái tâm linh để đi đến giải thoát
Về trạng thái tâm linh thì học thuyết Bà la môn cho rằng với với sự hoàn tất của bốn giai đoạn - Thức(Vishva) - Mộng(Taijasa) - Ngủ say không mộng(Pràjna) - Ý thức tâm linh(Turiya) người Bà-la-môn có thể được đồng nhất Atman với Brahman đồng thời tận hưởng hạnh phúc của sự vĩnh hằng trong khi Phật giáo cho rằng phải trải qua một quá trình tu luyện, hành giả phải chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiềntứ thiền sắc giới và từ đệ ngũ thiền cho tới đệ cửu thiền vô sắc giới trước khi đạt quả vị Phật.

3. Ảnh hưởng của học thuyết Bà la môn trên Phật giáo

Lịch sử đã cho thấy rằng, Phật giáo xuất phát chậm hơn các trào lưu tư tưởng của Bà-la-môn giáo. Nói cho chính xác thì khi Phật giáo ra đời, nền triết học Bà-la-môn giáo đã đạt đến đỉnh cao và nó đã ảnh hưởng đến mọi mặt sinh hoạt đời sống của xã hội lúc bấy giờ, vậy nó ảnh hưởng gì đối với Phật giáo:
Đức Phật chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Veda, thậm chí khi Ngài xuất gia đi tu thì ngài đã học với hai vi thầy đầu tiên mà hai vị này xuất thân từ Bà la môn giáo cho nên tất cả các ngôn từ Ngài sử dụng cũng không thể khác biệt với học thuyết Bà la môn. Ngài cũng sử dụng con người là đối tượng khảo sát, lấy trí tuệ làm cơ sở để diệt ái dụcvô minh, ngài cũng chấp nhận nghiệp báo chi phối đến đời sống con người.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà cho rằng Phật giáo là một phần của hệ tư tưởng Bà-la-môn. Đức Phật đã dựa trên các kiến thức của học thuyết trước đó và bằng sự tu tập đạt đến giác ngộ cho riêng mình đã chỉ ra những sai lầm của học thuyết ngài đã tiếp thu, và do vậy có thể nói Đức Phật là một nhà cải cách.

4. Ảnh hưởng của Phật giáo trên Bà la môn giáo

Tuy Phật giáo ra đòi sau và có những mối tương đồng với với các học thuyết phát triển trước đó, tuy vậy không thể nói rằng đạo Phật đã không có những ảnh hưởng trên các học thuyết trước đó:

* Trước hết Phật giáo kêu gọi sự bình đẳng giai cấp, đẳng cấp hoặc phân biệt dân tộc mọi hàng rào giai cấp cần thiết phải được xóa bỏ, sau thời kỳ đức Phật thì người ta đã chú ý nhiều đến khả năng, tính cách, nghề nghiệp hơn là dòng dõi, như vậy đạo Phật đã đem đến một sự nổi loạn chống lại nghề tu sĩ và việc lễ báichống lại sự suy thoái của bất cứ chúng sinh nào và sự tước bỏ mất của y những cơ hội phát triển dần tới một đời sống cao hơn [6]

* Phật giáo đã chối bỏ giá trị đạo đức của chủ nghĩa khổ hạnh nên trước thời kỳ đức Phật ra đời, thì phổ biến có các nhóm người sống định cư theo kiểu hành xác trong rừng núi vắng vẻ, nhưng sau khi Phật thành đạo thì các tu viện nam nữ mọc lên khắp nơi, thu hút dân chúng về các nơi đó, chính cái tên của tỉnh Bihar ngày nay bắt nguồn từ Vihara, tu viện.

Như vậy, có thể thấy rằng Phật giáo xuất hiện đã làm đảo lộn mọi giá trị xã hộigiai cấp Bà la môn đã thiết lập trên xã hội Ấn Độ thời đó.

KẾT LUẬN

Qua phân tích trên đã cho thấy giữa Phật giáohọc thuyết Bà-la-môn giáo vẫn là hai trào lưu tư tưởng với hai phương tiện khác nhau, nhưng lại giống nhau ở mục đích. Đó là việc đem đến sự giải thoát cho con người khỏi mọi khổ đau ràng buộc, nhưng để đạt được mục đích đó thì mỗi trào lưu dựa trên tưởng và giải pháp luận của riêng mình để đưa ra những phương cách rất khác nhau như đã phân tích ở trên.

Tư tưởng về vũ trụ quan và nhân sinh quan của Bà La Môn thì phong phú và đa dạng. Nhưng cách đặt vấn đềgiải quyết vấn đề về thế giớicon người lại không hiệu quả, bởi triết lý của họ mang nặng tính chất thần quyền, lễ nghi cúng bái và xuyên suốt tư tưởng Bà La Môn là thuyết “ Phạm ngã đồng nhất”, Phạm chuyển biến sinh ra vạn vật. Bên cạnh đó cũng có những khuynh hướng triết học có phần giống với Phật Giáo như phái Samkhya, Mimamsa, Vedanta, Yoga…. nhưng những triết lý này vẫn chưa thoát khỏi tận gốc học thuyết Phạm thiên.

Trong khi đó nền tảng triết lý của Đạo Phật lại trái ngược hẳn những gì Bà La Môn từng tuyên bố. Đức Phật cho rằng vạn vật do duyên sinh nên tất cả là vô thường, vô ngã. Lời tuyên bố ấy đã đánh dấu một bước ngoặc vô cùng trọng đại, giải thoát nhân sinh ra khỏi các triết lý thần khải.

Đối với xã hội, Đạo Phật đã làm một cuộc cách mạng xóa bỏ tư tưởng giai cấp đầy bất công, về phương diện tu tập thì đạo Phật chủ trương thực hành giáo lý Trung Đạo đả phá con đường khổ hạnh Chính vì giá trị thiết thực ấy đã làm cho Đạo Phật tồn tại mãi với thời gian như lịch sử đã ghi nhận : “Tại các nước Á Đông, mọi nền đạo học, thần học hết sức phong phú, nhưng cho đến nay dần dần tan biến đi để chỉ còn lại một Đạo Phật tồn tạiđại diện cho Đông Phương trong thực tại sinh hoạt thế giới hiện nay”. Tất cả những điều này minh chứng Đạo Phật có một bản sắc độc đáo riêng mà các triết phái khác không có được.


Tài liệu tham khảo

[1] Xem Thích Lệ Thọ Bài giảng Triết học Bà la Môn (Brahmanism)
[2] Xem Thích Quảng Liên – Sử cương triết học Ấn Độ - Nhà xuất bản Bồ Đề 1965
[3] Xem Kimura Taken -Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Ban Tu thư Đại học Vạn Hạnh, SG,1969 tr 22, tr.146
[4] Xem Nguyên Hương-Lịch sử phát triển của Thiền Phật giáo NXB tổng hợp TP.HCM 2005 tr.49
[5] Xem Như thị - Bà la Môn giáoTriết học Phật giáo – Thư viện Hoa sen
[6] Xem Jawaharlal Nehru- Phát hiện Ấn Độ, NXB Văn học, Hà Nội, 1990 tr. 289-290
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.