TU VIỆNGIÁC HẢI - CHỐN GIÀ LAM ĐẦY ẮP THI CA VÀ HUYỀN THOẠI
Ngọn núi nhỏ Phổ Đà, còn được gọi là Núi Ông Sư, thuộc địa phận làng Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh- tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố biển Nha Trang khoảng 50 cây số về hướng Bắc, có hình thù của một “ông Tượng” nằm giữa một vùng mây nước hữu tình, tứ bề sơn thủy làng mạc bao bọc tạo nên một bức tranhphong cảnh bàng bạc thơ mộng và thiêng liêngấm cúng.
Vào năm 1956, Sư Viên Giác- pháp danhTâm Trí, pháp hiệu Chiếu Nhiên, một môn đồ xuất chúng của Bích Không Đại Sư (tức Hòa thượng Thích Giác Phong)– sau nhiều năm hoằng pháp khắp các tỉnh miền Trung và cao nguyên, đã chọn nơi đây để tạo lập nên một chốn già lamthanh tịnh mang tên Giác Hải. Tu viện mang một hình hài mộc mạc, kiến trúc đơn sơ, không nguy nga tráng lệ, không đồ sộ cầu kỳ, nhưng hiển hiện giữa một vùng hoang sơthanh vắng vào thời điểm đó, đã nghiễm nhiêntrở thành một danh lam của xứ trầm hương Khánh Hòa. Đặc biệt nhất là Điện thờ Quan Âm Nam Hải được kiến tạo ngay trên đỉnh núi, bên trái phía sau ngôi chánh điện, với thánh tượngBồ tát bằng thạch cao trắng muốt đứng nhìn ra hướng Đông có vịnh Vân Phong biển xanh biên biếc, mênh mang mây trời, đã đi vào huyền thoại với bao câu chuyệnlinh ứng nhiệm mầu… Năm 1972, bên chân tượng của Đức Bồ tát Quán Thế Âm, Sư Viên Giác đã ra đề thơ cho Nữ sĩ Tâm Tấn cảm tác, và thi phẩm “Giác Hải đêm huyền” được ra đời:
“Hải Đăng trăm ánh… ngoài khơi sâu lấp lánh Phò Nguy Tinh Tú huyền vi… đêm tỏa sáng đường đi Cứu Khổ Sóng Nam Hải run run nép sợ Mây Phổ Đà nín thở, cúi đầu Ngày… chim thuần lý ngàn câu Gió hòa Pháp ngát nhiệm mầu mười phương Đêm… hoa cây cỏ nhuần sương Thấm trăng Phổ Độ, ướp hươngĐại Từ. Khi hướng thượng gồm thu Tịnh Pháp, Hạnh Từ Bi sáng khắp linh tòa Quán Âm muôn vạn sát –na Soi đènTrí Huệ, châm hoa siêu phàm; Khi hạ hóa Bi vang sấm động Phủ hạnh Từ chiếu rộng mây lành, Cảm thương tiếng khóc nhân sinh Ba-mươi-hai ứng Thân… hành Nguyện chung. Ban uy lựcvô cùngvi diệu Hải Triều Âm… nhạc diệu siêu linh Nhành Dương dập lửa vô minh Cam Lồ một giọt muôn hình hoàn sanh. Niềm suy tưởng long lanh Tinh Tú Trăng hào quang mơ phủ lên đầu! Không gian thoáng hiện vòng cầu Nhập miền linh giác quy hầu Phổ Môn”
Bài thơ sau đó được lưu truyền trong giới Phật giáo, đã được chư Tăng Ni, cũng như những Phật tử yêu văn chương thi phú tán thán, nhất là hai câu: “Sóng Nam Hải run run nép sợ; Mây Phổ Đà nín thở, cúi đầu”, như một câu đối tuyệt diệu để tôn kính ngợi ca vẻ uy nghiêmthánh thiện của một vị Bồ Tát được cư dân ở khắp các miền biển, ở những làng chài chạy dài theo miền duyên hải của đất nước bao đời thờ phụng quy kính…
Huyền thoại về chốn già lamGiác Hải thì có rất nhiều, đã lưu truyền trong dân gian, và đi vào cả thi ca, sử sách, trong đó còn có câu chuyện về giếng nước trong vắt được đào sâu vào lòng núi đầy đá cứng đất khô…
“Vạn Ninh có núi Phổ Đà Có chùa Giác Hải, có tòa Quan Âm Non Vô Thượng, Giếng Thậm Thâm Quên mùi tục lụy, cõi lòng hân hoan!”
Đó là bài thơ rất ít ai được biết là của chính Cư sĩTôn Thất Tán ở Nha Trang thường hay ra Vạn Ninh làm Phật sự đã hạ bút cảm tác, hai câu đầu “thi phẩm tứ tuyệt” này đã được truyền khẩu và trở thành ca dao địa phương, bất tử với thời gian …
Lần giở các cuốn địa chí Khánh Hòa như “Xứ Trầm Hương” của Quách Tấn, hay “Non Nước Khánh Hòa” của Nguyễn Đình Tư, đều thấy có nhắc đến ngôi chùa huyền thoại nằm bên vịnh Vân Phong hình bán nguyệt xanh biếc này. Bao thi nhân vãn cảnh sinh tình, hết người này lưu bút, đến vị khác đề thơ:
“Viếng cảnh Xuân Sơn yết Phật đài Xa lìa bể khổ, sạch trần ai Núi mây ba phía êm đềm nhỉ Thiền viện mấy tòa đẹp đẽ thay! Nói Pháp giảng kinh luôn sớm tối Hồi chuông gầm sóng suốt đêm ngày Khen ai khéo chọn nơi tu dưỡng Độ được mình, thêm độ được người!” (Mai Phong)
Hay bài thơ xướng:
“Phổ Đà có phải cõi Tây Thiên Tượng núi Quan Âm phép diễm truyền Đá hãy gật đầu si tánh Phật Hạc còn quỳ gối trước hài Tiên Trăng mây Biển Giác nên câu kệ Mượn nước Sông Nha rửa tấm phiền Là giống hữu tình đâu chẳng gặp Tu hành e cũng có căn duyên!” (Đào Chi Tiên)
Và, chính SưViên Giác đã hạ bút họa lại:
“Chính đây, phải lắm, cảnh Tây Thiên Thắng tíchdanh lam tự cổ truyền Đế Thích hằng lai chiêm Thọ Phật Quán Âm thường hiền độ Na Tiên Xưa nay Biển Giác ly câu kệ Sẵn nước Ma Ha chẳng não phiền Thanh tịnh một mầu, đâu dễ gặp Ngậm vành trăng sáng cũng tùy duyên!”
Hòa thượng Thích Viên Giác là một vị cao tăngđạo hạnh đã đóng góp nhiều tâm huyết trong công cuộc chấn hưng, bảo vệ và hoằng dương Phật pháp. Trước khi khai sơnlập tựTu việnGiác Hải, Ngài đã từng đảm đương chức vụ Giám đốc Phật Học Đường Khánh Hòa đồng thờitrụ trì chùa Hải Đức ở Nha Trang(1954), cùng chư Tôn Đức thành lậpPhật Học Viện Trung Phần từ chùa Hải Đức (1956), thành lập và điều hành trường Bồ ĐềTuệ Quang (Đà Lạt), lập trườngPhật học cho Tăng sinh tại Tổ đình Linh Sơn (Vạn Ninh). Sau Pháp nạn năm Quý Mão(1963), Ngài giữ chức Thư Ký Tổng Vụ Hoằng Pháp trực thuộc Viện Hóa Đạo, rồi về giảng dạy tại Phật học viện Trung phần và Ni việnDiệu Quang (Nha Trang). Là một tăng nhân yêu văn chương thi phú, trong thời gian dài về sau này, Ngài không chỉ chuyên tâmdịch kinh, trước tác nhiều tác phẩm quý giá, mà còn sáng tác những thi phẩm mang đậm giáo lýPhật Đà. Kinh sách Ngài để lại cho đời gồm: Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp, Đại ThừaKim Cang kinh luận, Phẩm Phổ Môn, Quan hệ tư tưởng, Tìm hiểuQuán Thế Âm Bồ Tát, Lịch sửphong cảnh chùa Giác Hải, Khuyên niệm Phật (tập thơ)… Vào sáng ngày 14 tháng 7 năm 1976 (Bính Thìn), Ngài thâu thần thị tịch ngay tại chùa Giác Hải, hưởng thọ 65 tuổi đời, 28 hạ lạp, được chúng đệ tửan táng và xây bảo thápthờ phụng nghìn thu trên triền đồi gần bên Điện Quán Thế Âmlinh thiêng huyền thoại. Trên tấm bia của một mặt bảo tháp, còn lưu khắc thi phẩm “Hướng về Thầy” của Thích Tịnh Từ, một thi nhân đệ tử của Ngài:
“Giả thân Thầy đã xa rồi Tinh anh còn đó bên đồi tịch liêu Lắng nghe mõ sớm chuông chiều Bâng khuâng hải đảo, sóng triều lặng yên Buồm ai ngược gió chèo thuyền Qua bờ giác ngạn, vượt miền trầm luân Lời Thầy con trẻ gọi nhuần Đức Thầy lưu hiện ma quân quy đầu”
Từ sau khi Sư Viên Giácviên tịchđến nay, đệ tử của Ngài là Thượng tọa Thích Tịnh Diệu, đã cùng với sư huynh đệ đồng môn từng bước trùng tu lại ngôi chánh điện, điện Quan Âm Nam Hải, cổng tam quan, tường rào bao bọc, kiến thiết thêm nhiều công trình mang đậm nét nghệ thuật như nhà chuông, tượng đá… hòa cùng với cây cảnh đủ sắc màu, tạo nên một chốn già lamthắng tích danh bất hư truyền…
Về với Tu việnGiác Hải hôm nay, cảnh cũ người xưa đã biến đổi rất nhiều, vườn thiền cảnh tịnh luôn rộng mở đón đưa lữ kháchthập phương ra vào trong không khí im ắng trong lành. Từng bước chầm chậm lên những bậc tam cấp lặng im giữa các cặp sư rồng nghinh chầu, đứng ngắm nhìn nụ cười đầy hỷ lạc của bức tượng Di Lặc Tôn Phật bằng đá phía trước chánh điện, vào trong một sảnh đường ngắm nhìn “Bản kinh Phẩm Phổ Môn” được viết tay trên giấy khổ rất lớn lồng trong khung kính treo trên vách (có thể là một kỷ lục của Phật giáo Việt Nam chưa được phát hiện và xác lập), lững thững vòng ra khoảnh sân rợp bóng mát để chiêm báihình tượngThủy Nguyệt Quan Âm ngồi trên phiến đá nhìn trăng trong nước với phong thái ung dungthanh thoát, xuống lại đến sân dưới dừng chân trước hai gốc me cổ thụ già vài trăm tuổi, hay bước vào đứng giữa gốc xoài nhiều nhánh tỏa vươn lên cao như những cánh tay của thánh nhân khổng lồ; lang thang ra phía trước ven theo dãy tường rào để bắt gặp một hồ nước rộng thênh có tung tăng cá lội, nếu hữu duyên thì được leo ngồi trên chiếc thuyền con, tự tay cầm mái chèo quẫy nước ra đến một ốc đảo nho nhỏ giữa hồ để bái lễ thánh tượngQuan Âm Nam Hải và Thiện Tài Đồng Tử, đó chính là pho tượng Quán Thế Âm mà thuở khai sơnlập tự từng an vị trên đỉnh núi đã được dời xuống với cảnh mới chẳng khác nào tiên cảnh bồng lai… Trở vào lại bờ, qua một lối đi nhỏ trải đầy những cánh hoa phượng đỏ au, vượt lên con dốc được màu xanh cây lá bao phủ bên trên để đến trước Nam Hải Quan Âm Đại Điện uy nghiêm trầm mặc… Đứng nơi đó, quay nhìn về hướng mặt trời mọc, một bức tranhthiên nhiên thủy mặc tuyệt mỹ với non nước biển thuyền của vịnh Vân Phonghiện ratrước mắt, mênh mang trời xanh mây trắng, lồng lộng gió mát hương loang, lữ khách ắt sẽ thấy hết muốn trở về với “sơn hạ hồng trần hung mãn mộng” (dưới núi bụi hồng đầy mộng dữ)… Cuối năm 2001, lặng lẽ về nơi xưa chốn cũ, Nữ sĩ Tâm Tấn đã đứng nới đó, lòng rung cảm xúc, ý thơ tuôn trào, để rồi lưu lại thi phẩm “Thăm lại chùa xưa” vào kho tàng thi ca của chốn già lam huyền thoại này:
“Quanh Điện Các non trùm uy lực Trước Ngôi Thiền biển trải Đại Bi Ngắm Vịnh Vân Phong, nhớ bóng Thầy Ngày xưa… vin gậy ngắm trời mây Câu Thơ phá Thạch, Thơ xưng tán Ý Đạo khai Sơn, Đạo hiển bày. Chấp Phápdanh môn hàng kế thừa Truyền lưu thông tuệ bậc Uyên ưu Triền non Tháp Tổ tờ mây trải Trăng Bút Lăng-Già ấn Sử xưa…”
Và, còn nhiều hơn như vậy nữa. Nếu hữu duyên đến vãn cảnh Tu việnGiác Hải, chúng ta sẽ nhận ra một điều: chính chốn già lam đầy ắp thi ca và huyền hoại này đã là một bài thơ bất tuyệt không cùng, đâu cần phải viết ra văn tự…
Bài này là cuộc phỏng vấn qua email trong tháng 1/2023 với nhà sư Kunchok Woser (Don Phạm), người xuất gia theo truyền thừa Phật Giáo Tây Tạng, sau nhiều năm tu học ở Ấn Độ đã tốt nghiệp văn bằng Lharampa, học vị cao nhất của dòng mũ vàng Gelug, và bây giờ chuẩn bị học trình Mật tông.
Nhân dịp Tết cổ truyền dân tộc - Xuân Quý Mão, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi có lời chúc mừng năm mới, lời thăm hỏi ân cần tới tất cả các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tới chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; kính chúc quý vị một năm mới nhiều an lạc, thành tựu mọi Phật sự trên bước đường phụng sự Đạo pháp và Dân tộc!
Trong ngày hội truyền thống dân tộc, toàn thể đại khối dân tộc đang đón chào một
mùa Xuân Quý mão sắp đến, trước nguồn hy vọng mới trong vận hội mới của đất nước,
vừa trải qua những ngày tháng điêu linh thống khổ bị vây khốn trong bóng tối hãi hùng
của một trận đại dịch toàn cầu chưa từng có trong lịch sử nhân loại, cùng lúc gánh chịu
những bất công áp bức từ những huynh đệ cùng chung huyết thống Tổ Tiên; trong nỗi
kinh hoàng của toàn dân bị đẩy đến bên bờ vực thẳm họa phúc tồn vong,
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.