HƯỚNG ĐI CHO MỘT SỨ GỈA NHƯ LAI TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Tuệ Giác
Đạo Phật tồn tại trên thế gian cách đây hơn 2.500 năm. Ngoài nền tảng giáo lý vượt thời gian và không gian, thích ứng với cuộc sống con người trong giai đoạn mới thì yếu tố để hình thành nên phẩm chất đạo đức con người chính là sự góp phần bằng Đạo hạnh của người tu sĩ, mà công hạnh ấy được xây dựng trên nền tảng căn bản của giới luật.
Tất nhiên một học thuyết, một tôn giáo nào muốn tồn tại cũng phải có người truyền thừa và tư cách của những vị truyền thừa ấy là quyết định phần lớn sự thịnh suy. Đạo Phật cũng vậy, trải qua mấy ngàn năm, chánh pháp vẫn rạng chiếu với nhiều sắc màu rực rỡ. Đó là do công lao không ít
của các sứ giả Như Lai, những người đã biết tự trang nghiêm giới thân, trau dồi đức hạnh trong từng phút giây, huân tập giới đức trở thành hơi thở của chính mình. Từ đó, thông qua cách hành xử khéo léo, người con Phật đã áp dụng chúng vào việc hoằng truyền chánh pháp không những bằng khẩu giáo mà còn bằng thân giáo, đem lại lợi ích lớn lao cho tất cả chúng sanh.
Thiết nghĩ, chúng ta may mắn được đức Thế Tôn khai thị cho biết cuộc đời là mộng mị, là duyên sanh. Thế mà khi tiếp xúc với đời thường, chạm mặt với khổ đau, chúng ta cũng không khỏi bàng hoàng tê tái, rõ là:
Loay hoay đã nữa kiếp người
Thu bay trên nửa nụ cười xôn xao
Rõ ràng mở mắt chiêm bao
Biết như mộng huyễn vẫn đau xé lòng.
Vì sao vậy? Chẳng phải thuyền qua sông đã sẵn và chúng ta đã ra khơi từ
lâu lắm rồi sao? Tại sao đến bây giờ chúng ta vẫn còn loay hoay hoài trong cảnh trường mộng mị? Phải chăng vì chúng ta chỉ luận đàm giáo lý suông mà chưa hề tiếp nhận áp dụng luồng sinh khí giải thoát ấy vào cuộc
sống? Phải chăng chúng ta đã vô tình biến nó thành món đồ chơi cho trò suy luận nhị nguyên. Cho nên bổn phận quan yếu và cấp bách của chúng ta bây giờ là khẩn trương lên đường, đun nóng lại dòng nhựa sống của chánh
pháp trong lòng mình và lòng người nếu có rủi ro đã bị đông cứng. Chúng
ta không được phép để lý tưởng của đấng Từ Phụ vô tình biến thành một xác ướp của lịch sử, nó phải được tiếp nối, hoằng dương phải làm cho nó sống dậy, được phục sinh, được thân chứng và trực ngộ của bậc xuất trần thượng sĩ trong giai đoạn mới. Có như vậy mới thể hiện được tinh thần Phật pháp nhập thế của Đại thừa, từ đó mới xây dựng vững chắc ngôi nhà chánh pháp, chuyển hóa xã hội, bởi vì “Phật pháp hưng vong, tăng đồ hữu trách” (giáo pháp của đức Phật hưng thịnh hay suy yếu, Tăng tín đồ phải có trách nhiệm). Là Thích tử Như lai dù ở thời đại nào, giai đoạn nào cũng phải đặt nặng tinh thần trách nhiệm trước sự tồn vong của Đạo pháp.
Bởi tăng già là chỗ dựa tinh thần cho hàng thế tục, nên chúng ta cần phải xả bỏ tất cả sự riêng tư nhỏ hẹp để hòa mình vào biển tuệ giác vô phân biệt, cùng nhau bảo tồn Phật pháp, xây dựng xã hội tốt đẹp.
Ngày nay, trước thềm kỷ nguyên công cuộc đổi mới, đất nước đã làm thay đổi và thăng tiến trong mọi lĩnh vực sinh hoạt, nhất là Việt Nam với cơ hội phát triển đầy hứa hẹn. Trước ngưỡng cửa ấy, trách nhiệm và bổn phận
của người tu sĩ Phật giáo không thể thờ ơ, quay lưng với cuộc đời mà phải nhìn vào thực tại bằng con mắt tình thương và trí tuệ. Mặt khác, chúng ta cần phải phát triển đạo đức tâm linh để đem lại hòa bình an lạc
cho nhân loại.
Thật vậy, “Phật pháp xương minh do
Tăng già hoằng hóa”. Tăng Sĩ ngày nay muốn hoằng truyền
chánh pháp “Tác
Như Lai sứ, hành
Như Lai sự” phải
trải qua sự
đào tạo về
Phật học lẫn thế học.
Tăng Ni trẻ ngày nay, ngoài
kiến thức Phật học thường
tỏ ra khá
nhạy cảm với
vấn đề thời sự, kinh tế,
văn hóa,...
cho đến việc học ngoại ngữ, tin học, kỹ thuật... Như thế, trào lưu của
xã hội sớm đưa giới
Tu sĩ vào
con đường nhập thế. Nhưng để
trở thành một
sứ giả của
Như Lai trong giai đoạn mới, bằng những
kiến thức ấy chưa đủ mà còn phải có phẩm hạnh
đạo đức cao đẹp. Những
yếu tố ấy chính là
điều kiện quyết định sự
thành bại hưng vong cho
cả
Tăng đoàn nói chung và phẩm chất người
tu sĩ nói riêng. Bởi vì “Chiếc áo không làm nên thầy tu” mà
cần phải có
oai nghi đĩnh đạc mới hình thành nên một Tăng sĩ, tất cả những điều
cần thiết ấy đều lưu xuất từ sự
hành trì giới luật trang nghiêm. Nhất là
tinh thần Bi-Trí-Dũng làm
động lực cho mọi
Phật sự,
chúng ta hãy
nuôi dưỡng niềm thao thức
giải thoát bằng
nếp sống thanh cao, bằng
thiểu dục tri túc.
Nhớ lại, khi
đức Bổn Sư sắp nhập Niết-bàn, Ngài tha thiết nhắc nhở hàng
đệ tử: “Này các Tỳ-kheo, sau khi
Như Lai diệt độ, các thầy phải
trân trọng tôn kính tịnh giới như người mù được mắt sáng, người nghèo được vàng ngọc. Phải biết
tịnh giới là bậc Thầy cao cả nhất.
Như Lai ở đời cũng không khác gì
tịnh giới ấy”. Một
tu sĩ trang nghiêm bằng
giới luật là mảnh đất tốt để
tăng trưởng thiện pháp, để phát triển
nhận thức chơn chánh, để thấy rõ
sự thật cuộc đời. Như thế,
Tăng ni sinh nói riêng,
Tu sĩ nói chung
cần phải vun bồi Tâm đức,
Trí đức, Tuệ đức, và Hạnh Đức một
cách xứng đáng để không cô phụ lời dạy
cuối cùng của đấng
Từ Phụ. Hơn nữa,
Tăng Ni sinh trẻ
chúng ta ngày nay còn là măng non, ngày mai
chúng ta sẽ là những bậc lương đống của
Phật pháp. Vì thế,
chúng ta nên vạch cho mình một hướng đi mới,
phục vụ tốt đạo đẹp đời, không gì khác hơn là
bằng
con đường trang nghiêm giới thân, trau dồi
huệ mạng. Nếu vị nào còn cắp sách đến trường dù là Học viện, Cao Đẳng, Trung Cấp hay
Sơ đẳng Phật học,
chúng ta hãy
cố gắng học cho thật tốt tại trường,
giữ gìn tứ oai nghi,
tứ sự phải
tri túc, đừng
xài phí của
đàn na tín thí.
Chúng ta không đợi khi hết học rồi mới tu, mà phải tu ngay trong lúc học, học trong sự tu. Trên
tôn kính các bậc
Tôn Sư, dưới giúp đỡ bạn
đồng học, về
đến chùa ngoài việc lo học bài vở còn phải ổn định các thời khóa
tụng niệm, chấp hành nội quy tốt và làm tròn phận sự được
giao phó. Nhất là không được
xao lãng những điều giới mình đã
thọ lãnh, luôn
thọ trì giới luật, bởi
công năng của giới là
ngăn ngừa điều quấy,
chấm dứt điều ác. Chính vì thế, hướng đi của
chúng ta mới có thể đem lại
lợi ích cho mình
và người, giúp người
tu tập thấy nhẹ nhàng
thân tâm,
an lạc trong từng bước đi
hơi thở. Từ đó biểu
hiện ra ngoài một
nếp sống văn minh, lịch nhã
phù hợp với nền
văn hóa và
văn minh của
loài người. Như thế, một
tu sĩ Phật giáo nghiêm
trì giới luật là tự
thiết lập cho mình một phong thái
điềm tĩnh,
thanh thoát, là tự tạo dựng niềm
hạnh phúc thật sự ngay trong
hiện tại. Đây chính là cơ sở của
niềm tin, của sự
kính trọng khiến
cho Tăng sĩ càng vững bước trên
con đường hoằng dương chánh pháp lợi lạc quần sanh.
Vậy, đối với
Tăng đoàn,
chúng ta luôn
ý thức rằng
cá nhân mình là viên gạch để
xây dựng ngôi nhà
Phật pháp,
đồng thời là bậc Thầy hướng đạo cho mọi loài, là người
dẫn đầu trong việc khơi nguồn Chân-Thiện-Mỹ. Cho dù ở đâu, bất cứ lúc nào,
chúng ta cũng xứng đáng là
hình ảnh theo dấu chân của đấng
Đạo Sư một cách
tích cực và
sống động. Nếu mỗi
cá nhân luôn
biết mình là “Sứ
giả Như Lai” với
mục tiêu “Hoằng pháp thị
gia vụ,
lợi sanh vi bổn hoài” lên hàng đầu bằng cách
tu trì giới luật để tự
trang nghiêm cho mình qua
tinh thần tự tín và
uyên thâm Phật học. Có như
vậy mới mong
truyền bá Phật pháp đem lại niềm
an lạc thiết thực cho mọi tầng lớp
xã hội trong giai đoạn mới.■
Nguồn Tập San Pháp Luân 27