NGƯỜI PHẬT TỬ
NÊN ĐỌC KINH ĐIỂN NHƯ THẾ NÀO Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến ![]() Qua bài viết trên và các ý kiến tranh biện của người đọc, tôi nhận ra khá nhiều sai lệch từ cả 2 phía, dù là tán thành hay không tán thành. Vì thế, tôi có cảm nhận là bài viết này không mang lại lợi ích về mặt tu tập cho cả người viết lẫn người đọc. Mặc dù bài viết không có giá trị nhiều lắm về mặt học thuật, do tác giả vấp phải quá nhiều sai sót rất cơ bản, nhưng rõ ràng đây là vấn đề khiến nhiều người Phật tử quan tâm. Bản thân tôi đã được BBT Văn hóa Phật giáo online chuyển cho xem thư bạn đọc gửi về Tòa soạn bày tỏ ý kiến quan ngại về bài viết này. Điều quan trọng hơn nữa là, những ý kiến của đa số người đọc cho thấy họ có phần nào đó còn rất mơ hồ trong việc tiếp cận Kinh điển, vốn là nguồn Giáo pháp quan trọng và chuẩn xác nhất cho người học Phật. Vì thế, tôi sẽ cố gắng trình bày trong bài viết này một vài kinh nghiệm bản thân cũng như những nhận thức chân chánh mà người Phật tử rất cần phải có khi đọc Kinh điển. Và như đã nêu trong tiêu đề bài viết, nội dung bài này sẽ không nhằm mục đích tranh biện, vì điều đó không cần thiết, mà chỉ thông qua sự phân tích sơ lược một vài điểm trong bài viết “Kinh Vu Lan Bồn thực hay giả?” để trình bày với người đọc một vấn đề quan trọng và có tính phổ quát hơn trong sự tu tập. Đó là: Người Phật tử chúng ta nên đọc Kinh điển theo cách như thế nào? Nếu vấn đề này được làm sáng tỏ, thì chắc chắn người đọc sẽ không còn khởi tâm nghi ngại khi có người nêu lên những vấn đề tương tự. Và trong thực tế thì điều tương tự cũng đã từng xảy ra với Kinh Pháp Hoa, Kinh A-di-đà, Kinh Địa Tạng... và nhiều Kinh điển Đại thừa khác. Ở đây, tôi xin nhắc lại Phật ngôn đã nói ở trên về việc "chớ vội tin". Đối với lời chính Phật nói ra, đức Phật còn dạy chúng ta chớ vội tin, huống gì lời của người chưa phải là Phật. Cho dù chúng ta chưa hề có ý nghi ngờ lời dạy của một cao tăng, nhưng cũng có rất nhiều khả năng có thể xảy ra khi ta đọc lời ấy trên văn bản: hoặc có thể bị sao chép, in ấn sai lệch, hoặc có thể được nói ra trong một hoàn cảnh nhất định, với những đối tượng nhất định, hoặc có những dụng ý nhất định mà ta chưa hiểu v.v... Vì thế, nói gì thì nói, việc ông Đáo Bỉ Ngạn "hoàn toàn tin tưởng" khi chưa tự mình phân tích, tự mình thể nghiệm, khảo xét mà chỉ dựa vào "niềm sùng kính" thì rõ ràng là không đúng như tinh thần Đức Phật đã dạy. Đã tự mình vội tin, lại đem niềm tin sai lệch ấy tác động đến nhiều người khác, nếu là người chân chánh tu tập Giáo pháp Như Lai, có lẽ ông nên chí thành sám hối về sai lầm này. Bây giờ, tôi mạo muội thử đặt mình vào vị trí của ông, nghĩa là do nhân duyên nào đó được đọc qua lời tuyên bố như ông trích dẫn ở trên. Vì đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự phân định thật giả trong Kinh điển, nên tôi không thể cho phép mình vội tin ngay, mà sẽ vâng theo lời Phật dạy để tự mình phân tích, khảo xét, tự mình thể nghiệm. Và dưới đây là kết quả phân tích, khảo xét, thể nghiệm của riêng tôi. Thứ nhất, lý do ngụy tạo Kinh Vu Lan Bồn được nêu trong câu trên là "nhằm củng cố sự chuyên chế của giường cột phong kiến, vốn lấy Trung Hiếu làm đầu, dầu là ngu trung và ngu hiếu". Thú thật, dù đọc đi đọc lại Kinh văn cả trăm lần, dù là trong nguyên bản Hán văn hay bản dịch tiếng Việt và tiếng Anh, tôi đều không thấy được cái mục đích này! Không một chỗ nào liên quan đến "giường cột phong kiến" (đúng ra phải là rường cột, tôi không biết nguyên bản viết sai hay người trích dẫn sai?), lại càng không có chỗ nào liên quan đến "ngu trung, ngu hiếu". Mà nếu làm theo Kinh này là "ngu hiếu", thì e rằng bao nhiêu thế hệ thầy tổ của chúng ta trước đây đều ngu cả rồi sao? Nghĩ đến đây tôi bất giác thấy lạnh cả người, dù muốn tin câu này cũng quả thật không dám tin! Câu tiếp theo ông Đáo Bỉ Ngạn viết: "Ngoài ra còn nhiều mục đích khác nữa." Nhưng vì không thấy phân biệt rõ ràng nên tôi cũng đành chịu, không biết là lời của ông hay của Hòa thượng Tuyên Hóa. Hơn nữa, một câu chung chung như vậy chẳng nói lên được điều gì cả, nên muốn phân tích ý nghĩa cũng chẳng biết làm sao mà phân tích! Vì thế, tôi bắt đầu quay sang khảo xét về mặt văn bản. Đến đây, tôi tìm được 2 văn bản có liên quan đến Hòa thượng Tuyên Hóa và Kinh Vu Lan Bồn. Văn bản thứ nhất là Hòa thượng Tuyên Hóa lược giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, quý vị có thể xem tại đây. Trong văn bản này, Hòa thượng Tuyên Hóa có đoạn nhắc đến ngài Mục-kiền-liên và dẫn lại toàn bộ câu chuyện "Mục-kiền-liên cứu mẹ" trong kinh Vu Lan Bồn. Mặc dù ngài không dẫn chính xác kinh văn, vì là trình bày theo lối kể chuyện kết hợp giảng thuyết, nhưng tất cả chi tiết đều y như trong kinh. Vì Hòa thượng Tuyên Hóa là một nhân vật gần đây, các đệ tử trực tiếp của ngài còn sống rất nhiều, nên khả năng bản Lược giảng Kinh Pháp Hoa này bị giả mạo hầu như không thể xảy ra, bởi các đệ tử của ngài chắc chắn sẽ lên tiếng ngay nếu có điều đó. Do đây tôi có sự ngờ vực, nếu Hòa thượng Tuyên Hóa thực sự tuyên bố rằng Kinh Vu Lan Bồn là ngụy tạo, vì sao ngài lại sử dụng nội dung kinh trong bài thuyết giảng của mình? Văn bản thứ hai là bản dịch Anh ngữ của Kinh Vu Lan Bồn, nhan đề "The Buddha Speaks the Ullambana Sutra", do Vạn Phật Thánh Thành thực hiện, mà Vạn Phật Thánh Thành là do Hòa thượng Tuyên Hóa sáng lập, các dịch giả ở đây hầu hết đều là đệ tử của ngài hoặc ít ra cũng là làm việc theo tôn chỉ của ngài. Chúng ta đều biết, Hòa thượng Tuyên Hóa đề ra 8 quy tắc rất nghiêm khắc cho việc phiên dịch nói chung, và công việc phiên dịch ở Vạn Phật Thánh Thành nói riêng. Do đây tôi có sự ngờ vực, nếu Hòa thượng Tuyên Hóa thực sự tuyên bố Kinh Vu Lan Bồn là ngụy tạo, vì sao các đệ tử của ngài lại vận dụng 8 quy tắc vàng để phiên dịch một bản văn ngụy tạo, hơn nữa vẫn ghi rõ đó là Kinh (sutra)? Như vậy, sau khi tự mình khảo xét về mặt ý nghĩa và về mặt văn bản, tôi đều thấy có những lý do xác đáng để không nên vội tin vào lời tuyên bố vừa đọc thấy như trên. Và từ đó tôi tiếp tục quay sang đặt câu hỏi về sự thực nghiệm của chính bản thân mình. Ngay từ thuở nhỏ tôi đã nhiều lần được theo cha mẹ đến chùa trong dịp lễ Vu Lan, thậm chí là khi còn chưa biết được ý nghĩa Vu Lan là gì. Từ đó đến nay, đã quá tuổi "tri thiên mệnh", tôi chưa thấy chút nguy hại hay không tốt nào của Kinh Vu Lan Bồn, mà trái lại mỗi Mùa Vu Lan về trong tôi đều đầy ắp những kỷ niệm đẹp, những tình cảm dào dạt khó phai. Tôi từng dự lễ Vu Lan với tư cách một người con, rồi đến một người cha, nhưng ở cương vị nào tôi cũng thấy lòng mình thanh thản theo từng nhịp kinh tiếng mõ trong Mùa Vu Lan. Với những trải nghiệm đó, tôi thấy không chút hoài nghi về tính chân thật của Kinh văn, và tôi vô cùng hoan hỷ nếu như từ nay đến cuối đời vẫn luôn may mắn có đủ thiện duyên để thực hành những lời dạy trong kinh vào mỗi Mùa Vu Lan. Cuối cùng, sau khi kết hợp cả sự phân tích, khảo xét và tự mình thể nghiệm theo đúng như lời Phật dạy, tôi đi đến kết luận là bản thân tôi không thể tin vào lời tuyên bố nói trên, rằng Kinh Vu Lan Bồn là ngụy tạo. Còn việc Hòa thượng Tuyên Hóa có tuyên bố như vậy hay không tôi xin miễn bàn, vì tôi thấy không còn cần thiết nữa. Bây giờ xin trở lại với vấn đề đọc Kinh điển của người Phật tử. Với cách đọc cẩn trọng và toàn tâm toàn ý như trên, vậy mỗi khi gặp điều nghi ngại ta phải làm sao? Dưới đây tôi xin chia sẻ vài kinh nghiệm của bản thân tôi, hy vọng sẽ có ích phần nào cho quý vị khi rơi vào những trường hợp tương tự. Từ năm khoảng 20 tuổi, tôi đã rất nhiều lần đọc kinh Duy-ma-cật, nhưng cứ mỗi lần đọc đến câu "Tùy kỳ phát hành tắc đắc thâm tâm" (Từ chỗ khởi làm mà được lòng tin sâu vững) là trong lòng tôi lại khởi lên một mối nghi không sao xóa bỏ. Từ thuở còn đi học, mỗi khi đọc kinh điển tôi vẫn luôn dặn lòng là phải thực sự hiểu biết rồi mới đặt niềm tin, bởi nếu không hiểu mà tin thì đó hẳn phải là một niềm tin mù quáng. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu là, đối với một sự việc ta cần phải nhận hiểu, đặt niềm tin rồi sau đó mới bắt tay vào làm; vì nếu chưa hiểu, chưa tin mà đã vội làm thì không thể tránh khỏi làm sai, làm bậy. Đối với tôi vào lúc ấy thì điều này có vẻ như một chân lý bất di bất dịch, bởi nó phù hợp với tinh thần lý luận khoa học cũng như những kiến thức mà tôi tiếp thu được từ nhà trường. Và khi vận dụng vào sự tu tập, tôi cũng thấy là hoàn toàn thích hợp. Như khi được nghe dạy về Năm giới, tôi nhất thiết phải tự mình tìm hiểu, suy xét xem đó là những giới gì, ý nghĩa ra sao, thọ trì sẽ được những lợi ích gì v.v... Chỉ sau nhận hiểu rõ ràng vấn đề và đặt niềm tin, tôi mới bắt đầu việc thọ trì Năm giới... Và đối với tất cả những lời dạy khác trong kinh điển, tôi tin là cũng đều nên như thế. Nhưng theo câu kinh văn vừa nói trên thì dường như nếu chưa khởi làm (phát hành) ta sẽ không thể có được lòng tin! Lẽ nào cách nhận hiểu của tôi từ trước là sai? Lẽ nào người ta có thể khởi làm một điều gì đó khi chưa có được niềm tin? Những nghi vấn này theo đuổi tôi trong nhiều năm liền, nhưng rất may mắn là nhờ tiếp nhận được nhiều ý nghĩa khác từ kinh văn nên trong lòng tôi hoàn toàn không có sự nghi ngờ về tính chân thật của kinh điển, chỉ khởi nghi tình duy nhất ở câu kinh mình chưa hiểu được đó mà thôi. Nhờ vậy, tuy vẫn ôm mối nghi tình nhưng niềm tin của tôi vào Tam bảo, vào Chánh pháp không hề suy suyển, vẫn mỗi ngày một tăng tiến hơn. Cho đến nhiều năm sau, khi trải qua những lần cận kề với cái chết, tâm thức được thử thách trong nhiều điều kiện khắc nghiệt, tôi mới chợt nhận ra rằng cái niềm tin của tôi từ thuở đôi mươi về trước hoàn toàn không phải là niềm tin sâu vững (thâm tâm) mà kinh văn nói đến. Niềm tin đó dựa vào sự suy diễn, lý luận nên thực chất của nó là rất mong manh và dễ dàng bị lay chuyển, đổi thay theo hoàn cảnh. Trái lại, niềm tin có được sau nhiều năm thực hành lời Phật dạy là một niềm tin hoàn toàn khác hẳn. Đó là một niềm tin sâu vững, chắc chắn đến mức cho dù ta có rơi vào bất kỳ hoàn cảnh nào, đối trước bất kỳ trở lực nào, cũng sẽ không hề mảy may khởi lên một chút nghi ngại hay thối chí. Vì thế, đến lúc này thì ý kinh trở nên hoàn toàn sáng tỏ với tôi và mối nghi tình ngày xưa cũng tự nhiên tan biến. Từ kinh nghiệm đó, tôi tin chắc rằng người Phật tử chúng ta khi đọc Kinh điển hoàn toàn có quyền, và thậm chí là cần phải, sinh khởi nghi tâm ở những nơi nào ta không thực sự hiểu được. Mối nghi này không hề ảnh hưởng đến niềm tin hay sự tu tập của ta, mà ngược lại còn có tác dụng thôi thúc ta tìm hiểu chuyên sâu hơn vào Giáo pháp, thực hành tinh tấn hơn những gì đã học hiểu, nhằm có thể tự mình tháo gỡ nghi tình. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ giữa nghi tâm cầu tiến như trên với sự hoài nghi, hoang mang của những người chưa đặt trọn niềm tin vào Chánh pháp. Những nghi ngờ loại sau này ngăn trở ta đi theo Chánh pháp, gợi lên trong lòng ta những phóng tưởng si mê, và vì thế nó là cực kỳ tai hại. Chẳng hạn, như trường hợp nói trên của tôi, nếu thay vì giữ vững niềm tin vào Tam bảo, vào Chánh pháp, tôi lại quay sang phát triển sự biện luận, nhận hiểu của mình – tất nhiên là còn đầy si mê trong đó – để chứng minh rằng Kinh Duy-ma-cật có vấn đề, có chỗ sai lệch v.v... thì chẳng những bản thân tôi xem như tuột dốc không phanh, mà thậm chí còn có nguy cơ kéo theo nhiều người khác nữa, nếu họ đặt niềm tin nơi tôi. Những phóng tưởng trong tâm thức ta có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào, nhưng chúng thường hoạt động mạnh mẽ nhất khi ta có sự nghi ngờ không đúng pháp như vừa nói trên. Chẳng hạn, khi ta nghi ngờ một người nào đó là tội phạm thì có vẻ như mọi thứ nơi người ấy, từ cử chỉ hành vi cho đến dáng vẻ, cách ăn mặc... sẽ đều có vẻ như rất giống một tội phạm! Đó chính là do sự phóng tưởng nơi tâm ta. Nó như cặp kính màu khiến cho ta không còn nhìn thấy được sự vật đúng thật như bản chất của chúng. Nếu tự mình nhớ lại, chắc chắn mỗi người trong quý vị đều có thể dễ dàng tìm được những ví dụ sống động về những phóng tưởng tương tự như thế. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến cho những mối bất hòa thường có khuynh hướng ngày càng trở nên sâu đậm hơn. Khi ta nghĩ về một người như là "người xấu", ta sẽ luôn có khuynh hướng thấy mọi việc làm, mọi lời nói, thậm chí là mọi thứ liên quan đến người ấy đều... xấu. Một khuynh hướng hoàn toàn phản khoa học, nhưng lại là một khuynh hướng rất thường gặp và chi phối rất nhiều trong cuộc đời ta, nếu ta không có sự sáng suốt tu tập Phật pháp để hóa giải. Tôi đi sâu vào điều này là để nêu ra một ý nữa mà người Phật tử cần lưu ý khi đọc kinh điển. Hãy đọc kinh điển với tâm thanh tịnh sáng suốt và loại trừ mọi phóng tưởng. Mà phóng tưởng trong trường hợp này là gì? Đó là những điều hoàn toàn không thật có, nhưng do sự suy diễn, sự thiên kiến hoặc ngờ vực của ta mà chúng được tạo thành. Đối với ta, những phóng tưởng ấy thường có vẻ như rất hợp lý, rất đúng đắn. Thế nhưng, nếu khách quan phân tích thì ta sẽ thấy ngay là chúng rất vô lý và thậm chí đôi khi thật khôi hài. Tôi xin lấy một vài ví dụ ngay trong bài viết của ông Đáo Bỉ Ngạn. Ông viết: Trong kinh “Địa tạng bổn nguyện” một người nữ Bà la môn, vì thương mẹ mình bị mất mà không biết thác sanh vào chốn nào, niệm tôn hiệu của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai chỉ một ngày một đêm thì người mẹ ấy từ địa ngục thác sanh vào cõi trời. Suy ra, 500 vị thánh tăng A la hán cùng chú nguyện chỉ bằng một người nữ Bà la môn? Phải chăng chỗ này lộ ra sự vô lý về đối tượng “cầu siêu” và “đạo lực” giữa một người phụ nữ với hàng trăm vị thánh tăng? (Hết trích) Đoạn văn lý luận này mới đọc qua nghe như rất hợp lý, vì bao gồm đủ các phần nêu dữ kiện, so sánh và kết luận. Nhưng thực chất thì đây hoàn toàn là một phóng tưởng được sinh khởi từ sự nghi ngờ của ông đối với Kinh Vu Lan Bồn. Tôi sẽ làm một thao tác đơn giản là hệ thống hóa lập luận trên của ông để chỉ ra điều này: Người nữ bà-la-môn niệm Phật để cứu mẹ mình trong 1 ngày đêm => có kết quả Năm trăm vị A-la-hán chú nguyện để cứu mẹ ngài Mục-kiền-liên => có kết quả Suy ra: Năm trăm vị A-la-hán chú nguyện = Người nữ bà-la-môn Sự tóm tắt như trên phản ánh trung thực những gì nêu ra trong đoạn văn, nhưng khi nhìn vào hẳn quý vị sẽ thấy ngay tính khôi hài và vô lý của nó! Một đàng là niệm tôn hiệu Phật, nghĩa là cầu sự gia bị của đức Phật, và có kết quả là nhờ đặt niềm tin vào Đức Phật, nhờ có tha lực của Đức Phật; còn một đàng là sự chú nguyện trực tiếp của các vị A-la-hán cho mẹ ngài Mục-kiền-liên, hai trường hợp, hai phương tiện, hai pháp môn, hai đối tượng đều hoàn toàn khác nhau, làm sao có thể so sánh được? Và kết quả suy ra cũng không liên hệ vào đâu cả. Nếu trong vế trên là 2 người nữ bà-la-môn chẳng hạn, tất nhiên trong kết luận sẽ là 500 vị A-la-hán = 2 người nữ bà-la-môn! Cách đặt vấn đề và suy luận như thế này, nếu là ở một học sinh Tiểu học, tôi cũng rất lo ngại là học sinh ấy sẽ không qua nổi kỳ thi tốt nghiệp! Và nếu không xếp lập luận này vào loại phóng tưởng, hẳn tôi cũng không biết phải lý giải thế nào về đoạn văn lập luận này. Đó là chưa nói đến việc 500 vị A-la-hán này cũng đã là sản phẩm tưởng tượng rồi chứ hoàn toàn không có trong bản Kinh văn đang đề cập. Nếu như ví dụ này chưa đủ làm rõ ý nghĩa của sự phóng tưởng, tôi xin nêu tiếp ví dụ thứ hai, cũng ngay sau đó trong bài viết của ông Đáo Bỉ Ngạn: Đối với người Tàu, cái gì cũng có thể nguỵ tạo, bịa đặt, vẽ rắn thêm chân. Các vị xem “Tây du ký” là truyện chương hồi của Ngô Thừa Ân, khác xa với chính sử về hình ảnh của Pháp sư Trần Huyền Trang còn gọi là Đường Tam Tạng... (Hết trích) Đoạn văn này được đưa ra để củng cố cho kết luận ở trên rằng Kinh Vu Lan Bồn là ngụy tạo, vì thế ta có thể tóm tắt như sau: Người Tàu cái gì cũng ngụy tạo => Tây du ký ngụy tạo chuyện ngài Huyền Trang Kinh Vu Lan Bồn do người Tàu làm ra => Vậy Kinh Vu Lan Bồn là ngụy tạo. Mới nhìn qua có vẻ như đây một lập luận vững chắc theo kiểu Tam đoạn luận. Thế nhưng xét lại thì thấy ngay là mỗi vế đi một đường, chẳng liên quan gì đến nhau cả! Nếu cách chứng minh này được chấp nhận, thì xem như tác giả sẽ chứng minh được tất cả kinh điển trong Đại Chánh Tạng đều là ngụy tạo, vì đều do người Tàu làm ra cả! Chỉ cần thay tên kinh là Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã v.v... thì phương trình vạn năng này sẽ bác bỏ hết tất cả Kinh điển Phật giáo trong Hán tạng. Thật đáng sợ! Nếu không hiểu đây là sự phóng tưởng từ mối nghi ngờ của tác giả thì không biết phải hiểu khác đi như thế nào? (Ấy là chưa nói đến một sai lầm cũng rất nghiêm trọng ở đây mà dường như tác giả hoàn toàn không biết: Người dịch kinh Vu Lan Bồn không phải người Tàu! Như đã lược dẫn ngay từ đầu bài viết, ngài là một cao tăng từ Ấn Độ sang, tên Phạn ngữ là Dharmarakṣa, hay Đàm-ma-la-sát, niên đại vào khoảng 230 – 316. Tên Hán ngữ của ngài là Trúc Pháp Hộ, với chữ Pháp Hộ là dịch nghĩa, còn chữ Trúc được lấy làm họ giống như một số vị tăng Ấn Độ khác vào thuở ban đầu Phật giáo mới truyền sang Trung Hoa, để chỉ xứ Thiên Trúc, tức là Ấn Độ, chẳng hạn như các ngài Trúc Pháp Lan, Trúc Phật Niệm...) Như thế đó, nếu cũng trên tinh thần này, chúng ta đọc lại toàn bài viết thì sẽ thấy còn rất nhiều điểm phóng tưởng khác từ sự nghi ngờ không đúng pháp của tác giả. Vì thế, tôi muốn nhân đây nêu ra để tự nhắc nhở mình cũng như tất cả quý Phật tử khi đọc Kinh điển là: Hãy tỉnh táo loại trừ mọi sự phóng tưởng của tâm ý, rất dễ dàng sinh khởi khi trong tâm ta có sự nghi ngờ không đúng pháp. Tóm lại, việc đọc kinh điển có thể nói là một phần cực kỳ quan trọng trong sự tu tập của người Phật tử. Chư Tăng Ni không phải lúc nào cũng hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, dắt dẫn ta; mà dù có được vậy thì ta vẫn phải tự mình nỗ lực nghiên tầm học hỏi từ Kinh điển mới có thể vững tiến trên đường đạo, chứ không thể hoàn toàn ỷ lại vào người khác. Qua bài viết này, tôi hy vọng có thể chia sẻ được với quý độc giả, quý Phật tử một số điểm cốt yếu khi đọc Kinh điển, để tránh không rơi vào sai lệch. Thứ nhất, xin hãy thận trọng trong việc phân định thật giả, đừng vội kết luận hồ đồ rồi sinh tâm nghi ngờ không đúng pháp, điều đó không những gây hại cho chính mình mà còn có thể làm hại đến nhiều người khác. Thứ hai, xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm để ngày càng củng cố niềm tin sâu vững của mình vào Chánh pháp. Đối với những gì đã nhận hiểu, tin tưởng, phải nỗ lực thực hành, áp dụng ngay vào cuộc sống hằng ngày. Đối với những gì chưa thông suốt, chưa hiểu thấu, nên khởi nghi tình để tiếp tục nghiên tầm, tiếp tục chiêm nghiệm, nhưng tuyệt đối không để mối nghi tình ấy phát triển sai lệch thành sự bất tín Tam bảo, phỉ báng Kinh điển. Nếu giữ được lòng nghi thanh tịnh với chỗ chưa thông suốt, chắc chắn sẽ có ngày tháo gỡ được để tiến tới xa hơn trên đường tu tập. Nếu không lưu ý điểm này sẽ rất dễ dàng rơi vào chỗ chạy theo những phóng tưởng sai lầm, khiến chúng ta hiểu lệch lạc ý kinh và đánh mất niềm tin vào Thánh giáo. Thứ ba, hãy nỗ lực tìm kiếm những bậc thầy chân chánh, những thiện hữu tri thức để kề cận và trực tiếp nương theo. Những vị này sẽ nâng đỡ, dắt dẫn ta trên đường tu tập. Cho dù họ không phải những bậc cao tăng danh tiếng, không có học thức uyên thâm, thì ít ra họ cũng là người đi trước ta được một vài chặng đường, nên chắc chắn sẽ có những kinh nghiệm thiết thực nào đó để truyền đạt cho ta. Kinh điển là Thánh giáo, không phải dễ dàng mà có thể nắm hiểu ngay được hết ý nghĩa thâm sâu, nên khi đọc Kinh điển mà có thầy, có bạn thì sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Cuối cùng, tôi xin trích lời ông Đáo Bỉ Ngạn dưới đây để nêu ra một nhận xét nhằm kết lại bài viết này: ... chúng ta nên xét lại để mà minh bạch với đồ chúng, để nguỵ-chân, thực giả đưa ra ánh sáng Phật pháp chiếu soi. Đừng vì những gì gọi là truyền thống hay là những lợi ích gì đó mà không dám lên tiếng! (Hết trích) Qua một số phản hồi của người đọc từ bài viết của ông Đáo Bỉ Ngạn, tôi được biết cụm từ "những lợi ích gì đó" được nêu ra ở đây nhằm chỉ đến việc một số chùa chiền hiện nay nhân dịp lễ Vu Lan để kêu gọi Phật tử tổ chức các lễ trai tăng linh đình, cúng dường phẩm vật ê hề, cho đến có cả việc đòi hỏi cúng bằng tiền mặt để... tiện chi dụng. Là những người Phật tử chân chánh, chúng ta không ai tán thành những việc quá đà và phi pháp trong chốn thiền môn, nhưng cũng nên phân biệt rạch ròi đó là sự sai trái của những cá nhân, những người không có sự tu tập chân chánh, chứ không liên quan gì đến Kinh điển. Kinh Vu Lan Bồn hoàn toàn không dạy những điều như vậy, không nên liên kết một cách vô cớ để sinh lòng bất kính với Kinh điển. Những ai mượn đạo tạo đời, dựa vào lòng tin của tín đồ để mưu cầu lợi dưỡng cá nhân mà không có sự nỗ lực tu tập, tất yếu đều phải đối mặt với nghiệp quả của riêng họ. Chúng ta không thể vì những hiện tượng tiêu cực đó mà quay sang công kích Kinh điển hay suy giảm lòng tin nơi Chánh pháp, nơi Tam bảo. Hy vọng là qua bài viết này, bản thân ông Đáo Bỉ Ngạn cũng như một số người đọc đã tán thành ý kiến của ông nêu ra sẽ có thể bình tâm nghĩ lại và rút ra được đôi điều suy ngẫm, để tất cả những người Phật tử chúng ta đều có thể cùng nhau thẳng tiến trên con đường tu tập theo Giáo pháp của Như Lai. Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến |
Để đáp ứng nguồn thông tin hai chiều, BBT TVHS đăng lại nguyên văn bài của tác giả Đáo Bỉ Ngạn: KINH VU LAN BỒN THỰC HAY GIẢ?
Đáo Bỉ Ngạn Vào mùa tháng Bảy (âm lịch) ở chùa nào cũng khai hội Vu Lan báo hiếu. Nhưng tại sao chỉ nhắc đến Mẹ mà không báo hiếu Cha? Mà thôi, ai cũng được vì ai cũng là đấng sinh thành như người ta thường nói vậy! Mà tại sao chỉ có báo hiếu vào mùa này nhỉ? Còn mùa khác thì không báo hiếu sao? Mà tại sao lại phải vào tháng Bảy âm lịch mới có Vu lan thắng hội? Thực sự ra ngày 14 tháng Bảy âm lịch hằng năm là ngày cúng giỗ tổ tiên người Tàu. Tại sao có sự trùng hợp với lễ Vu lan bồn một cách kỳ lạ như thế? Có ai suy nghĩ về điều này không? Tôi cũng như quý vị chưa từng nghĩ như vậy cho đến khi đọc được khai thị của hoà thượng Tuyên Hoá, vị thánh tăng người Trung Quốc, người sáng lập Vạn Phật Thánh Thành tại nước Mỹ vào thập niên 80 của thế kỷ 20. Theo pháp ngữ của Ngài thì người Tàu ngụy tạo ra kinh “Vu lan bồn” nhằm củng cố sự chuyên chế của giường cột phong kiến, vốn lấy Trung Hiếu làm đầu, dầu là ngu trung và ngu hiếu! Ngoài ra còn nhằm vào những mục đích khác nữa! Thật choáng váng cho tôi lúc đọc đến chỗ này, nhưng niềm sùng kính của tôi đối với Ngài là tuyệt đối vào thời điểm đó, nên tôi hoàn toàn tin tưởng đây là sự thật. Giờ đây bình tâm mà xét lại quả nhiên kinh Vu lan bồn lộ ra nhiều sơ hở, trái với chánh tư duy của nhà Phật. Theo kinh điển đạo Phật, một người đắc thánh quả thì 9 đời tổ tiên dòng họ được siêu thăng. Tôn giả Mục Kiền Liên sau khi quy y đầu Phật, chỉ 18 ngày sau là đắc A la hán, thì tại sao mẹ Ngài vẫn còn ở địa ngục? Trong kinh Vu lan bồn, sau khi trở về từ địa ngục thăm mẹ, tôn giả Mục Kiền Liên được Đức Phật chỉ dẫn cách lập Vu lan bồn. Trong kinh này có ghi là đàn tràng này được thiết lập với sự cúng dường phẩm vật (còn gọi là cúng trai tăng), và nhờ đến 500 vị thánh tăng A la hán cùng chú nguyện vào, thì mẹ Ngài mới siêu thăng. Vậy thì tôn giả chúng ta bấy giờ lấy đâu ra nhiều phẩm vật cúng dường và mời đâu ra dễ dàng 500 vị A la hán cùng một lúc nhỉ? Được biết, sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất chỉ có 499 vị, về sau có ngài A nan bổ sung mới đủ 500 vị. Như thế, thời điểm tôn giả Mục Kiền Liên “cứu mẹ” làm sao có được nhiều thánh tăng A la hán vậy? Nếu tôn giả Mục Kiền Liên làm như vậy, thì các tôn giả khác cũng có mẹ hoặc cha hoặc tứ thân phụ mẫu bị đoạ địa ngục. Vậy thì tính sao đây? Lẽ nào làm được cho tôn giả Mục Kiền Liên mà vị khác lại không? Đây là sự thiếu công minh, chắc chắn không phải là chỉ dụ của Phật! Trong kinh “Địa tạng bổn nguyện” một người nữ Bà la môn, vì thương mẹ mình bị mất mà không biết thác sanh vào chốn nào, niệm tôn hiệu của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai chỉ một ngày một đêm thì người mẹ ấy từ địa ngục thác sanh vào cõi trời. Suy ra, 500 vị thánh tăng A la hán cùng chú nguyện chỉ bằng một người nữ Bà la môn? Phải chăng chỗ này lộ ra sự vô lý về đối tượng “cầu siêu” và “đạo lực” giữa một người phụ nữ với hàng trăm vị thánh tăng? Do những sơ hở này, chúng ta hiểu thêm về xác quyết của hoà thượng Tuyên Hoá. Đây không phải lần đầu người Tàu nguỵ tạo kinh điển. Hoà thượng Hư Vân cho biết, thời Võ Tắc Thiên, kinh “Đại Vân” được “sáng tác” nhằm phục vụ cho việc soán ngôi vua của bà ấy! Đối với người Tàu, cái gì cũng có thể nguỵ tạo, bịa đặt, vẽ rắn thêm chân. Các vị xem “Tây du ký” là truyện chương hồi của Ngô Thừa Ân, khác xa với chính sử về hình ảnh của Pháp sư Trần Huyền Trang còn gọi là Đường Tam Tạng. Xem truyện “Thuỷ Hử”, lại càng thấy tài hư cấu bịa đặt của người Tàu đối với chính sử mà Thi Nại Am đã phóng tác. Mới đây nhất, trong một bài viết đăng trên báo “Hôn nhân và Pháp luật”, tác giả Phong Nguyệt cho biết, hậu bối của dòng họ Võ, đòi kiện con cháu nhà văn Thi Nại Am vì đã bôi xấu tên tuổi của Võ Đại Lang, vốn thời đó là một vị quan thanh liêm, chứ không phải là chàng gù bán bánh tiêu trong truyện “Thuỷ Hử”. Dẫn chứng nóng hổi nhất, thời sự nhất là người Tàu cho rằng đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung Quốc, trong khi những tài liệu lịch sử đều không có. Còn đường “lưỡi bò” mà Trung Quốc tự vẽ ra, chỉ mới đây thôi, khẳng định vùng biển Đông là của Trung Quốc. Cả thế giới lên án, ViệtNamđã bác bỏ luận điểm trên bằng những chứng cứ lịch sử đầy thuyết phục. Trung Quốc không dám đưa vấn đề này ra Toà án Quốc tế. Trở lại kinh “Vu lan bồn”, chúng ta nên xét lại để mà minh bạch với đồ chúng, để nguỵ-chân, thực giả đưa ra ánh sáng Phật pháp chiếu soi. Đừng vì những gì gọi là truyền thống hay là những lợi ích gì đó mà không dám lên tiếng! ĐÁO BỈ NGẠN |