QUY SƠN CẢNH
SÁCH
Nguyên tác Hán văn: Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu
Dịch và chú giải: Nguyễn Minh Tiến
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
Hành trạng Tổ Quy Sơn Linh Hựu
Tổ sư vốn người họ Triệu, quê ở Trường Khê, Phúc Châu. Ngài xuất gia năm 15
tuổi, theo thầy là Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện. Năm 20 tuổi thọ giới Cụ túc
tại chùa Long Hưng thuộc Hàng Châu, pháp hiệu là Linh Hựu.
Từ khi xuất gia, ngài chuyên cần học tập kinh điển của cả Đại thừa và Tiểu
thừa. Năm 23 tuổi đến Giang Tây tham bái tổ Bách Trượng. Tổ Bách Trượng vừa gặp
ngài đã biết ngay là bậc pháp khí, liền thu nhận làm đệ tử, cho được sớm tối kề
cận để tham học.
Một hôm, ngài đang đứng hầu tổ Bách Trượng. Tổ hỏi: “Ai đó?” Ngài đáp: “Con là
Linh Hựu.” Tổ nói: “Ông khơi trong bếp xem có lửa hay không?” Ngài đến khơi
trong bếp thấy đã tắt hết, bèn nói là không có lửa. Tổ sư thân tới bên bếp lửa,
bới sâu trong tro lấy ra được chút than còn đỏ, đưa lên mà hỏi rằng: “Ông nói
không có lửa, vậy đây là cái gì?” Ngài nhân lúc đó bừng tỉnh ngộ, lễ tạ thầy
trình chỗ sở kiến.
Tổ Bách Trượng nói: “Đây chỉ là chỗ rẽ tạm thời trên đường đi. Trong kinh nói:
Muốn hiểu nghĩa Phật tánh phải xem nơi thời tiết nhân duyên. Một khi thời tiết
đến, như mê chợt ngộ, như quên chợt nhớ, mới biết ra đó là vật của mình, không
phải do bên ngoài mà có được. Vì thế, Tổ sư nói rằng: Ngộ rồi cũng như chưa
ngộ, không có tâm cũng không có pháp, chính là không các tâm hư vọng, tâm phàm,
tâm thánh... Từ xưa nay tâm pháp vốn tự đầy đủ, nay ông đã được rồi, phải khéo
tự giữ gìn.”
Sau, ngài được tổ Bách Trượng cho giữ chức Điển tòa.
° ° °
Bấy giờ có Tư Mã Đầu Đà là một vị thiền sư du phương. Một hôm từ Hồ Nam đến chỗ
tổ Bách Trượng, nói rằng: “Tôi đến xứ Hồ Nam tìm được một ngọn núi tên là Đại
Quy, là nơi có thể dung chứa đến 1.500 người, chính là chỗ dành cho bậc thiện
tri thức cư ngụ.”
Tổ Bách Trượng hỏi: “Lão tăng này đến đó ở được chăng?”
Tư Mã Đầu Đà đáp: “Không phải chỗ Hòa thượng ở được.”
Lại hỏi: “Vì sao vậy?”
Tư Mã Đầu Đà nói: “Hòa thượng như xương, núi kia như thịt, nếu có đến ở thì đồ
chúng không tới số ngàn.”
Tổ Bách Trượng lại hỏi: “Như trong đồ chúng của ta, có ai được chăng?”
Tư Mã Đầu Đà đáp: “Phải đợi xem qua mới biết.”
Tổ Bách Trượng liền bảo thị giả gọi vị Thủ tòa là thiền sư Hoa Lâm đến, hỏi Tư
Mã Đầu Đà rằng: “Người này được chăng?”
Tư Mã Đầu Đà quan sát, bảo Hoa Lâm đằng hắng một tiếng và bước đi mấy bước, rồi
nói: “Không thể được.”
Tổ Bách Trượng lại cho gọi ngài – tổ Quy Sơn –đến. Tư Mã Đầu Đà vừa nhìn thấy
liền nói: “Vị này chính là chủ nhân của Quy Sơn rồi.”
Đêm ấy,
tổ Bách Trượng gọi ngài vào trong phòng, dặn dò rằng: “Ta
tùy duyên
giảng pháp nơi đây, còn chỗ
thắng cảnh Quy Sơn là nơi ông nên đến ở để
tiếp nối
tông môn của ta mà rộng độ cho những người hậu học.”
Thiền sư Hoa Lâm nghe biết chuyện, thưa hỏi: “Con nay là người
đứng đầu trong
chúng, sao vị
Điển tòa lại được làm trụ trì?”
Tổ Bách Trượng nói: “Nếu ai có thể đối trước chúng nói ra một câu xuất cách sẽ
cho làm
trụ trì.”
Rồi chỉ cái
tịnh bình mà hỏi: “Không được gọi là
tịnh bình, ông gọi là gì?”
Hoa Lâm nói: “Không thể gọi là cây lủng.”
Tổ Bách Trượng lại hỏi ngài. Ngài đá cái
tịnh bình ngã nhào rồi đi ra.
Tổ Bách
Trượng cười nói: “Ông đệ nhất tòa thua mất hòn núi này rồi.” Liền sai ngài đến
Quy Sơn.
° ° °
Quy Sơn là ngọn núi cao chót vót, không có bóng người, vượn khỉ
tụ tập thành
bầy. Ngài nhặt những trái sung, trái dẻ mà làm
thức ăn. Được chừng năm bảy năm qua,
chẳng có ai
lui tới. Ngài tự nghĩ: “Ta đến đây làm
trụ trì là muốn làm
lợi ích
cho người. Nay đường xá đến đây chẳng được, làm sao có người tụ họp?” Liền rời
khỏi am thất mà tìm xuống núi. Ra đến cửa núi, thấy những
rắn độc, hổ báo, lang
sói chặn đầy ngang đường. Ngài nói: “Này các giống thú, đừng chặn đường đi của
ta. Như ta có duyên với núi này, các ngươi hãy nên đi
nơi khác. Như ta không có
duyên với núi này, các ngươi không cần đi, ta theo đường mà đến cho các ngươi
ăn thịt vậy.”
Nói xong, tất cả các giống
thú dữ ấy liền tứ tản đi mất hết. Ngài lại
quay về
am thất. Chưa được một năm sau,
thượng tọa Lại An cùng với một số
tăng chúng từ
chỗ ngài Bách Trượng tìm đến mà trợ giúp với ngài. Lại An nói: “Tôi xin vì
Hòa
thượng mà làm chức
Điển tòa, đợi
tăng chúng được 500 vị mới thôi.”
Từ đó về sau dân cư dưới núi mới
dần dần biết đến, lập nên cảnh chùa. Liên soái
Lý Cảnh Nhượng có tâu lên vua xin ban hiệu chùa là Đồng Khánh. Tướng quốc
Bùi
Hưu cũng thường đến thưa hỏi những chỗ
sâu xa huyền diệu. Người trong
thiên hạ
đến học thiền ngày càng đông đúc. Trong những vị
đắc pháp có
thiền sư Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch là bậc cao trổi, nên người đời tôn xưng tông này là tông
Quy
Ngưỡng.
Ngài rộng
truyền giáo pháp được hơn 40 năm. Vào niên hiệu Đại Trung thứ 7 đời
nhà Đường, tức là năm 853 theo Tây lịch, ngày mồng 9 tháng Giêng, ngài tắm gội
sạch sẽ rồi ngồi
an nhiên vui vẻ mà
thị tịch, thọ 83 tuổi, trải 64 tuổi Hạ. Vua
ban
thụy hiệu là Đại Viên
Thiền sư, dựng tháp thờ tại
Quy Sơn, đặt tên tháp là
Thanh Tịnh. Vì thế,
pháp hiệu của ngài là
Linh Hựu nhưng người đời thường
tôn
kính gọi là
Quy Sơn Đại Viên
Thiền sư.
Bài văn
cảnh sách do ngài làm ra được
truyền tụng khắp chốn
thiền môn,
trải qua
nhiều
đời sau vẫn còn được
trân trọng.