Niên biểu sơ thảo về ngài Nguyệt Xứng

06/09/20174:00 SA(Xem: 11521)
Niên biểu sơ thảo về ngài Nguyệt Xứng

NIÊN BIỂU SƠ THẢO VỀ NGÀI NGUYỆT XỨNG
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Nguyệt Xứng

590  Năm sinh Nguyệt Xứng (Chandrakirti)

596  Nguyệt Xứng được thọ giới, vào tu viện

600  Thanh Biện (Bhavaviveka c.500-600) bị Hộ Pháp (Dharmapala - c.550 – 620 ) từ chối hợp tác, về nhập thất tại Dhanyakataka

604  Nguyệt Xứng bắt đầu theo học các khoa học căn bản, kinh điển Đại Chúng Bộ (Mahasamghika)

606  Harsavardana (Shiladitya I ) đăng quang tại Kanauji

608   Harsavardana khởi sự  xây dựng Tinh xá (Vihara) thứ bảy tại Nalanda

610   Nguyệt Xứng đi về hướng bắc, tới Nalanda, bắt đầu Nghiên Cứu Trung Quán

615  Nguyệt Xứng viết Nhập Trung Đạo (Madhyamakavatara)

620  Nguyệt Xứng  kế vị Liên Hoa Giác (Kamalabuddhi) đảm nhiệm  Giáo sư trưởng về Nghiên Cứu Trung Quán (Chair of Madhymika Studies)

621 Nguyệt Xứng viết  Hiển bày Trung Đạo (= Minh cú luận - Prasannapada)

622  Nguyệt Xứng viết Giải thích Bảy mươi kệ tụng về Tính Không  (Sunyatasaptavrtti)

623  Nguyệt Xứng  được  giao chức vụ tổng quản (superintendent)  nông trại Nalanda.

624   Shashanka phá hủy các tu viện và các tháp Phật Giáo tại  Ma kiệt đà (Magadha)

625   Harsavardana đánh thắng Shashanka, dựng lại bức tường chu vi  của Nalanda

626  Nguyệt Xứng viết  Giải thích Bốn trăm kệ tụng của Thánh Thiên ( Aryadeva – Catuhsatakatika). Hộ Pháp từ trần.

631  Huyền Trang tới học với Giới Hiền (Shilabhadra) tại Nalanda

633   Nguyệt Xứng viết  Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi (= Lục thập Như Lý Luận - Yukti sastikavrtti). Tinh xá do Harsavardana xây hoàn thành.

640   Nguyệt Xứng viết – Hành tướng ngũ uẩn (= Đại thừa ngũ uẩn luận – Pancaskandhaprakarana)

643   Huyền Trang rời Nalanda.  Pháp Xứng (Dharmakirti) bắt đầu nổi bật

644 Nguyệt Cung (Chandragomin) tới Nalanda, bắt đầu các tranh luận với Nguyệt Xứng

648  Vua Shila  kế vị thân phụ Harsavardana

650   Nguyệt Xứng kế vị Giới Hiền làm Tu Viện Trưởng, tham vấn sư cho Giải Thoát Quân (Vimuktisena)

652   Nguyệt Cung rời Nalanda, tranh luận Nguyệt XứngNguyệt Cung chấm dứt

653   Nguyệt Xứng viết Bảy kệ tụng về Ba quy y (Trisaranasaptati); giảng dạy Jayadeva

658   Nguyệt Xứng về nhập thất tại Konkana, Bảo Sư Tử (Ratnasimha) kế vị làm Tu Viện Trưởng

661   Nguyệt Xứng tu tập/ giảng dạy Bí Mật Tập Hội (Guhyasamaja), biên soạn Pradipodyottana

675  Nguyệt Xứng từ trần, Nghĩa Tịnh (Y jing) tới Nalanda

685   Nghĩa Tịnh nhắc đến Pháp Xứng là một nguồn sáng “mới đến”  - (“recent” luminary). Nghĩa Tịnh rời Nalanda.

686  Jayadeva kế vị Bảo Sư Tử làm Tu Viện Trưởng Nalanda, giảng dạy Tịch Thiên (Shantideva)

***

Nguồn : Joseph Loizzo. Speculative Reconstruction of Chandrakirti ‘s Biography (p.385), ---  Nagarjuna ‘s  Reason Sixty with Chandrakirti ‘s Commentary (2007)

Chú thích của bản Việt

623  Nguyệt Xứng  được  giao chức vụ tổng quản (superintendent)  nông trại Nalanda. Ngài nói sữa bò là của các con bê, còn các nhà sư Nalanda thì dùng sữa được hứng từ bức tranh con bò treo trên tường do ngài vẽ.

645 Huyền Trang dịch Kinh Vô Cấu Xưng (Kinh Duy Ma Cật)

Kính mời độc giả đọc thêm

Đức Đạt Lai Lạt Ma
MẶT TRỜI CHIẾU SÁNG BA PHƯƠNG DIỆN CHÁNH TÍN 
[Ca tụng mười bảy Đại sư Nalanda] 
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

https://thuvienhoasen.org/a23556/mat-troi-chieu-sang-ba-phuong-dien-chanh-tin 

 


Bài đọc thêm:

Nguyệt Xứng
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)


Nguyệt Xứng (zh. 月稱, sa. candrakīrti, bo. zla ba grags pa ཟླ་བ་གྲགས་པ་), tk. 6/7, được xem là Luận sư quan trọng nhất trong tông Trung quán sau Long Thụ. Sư quê ở Nam Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi. Nhân lúc đọc tác phẩm của Long Thụ, Sư bỗng hiểu ý. Sau, Sư trở thành viện trưởng của Na-lan-đà và viết nhiều bài luận chú giải về các tác phẩm của Long Thụ.

Các tác phẩm quan trọng của Sư là Minh cú luận (zh. 明句論, còn nguyên bản Phạn ngữ), Nhập trung quán luận (zh. 入中觀論). Tương truyền rằng, trong một cuộc hành trình truyền Pháp về hướng Nam, Sư đã giáo hoá rất nhiều người. Sư sống rất thọ, nhưng chắc chắn là không thọ đến 300 (!) tuổi như sử sách Tây Tạng thuật lại.

Các tác phẩm còn lưu lại của Sư (trích):

- Minh cú luận (sa. prasannapadā), gọi đủ là Trung quán minh cú luận (sa. madhyamakavṛtti-prasannapadā), tác phẩm chú giải Trung quán luận (sa. madhyamaka-śāstra) của Long Thụ (sa. nāgārjuna) duy nhất bằng nguyên văn Phạn ngữ, bản Tạng ngữ cũng còn;
- Nhập trung quán luận (sa. madhyamakāvatāra), chỉ còn bản Tạng ngữ;
- Nhập trung luận thích (sa. madhyamakāvatāra-bhāṣya), chỉ còn bản Tạng ngữ;
- Nhân duyên tâm luận thích (sa. pratītyasamutpāda-hṛdaya-vṛtti), một tác phẩm chú giải Nhân duyên tâm luận tụng (sa. pratītyasamutpāda-hṛdaya-kārikā), được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ;
- Thất thập không tính luận thích (sa. śūnyatā-saptativṛtti), chú giải Thất thập không tính luận (sa. śūnyatā-saptati) của Long Thụ. Long Thụ (và Parahita) cũng có soạn một tác phẩm dưới tên này. Chỉ còn bản Tạng ngữ;
- Lục thập tụng như lý luận thích (sa. yukti-ṣaṣṭhikā-vṛtti), luận giải Lục thập tụng như lý luận (sa. yukti-ṣaṣṭhikā), một tác phẩm được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ;
- Bồ Tát du-già hành tứ bách luận thích (sa. bodhisattvayogācāra-catuḥśataka-ṭīkā), chú thích bộ Tứ bách luận (sa. catuḥśataka) của Thánh Thiên (sa. āryadeva), chỉ còn bản Tạng ngữ;
- Trung quán luận tụng (sa. madhyamaka-śāstra-stuti).










Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 190833)
01/04/2012(Xem: 36436)
08/11/2018(Xem: 15112)
08/02/2015(Xem: 54257)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :