chính: Theravāda và Mahāyāna.
, Miến Điện, Thái Lan, Lào và Campuchia.
. Riêng ở
Tuy tên gọi, hình thức sinh hoạt, phương thức hành trì khác nhau nhưng cả hai đều nương theo lời Phật dạy để tu tập, hướng đến mục tiêu giác ngộ giải thoát. Thế nên, Phật hoàng Trần Nhân Tông, vốn là Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thuộc truyền thống Phật giáo Đại thừa, nhưng quan điểm của Ngài không hề có sự phân biệt, kỳ thị với Phật giáo Tiểu thừa (từ “Tiểu thừa” được đề cập trong Cư trần lạc đạo phú vì trước đây thường dùng để chỉ cho Phật giáo Theravāda). Có lẽ đó là lý do tại sao sau khi viên tịch, người đời sau đã tạc tượng Ngài dưới hình thức khoác y hở vai của Phật giáo Theravāda để tôn thờ trong tháp Huệ Quang. Chính hình thức y phục ấy đã trở thành đề tài khiến cho các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều giả thiết, có người gọi đó là “nếp áo Tiểu thừa” và khẳng định rằng vua Trần Nhân Tông đã tu theo Tiểu thừa(1). Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, hình thức y phục ấy có thể là tiếp nối cách mặc y của Tăng sĩ thời Lý(2) hoặc phát xuất từ quan điểm dung hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Quan điểm dung hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna thể hiện trong tác phẩm của Phật hoàng Trần Nhân Tông
Khi tìm hiểu quan điểm dung hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật hoàng Trần Nhân Tông, trước hết phải căn cứ vào tác phẩm của Trần Nhân Tông. Điển hình như trong Cư trần lạc đạo phú có đoạn:
Han hữu lậu, han vô lậu
Bảo cho hay: the lọt, duộc thưng;
Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa
Thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo... (Hội thứ 6)(3).
Trong đoạn phú này, chữ ‘han’ trong câu đầu và chữ ‘hỏi’ ở câu sau là hai từ đồng nghĩa, nên chúng ta thường dùng chung là hỏi han. Hữu lậu, vô lậu: xét về từ nguyên, theo chữ Hán, lậu (漏) nghĩa là lọt, là rơi rớt, hữu lậu là còn rơi rớt; vô lậu là không còn rơi rớt. Theo quan điểm Phật giáo, nếu ai tu hành được giải thoát sanh tử là ra khỏi Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), đó gọi là vô lậu. Còn người nào chỉ tu tạo phước báo nhân thiên thì còn ở trong vòng tam giới, còn sanh lại trong cõi đời này để hưởng phước, tức là hữu lậu.
Khi có ai hỏi thế nào là hữu lậu hay vô lậu thì “bảo cho hay” liền trả lời cho họ biết “the lọt, duộc thưng”. Theo sự phân tích, giải thích của Hòa thượng Thích Thanh Từ, chữ “the” tức là vải the, nếu chúng ta đổ cám hay cát trên vải the rồi lắc một hồi nó rơi xuống hết gọi là the lọt. Chữ “duộc” là cái cán, “thưng” là cái gáo, nhưng ở đây “duộc thưng” còn có nghĩa là tấm vách ngăn chận lại. Vì vậy hữu lậu là còn rơi rớt lại cũng như vải the còn rớt cám, rớt cát xuống, còn vô lậu ví như tấm vách ngăn chặn lại, không bị rơi rớt(4).
Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo. Trong câu này, Lê Mạnh Thát giải thích từ “lòi” là dây cột, “tơ” là dây kéo(5). Theo cách giải thích đó, thì “lòi tiền” nghĩa là thời xưa sử dụng tiền đồng điếu có đục lỗ ở giữa, phải dùng sợi dây cột lại thành xâu; “tơ gáo” tức là dùng sợi dây để kéo gàu múc nước. Như vậy sợi dây xâu tiền và sợi dây kéo gàu múc nước, mỗi thứ đều có công dụng riêng của nó. Ý câu này muốn nói Tiểu thừa giống như sợi dây nhỏ dùng để xâu tiền đồng điếu, Đại thừa giống như sợi dây to dùng để kéo gàu múc nước, nghĩa là mỗi pháp môn tu đều là phương tiện lập ra để làm lợi ích cho chúng sanh.
Liên quan đến vấn đề này, trong hội thứ 10 của Cư trần lạc đạo phú cũng đề cập: “Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến,
Bụt xá ngăn Bảo sở Hóa thành”(6).
Nội dung của câu này
xuất phát từ
kinh Pháp hoa,
Hòa thượng Thích Thanh Từ
giải thích: Chúng
Tiểu thừa, là các vị tu theo
Thanh văn thừa, tức là chỉ cho
Phật giáo Nguyên thủy. Cốc hay chửa đến, “cốc” là biết, “hay” là hiểu, tức là cái
hiểu biết chưa đến. Bụt xá ngăn
Bảo sở Hóa thành: “Xá” là đâu, nghĩa là những vị
Tiểu thừa vì sự
hiểu biết chưa đến, chứ Phật đâu có ngăn chia đây là
Bảo sở, kia là
Hóa thành.
Bảo sở là chỉ
Phật thừa,
Hóa thành là chỉ
Thanh văn thừa. Trong
kinh Pháp hoa, Niết-bàn của
Thanh văn gọi là
Hóa thành, chỗ cứu kính của Phật gọi là
Bảo sở(7).
Bảo sở hay
Hóa thành cũng chỉ là
phương tiện, không nên
chấp trước, bám trụ vào đó.
Tương tự đối với
pháp môn tu của
Phật giáo Đại thừa hay
Tiểu thừa cũng vậy,
tùy theo căn cơ trình độ,
nhân duyên và
sở thích mà mỗi người có thể tự chọn cho mình
phương pháp tu tập phù hợp. Với sự
hiểu biết như vậy, sẽ không có sự
phân biệt, kỳ thị giữa
tông phái này và
tông phái khác.
Có lẽ
xuất phát từ những đoạn thi phú này mà người
đời sau đã
phác họa hình ảnh Phật hoàng
Trần Nhân Tông vừa theo mô thức của
Phật giáo Đại thừa qua
hình ảnh Sơ tổ Trúc Lâm mặc áo hậu theo
hình thức y phục của
Phật giáo Đại thừa, ngồi trên cáng võng xuống núi
trở về cung để
truyền giới Bồ-tát
tại gia cho vua Trần Anh Tông và quan quân triều đình;
ngoài ra, trong đoàn tháp tùng theo Ngài còn có một vị Tăng sĩ khoác y hở vai phải như
hình ảnh minh họa trong
bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ
(8). Bên cạnh đó,
tượng Phật hoàng
Trần Nhân Tông được tôn thờ trong tháp
Huệ Quang lại được tạc với
hình thức khoác ca-sa hở vai phải theo lối
y phục của
Phật giáo Theravāda.
Từ nếp y hở vai ấy, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều
giả thiết nghiên cứu,
đặc biệt, Trần Ngọc Linh cho rằng đó là “nếp áo Tiểu thừa”,
đồng thời căn cứ vào phương pháp tu đầu-đà
khổ hạnh và
tôn hiệu “Hương Vân Đại Đầu-Đà”, “Trúc Lâm Đầu-Đà” của
Trần Nhân Tông rồi khẳng định rằng: “Vua
Trần Nhân Tông đã
tu hành theo
pháp giới hạnh đầu-đà thuộc
Tiểu thừa để rồi sau này
đắc đạo thành Phật”
(9). Từ
chi tiết y hở vai này, Thích Thanh Thắng cũng đặt
vấn đề: “Cách mặc hở vai của Tăng sĩ là một
hình thức phổ biến thời Lý, được
tiếp nối với các
hình thức ăn mặc khác của Tăng sĩ thời Trần thì việc
tạc tượng Phật hoàng
Trần Nhân Tông có nếp áo hở vai có phải là điều quá ngạc nhiên?”
(10).
Trong hai
giả thiết trên,
chúng ta thấy cách đặt
vấn đề của Thích Thanh Thắng có thể nói là có sức
thuyết phục hơn cách
lập luận của Trần Ngọc Linh. Bởi lẽ
phương pháp tu đầu-đà
khổ hạnh không phải chỉ dành riêng cho các vị tu theo
Tiểu thừa mà ngay cả các vị tu theo
Đại thừa như các vị
Thiền sư sống
ẩn dật tiêu dao nơi chốn
núi rừng cũng
tu tập như vậy
(11).
Đặc biệt, đọc qua
hành trạng và
tác phẩm của
Trần Nhân Tông,
chúng ta sẽ thấy
Trần Nhân Tông ngay cả trước khi
xuất gia cho đến sau khi
trở thành vị
Sơ tổ Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử, Ngài
chuyên tâm nghiên cứu và
tu tập theo
Thiền tông,
tư tưởng cốt lõi và phương thức
hành đạo chủ yếu của Ngài theo khuynh hướng
Phật giáo Đại thừa. Do đó, nếu cho rằng vua
Trần Nhân Tông tu theo pháp đầu-đà thuộc
Tiểu thừa là một
giả thiết không
thuyết phục lắm. Ngoài các
giả thiết trên,
hy vọng các nhà
nghiên cứu sẽ phát hiện thêm các nguồn thư tịch cổ và các
công trình khảo cổ khác để làm rõ
vấn đề tại sao Phật hoàng
Trần Nhân Tông -
Sơ tổ Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử lại được
tạc tượng để tôn trí trong tháp
Huệ Quang dưới
hình thức khoác y hở vai.
Theo
quan điểm của người viết,
tượng Phật hoàng
Trần Nhân Tông trong
tư thế tọa thiền với nếp y hở vai chỉ là một
hình thức nghệ thuật
tạc tượng của
Phật giáo,
mô phỏng theo một trong những mẫu tượng của
Đức Phật Thích Ca xưa kia.
Đồng thời, pho tượng ấy và ngay cả
hình ảnh vị sư
Nam tông xuất hiện trong
Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ cũng chỉ mang
ý nghĩa biểu trưng,
thể hiện quan điểm dung hòa giữa
Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật hoàng
Trần Nhân Tông. Tuy với
tư cách là một người
lãnh đạo Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử vốn bắt nguồn từ
truyền thống Phật giáo Đại thừa, nhưng
Sơ tổ Trúc Lâm vẫn
dung hòa các
tông phái Phật giáo, không hề có sự
phân biệt, kỳ thị,
bác bỏ tông phái nào,
cụ thể như phái
Tiểu thừa được đề cập trong
Cư trần lạc đạo phú.
Quan điểm dung hòa giữa Phật giáo Theravāda và Mahāyāna thể hiện qua văn hóa ứng xử của Phật hoàng Trần Nhân Tông
Khi
nghiên cứu về
văn hóa ứng xử của Phật hoàng
Trần Nhân Tông,
chúng ta thấy một trong những điểm
nổi bật được xem là
tư tưởng cốt lõi tạo nên nét đặc trưng
văn hóa của Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử đó chính là
tinh thần nhập thế tích cực. Tuy mang nét đặc thù với chủ trương “cư trần lạc đạo” của Phật hoàng
Trần Nhân Tông, nhưng suy cho cùng thì
tinh thần nhập thế tích cực ấy
vẫn có sự
kế thừa, dung hợp
quan điểm nhập thế của
Phật giáo Nguyên thủy và
Phật giáo Đại thừa.
Nhập thế theo quan điểm Phật giáo Nguyên thủy
Thông thường, khi nói đến
tinh thần nhập thế của
Phật giáo chúng ta sẽ
liên hệ ngay đến
tư tưởng Bồ-tát đạo của
Phật giáo Đại thừa.
Tuy nhiên, nếu
nghiên cứu kỹ
chúng ta sẽ thấy
quan điểm nhập thế lại được hình thành ngay từ thời
Đức Phật Thích Ca còn
tại thế. Khi đề cập đến
quan điểm nhập thế của
Phật giáo Nguyên thủy,
chúng ta không thể nào quên lời
di huấn của
Đức Phật được ghi lại trong kinh Đại bát Niết-bàn:
“Này các Tỳ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp”(12).
Qua đó cho thấy,
tinh thần nhập thế của
Phật giáo đã được định hình từ khi
Đức Phật còn
tại thế.
Quan điểm nhập thế của
Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh hàng
xuất gia đệ tử Phật nên vì
hạnh phúc cho
chúng sanh, vì
an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì
an lạc cho loài Trời và
loài Người mà khéo
học hỏi,
tu tập,
thực chứng lời Phật dạy và
tuyên thuyết pháp “sơ thiện, trung thiện, hậu thiện”.
Kế thừa quan điểm nhập thế của
Phật giáo Nguyên thủy, vua
Trần Nhân Tông sau khi nhường ngôi cho con,
xuất gia trở thành Sơ tổ Trúc Lâm, đã
“đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập thiện”(13).
Thập thiện (十善), tức là
mười điều lành do
ba nghiệp tạo nên,
gồm có: không
sát sinh, không
trộm cắp, không
tà dâm, không
nói dối, không nói
thêu dệt, không nói lời hai chiều, không
nói lời hung ác, không
tham lam, không
sân hận, không
si mê. Có thể nói
sở dĩ Sơ tổ Trúc Lâm chọn
giáo lý Thập thiện để dạy cho dân chúng bởi vì mười điều này rất
đơn giản,
dễ hiểu, dễ
thực hành, mang lại những
lợi ích vô cùng thiết thực cho
con người và
xã hội.
Cụ thể hơn, nói về
công năng của
Thập thiện nghiệp, trong kinh Thế ký thuộc Trường A-hàm có đề cập: Ở
thế gian vào thời
kiếp giảm,
con người sống đến 84 ngàn tuổi, sau đó giảm dần ...
cho đến 200, và ngày nay,
con người sống khoảng 100 tuổi.
Sở dĩ tuổi thọ và
phước báo con người suy giảm là do không
tu pháp Thập thiện mà ngược lại còn làm Thập ác… Qua kiếp tăng,
con người làm ác cùng cực, chợt
thức tỉnh tu thiện, từ 1
cho đến 10 điều thiện, thì
phước báo và tuổi thọ tăng dần lên đến 84 ngàn tuổi, và
thế giới trở thành an lạc,
hạnh phúc vô cùng(14). Đó chính là
lý do tại sao khi đề cập đến
lợi ích của pháp
Thập thiện,
Hòa thượng Thích Thanh Từ nói rằng:
“Người tu từ cư sĩ tại gia cho đến xuất gia lẫn người thế gian, nếu biết áp dụng pháp tu Thập thiện trong cuộc sống thì được bình an hạnh phúc. Người tu thì mau tiến đến quả giải thoát. Người đời thì phước báu ngày càng lớn, tuổi thọ ngày càng tăng trưởng”(15).
Nói chung, người
tu Thập thiện nghiệp thì
trong đời hiện tại thân tâm được
cải thiện tốt đẹp,
hoàn cảnh sống được sáng sủa tươi vui; tương lai
tránh khỏi đọa lạc chốn
tam đồ, lại được hưởng
phước báo cõi
nhân thiên và
chứng đắc Phật quả. Chính vì thế,
Sơ tổ Trúc Lâm đã
kế thừa quan điểm nhập thế độ sanh của
Phật giáo Nguyên thủy bằng
cách đi khắp vạn nẻo thôn quê để khuyên dân chúng
thực hành Thập thiện nhằm
giáo dục nhân cách
đạo đức cho
con người,
thiết lập nền
đạo đức văn hóa cho
xã hội và
xây dựng một đất nước
thanh bình,
nhân dân được
ấm no hạnh phúc.
Nhập thế theo quan điểm Phật giáo Đại thừa
Theo
tinh thần Phật giáo Đại thừa, một vị Bồ-tát khi đã
phát tâm Bồ-đề
cần phải hội đủ hai
yếu tố từ bi và
trí huệ để
nhập thế độ sanh,
thực hành Bồ-tát đạo.
Hay nói cách khác, theo Edward Conze, một người
bình thường có thể
trở thành một vị Bồ-tát khi người ấy lần đầu tiên
phát nguyện sẽ
đạt đến sự
giác ngộ viên mãn vì lợi ích của tất cả
chúng sanh (
“A person turns into a Bodhisattva when he first resolves to win full enlightenment for the benefit of all beings”)
(16). Nếu người nào
phát nguyện một cách
liên tục,
chắc chắn sẽ
trở thành Bồ-tát.
Đồng thời, Bồ-tát phải phát
Tứ hoằng thệ nguyện,
thực hành Tứ nhiếp pháp (
bố thí,
ái ngữ, lợi hành,
đồng sự) và
tu tập Lục độ Ba-la-mật (
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí huệ). Như vậy, Phật hoàng
Trần Nhân Tông có hội đủ các tiêu chí này của một vị Bồ-tát
nhập thế độ sanh hay không?
Có thể nói rằng
Trần Nhân Tông rất xứng đáng để được tôn xưng là một vị Bồ-tát. Phật hoàng
Trần Nhân Tông nhập thế độ sanh bằng cách
bố thí cả tài và pháp, điển hình như:
“Quý Mão năm thứ 11 (1303) (Nguyên Đại Đức năm thứ 7), mùa xuân, tháng Giêng, ngày 15, Thượng hoàng ở phủ Thiên Trường, mở hội Vô Lượng ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp cho người nghèo trong nước và giảng kinh giới thí”(17); không những tự mình
giữ giới mà còn khuyên
mọi người giữ giới;
hết lòng siêng năng chăm lo cho
quốc gia dân tộc và
phụng sự đạo pháp;
nhẫn nhục với mọi chướng duyên
nghịch cảnh; luôn dùng
thiền định và
trí tuệ làm kim chỉ nam hướng đạo cho lộ trình
tu tập giải thoát, hoằng dương
giáo pháp,
hóa độ quần sanh.
Đặc biệt, Phật hoàng sống và hành động với tấm
lòng từ bi
vô cùng bao la rộng lớn của một vị Bồ-tát theo
quan điểm của
Phật giáo Đại thừa như Paul Williams đã đề cập trong
tác phẩm Mahāyana Buddhism:
The Doctrinal Foundations:
Lòng từ bi của Bồ-tát không chỉ
giới hạn trong
phạm vi bà con quyến thuộc, bạn bè, mà còn trải rộng khắp tất cả
chúng sanh trong
mười phương thế giới (“
(Bodhisattva’s) Compassion is not merely concerned with a few sentient beings such as friends and relatives, but extends up to the limits of the cosmos, in all directions and towards all beings throughout space”)
(18).
Qua đó cho thấy,
tình thương trong
đạo Phật vượt qua giới hạn của tình cảm riêng tư, xóa tan mọi rào chắn của đẳng cấp, giới tính,
địa vị,
quốc gia,
chủng tộc. Với
tâm từ bi rộng lớn
vô biên, Bồ-tát ban rải
tình thương cho tất cả
chúng sanh bằng những giọt nước
cam lồ diệu pháp. Do đó, sau khi
xuất gia tu hành chứng đạo, Phật hoàng
Trần Nhân Tông đã đi khắp vạn nẻo thôn quê để xiển dương
Phật pháp,
thuyết pháp độ sanh, trải rộng
tình thương cho tất cả
tứ dân thiên hạ của mình, và thậm chí còn trải rộng
tình thương cho
nhân dân nước láng giềng. Điều đó được
thể hiện qua
sự kiện Phật hoàng
Trần Nhân Tông đi
vân du hóa đạo đến xứ Chiêm Thành và hứa gả
công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân.
Ở đây,
vấn đề được đặt ra là tại sao chính
Trần Nhân Tông đã
xuất gia tu hành, đi khắp nơi khuyên dân phá bỏ các
dâm từ, nhưng cũng chính
Trần Nhân Tông đi làm việc mai mối cưới gả con gái của mình. Về
vấn đề này,
chúng ta cần phải phân tích và
nhận định một cách
rõ ràng để thấy được
văn hóa ứng xử theo
quan điểm nhập thế của
Trần Nhân Tông. Theo
lời Phật dạy,
dâm dục là cái nhân
sanh tử luân hồi, nên người
xuất gia phải
đoạn tuyệt dâm dục để
được giải thoát. Tuy người
tại gia không
hoàn toàn đoạn dâm dục như người
xuất gia nhưng cũng phải
cẩn thận giữ gìn ba nghiệp đối với việc
dâm dục. Nếu mỗi thành viên trong
xã hội không
giữ giới tà dâm thì không những tự phá vỡ
hạnh phúc của chính
gia đình mình mà còn hủy hoại
luân thường đạo lý của dân tộc.
Vì vậy Phật hoàng
Trần Nhân Tông khuyên dân chúng phá bỏ các
dâm từ.
Riêng đối với việc gả
công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân, có người
chê trách tại sao
Trần Nhân Tông đã
từ bỏ ngai vàng, nhường ngôi cho con là vua Trần Anh Tông vào năm 1293 để
lên ngôi Thượng hoàng, sau đó
chính thức xuất gia vào năm 1299,
vậy mà trong chuyến
vân du sang xứ Chiêm Thành vào năm 1301,
Trần Nhân Tông lại còn làm chuyện mai mối của
thế gian là hứa gả con gái cho vua xứ này. Hơn thế nữa, với
tư cách là một người cha, sao vua
Trần Nhân Tông lại đem người con gái yêu quý nhất của mình gả cho vua của một nước mà trước đây đã từng là
kẻ thù quấy phá
xâm lấn biên giới quốc gia Đại Việt?
Vấn đề này
cho đến nay vẫn còn nhiều
quan điểm trái chiều giữa các nhà
nghiên cứu.
Ở đây,
chúng ta cần nhìn nhận một cách
rõ ràng rằng nếu xét về
phương diện giới Thanh văn của
Phật giáo thì có thể cho là
Trần Nhân Tông phạm giới làm việc mai mối, là một trong 13 giới Tăng-già-bà-thi-sa (Saṃghādisesa) của Tỳ-kheo
(19).
Tuy nhiên, theo
tinh thần Đại thừa thì Bồ-tát
không chấp giữ giới luật một cách cứng nhắc mà
cần phải uyển chuyển
linh hoạt, có thể làm những việc gì cần làm để cứu giúp hoặc mang lại
lợi ích cho
chúng sanh. Mặc dù
vô cùng thương yêu người con gái cành vàng lá ngọc của mình, nhưng với
tâm từ bi,
vì lợi ích chung của
quốc gia dân tộc,
Trần Nhân Tông đã
hy sinh mối quan hệ tình cảm
cha con mang tính
cá nhân để
thực hành hạnh nguyện của một vị Bồ-tát đúng nghĩa như Paul Williams từng
nhận định: Với
tư cách của một vị Bồ-tát, Ngài đã
mở rộng lòng
đại bi và tâm bồ-đề. Ngài không hành động
vì lợi ích của riêng mình, mà vì nghĩa vụ của Ngài đối với các
chúng sanh hữu tình (“The Bodhisattva is the Bodhisattva, he has developed great compassion and the bodhicitta. He does not practise for his own benefit but in order to fufil his obligations to sentient beings”)
(20).
Đó chính là
tinh thần “Vô ngã vị tha” được
xây dựng trên nền tảng
học thuyết Duyên khởi -
Tánh không,
Duyên sinh -
Vô ngã của
Phật giáo. Như vậy, việc mai mối của
Trần Nhân Tông nhằm
mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Chiêm - Việt để
bảo vệ hòa bình cho
quốc gia xã tắc, tránh đao binh đẫm máu cho
nhân dân hai nước. Hơn thế nữa,
sự kiện vua Chế Mân đã tự nguyện dâng hai châu Ô và Lý để làm sính lễ cưới Huyền Trân
công chúa chẳng phải đã góp phần hữu ích cho công cuộc mở mang bờ cõi của dân tộc ta hay sao? Bởi vì “chuyện gả
công chúa cho các tù trưởng ở miền biên ải vẫn là
quen thuộc với các vua chúa
Việt Nam, cả với vua Lý thế kỷ XI, và các chúa Nguyễn thế kỷ XVII. Gả một nàng
công chúa cho vua nước ngoài để
thắt chặt tình hữu hảo, và để
mở rộng đất đai cho Tổ quốc”
(21).
Nói
tóm lại, Phật hoàng
Trần Nhân Tông đã sống và hành động rất đúng với
tinh thần nhập thế vô chấp
vô trụ của
Phật giáo Đại thừa. Tất cả
việc làm,
thái độ,
hành vi ứng xử của
Sơ tổ Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử đều
thể hiện lòng từ bi rộng lớn và được soi chiếu bởi
ngọn đèn trí huệ vô cùng sáng suốt. Nhờ thấu hiểu nguyên lý
Tánh không -
Vô ngã từ
học thuyết Duyên khởi -
Duyên sinh và trên
tinh thần “Vô ngã vị tha” của
Phật giáo, Phật hoàng
Trần Nhân Tông tuy đã
xuất gia nhưng không
chỉ tịnh tu cho
cá nhân mình mà luôn
quan tâm đến sự an nguy của
quốc gia dân tộc,
không chấp giữ
danh thơm tiếng tốt cho
bản thân mà chỉ nghĩ đến niềm an vui
hạnh phúc của dân chúng và nền hòa bình
độc lập của tổ quốc.
Kết luận
Trong giới
nghiên cứu Phật giáo, khi bàn đến
Phật giáo Theravāda và
Phật giáo Mahāyāna,
cụ thể hơn là
kinh điển Nguyên thủy và
kinh điển Đại thừa, thì sẽ
xuất hiện hai trường phái với hai
quan điểm khác nhau. Trường phái thứ nhất cho rằng
kinh điển Đại thừa không phải do Phật nói nên đề cao
kinh điển Nguyên thủy, phê phán,
chỉ trích kinh Đại thừa là
tà giáo ngoại đạo.
Trái lại, trường phái thứ hai cho rằng
kinh điển Đại thừa là những kinh cao siêu do
Đức Phật nói dành riêng cho hàng
căn cơ bậc thượng như các vị Bồ-tát. Do đó, những ai
tu tập hành trì theo
kinh Đại thừa thường sinh tâm
cống cao,
ngã mạn, chê bai kinh
Nguyên thủy và khinh khi những người theo
tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy là hạng
tiêu nha bại chủng,
thấp kém,
hạ liệt. Có lẽ cả hai đều đứng trên
lập trường chủ quan của
tông phái và
dựa vào quan điểm cá nhân mà đưa ra những
nhận định sai lệch như vậy.
Tuy nhiên, theo các nhà
nghiên cứu Phật học thì giữa
kinh điển Đại thừa và
kinh điển Nguyên thủy luôn có sự
ảnh hưởng tích cực lẫn nhau chứ không hề có sự
phân chia hay
đối kháng.
Thật ra,
xưa kia Đức Phật thuyết pháp không hề
phân biệt giáo lý của Ngài là
Đại thừa hay
Tiểu thừa, mà chỉ do khả năng lĩnh hội của người
tiếp nhận có sai khác nên mới
phân biệt như vậy. Nếu cho rằng
kinh điển Nguyên thủy là
Tiểu thừa thì ngay nơi
Tiểu thừa đó đã hàm chứa
tư tưởng Bồ-tát đạo, làm
lợi ích cho
chúng sanh. Còn nếu cho
kinh điển Đại thừa là phi
Phật thuyết thì tại sao trong
kinh điển Đại thừa đã có những
tư tưởng phù hợp với kinh
Nguyên thủy. Suy cho cùng thì
kinh điển Đại thừa chỉ khác với
kinh điển Nguyên thủy ở phương thức trình bày và
tư tưởng được
triển khai sâu rộng hơn để cho
Phật pháp được
linh hoạt sống động,
thích ứng với
xã hội thời đại mà thôi. Như vậy,
vấn đề không phải là
phân biệt kinh điển
Nguyên thủy hay
Đại thừa mà quan trọng là nội dung của kinh ấy có
phù hợp với
tôn chỉ của
đạo Phật là hướng đến
mục đích giác ngộ giải thoát và có mang lại
lợi ích cho người
tiếp nhận hay không.
Thiết nghĩ,
chúng ta nên học theo
quan điểm dung hòa giữa
Phật giáo Theravāda và Mahāyāna của Phật hoàng
Trần Nhân Tông, không nên đứng trên
lập trường chủ quan của
tông phái hay
quan điểm bảo thủ của
cá nhân mà
chỉ trích kinh điển Phật dạy hoặc phê phán những người tu theo
tông phái khác mình. Có như thế mới
hy vọng mọi người thuộc mọi
tông phái Phật giáo khác nhau đều cùng nhau
tu tập,
xây dựng và
bảo vệ ngôi nhà
Chánh pháp luôn được
trường tồn vững mạnh
mãi mãi trên
thế gian này.
Niệm Huệ
_________________________
CHÚ THÍCH - TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Linh (2008), “Phát hiện nếp áo Tiểu thừa trên tượng Trần Nhân Tông”, https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=77D053.
2. Thích Thanh Thắng (2011), “Chư Tăng thời Lý mặc y Tiểu thừa”, https://quangduc.com/a29165/chu-tang-thoi-ly-mac-y-tieu-thua-thich-thanh-thang.
3. Lê Mạnh Thát (2006), Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB.Tổng Hợp TP.HCM, tr.359.
4. Thích Thanh Từ (2002), “Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông”, http://vncphathoc.com/phat-hoc/thien-hoc/chi-tiet-hai-quang-doi-cua-so-to-truc-lam-tran-nhan-tong/.
5. Lê Mạnh Thát (2006), Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB.Tổng Hợp TP.HCM, tr.359.
6. Lê Mạnh Thát (2006), Sđd, tr.363.
7. Thích Thanh Từ (2002), “Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông”, http://vncphathoc.com/phat-hoc/thien-hoc/chi-tiet-hai-quang-doi-cua-so-to-truc-lam-tran-nhan-tong/.
8. Nguyễn Nam (2012), “Bóng hình để lại” (Số chuyên đề Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ), Suối Nguồn số 7, 11/2012, tr.76.
10. Thích Thanh Thắng (2011), “Chư Tăng thời Lý mặc y Tiểu thừa”, https://quangduc.com/a29165/chu-tang-thoi-ly-mac-y-tieu-thua-thich-thanh-thang.
11. https://quangduc.com/a29165/chu-tang-thoi-ly-mac-y-tieu-thua-thich-thanh-thang.
12. Thích Minh Châu dịch (2013a), Kinh Đại bát Niết-bàn, Kinh Trường bộ, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.178.
13. Thích Phước Sơn dịch và chú (1995), Tam Tổ thực lục, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.20.
14. Xem thêm: Kinh Thế ký, Kinh Trường A-hàm, Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, tập I, tr.144-145.
15. Thích Thanh Từ (1993), Kinh Thập thiện giảng giải, Thành hội Phật giáo TP.HCM ấn hành, tr.7.
16. Edward Conze (2005), A Short History of Buddhism (song ngữ Anh - Việt, Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải: Lược sử Phật giáo), NXB.Tổng Hợp TP.HCM, tr.111.
17. Ngô Sĩ Liên (Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính) (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, NXB.Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội, tr.561.
18. Paul Williams (2009), Mahāyana Buddhism: The Doctrinal Foundations, Routledge, London, p. 196.
19. Tạng luật, Phân tích giới Tỳ-kheo, “Chương mười ba pháp”, Tăng-tàn thứ 5 (Vin.iii.135).
20. Paul Williams (2009), Mahāyana Buddhism: The Doctrinal Foundations, Routledge, London, p. 205.