- Cuộc
cách mạng lớn nhất là
cách mạng thoát khỏi si mê lầm lạc,
cách mạng đó phát xuất từ mỗi người mà
Đức Phật gọi là
giác ngộ giải thoát. Thật ra, trong
Đạo Phật không phải tu với
mục đích được yên bình hay
an lạc. Nếu tu chỉ để hướng đến
mục đích hưởng thụ
an lạc thì đó vẫn là
si mê,
dục vọng.
Mục đích của
Đạo Phật là
nhận ra Sự Thật,
nhận ra yếu tố nào đưa đến
trói buộc, khổ đau và
yếu tố nào đưa đến
giác ngộ,
giải thoát. Khi thấy ra được
Sự Thật đó thì sẽ có một sự
chuyển hóa và sự
chuyển hóa đó chủ yếu là
chuyển mê khai ngộ.
Thông thường người ta cho rằng sự
chuyển hóa không bắt nguồn từ sự
giác ngộ bên trong, mà là sự thay đổi
thế giới bên ngoài để được hoà bình,
hạnh phúc. Nhưng điều đó hầu như là
không tưởng.
Đức Phật dạy, muốn thay đổi
hoàn cảnh bên ngoài thì trước hết phải
tự giác hay thay đổi
bản thân. Nếu chưa tự mình
giác ngộ giải thoát thì còn phải nương tựa vào
tha lực mà còn nương tựa thì còn bị
nô lệ hay bị
ràng buộc bởi người khác. Cho nên muốn thay đổi
cuộc đời việc đầu tiên phải thay đổi chính mình, không thay đổi chính mình mà muốn thay đổi
cuộc đời thì chỉ là ảo vọng.
Đức Phật dạy rằng những khổ đau,
trói buộc xuất phát từ
thái độ nhận thức và
hành vi sai xấu bên trong chứ không phải do
điều kiện bên ngoài. Vậy muốn
chấm dứt khổ đau,
ràng buộc thì phải thấy ra
thái độ sai xấu nơi chính mình để tự
chuyển hóa mới được. Tâm mỗi người hoà bình thì
thế giới mới hoà bình, tâm mỗi người
bất an thì
thế giới cũng
bất an. Thậm chí khi
tâm bình an mà
thế giới bất an đi nữa thì tâm cũng không hề bị
ảnh hưởng chút nào.
Sau khi
giác ngộ Đức Phật đã giúp rất nhiều người biết tự
chuyển hóa, vì sự tự
chuyển hoá bản thân của Ngài là tấm gương cho
nhân loại noi theo dù đã
trải qua biết bao
thế hệ. Không ai có thể
cứu độ ai như một
tha lực mà chỉ có thể giúp họ biết
giác ngộ chính mình. Cũng
như không ai giúp một
học sinh lớp một
trở thành tiến sĩ được,
trừ phi bản thân em phải tự
học hành để phát huy
trí tuệ và
tài năng, đó chính là cuộc
cách mạng bản thân.
Không
cách mạng bản thân thì
cách mạng bên ngoài chỉ là thay
thế sự nô lệ này bằng sự
nô lệ khác! Khi mỗi người biết
tự cách mạng
bản thân –
thoát khỏi trói buộc của
bản ngã tham, sân, si – thì không cần
cách mạng xã hội mà
xã hội vẫn hoà
bình an lạc. Còn nếu chỉ mong
thoát khỏi trói buộc bên ngoài mà không thoát được
trói buộc bản thân do
vô minh ái dục gây ra thì muôn đời vẫn còn
nô lệ.
Bi Trí Dũng
Hỏi: Thưa Thầy, Bi Trí Dũng trong Đạo Phật thì Dũng là dám buông bỏ cái ngã và ngã sở chứ không phải là xả thân cho một mục đích lý tưởng cuồng tín nào đó như kiểu “tử vì Đạo”, phải không thưa Thầy?
-
Bản ngã có nhiều cấp độ khác nhau mà
đức Phật gọi chung là
“ta, của ta, tự ngã của ta”.
Bản ngã con người biến hóa khôn lường và
biến đổi thành nhiều loại khác nhau như
bản ngã cá nhân,
bản ngã địa vị,
bản ngã gia đình,
bản ngã dòng tộc,
bản ngã quốc gia,
bản ngã tôn giáo,
tông môn,
bản ngã chủ nghĩa,
bản ngã giai cấp...
Bản ngã còn ẩn núp dưới nhiều
hình thức,
thí dụ, "Tôi đi" là cái ta ẩn núp trong thân,"Tôi đau" là ẩn núp dưới
hình thức cảm giác, "Tôi buồn" là ẩn núp trong
cảm xúc, “Tôi giận” là ẩn núp trong
thái độ tâm, và "nhà Tôi" là
bản ngã ẩn núp ở
ngoại vật.
Ngoài ra bản ngã còn ẩn núp dưới những
chiêu bài cao siêu như muốn
làm Phật, làm
Bồ Tát để
cứu độ chúng sinh nên
xả thân vì
lý tưởng, trông giống như
vô ngã vị tha nhưng thật ra cũng chỉ vì cái ngã
ảo tưởng quá lớn mà thôi! Chỉ vì
bản ngã quá lớn nghĩ rằng mình có thể
cứu độ chúng sinh mà không biết rằng, mỗi người sinh ra trong
cuộc đời này,
mục đích là để học bài học
giác ngộ chính mình.
Giác ngộ chính mình còn chưa xong làm sao
cứu độ chúng sinh.
Thực ra độ chúng sinh trong
Đạo Phật ám chỉ “Tự tánh chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”tức sự
thoát khỏi vô số ý đồ
bản ngã trói buộc chính mình chứ không phải
cứu độ chúng sinh bên ngoài. Không phải dễ dàng phát
hiện ra được cái ta nguy hiểm
trừ phi thường biết
thận trọng chú tâm quan sát, hay thường
trở về trọn vẹn tỉnh thức nơi
thực tại thân thọ
tâm pháp.
Từ Bi và Cứu Độ
Hỏi: Xin Thầy giảng thêm về Từ Bi và cứu độ?
- Từ là không sân đối với mọi loài -
mọi người, mọi sự,
mọi vật. Bi là không nỡ hại bất kỳ ai hay vật nào.
Đơn giản là ngay đây
tâm không sân là Từ,
tâm không hại là Bi.
Nếu không bị tình
cảm thương ghét
chủ quan xen vào thì ngay đó tâm vốn đầy đủ
Từ Bi, vì đó là
bản tính tự nhiên sẵn có. Còn nói Từ là ban vui, Bi là
cứu khổ thì
coi chừng rơi vào ý đồ
lăng xăng của
bản ngã.
Thấy người đang đói liền chia sẻ
thức ăn tuỳ khả năng
hiện có của mình là đúng, nhưng nếu chủ trương giúp họ hoài
lắm khi lại hại họ, vì vô tình khiến họ mất khả năng tự mưu sinh. Điển hình như
trường hợp một người bị
tai nạn gãy chân,
báo chí đưa lên kêu gọi giúp đỡ, thế là những mạnh thường quân gởi tiền cho
tới tấp, sau đó người này thấy có lợi liền tự gởi
hình ảnh gãy chân của mình đi khắp nơi để xin giúp đỡ. Nhiều người không biết, thấy
tội nghiệp cho tiếp, thế là anh ta trở nên
giàu có hơn cả những người chia sẻ cho anh ta.
Cho nên
Từ Bi không đúng chỗ là
trở thành tai hoạ. Như
câu chuyện anh chàng nọ thấy con bướm
cố gắng chui ra khỏi cái vỏ nhộng quá khó khăn bèn lấy kéo cắt để giúp con bướm dễ dàng thoát ra, nhưng thân con bướm vẫn co quắp không vươn cánh ra được để bay mà lát sau chết mất. Nếu anh ta đừng
can thiệp, con bướm vẫn tự vùng vẫy để thoát ra, và khi đã tự mình
đủ sức thoát ra thì cũng
đủ sức cất cánh bay cao. Cũng vậy,
chúng sanh cần
chịu đựng gian khó mới học được bài học
Giác Ngộ cho chính mình.
Người mẹ quá thương con không nỡ để con đi học
cực khổ nên nói “Thôi con cứ ở nhà chơi để mẹ học và thi rồi lấy bằng cho con” thì đó là
“Bi không trí là Bi thương hảo thương quàng".
Ý tưởng cứu độ chúng sanh cũng
y như vậy thôi. Sau khi
giác ngộ đức Phật đi đây đó, gặp ai
hữu duyên – tức đủ
điều kiện thấy ra
Sự Thật – thì Ngài mới khai thị cho để người đó tự mình
giác ngộ. Cũng có khi thấy người khổ nhưng không đủ
căn cơ thì Ngài cũng đành chịu, bởi vì Ngài biết
Từ Bi không đúng chỗ
đúng lúc có thể làm người ta
đau khổ hơn mà chẳng học được điều gì. Nói chung, trong
Đạo Phật trí tuệ là chính nên phải có
Trí Tuệ mới có
Từ Bi đúng mức.
Theo phân
tâm học,
lắm khi giúp đời chỉ để
thể hiện khuynh hướng
quyền lực của
bản ngã con người mà thôi. Nên hễ ai có cơ hội là người ta muốn
thể hiện quyền lực, như
anh tài xế lái xe phía trước để một lát mới cho xe sau qua mặt như
tỏ ra mình có quyền
ban ơn vậy. Chính vì khuynh hướng
quyền lực mà nhiều khi cho rằng mình đang mang lại
lợi ích cho đời nhưng
thực ra chỉ đem lại
đau khổ cho đời mà thôi.
Bị đồng hoá với cảm xúc bên ngoài
Hỏi: Thưa Thầy khi gặp người khổ trong lòng con cảm thấy khó chịu, đau xót, tâm trạng đó là gì, thương hay ghét? Xin Thầy giải thích ạ?
- Phải
quan sát lại tâm mình mới hiểu
cảm xúc khó chịu đó là gì. Theo phân
tâm học cảm xúc khó chịu đó là một
ảo giác tha hóa của
bản ngã, tức là
bản ngã có khuynh hướng
đồng hóa mình với nỗi khổ của người khác, làm cho mình có
cảm giác cũng
đau khổ như họ.
Thực ra, đó không phải là
tình thương mà là nỗi sợ -
bản ngã sợ nỗi đau như người đó. Nhiều người tưởng rằng khi thấy người
đau khổ mà mình có
cảm giác xót xa là
lòng Từ Bi nhưng thật ra đó chỉ là một
hình thức của Tâm Sân, không chịu nổi
sự thật.
Từ Bi là
hoàn toàn bình tĩnh sáng suốt trước sự
đau khổ của người khác.
Thí dụ khi thấy một người té xuống không
đứng dậy được, đừng vội tới đỡ lên, mà phải
quan sát người bị té cho kỹ, nếu người đó bị gãy chân, hay bị
tai biến thì phải để người ta nằm yên sau đó gọi xe cứu thương, nếu
thương xót mà
vội vàng đỡ lên có khi làm cho
tình trạng nạn nhân
tồi tệ hơn. Cho nên phải có
Trí Tuệ mới có
Từ Bi, thiếu
bình tĩnh sáng suốt thì sự
đau xót, khó chịu đó chỉ là đang bị đồng hoá
cảm xúc với người khác mà thôi.
Nếu một
bác sĩ bị bệnh
tâm lý đồng hoá
cảm giác,
cảm xúc với bệnh nhân thì rất khó làm phẫu thuật hay xử lý vết thương
đau đớn cho họ. Trong
trường hợp bị tha hoá
cảm xúc như thế tốt nhất là biết
quay về cảm nhận nhận lại
cảm giác,
cảm xúc nơi chính mình (
niệm thọ) thì
ảo tưởng ảo giác đó mới
tiêu tan,
nếu không sẽ bị
ảo giác đánh lừa. Ngay cả khi thật sự có
lòng Từ Bi – không bị tha hoá
cảm xúc – thì cũng phải tuỳ
trường hợp mà
thể hiện sự cứu giúp,
nếu không sẽ giúp kẻ ác lún sâu vào đường
tội lỗi, như kiểu người mẹ thương con cứ cho tiền dù biết nó là đứa chơi bời lêu lổng.
Tiểu ngã, Đại ngã và Vô ngã
Hỏi: Hầu hết Tôn giáo Ấn Độ đều nói về Tiểu ngã và Đại ngã, trong khi đức Phật lại dạy Vô ngã, vậy Tiểu ngã và Đại ngã là gì, có thật không thưa Thầy?
-
Tôn giáo Ấn Độ thường cho rằng mỗi người có một cái ngã, nhưng cái ngã
cá nhân đó chỉ là
tiểu ngã, còn
giới hạn và bất toàn cho nên có khuynh hướng tu để
tiểu ngã trở thành đại ngã. Nói cách khác, hầu hết họ tu là để trở nên
hoàn hảo.
Hoàn hảo thì
chắc chắn là tốt rồi, nhưng điều này,
nếu không tinh ý thì vô tình
đồng hóa Đạo Phật với các
Tôn giáo khác vì
đức Phật dạy tất cả pháp đều
Vô ngã.
Không chỉ
Tôn giáo Ấn Độ mà hầu hết các
lãnh vực Tôn giáo, chính trị,
triết học,
giáo dục, kinh tế… từ
cá nhân đến
xã hội trên
thế giới đều muốn
cải thiện con người và
cuộc đời ngày càng
hoàn hảo. Duy chỉ có
Đạo Phật thấy rằng, thật ra, Pháp vốn
hoàn hảo từ muôn đời, chỉ là
nhận thức và
hành vi của
con người sai lầm nên không
nhận ra mà thôi. Do đâu tưởng mình không hoàn hảo? Do
vô minh, do muốn
hoàn hảo theo ý mình nên bị che mờ mà không nhìn ra sự
hoàn hảo ngay tại đây và bây giờ
như Pháp đang là. Phải nói rằng đó là một sự khác biệt to lớn giữa cái ngã muốn
hoàn hảo với
pháp vô ngã vốn đã tự
hoàn hảo.
Chính vì
bản ngã muốn
hoàn hảo như ý mình cho nên làm hỏng đi sự
hoàn hảo vốn có của
vạn Pháp.
Vì vậy Đạo Phật không nói đến
nỗ lực để
trở thành hoàn hảo mà
Đức Phật dạy rằng phải thấy ra
Sự Thật, khi
giác ngộ liền thấy Pháp vốn
tịch tịnh và
hoàn hảo. Đó là
lý do vì sao khi được Phật khai thị thì nhiều vị đã ngay đó
giác ngộ sự
hoàn hảo của Pháp mà buông xuống
gánh nặng thời gian và sự
nỗ lực rèn luyện để
trở thành Đại Ngã. Cho nên càng
nỗ lực trở thành hoàn hảo càng kéo dài
luân hồi sinh tử trong
ảo tưởng. Nhưng ngay khi buông xuống
nỗ lực trở thành hoàn hảo của
bản ngã thì ngay đó thấy sự
hoàn hảo muôn đời của Pháp. Chỉ lệch một chút xíu thôi thì đành
luân hồi muôn kiếp! Thế mà ngày nay biết bao người theo Phật nhưng lại đang ngày đêm
miệt mài nỗ lực tu luyện để mong
trở thành hoàn hảo ở một tương lai
lý tưởng xa vời!
Tu Phật thật sự là
“chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây” vì ngay đây khi
hoàn toàn trọn vẹn tỉnh thức thì liền thấy pháp vốn đã
hoàn hảo, do đó
Pháp đức Thế Tôn tuyên thuyết là thiết thực hiện tiền (sandiṭṭhiko), không qua thời gian (akāliko), trở về mà thấy (ehipassiko), ngay nơi thực tại thân thọ tâm pháp (opanayiko) thì mỗi người trí liền ngay đó tự chứng (paccattaṃ veditabbo viññūhi). Như vậy đâu cần
nỗ lực rèn luyện để tạo ra
thời gian và
không gian từ A (
Tiểu ngã) đến Z (
Đại ngã) mới
hoàn hảo mà chỉ
nhận ra sự thật liền thấy
"Hạnh phúc không phải là đích tới mà hạnh phúc chính là con đường" hoặc
"Hoàn hảo sẽ không có ở đích tới mà hoàn hảo chỉ có ngay tại đây và bây giờ". Hãy
cảnh giác, đừng để
tư tưởng Bà-la-môn
xen vào đánh tráo
Đại Ngã hoàn hảo ở tương lai của họ với
Pháp Vô Ngã ngay đây nơi
thực tại hiện tiền mà
đức Phật khai thị.