Bậc Chân Nhân - Sappurisa

02/12/20214:20 CH(Xem: 4730)
Bậc Chân Nhân - Sappurisa

BẬC CHÂN NHÂN -  SAPPURISA 
NS. Phap Hy - Ven. Dhammananda Bhikkhuni

phap-hy (2)
NS. Phap Hy -
Ven. Dhammananda Bhikkhuni

Trong Tiểu Kinh Mãn Nguyệt (Mn. 110) đức Phật dạy chúng Tỳ khoe phân biệt giữa người vô đức, một người bất chánh (asappurisa): “Người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ.”  Như vậy người vô đức là người không có niềm tin, không biết xấu hổ, không biết tôn trọng, không chịu lắng nghe, lười biếng, suy nghĩ xằng bậy, thiếu trí tuệ. Và ngài cũng khẳng định là một người bất chánh thì không biết được người khác như họ đang là, dù tốt, dù xấu, vì họ không có khả năng nhận định đúng về chính họ cũng như về người khác.

Và người có tâm, có đức (sappurisa). Một người chân chính thì có khả năng nhận biết người khác nhờ những phẩm chất của họ. Những phẩm chất của người tốt, Bậc Chân Nhân được nói đến trong Tiểu Kinh Trăng rằm Cūḷa Puṇṇama Sutta (M 110). định nghĩa Chân Nhân là:

  1.  Người đức hạnh, có tín tâm;
  2. học thức: nghe – đọc nhiều;
  3. nhiệt tình, có lòng tự tôn;
  4. tài trí và biết tôn trọng người khác;
  5. chánh kiến, biết phân biệt đúng sai và có khả năng suy nghĩ độc lập.

Khi người có tâm đức bố thí, cúng dường thì:

“Thế nào là người chơn chánh bố thí như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh bố thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố thí có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, bố thí có nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh bố thí như người chơn chánh.

Này các Tỷ-kheo, người chơn chánh ấy, đầy đủ Chánh pháp như vậy, giao du với người chơn chánh như vậy, suy tư như người chơn chánh như vậy, tư lường như người chơn chánh như vậy, nói năng như người chơn chánh như vậy, hành động như người chơn chánh như vậy, có chánh kiến như người như người chơn chánh như vậy, bố thí như người chơn chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những người chơn chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh giới của những người chơn chánh? Đại tánh của chư Thiên hay đại tánh của loài Người.”

Là người xuất gia thì bậc chân nhân có những tư cách hơn người tầm thường như được nói Trong kinh Chân Nhân (M. 113) là người hiểu đúng mục đích của đời sống xuất gia, sống đời thánh thiện và không đồng hóa mình với bất cứ điều gì trong thế gian, kể cả các pháp hành và chứng đạt tâm linh. Nói cách khác, đó là người tốt, thiện hữu tri thức (kalyāṇa), tuy chưa phải là thánh (Ariya). Cũng nên biết cách phân biệt như thế nào thì không phải là người tốt, còn là phàm phu tục tử (puthujjana).

cư sĩ thì bậc chân nhân là người có niềm tin trong Tam Bảo, biết bố thí, giữ giới. Trong Kinh Cúng Dường của bậc Chân nhân (Sappurisa Dāna Sutta - A 5.148) kể đến năm phẩm chất của một bậc chân nhân khi bố thí cúng dường, đem lại lợi ích. Đó là:

(1) Cho với niềm tin (saddhāya dānaṁ deti).

(2) Cho với sự kính trọng (sakkaccaṁ dānaṁ deti).

(3) Cho đúng thời (kālena dānaṁ deti).

(4) Cho với trái tim hào hiệp (anuggahita, citto danaṁ deti).

(5) Cho mà không hại mình, không hại người (attānañ ca parañ ca anupahacca dānaṁ deti).

 

Bậc Chân nhân như người lãnh đạo – leadership of a true man được miêu tả trong trong kinh Phúng Tụng Saṅgīti Sutta (D 33), và kinh Das’uttara Sutta (D 34) và kinh Dhammaññū Sutta (A 7.64) cho biết thuật ngữ về Chân Nhân là người có bảy phẩm chất:

(1) là người biết Pháp [giáo pháp & chân lý] (dhammaññū);

(2) là người biết ý nghĩamục đích của pháp (atthaññū);

(3) là người biết chính mình [bản chất của bản ngã] (attaññū);

(4) là người biết chừng mực (mattaññū);

(5) là người biết thời gian thích hợp (kālaññū);

(6) là người biết hội chúng [biết mình đang ở trong hội nào] (parisaññū); và

(7) là người biết những khác biệt giữa các cá nhân (puggalaññū or puggala,parovaraññū).

Bậc Chân Nhân, nói chung, là người biết mình biết người, và trên hết, biết đúng thực tế, ít nhất ở một mức độ nào đó. Quả thực, Bậc Chân Nhân hay người tốt thực sự đóng góp rất nhiều cho xã hội & cộng đồng. Ngay cả khi chưa giác ngộ, bậc chân nhân cũng mang lại nhiều lợi ích cho nhân sinh & xã hội, còn khi đã giác ngộ rồi thì những lợi ích và điều tốt đẹp mà người như vậy mang đến còn nhiều hơn, vĩ đại hơn. 







Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 190833)
01/04/2012(Xem: 36436)
08/11/2018(Xem: 15112)
08/02/2015(Xem: 54257)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :