Thư Viện Hoa Sen

Trước Tác Hoa Nghiêm Học Của Đại Sư Trừng Quán | Thích Trung Nghĩa

03/02/20253:48 SA(Xem: 741)
Trước Tác Hoa Nghiêm Học Của Đại Sư Trừng Quán | Thích Trung Nghĩa

TRƯỚC TÁC HOA NGHIÊM HỌC
CỦA ĐẠI SƯ TRỪNG QUÁN

Thích Trung Nghĩa

dai su trung quan
Kinh Hoa Nghiêm
còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu của đức Phật Tì-lô-giá-na, hạnh nguyện thành Phật và quá trình tu hành du phương tham học của Thiện Tài đồng tử, nhập Phổ Hiền tam muội, chứng nhập biển diệu trang nghiêm Như Lai tạng tâm. Đại ở đây, ý nghĩachu biến, bao hàm. Phương, ý nghĩa là phương chứng, nghĩa lý kinh này chân chánh chính xác, không chệch hướng một mặt nào. Phương quảng là chỉ cho phần phương quảng trong thập nhị phân giáo. Phương quảng là thay cho Đại thừa, và hàm nghĩa phương đẳng tương tự. Hàm nghĩa chữ đại vốn cùng phương quảng giống nhau, đã đại còn phương quảng. Hoa là trang nghiêm, hoa nghiêm. Hoa là nhân, Phật là quả, Hoa nghiêm và Phật cấu thành nhân quả liên quan. Phật là người năng chứng. Pháp là sở chứng. Đứng từ giác độ Hoa nghiêm tam thánh (华严三圣) để thuyên thích, thì dùng đại trí tuệ của bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, để vận hành đại hạnh nguyện của bồ-tát Phổ Hiền, từ pháp thân thanh tịnh của hai ngài này để trang nghiêm Tì-lô-giá-na Phật.[1]

Bài kệ Ngũ thời nổi tiếng của đại sư Thiên Thai Trí Giả, mô tả sự thuyết pháp của đức Phật 45 năm, phân biện năm loại giáo pháp từ cạn đến sâu, lần lượt u thâm ẩn mật, gọi là ngũ thời giáo.

Câu đầu: “Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật”, thời đầu tiên là thời Hoa Nghiêm, chỉ cho đức Phật thành đạo 21 ngày đầu tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm. Từ nội chứng chân như pháp thân của Phật-đà lưu xuất ra, như mặt trời mới mọc, ánh nắng rọi lên đỉnh núi, chỉ có hàng bồ-tát đại căn tánh như bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, hoặc đại đệ tử đức Phật như Xá-lợi-phất, mới có thể thể nhận hiệu quả hóa ích, còn hàng thanh văn khi nghe thì như đui như điếc

Câu 2: “A-hàm nhị thập phương đẳng bát”, thời thứ 2 là thời A-hàm và thời thứ 3 là thời Phương đẳng, chỉ cho giảng thuyết suốt  12 năm. Thời A-hàm, giảng thuyết giáo nghĩa tứ A-hàm kinh. Giảng thuyết tứ đế, thập nhị nhân duyên v.v... cho năm tỉ-khưu như Kiều-trần-như tại vườn Lộc uyển nên còn gọi thời Lộc uyển; thời này như mặt trời dần mọc lên, soi đến sơn cốc u tĩnh, thâm sâu. Thời Phương đẳng, giảng thuyết kinh điển Đại thừa như kinh Lăng-già, kinh Duy-ma, kinh Thắng-man v.v... Thời này như mặt trời rọi trên đất phẳng lỳ, như đem nước sửa đậu nành tái tinh chế thành đậu hủ. 

Câu 3: “Nhị thập nhị niên bát-nhã đàm”, thời thứ 4 là thời A-hàm, chỉ cho tuyên thuyết kinh Bát-nhã suốt 22 năm, phá gãy thiên chấp của Tiểu thừa phân biệt. Đức Phật thuyết pháp ở bốn nơi: Núi Linh Thứu, tinh xá Kỳ viên tại thành Xá-vệ, cõi trời Tha hóa tự tạitinh xá Trúc lâm tại thành Vương-xá v.v...

Câu cuối: “Pháp Hoa Niết-bàn cộng bát niên”, thời thứ 5 là thời Pháp Hoa, Niết-bàn, chỉ cho 8 năm cuối cùng tuyên thuyết kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu. Trước lúc thị tịch, chỉ còn một ngày một đêm ở cõi đời, Phật-đà vẫn tuyên thuyết kinh Niết-bàn. Thời này như mặt trời ban trưa rọi sáng trên đất rộng, như phô mai (thục tô) tái tinh chế thành sửa tinh chất (đề hồ).

Kinh Hoa Nghiêm hiện nay lưu tồn 3 bản dịch khác nhau. Bản dịch của Phật-đà-bạt-đà-la, gọi là Thập Lục Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm 60 quyển), còn gọi cựu Hoa Nghiêm. Bản dịch của Thật-xoa-nan-đà, gọi là Bát thập Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm 80 quyển), còn gọi tân Hoa Nghiêm. Bản dịch hậu phần kinh Hoa Nghiêm Phạn bản của tam tạng Ô Trà vương quốc Bát-nhã, với sự hiệp trợ của Trừng Quán phụ trách thẩm định, gọi là Tứ thập Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm 40 quyển). Hoa Nghiêm tông cũng căn cứ tư tưởng kinh này mà phát triển ra học thuyết pháp giới duyên khởi, thập huyền, tứ pháp giới; còn chia giáo pháp Phật thành ngũ giáo: tiểu giáo, thỉ giáo, chung giáo, đốn giáoviên giáo. Theo giáo tài đại học Baptist Hong Kong Thuyên thích hiện đại Phật học Trung Quốc,[2]sự truyền thừa Hoa Nghiêm tông, Pháp Tạng (Hiền Thủ) được xem là đệ tam tổ, và “Thủy tổ là đại sư Đổ Thuận, nhị tổ là Trí Nghiễm. Tuy Đỗ Thuận được xem là thủy tổ, nhưng quy cách nghĩathực ra do Pháp Tạng kiến lập”, nên tông phái này còn gọi là Hiền Thủ tông. Kế tụcTrừng QuánTông Mật.

Đại sư Trừng Quán sinh năm 738, quê quán huyện Sơn Âm, Việt châu. Lúc mới sinh ra, ánh hào quang tỏa trên nóc nhà, rọi khắp thôn xóm. Lúc nhỏ, thích gom cát un tháp làm niềm vui,[3]hai tay dài quá đầu gối, có 40 cái răng như đức tướng trang nghiêm của đức Phật, tiếng nói êm rỗng như tiếng chuông, mắt sáng rực như ban đêm phóng ra ánh sáng, mỗi ngày có thể nhớ vạn lời.  Lên 9 tuổi, lạy Bái thiền sư ở chùa Bảo Lâm làm sư phụ, chưa tới một năm thì thông thạo Tam tạng. Xuất gia năm 11 tuổi, bắt đắp ca-sa, bèn lên pháp tòa diễn giảng kinh điển như kinh Bát-nhã v.v... Năm 20 tuổi, y chỉ đại sư Đàm Nhất để thọ cụ túc giới, y chỉ thiền sư Thường Chiếu để thọ bồ-tát giới. Sau đó du phương tham học Tướng bộ luật, Nam sơn luật học,  Quan Hà Tam luận học, Kinh Khê Trạm Nhiên học, thiền lý Bắc tông v.v... đặc biệt khế lĩnh Khởi tín luận thâm sâu, bộc lộ tư tưởng Thiền tông, Thiên thai tông và thành phẩn Khởi tín luận dung hợp.

Niên hiệu Đại lịch thứ 17 (776), đại sư ở chùa Đại Hoa Nghiêm trên Ngũ đài sơn, giảng kinh Hoa Nghiêm, ngẫm sâu cảm thấy cựu sớ Hoa Nghiêm với văn tự rườm rà, ý nghĩa hạn hẹp, bèn phát nguyện soạn thuật tân sớ, trải qua 4 năm, soạn hoàn thành Hoa Nghiêm kinh sớ 20 quyển; đệ tử Tăng Duệ dựa sớ này rồi soạn tân sớ Hoa Nghiêm kinh tùy sớ diễn nghĩa sao hơn 10 quyển. Đường Đức tông ban thánh chỉ đại sư soạn sớ để giải thích kinh Hoa Nghiêm, tại chùa Thảo Đường trên núi Chung Nam, soạn thành Trinh Nguyên tân dịch Hoa Nghiêm kinh sớ 10 quyển. Trước lúc soạn Hoa Nghiêm kinh sớ sao (华严经疏钞) 80 quyển, đầu tiên soạn kệ tụng Quy kính, ngõ hầu quy kính Tam bảo, thỉnh Tam bảo gia bị, khiến cho trí tuệ khai mở. Bốn câu kệ tụng là:

“Quy mạng mười phương cực tam tế. Sát trần viên minh Điều ngự sư. Pháp giới công đức đại bi vân. Tì-lô-giá-na đại trí hải”. Câu đầu là đem sinh mạng của chính mình quy y tất cả Phật bảo trong mười phương ba đời. Sát trần là cõi nước vi trần, viên minhtrí tuệcông đức viên mãn, Điều ngự sư là một trong mười danh hiệu đức Phật, cũng là dùng các phương pháp để điều ngự chúng sanh trong ba cõi khiến cho ly khổ đắc lạc. Công đức đại bi vân (大悲云) là công đức của Phật như mây trên hư không. Đại trí hải là biển đại trí tuệ, biển đại giác.

Trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ có ghi lại các cuộc tranh biện về quan điểm, kiến giải khác nhau giữa các học phái, giữa thầy và trò; lúc lưu học Ấn Độ của đại sư Huyền Trang, từng tham gia Vô Giá đại hội 18  ngày do vua Giới Nhật thiết lập tại thành Khúc Nữ, Huyền Trang “Thành lập Duy thức tỉ lượng 唯識比量 mà danh tiếng tỏa khắp”;[4]hơn vạn người đều chẳng ai có thể phá gãy, có Tiểu thừa, ngoại đạo, còn có người Đại thừa, chẳng một ai có thể phá, rồi sau đó, Tiểu thừa tôn Huyền TrangGiải thoát thiên, Đại thừa tôn là Đại thừa thiên.[5]Trước thời Trừng Quán, Tuệ Uyển  là đệ tử thượng thủ của Pháp Tạng, nhưng lại phản nghịch học thuyết của thầy mình, chủ yếu đổi ngũ giáo thành tứ giáo, đổi thập huyền thành lưỡng trùng thập huyền: 10 loại đức tướng và 10 loại nghiệp dụng, căn bản phủ định thuyết thập huyền truyền thống, nên bị đuổi khỏi Hoa Nghiêm tông chánh thống. Trong Tân dịch đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm knh âm diễn 2 quyển của Tuệ Uyển (慧苑), phẩn Bài tựa ghi Pháp Uyển từng theo học tập với Pháp Tạng 19 năm, thâm thông nghĩa lý kinh Phật, nhất là tinh thông kinh Hoa Nghiêm, Sau khi bát thập Hoa Nghiêm do tam tạng Bát-nhã phiên dịch hoàn tất, Pháp Tạng nỗ lực lược sớ bản này, nhưng mới được một phần tư thì qua đời. Pháp Uyểnđồng môn soạn phần còn lại, rồi Pháp Uyển lấy tên là Tục Hoa nghiêm kinh lược sớ san định (续华严经略疏刊定记) 20 quyển, nhưng nay hiện còn 13 quyển. Trong Hoa Nghiêm kinh sớ quyển 2 và Tùy sớ diễn nghĩa sao quyển 1, 2, 10 của Trừng Quán, tiến hành phản bác Tuệ Uyển, đứng từ nghĩa lý Hoa Nghiêm, lập trường duy thức, thuyết phán giáo, từ đó mà khôi phục thuyết thập huyền trong Hoa Nghiêm kinh thám huyền ký của Pháp Tạng, và tiến hành phát triển.[6]

Đại sư viên tịch vào ngày mồng 6 tháng 3 niên hiệu Khai Thành (838) thời Đường Văn tông, biết chính xác thời gian mình vãng sanh, chiêu tập đệ tử các nơi lại phó chúc, sau đó bèn ngồi kiết-già mà an tường viên tịch, an táng trong vách đá núi Chung Nam, tháp tên Diệu giác (妙觉), văn bia do tướng quốc Bùi Hưu soạn, có đoạn ghi Trừng Quán: “Hưởng thọ một trăm lẻ hai tuổi, Tăng lạp tám mươi ba...... ngày thuộc vạn lời, ăn ngày một bữa suốt đời, không rời y một đêm, trải qua chín vương triều, làm thầy bảy đời vua”.[7]Đường Văn tông sùng kính ngưỡng mộ đại sư từng làm thầy của tiên đế, đặc biệt bãi triểu 3 ngày, ban chiếu chỉ trọng thần mặc tang phục, cả nước phải cử hành truy niệm một cách thống thiết.

Tương truyền, sau đại sư viên tịch, có một tăng nhân chứng quả a-la-hán ở Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng pháp, đến cao nguyên Phách Mễ Nhĩ, chợt thấy có hai đứa bé bay cao trên hư khônglướt qua mặt. Vị a la hán này vận dụng thần thồng đứng trước mặt hai đứa bé, chận lại và hỏi đến nơi nào? Đến làm gì? Đáp: Chúng tôi đến Trung Quốc để thỉnh răng của bồ-tát Hoa Nghiêm, chuẩn bị cúng dường Văn Thù đường ở Ấn Độ. Lại hỏi: Ai là hóa thân của bồ-tát Hoa Nghiêm? Đáp: Pháp sư Trừng Quán. Nói xong hai đứa bé bay lên hư không mà đi. Vị a la hán này đến thành Trường An, đem việc này tấu lên triều đình, cho mở quan tài đại sư, quả nhiên thấy thiếu một cái răng hàm trên, lúc đó mọi người mới biết đại sưhóa thân của bồ-tát Hoa Nghiêm.

Đại sư có hơn 100 đệ tử xuất gia, có bốn vị siêu xuất là: Tông Mật, Tăng Duệ, Pháp ẤnTịch Quang, thế nhân gọi là môn hạ tứ triết (門下四哲), [8]trong đó Tông Mật là người kế thừa pháp thống của đại sư. Các bộ sử thư Phật giáo ghi việc sắc phong của các vương triều, như Đường Đức tông hạ chiếu chỉ sắc hiệu đại sưTrấn quốc đại sư, Đại Tăng lục nhiếp nạp thiên hạ. Vào cung điện giảng kinh Hoa Nghiêm, được sắc hiệu Trừng Quán Thanh Lương quốc sư. Đường Hiến tông sắc hiệu Tăng thống Thanh Lương quốc sư. Đường Văn tông sắc hiệu Đại thống quốc sư, giáo thọ Hòa thượng.

Tuy làm quốc sư cho nhiều đời vua, nhưng bản nguyện tu trì nghiêm mật, đời sống đạm bạc, còn phát mười hạnh nguyện nên thế nhân gọi là Thanh Lương thập nguyện. Cuộc đời của đại sư soạn tác Hoa Nghiêm học như biển rộng sông sâu, cao như chóp núi, quả thực đạt đến cảnh giới siêu phàm nhập thánh, thể nhập vô tận pháp giới, khiến người con Phật kính ngưỡng vô cùng; trong đó Hoa Nghiêm kinh sớ, nghiễm nhiên là một mắt xích trọng yếu trong kho báu Phật học.



[1] Tham khảo Dương Duy Trung, Hình thành, Hán dịch, tư tưởng căn bảný nghĩa tu hành luận của kinh Hoa Nghiêm

[2] Ngô Nhữ Quân, Thuyên thích hiện đại của Phật học Trung Quốc, Nxb. Văn Tân, Trung Hoa Dân quốc năm 84, tr.87

[3] Cao Tăng truyện 21-1, đại sư Thanh Lương (Trừng Quán) ghi “Thân cao chín thước 4 tấc” (身長九尺四寸), lời này cũng dựa theo văn bia Trừng Quán của tướng quốc Bùi Hưu tự thân soạn

[4] Trương Mạn Đào biên tập, Thích Trung Nghĩa dịch, Luận lý học Phật giáobiện chứng pháp, phần: Tất nhiên tính và khái nhiên tính luận lý học Phật giáo của Lý Nhuận Sanh, Nxb. Tôn giáo, 2024, tr.132

[5]Tham khảo Thích Duy Hiền, Duy thức trát ký, phẩn: Địa vị duy thức học trong Phật giáo, Nxb. Văn hóa Tôn giáo, 2006

[6]Tham khảo Hoàng Sám Hoa (黃懺華), Trung Quốc Phật giáo
[7] 釋祖琇 , Long hưng Phật giáo biên niên thông luận  (隆兴佛教编年通论). Nxb. Nhân dân Quảng Đông, quyển 25, tái bản lần 1, 2020, nhiều sử gia Phật giáo đều lấy thuyết này. Nhưng Tống cao Tăng truyện, q.5 ghi đại sư hưởng thọ hơn 70 tuổi, nhưng điều này chưa căn cứ rõ.
[8] Theo Trung Quốc Phật giáo

Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 191735)
01/04/2012(Xem: 37394)
08/11/2018(Xem: 15995)
08/02/2015(Xem: 55376)
Tết cổ truyền của dân tộc lại về trên đất nước thân yêu. Trong không khí hân hoan đón chào Xuân Ất Tỵ - 2025, thay mặt Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi gởi lời chúc mừng năm mới đến tất cả các cấp Giáo hội, tới chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; thân chúc quý vị một năm mới thân khỏe tâm an, cát tường như ý.
QUẬN CAM (VB/PTH) --- Có gì dị biệt giữa Tết Quận Cam và Tết Sài Gòn? Dĩ nhiên là nhiều dị biệt. Và cũng dĩ nhiên là rất nhiều tương đồng. Bởi vì rất nhiều truyền thống đón Tết vẫn còn lưu truyền nơi thủ đô người Việt Hải ngoại.