MATTHIEU RICARD:
TÓM GỌN TOÀN BỘ PHẬT GIÁO VÀO CHÁNH NIỆM LÀ QUÁ ĐƠN GIẢN
Chintan Girish Modi phỏng vấn
Dịch giả: Nguyên Giác
TÓM GỌN TOÀN BỘ PHẬT GIÁO VÀO CHÁNH NIỆM LÀ QUÁ ĐƠN GIẢN
Chintan Girish Modi phỏng vấn
Dịch giả: Nguyên Giác
(Lời giới thiệu của Nguyên Giác: Bài này [Matthieu Ricard: “Reducing all of Buddhism to mindfulness is far too simplistic”] in trên báo Hindustan Times hôm 4/3/2025, là cuộc phỏng vấn do nhà văn Chintan Girish Modi thực hiện, trong đó nhà sư gốc Pháp Matthieu Ricard, người theo học nhiều năm với Đức Đạt Lai Lạt Ma và một số vị sư Tây Tạng, trả lời những câu hỏi về chánh niệm, ứng dụng chánh niệm, bất toàn của chánh niệm nếu không có giới, nghi lễ Phật giáo, biểu tượng với các vị Bồ Tát như Văn Thù, Quan Âm, chánh niệm thế tục [không có yếu tố giải thoát]...
Theo Wikipedia, Matthieu Ricard sinh ngày 15/2/1946, tại Aix-les-Bains, Savoie, Pháp, là con trai của triết gia Pháp Jean-François Revel (tên khai sinh là Jean-François Ricard), và mẹ là họa sĩ trừu tượng về sau xuất gia trở thành nữ tu Phật giáo Tây Tạng Yahne Le Toumelin. Matthieu Ricard tốt nghiệp Tiến sĩ về di truyền học phân tử từ Viện Pasteur năm 1972. Sau đó, Thầy từ bỏ sự nghiệp khoa học và xuất gia theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, chủ yếu sống ở dãy Himalaya. Từ năm 1989, Ricard đã làm phiên dịch tiếng Pháp cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Từ năm 2010, ngài đã đi khắp nơi và có nhiều buổi nói chuyện cũng như hỗ trợ giảng dạy cho nhà sư Dilgo Khyentse Rinpoche. Ricard viết nhiều sách về Phật giáo và khoa học, trong đó sách về ăn chay "A Plea for the Animals" viết cho phong trào kêu gọi ăn chay. Năm 2002, Matthieu Ricard và khoa học gia Trịnh Xuân Thuận viết chung tác phẩm "The Quantum and the Lotus" [bản Việt dịch là: "Đối Thoại Giữa Khoa Học và Phật Giáo]. Matthieu Ricard từng có 5 năm độc cư thiền định. Bản dịch bài phỏng vấn trên báo Hindustan Times như sau.)
.
Hỏi: Thầy nhìn lại hành trình của Thầy với Phật giáo như thế nào?
Đáp: Tôi đã dành 55 năm ở dãy Himalaya, giữa Darjeeling, Bhutan và Nepal. Tôi cảm thấy vô cùng may mắn khi được gặp những bậc thầy Phật giáo thành tựu như Kangyur Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Đức Đạt Lai Lạt Ma — những người tràn đầy trí tuệ và lòng từ bi, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác và tận tụy vì lợi ích của chúng sanh. Điều đó thật hiếm có trên thế giới này. Ví dụ, làm phiên dịch cho Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Pháp thật sảng khoái về mặt tinh thần. Ngài [Đạt Lai Lạt Ma] cũng [đơn sơ] giống như người phụ nữ lau dọn hành lang trong khách sạn và [trách nhiệm] như các nguyên thủ quốc gia. Ngài kết nối sâu sắc với mọi con người. Tôi thấy điều đó rất truyền cảm hứng.
Còn tôi thì trú xứ chính ở Nepal. Tôi đã về Pháp ở năm năm để chăm sóc mẹ tôi (họa sĩ người Pháp Yahne Le Toumelin, người đã trở thành một nữ tu Phật giáo). Cụ bà sống đến một trăm tuổi và qua đời vào năm 2023. Bây giờ, khi những năm tháng chăm sóc mẹ của tôi đã kết thúc, tôi đã trở lại Nepal.
.
H: Thầy có định dạy ngay bây giờ không?
Đ: Tôi không phải là Thầy gì hết. Tôi là một học trò vĩnh viễn. Tôi chỉ chia sẻ một số ý tưởng mà tôi quan tâm.
.
H: Trong các tu viện Phật giáo và các khóa tu thiền, chánh niệm được dạy cùng với lòng từ bi và ước nguyện mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh đang đau khổ. Nhưng ngày nay, chánh niệm được sử dụng trong huấn luyện quân sự để chiến binh giết kẻ thù mà không bị phân tâm. Thầy cảm thấy thế nào về cách giải thích chánh niệm này?
Đó không phải là chánh niệm theo nghĩa Phật giáo. Trong thực hành Phật giáo, chúng ta không giới hạn bản thân vào chánh niệm của khoảnh khắc hiện tại mà chúng ta cố gắng đưa suy nghĩ, lời nói và hành động của mình hòa hợp với lời dạy của Đức Phật. Điều đó đòi hỏi sự cảnh giác liên tục.
Những lời dạy đưa ra những phương thuốc giải độc có thể áp dụng để thoát khỏi sự lòng tham, lòng sân hận và sự tự đồng nhất với cảm xúc. Đối với những người nổi nóng, phương thuốc giải độc là sự kiên nhẫn. Đối với những suy nghĩ sân hận, phương thuốc giải độc là lòng nhân từ. Thậm chí còn có những phương thuốc giải độc sâu sắc hơn để không tự đồng nhất với đối tượng của sự thù hận, sự căng thẳng và sự lo lắng để chúng ta có thể chứng nghiệm sự giải thoát.
Chánh niệm có thể chỉ là một công cụ nhưng nó rất quan trọng vì nó giúp bạn luôn tỉnh thức và sáng suốt. Nếu không có nó, sự chú ý của bạn sẽ lang thang khắp nơi. Bạn sẽ không đạt được bất cứ điều gì. Nhưng chỉ chú tâm và không phán xét là không đủ. Định nghĩa kỹ thuật về chánh niệm hiện đại quá hẹp đến nỗi ngay cả một kẻ tâm thần (psychopath: tâm thần bạo lực) cũng có thể chánh niệm. Theo lời dạy của Đức Phật, chánh niệm không chỉ là nhận thức. Nó phải thấm nhuần lòng trắc ẩn từ bi một cách tự nhiên. Nó phải phát sinh từ ý định tốt, không phải từ mong muốn làm hại hoặc làm tổn thương ai đó.
Khi chúng ta nhìn vào một người khác, chúng ta nghĩ về cách họ muốn được hạnh phúc và họ không muốn đau khổ. Bây giờ đó chính xác là điều chúng ta muốn, phải không? Khi chúng ta nhìn thấy điều này, làm sao chúng ta có thể giết một người đồng loại? Không có lòng từ bi trắc ẩn, trí tuệ sẽ chết khô tuyệt sản. Tương tự như vậy, lòng từ bi trắc ẩn mà không có sự phân biệt là không nên. Theo truyền thống, lòng từ bi và trí tuệ thường được so sánh với hai cánh của một con chim. Cả hai đều cần thiết để bay.
.
H: Dhyana, thường được dịch là định, là sự tập trung, là một trong những ba-la-mật hay sự hoàn hảo được mô tả trong Phật giáo dành cho những người trên con đường đạt đến giác ngộ. Thầy nghĩ gì về việc thương mại hóa và biến chánh niệm thành hàng hóa?
Đ: Ronald Purser đã sử dụng từ “McMindfulness” để mô tả điều này trong cuốn sách "McMindfulness: How Mindfulness Became the New Capitalist Spirituality" (McMindfulness: Chánh niệm đã trở thành tâm linh tư bản mới như thế nào) của ông. Tôi xin nói một cách đơn giản. Nếu bạn có một phương pháp hạn chế, thì bạn sẽ nhận được kết quả hạn chế. Nó không tệ; nó hạn chế. Trước khi Jon Kabat-Zinn bắt đầu nói về Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR), thì không có chỗ cho chánh niệm trong các trường y khoa. Ông đã chỉ ra cách chánh niệm có thể được sử dụng như một công cụ để hỗ trợ trong hệ thống y tế nơi bệnh nhân bị căng thẳng và người chăm sóc bị căng thẳng. Nó được lấy từ Phật giáo nhưng áp dụng cho tất cả mọi người. Một số công cụ có thể được sử dụng độc lập với bối cảnh của chúng. Nhưng nhầm lẫn một công cụ với toàn bộ Phật giáo là một vấn đề. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói, việc thu gọn toàn bộ Phật giáo thành chánh niệm là quá đơn giản.
.
H: Các vị chư thiên có vị trí quan trọng trong thực hành Phật giáo Tây Tạng nhưng họ gợi lên sự ngạc nhiên và bối rối ở những người chỉ liên hệ Phật giáo với Đức Phật lịch sử được gọi là Thích Ca Mâu Ni. Thầy sẽ giải thích thế nào về Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) và Quán Thế Âm (Avalokiteshvara)?
Đ: Các vị chư thiên bị hiểu lầm nhiều nhất. Họ là những nguyên mẫu, đại diện cho các khía cạnh khác nhau của sự giác ngộ. Ví dụ, Manjushri gắn liền với trí tuệ trong khi Avalokiteshwara gắn liền với lòng từ bi. Là người mới bắt đầu, việc hình dung những phẩm chất này thông qua các nguyên mẫu sẽ hữu ích để chúng ta có thể nuôi dưỡng, xây dựng các biểu tượng đó trong chính bản thân từng người chúng ta thay vì bám víu vào chủ nghĩa cá nhân.
.
H: Một số vị Thầy Phật giáo nói về chánh niệm; những Thầy khác nói về việc làm trống rỗng tâm trí. Những cách khác nhau này có phải là cùng một mục tiêu không?
Đ: Những lời dạy chúng ta nhận được từ Đức Phật vô cùng phong phú và bao la. Có nhiều bản văn khác nhau tương ứng với những lời dạy khác nhau trên con đường. Nếu ai đó bị đau đầu hoặc cảm cúm, họ không được cho loại thuốc đắt nhất thế giới. Nếu bạn cần mở một cánh cửa, bạn không cần chìa khóa vàng. Bạn chỉ cần chìa khóa phù hợp với cánh cửa cụ thể đó. Ở mọi thời điểm, đều có những lời dạy phù hợp với bạn để giúp bạn tiến thêm vài bước nữa trong quá trình thực hành của mình. Đó là một con đường được phân loại tuyệt đẹp. Ở mỗi bước, điều quan trọng là phải hòa hợp lời dạy với tâm trí của bạn thay vì nhìn chằm chằm vào những từ ngữ trên trang giấy. Nếu không, điều đó giống như việc thu thập đơn thuốc của bác sĩ và giữ nó dưới gối nhưng không bao giờ uống thuốc.
.
H: Vai trò của nghi lễ và nghi thức trong việc nuôi dưỡng chánh niệm là gì?
Đ: Mọi thứ đều có chức năng. Đôi khi, chúng tôi có những buổi lễ kéo dài bảy ngày bảy đêm. Không ngừng nghỉ! Vào ban đêm, chúng tôi thay phiên nhau để chúng có thể diễn ra mà không bị gián đoạn. Thực hành tập thể này dựa trên các văn bản và lời dạy. Chúng tôi không ngồi đó thốt ra một công thức kỳ diệu nào. Có những lý do đằng sau mọi việc chúng tôi làm. Có những thiền định được phân loại trong các văn bản dài 30-40 trang. Những thiền định này được lặp lại ba hoặc bốn lần trong một ngày. Điều đó trở thành một thực hành rất chuyên sâu. Những người không nhận thức được tầm quan trọng chỉ nhìn vào hình thức bên ngoài của một buổi lễ và bỏ lỡ ý nghĩa sâu xa hơn của nó. Sau khi chức năng được hoàn thành, tại một thời điểm nào đó, bạn cần phải thoát khỏi các thực hành khái niệm phức tạp như các buổi lễ và liên hệ trực tiếp với bản chất của tâm trí mà không cần tất cả các công cụ này.
.
H: Các vị Thầy Phật giáo thường giảng cho đối tượng chủ yếu là học viên phương Tây, họ thường không nhấn mạnh hoặc không đề cập đến nghiệp (karma). Theo Thầy, tại sao lại như vậy?
Đ: Điều này là do nghiệp là một khái niệm bị hiểu lầm rộng rãi. Nói một cách đơn giản, đó là luật nhân quả. Nó khiến chúng ta nghĩ về kết quả của hành động của mình – hành động của thân, khẩu và ý. Mọi hành động đều được thúc đẩy bởi những ý định cụ thể. Nếu hành động của bạn được thúc đẩy bởi lòng căm thù, thì bạn sẽ phải chịu đau khổ về sau. Hậu quả của hành động của bạn có thể không đến ngay lập tức. Điều này giống như việc bạn ném một hòn đá lên không trung và quên hết mọi thứ về nó cho đến khi nó quay trở lại, bất ngờ đập vào đầu bạn.
.
H: Thầy có nghĩ rằng chánh niệm thế tục tập trung vào cá nhân và loại bỏ khía cạnh quan trọng này của sự kết nối tương tức, nhắc nhở con người nhìn xa hơn bản thân mình không?
Đ: Đúng vậy, động cơ rất quan trọng. Một cái búa có thể dùng để xây nhà hoặc đánh ai đó. Xăng có thể dùng để lái xe hoặc đốt nhà. Giống như một cái búa, giống như xăng, chánh niệm là một công cụ. Nó không có giá trị tích cực hay tiêu cực cố hữu. Do đó, động cơ rất quan trọng. Có hai khía cạnh thiếu trong thực hành chánh niệm thế tục. Một là bồ đề tâm, hay tâm giác ngộ. Theo truyền thống, khi chúng ta thiền định, mục đích là để giác ngộ để chúng ta có thể giúp chúng sinh khác thoát khỏi đau khổ. Chúng ta không chỉ quan tâm đến tôi, tôi và chính tôi. Thứ hai, quan điểm về Tánh Không bị thiếu. Điều quan trọng nữa là phải nhận ra rằng, khi chánh niệm được sử dụng trong bối cảnh y tế, bạn không thể thảo luận về sự giác ngộ và Tánh Không. Nếu mọi người được hưởng lợi từ chánh niệm và khỏe hơn, đó là điều tốt, nhưng chúng ta đừng nói rằng Phật giáo chỉ nói về chánh niệm.
.
H: Thầy sẽ nói gì với những người sử dụng chánh niệm thay thế cho thuốc và không nhận được sự hỗ trợ chuyên nghiệp cho chứng lo âu, trầm cảm và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác?
Đ: Lợi ích của chánh niệm được công nhận rộng rãi nhưng nó không phải là sự thay thế. Cả chánh niệm và y học đều có vai trò riêng. Cuốn sách "Mindfulness-Based Cognitive Therapy for Depression" (Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm để chữa bệnh trầm cảm) của các tác giả Zindel Segal, Mark Williams và John Teasdale, cho thấy chánh niệm làm giảm đáng kể tình trạng tái phát bệnh trầm cảm nhưng điều đó không có nghĩa là bạn nên ngừng thuốc khi bạn muốn. Trong môi trường y tế, bạn cần có một bác sĩ có trình độ có thể giúp bạn hiểu được điều gì sẽ có lợi cho bạn tương ứng với nhu cầu của bạn. Một chuyên gia biết bạn cần gì ngay bây giờ và cũng biết khi nào cần thay đổi thuốc. Sẽ là tội ác nếu loại trừ những gì y học có thể cung cấp!
.
NGUỒN:
Matthieu Ricard: “Reducing all of Buddhism to mindfulness is far too simplistic”
https://www.msn.com/en-in/