SAY ĐẠO ĐỨC
Nguyễn Thế Đăng
1/ Đạo đức là một năng lượng của đời sống
Trong Cư trần lạc đạo phú, đức vua – thiền sư Trần Nhân Tông hai lần nói câu “say đạo đức”:
Nhược chỉn vui bề đạo đức
Nửa gian lều quý nửa thiên cung
(Hội thứ 2)
Vô minh hết, bồ đề thêm sáng
Phiền não rồi, đạo đức càng say
(Hội thứ 7)
Say đạo đức
Dời thân tâm
Định nên thánh trí
(Hội thứ 10)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
Ngài cũng thường dùng chữ “no”.
Phúc tuệ gồm no
Chỉn mới khá nên người thực biết.
(Hội thứ 8)
Nạng Bí Ma (tên một thiền sư)
Trước nạp tăng no dầu tự tại
(Hội thứ 9)
Thì ra, một người đã chứng ngộ thực tại, mà ngài gọi là “tánh Không”, “tánh sáng”, thì có đầy đủ những phẩm tính của thực tại: đạo đức, phúc tuệ, trí huệ, từ bi…
Những kinh nghiệm tâm linh, những kinh nghiệm ngộ trên con đường là gì? Đó là hiện thực hóa (to actualize), biết rõ, chứng nghiệm (to realize), những từ được nói trong kinh điển như Niết bàn, Phật tánh, Pháp thân, bản tánh của tâm… Sự hiện thực hóa, sự thể nghiệm này, dù chỉ một phần (như bậc Tu đà hoàn, chứng nghiệm 1/4 Niết bàn, Sơ Hoan hỷ địa chứng nghiệm 1/10 pháp thân), cũng trở thành thực phẩm tâm linh nuôi dưỡng cuộc đời.
Với một người hoàn hảo như Trần Nhân Tông, thì kinh nghiệm tâm linh không chỉ nuôi sống cuộc đời ngài, mà còn làm cho ngài “no, say”. Cho nên toàn bài Cư trần lạc đạo luôn có một giọng điệu xác quyết mà vui tươi, mạnh mẽ hùng hồn mà từ hòa, răn dạy mà pha lẫn khôi hài, phóng khoáng. Đây là bài ca của một người chứng đạo, với âm hưởng rộn rã vui tươi, tự do, bởi vì thế giới của danh tướng không còn ràng buộc được, trong khi làm người thì ai cũng phải mang danh tướng.
Chúng ta hãy tìm ra đạo đức của ngài là gì, do đâu mà có, để dù hơn bảy trăm năm sau vẫn học được cái no say của ngài, để cho mình và người khác biết thế nào là hạnh phúc.
2/ Thế nào là một nhân cách đạo đức?
- Đạo đức là loại bỏ những cái xấu, những phiền não che chướng.
Ở đây chỉ đề ra một vài điều trong bài phú.
Thị phi.
Thị phi tiếng lặng
(Hội thứ 1)
Lánh thị phi, ghê thanh sắc
(Hội thứ 5)
Thị phi là phải trái, đúng sai. Lọt vào thế giới phải trái, đúng sai, cố chấp trong đó thì càng gây lộn xộn và đưa đến tranh đấu, chiến tranh.
“Thị phi tiếng lặng” là từ bỏ hoạt động tiêu cực của ngôn ngữ, cãi cọ, khen chê, hơn thua… để đưa tâm về chỗ bình lặng vốn có của nó. Từ đó có hoạt động tích cực của ngôn ngữ, làm lợi mình lợi người.
Tham, sân, si
Chuyển tam độc mới chứng tam thân.
(Hội thứ 4)
Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham
Chỉn thực ấy là Di Lặc
(Hội thứ 4)
Tam độc là tham sân si; sở dĩ gọi là độc vì chúng làm nhiễm ô và hại tâm. Ghen tham là những phiền não che chướng ánh sáng của tâm, cho nên phải “đoạn”, cắt đứt.
Khi nhìn sâu hơn, tại sao có tham, sân, si, ghen, tham…? Vì cái vô minh tạo ra phân biệt, hố sâu chia cách – không thể lấp đầy và càng ngày càng sâu càng rộng – giữa ta và người (nhân ngã), giữa chủ thể và đối tượng, giữa ta và tất cả thế giới.
Dứt trừ nhân ngã,
Thì ra tướng thực kim cương.
(Hội thứ 2)
Chuộng công danh,
Lồng nhân ngã,
Thực ấy phàm ngu.
(Hội thứ 10).
Thực hành là lấp đầy, xóa bỏ hố sâu ngăn cách ấy. Và khi sự ngăn cách không còn, thì trước mắt là thực tại bấy lâu tìm kiếm, một thực tại toàn khắp rỡ ràng trước mắt:
Chơi nước biếc, ẩn non xanh,
Nhân gian có nhiều người đắc ý.
Biết đào hồng, hay liễu lục,
Thiên hạ năng mấy chủ tri âm?
Nguyệt bạc vầng (trời) xanh
Soi mọi chỗ thiền hà lai láng.
(Hội thứ 1)
- Đạo đức là tích tập những đức tính
Với một người muốn hoàn thiện bằng những đức tính, thì cuộc đời xã hội này có vô số cơ hội để “phúc tuệ gồm no”, ‘phước huệ song tu’:
Phúc tuệ gồm no
Chỉn mới khá nên người thực biết.
Dựng cầu đò, giồi chùa tháp
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi,
Nội tự tại kinh lòng hằng đọc.
(Hội thứ 3)
Người ấy không lánh xã hội, mà tích tập phúc tuệ trong thế giới bên ngoài, nơi mọi người đang sống, đang làm việc. Ngoài và trong, tích tập công đức và tích tập trí huệ, hợp nhất thành pháp giới Nhất Chân, pháp giới của giác ngộ.
Những tương quan trong cuộc đời đều có thể nâng cấp để biến thành đức tính của một người hoàn thiện:
Vâng ơn thánh, xót mẹ cha
Thờ thầy học đạo.
Mến đức Cồ (Đàm), kiêng bùi ngọt,
Cầm giới ăn chay.
Cảm đức từ bi
Để nhiều kiếp nguyền cho thân cận.
Đội ơn cứu độ,
Nát muôn thân thà chịu đắng cay.
Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên
Hương hoa cúng xem còn nên thảo
Miệng rằng tin, lòng lại lỗi
Vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay.
(Hội thứ 7)
3/ Một con người hoàn thiện
Phúc tuệ gồm no là đầy đủ hai sự tích tập công đức và tích tập trí huệ. Đầy đủ hai sự tích tập ấy là một người hoàn thiện trong cả ba mặt tạo thành một con người là thân, ngữ, tâm.
Một con người hoàn thiện thì phiền não, khổ đau không thể xâm nhập. Nói theo ngôn ngữ đời nay là được ‘chữa lành’, hết bệnh. Người ấy luôn luôn trong trạng thái hoan hỷ, “say đạo đức”. Địa thứ nhất, Hoan hỷ địa được định danh như vậy vì sự hoan hỷ tràn bờ (xem trong phẩm Thập địa của Kinh Hoa Nghiêm), cho đến thành Phật, thì “khi Đức Phật cười, mọi lỗ chân lông trên thân ngài đều mỉm cười” (Phẩm Tự).
Thế là an vui, hạnh phúc mà đi giữa đời này, như phẩm An lạc, kinh Pháp Cú nói:
197. Vui thay chúng ta sống
Không hận, giữa hận thù
Giữa những người thù hận
Ta sống, không hận thù.
198. Vui thay chúng ta sống
Không bệnh, giữa bệnh tật
Giữa những người đau bệnh
Ta sống, không ốm đau.
199. Vui thay, chúng ta sống
Không náo, giữa ồn náo
Giữa những người ồn náo
Ta sống, không náo động.
200. Vui thay, chúng ta sống
Không gì, gọi của ta
Ta hưởng được hỷ lạc
Như chư thiên Quang Âm.
Trong bối cảnh của Cư trần lạc đạo, ngài Trần Nhân Tông nói ai ai cũng có Phật là nguồn an lạc nơi mình:
Tích nhân nghì (nghĩa), tu đạo đức
Ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham
Chỉn thực ấy là Di Lặc.
(Hội thứ 4)
Nhưng tại sao người ta không thấy Pháp, không sống được, không “no say” Pháp được? Chỉ vì những ngăn che đã nói ở trên: “vô minh”, “phiền não”, “thị phi”, “ghen tham”, “nhân ngã”…
Thế nên, loại bỏ những ngăn che ấy đi thì thế giới chân thực, thực tại xưa nay hiện ra:
Dứt trừ nhân ngã,
Thì ra tướng thực kim cương.
Dừng hết tham sân
Mới lảu lòng mầu viên giác.
Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương.
Di Đà là tính sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc…
(Hội thứ 2).