Thư Viện Hoa Sen

Đọc Ngô Thì Nhậm: Tiếng Ấn Giấu (tàng Thanh) | Nguyên Giác

14/06/20254:32 SA(Xem: 308)
Đọc Ngô Thì Nhậm: Tiếng Ấn Giấu (tàng Thanh) | Nguyên Giác

ĐỌC NGÔ THÌ NHẬM:
TIẾNG ẤN GIẤU (TÀNG THANH)

Nguyên Giác


 

Ngo Thi Nham Toan TapBài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: Đạo giấu kín ở chỗ có nói gì đâu, Đạo thánh nhân giấu kín trong chữ Vô vi, không thấy dấu vết nhưng người người đều chịu ơn. Trong sách này, ý chỉ đó được gọi là Tiếng Ấn Giấu – viết theo âm Hán-Việt là Tàng Thanh. 

Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích vài dòng cuối trang 361 và đầu trang 362, nguyên văn như sau:

 NG Tieng tang thang P 361 362

TIẾNG ẤN GIẤU (TÀNG THANH)

(Thanh dẫn Ngô Thì Hoàng]

Đạo của trời đất giấu kín ở chỗ “có nói gì đâu.” Đạo của Thánh nhân giấu kín trong chữ “Vô vi.” Cho nên chim bay cá lội, động vật, thực vật, mọi vật đều được yên chỗ, nhưng công lao của thần, dường như không có. Khi ăn khi uống, lúc làm lúc nghỉ, mọi người đều được sống thoả, nhưng sức lực của trời sao không có? Ôi! Như thể gọi là ẩn giấu, ẩn giấu nghĩa là không nhìn thấy dấu vết, không biết có việc ấy vậy.

Đại thiền sư gợi mở ra một cách sáng rõ về ý nghĩa của việc dụng âm: Ảm có nghĩa là giấu kin, đến chỗ quy tụ lại, thì nói: “Quý ở chỗ có âm đức,” “Quý ở chỗ khiến người ta kín đáo chịu ơn.” Như vậy, giấu kín cái dụng của nó nhưng ân trạch thì kịp đến với người, đến với đạo lớn vậy. Sáu mươi tư quẻ của Kinh Dịch trong đó có quẻ “Súc,” hai mươi bốn thanh của kinh Viên giác trong đó có "Tàng thanh," lời dẫu khác nhưng lẽ thì vẫn là một.” (ngưng trích)

Có nói gì đâu. Chúng ta có thể nhớ rằng, hầu hết các thiền sư trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh đều xuất thân từ Nho học, ra làm quan trong thời ly loạn, tham gia những trận chiến lớn của lịch sử trước khi quý ngài xuất gia. Bản thân ngài Ngô Thì Nhậm hay Ngô Thời Nhiệm, trước khi trở thành Hải Lượng Thiền Sư đã là một danh sĩ nổi tiếng, trong thời Hậu Lê và Tây Sơn, có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Do vậy, khi quý ngài muốn hoằng pháp, thường gợi lên ý tứ của Nho giáo trước. Nghĩa là, quý ngài thường nêu lên các ý tứ của Nho giáo mà quý ngài từng học khi còn niên thiếu. Phần nữa, cũng là chiêu dụ sự chú ý của các bạn Nho gia.

Về ý không nói, Khổng Tử trong sách Luận Ngữ có câu: Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên, thiên hà ngôn tai.

Dịch nghĩa: Trời có nói gì đâu? Bốn mùa luân chuyển, muôn vật sinh trưởng.Trời có nói gì đâu!

Chữ "Thiên" trong văn mạch của Khổng Tử không hề có nghĩa là một ông Trời ngồi trên mây, có râu dài, tóc bạc. Thiên đây là quy luật vận hành của vũ trụ. Người học theo Nho Giáo là sống theo "Thiên mệnh, vô ngôn nhi giáo" (nghĩa là: thuận mệnh trời, không lời mà dạy).

Đúng vậy, trời có nói gì đâu. Nếu chúng ta thay chữ Trời bằng chữ Pháp, thì một cách kinh ngạc, cả một thế giới mới hiển lộ ra trước mắt, bên tai, và khắp cõi này. Ngay ở đây và bây giờ, không phải là trên cõi trời xa mấy tầng mây, cũng không phải chuyện nhiều thế kỷ trước của các vị thánh hiền. Bởi vì, một câu Đức Phật nói thường được kinh sách nhắc tới: Ai thấy Pháp là thấy Ta. Nghĩa là: Ai thấy Pháp là thấy Phật.

Tuy nhiên, bạn thử nhìn chung quanh xem, không dễ thấy Pháp đâu: có thể bạn đang đứng ở Hồ Tây (Hà Nội), hay đang đi dạo ở Thảo Cầm Viên (Sài Gòn), hay đang ngồi ở thương xá Phước Lộc Thọ (Little Saigon)... Mây bay, nước chảy, người đi, xe chạy... Vậy thì, Pháp ở đâu? Pháp có nói gì đâu, vậy thì làm sao mà nghe?

Thế rồi, nhiều kinh lại ghi lời Đức Phật dạy, “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.”

Nghĩa là, Pháp hiển lộ, được chúng ta kinh nghiệm ngay bây giờ (không phải hôm qua, không phải ngày mai), không có thời gian (nghĩa là, vượt qua cả hiện tại, không bị khuôn vào sắc thọ tưởng hành thức của  hiện tại). Pháp này thiết thực (tức là, không hề mơ hồ, không hề vẽ vời, mà Pháp được nhận ra qua cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường). Đến để mà thấy (nghĩa là, người trí tuệ trực nhận trước mắt). Có khả năng hướng thượng (xa lìa tham sân si, con đường tới giải thoát, không đi chệch hướng).

Làm sao để thấy được Pháp, tức là thấy Phật, vì chúng ta có nghe gì từ mây bay, nước chảy đâu? Bây giờ, chúng ta lấy thí dụ như mặt gương sáng. Khi chúng ta tu theo Bát Chánh Đạo, dần dần bụi trên mặt gương rơi rớt không nhiều thì ít, chúng ta nhìn vào gương hàng ngày và nhận ra có một hình tướng chuyển đổi, lớn lên, già đi, da thịt nhăn nheo. Chúng ta nhận ra toàn thân tâm chúng tavô thường (luôn luôn chuyển biến) và là vô ngã (không hề có một cái gì gọi là cố định). Như thế, có một cái xuyên suốt, không đổi: tánh phản chiếu của gương.

Trong khi tướng liên tục biến đổi, thì tánh không đổi. Tánh đây là tánh phản chiếu của mặt gương, và không rời cái được thấy (hình tướng). Nơi đây, chúng ta nói rằng tánh (cái nhận biết) và tướng (cái được nhận biết) không lìa nhau, không gọi là hai, nhưng không gọi là một. Nếu không có cái tánh đó, thì chúng ta chỉ là cục gạch, tảng đá. Nơi đây, Sắc chính là Không, và Không chính là Sắc. Chúng ta khi nhận ra Pháp, cũng nhận ra sự thật hiển lộ, dẫn chúng ta hướng thượng (xa lìa tham sân si). Pháp đó, bao trùm cả tướng và tánh, hoàn toàn không có lời nào nói với chúng ta, nhưng là đang vận hành khắp thế giới và khắp thân tâm ta. Đó là ý nghĩa vô ngôn thuyết pháp trong nhà Phật.

Cái không nghe được đó, chính là Tiếng Ẩn Giấu, tức là Tàng Thanh, theo cách trình bày của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh. Các cụ dùng thêm một chữ mới: Đạo của Thánh nhân giấu kín trong chữ “Vô vi". Chữ này có nhiều nghĩa, nơi đây quý ngài giải thích là: "Khi ăn khi uống, lúc làm lúc nghỉ, mọi người đều được sống thoả, nhưng sức lực của trời sao không có?" Tức là, một cái gì ẩn giấu nhưng đang vận hành khắp thân tâm chúng ta.

Có một công án nổi tiếng do Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1686–1769) đưa ra: Tiếng vỗ của một bàn tay. Chúng ta nên suy nghĩ thế nào? Tiếng vỗ, là nói tới cái được nghe. Là yêu cầu lắng nghe. Khi hai bàn tay vỗ, mới có âm thanh. Khi chỉ một bàn tay, tất nhiên khôngâm thanh. Nhưng dù có tiếng hay không tiếng, thì Pháp vẫn thường trực hiển lộ trong cõi này. Không gọi là nghe tiếng lặng thinh, nhưng sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh muốn mời gọi chúng ta nghe được Tiếng Ẩn Giấu, tức là Tàng Thanh, mà các cụ gọi là vô vi.

Nhưng vô vi là gì? Tiếng Ẩn Giấu, tức là Tàng Thanh. Vô vi còn có nghĩa là Niết Bàn, tức là xa lìa tham sân si. Cũng như mặt gương, vô lượng ảnh hiện ra, có đủ xanh đỏ tím vàng, có đủ đẹp và xấu, có đủ hiện tướng thiện và ác, nhưng mặt gương vẫn trong trẻo và tịch lặng, không dính bất kỳ sắc thọ tưởng hành thức nào.

Nếu chúng ta để ý, khi lắng nghe tiếng ẩn giấu, thì tự nhiên bạn sẽ thấy bạn không còn dính gì tới lời nói nữa. Lúc đó, bạn và cái nghe là một. Hoàn toàn không phải là có một ai đang nghe, mà bạn thấy rằng có một khối lung linh vô thường đang nghe dòng âm thanh chưa hiển lộ. Bạn để ý: lúc đó, trong tâm bạn dứt bặt ngôn ngữ, chỉ còn cái đang nghe hiển lộ. Lúc đó, bạn nhận ra rằng đó là thiết thực hiện tại (vì bạn không dựa vào ngón tay chỉ trăng nào, vì nghe mà không còn dựa vào bất kỳ ngôn ngữ hay lời nói, hay âm thanh nào nữa). Bạn sẽ thấy đây là con đường hướng thượng, tức xa lìa tham sân si, vì tất cả bên tai những gì được nghe đều hiện ra như thế là như thế, mà bạn không thể níu kéo âm thanh nào hay sự tịch lặng nào. Nó như thế, là nó như thế.

Lúc đó, bạn nhận ra vô vi, tức là trong cái mặt gương tâm đó, bản thân cái tánh phản chiếu đó, bản thân cái tánh nghe đó, không hề có cái sinh ra, không hề có cái biến mất. Cái âm thanh thì có hiện ra, có biến mất. Tiếng chim kêu vang lên, rồi biến mất. Nhưng cái tánh phản chiếu của gương, cái tánh nghe đó không hề sinh và không hề diệt, trong khi vô lượng âm thanhvô lượng tịch lặng hiển lộ trong đó. Đó là cái không lời. Không ngôn ngữ. Kinh vô tự.

Trong bản văn Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán (529-613), có câu: "Đa ngôn đa lự, Chuyển bất tương ưng. Tuyệt ngôn tuyệt lự, Vô xứ bất thông."

Dịch nghĩa là: “Lời nói nhiều, suy nghĩ nhiều, lại càng không thể tương ưng. Nhưng khi bạn dứt nói, dứt bặt suy nghĩ tư lường, thì chỗ nào cũng thông suốt.”

Do vậy, xin mời bạn lắng nghe thường trực. Hãy lắng nghe như lời Phật dạy: thiết thực hiện tại, tức là nghe ngay bây giờ, dù có tiếng hay không có tiếng. Hãy nghe trong cõi thân tâm, không nghe qua bất kỳ ký ức, hay hồi niệm, hay mơ tưởng nào. Không có thời gian, tức là nghe mà không để tâm dính vào ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Đến để mà thấy, tức là nghe ngay hiện tiền, không phải tìm cõi nào khác. Có khả năng hướng thượng, tức là nghe và nhận ra tham sân si không có chỗ bám nữa. Được người trí tự mình giác hiểu, tức là nghe và tự mình biết, không cần vin vào sách nữa, không cần vin vào ngón tay chỉ trăng nào, hay vin vào bất cứ gì khác.

Trong đoạn văn, chúng ta thấy quý ngài có dẫn ra Kinh Viên Giác. Không rõ cụ thể về nghĩa nào trong kinh. Kinh Viên Giác phần lớn dạy các pháp Chỉ và Quán theo các thứ tự khác nhau. Nhưng có một phần thường được các Thiền sư dẫn ra, đó là ý chỉ: Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác. Đây cũng là ý chỉ của Tổ sư thiền. Câu đó dịch nghĩa là: Hễ biết được là huyễn thì tự động lìa huyễn được, và khi lìa huyễn thì là giác biết (tỉnh thức, xa lìa tham sân si).

Chỗ này có thể nhận ra dễ dàng trong khi bạn lắng nghe, dù hiển lộ trong tâm là có âm thanh, hay không có âm thanh (tàng thanh) thì bạn sẽ nhận ra vô lượng pháp cõi này là huyễn, vì không có gì tới với bạn (dù là cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường) mà có thể có cái gì gọi được là ngã tướng. Từng âm thanh tới rồi biến mất tức khắc. Tất cả hoàn toànvô ngã. Và nơi đó, lìa tham sân si. Không có âm thanh nào, hay sự tịch lặng nào bám được vào tánh nghe của bạn, nơi tất cả trôi đi vô cùng vô tận.

Nghe được như thế, là hạnh phúc hiển lộ. Nghe như thế, là nghe mà không có ai đang nghe. Nghe như thế, là xa lìa cả Có tiếng và cả Không tiếng. Nơi đó, bạn sẽ thấy gương tâm hiện ra: trong trẻo, tịch lặng, vô vi. Nơi gương tâm, đó là Không, nhưng hiện ra và trôi đi vô lượng ảnh hình và vô lượng không ảnh hình. Nơi gương tâm, đó là Không, nhưng hiện ra và trôi đi vô lượng âm thanhvô lượng tiếng tàng thanh. Nghe thường trực như thế, bạn không cần ngồi thiền nữa, vì bạn đang nhận ra và đang sống cái vô vi, cái xa lìa tham sân si ngay nơi cái thấy, cái nghe.

 

 

Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 193470)
01/04/2012(Xem: 39407)
08/11/2018(Xem: 17824)
08/02/2015(Xem: 57685)
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.