Chương 14 : Hoà Bình Và Giải Giới

06/10/201012:00 SA(Xem: 23449)
Chương 14 : Hoà Bình Và Giải Giới
Chương 14
HÒA BÌNH VÀ GIẢI GIỚI

Chủ tịch họ Mao từng phát biểu rằng quyền bính chính trị đến từ thùng thuốc súng. Dĩ nhiên bạo lực có thể hoàn tất vài mục tiêu đoản kỳ, nhưng không thể nào viên mãn được cứu cánh trường kỳ.

Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy qua thời gian, tình yêu hòa bình, công lýtự do của nhân loại vẫn luôn chiến thắng sự tàn ác và áp bức. Chính vì vậy, tôi luôn luôn là người có niềm tin sâu đậm vào bất bạo động. Bạo động sanh ra bạo động. Và bạo động chỉ có một ý nghĩa: đau khổ. Trên lý thuyết, có thể tưởng tượng một trường hợp với phương cách duy nhất hầu ngăn ngừa một tranh chấp cao độ là qua sự can thiệp có võ trang ở ngay giai đoạn đầu tiên. Nhưng vấn đề trong biện luận này là vốn rất khó tiên đoán được kết quả của bạo động, nếu không phải là bất khả. Chúng ta cũng không thể chắc chắn về chánh nghĩa của nó ngay từ lúc đầu. Điều này chỉ trở nên sáng tỏ nhờ lợi ích của sự hậu nghiệm. Đoan quyết duy nhất là nơi nào có bạo động, nơi đó luôn luôn và không thể tránh khỏi đau khổ.

Vài người cho rằng sự tận hiến của đức Đạt lai Lạt ma cho bất bạo động rất đáng ngợi khen, nhưng lại không thực tiễn. Thật ra, phải nói là còn ngây ngô hơn nữa khi giả thiết các vấn đề do loài người tác tạo dẫn đến bạo động có thể được giải quyết bằng tranh đấu. Thử quán xét, chính bất bạo độngđặc điểm chính yếu của cuộc cách mạng chính trị đã quét sạch tình hình thế giới vào thập niên 1980.

Tôi tin lý do chính yếu khiến nhiều người cho rằng con đường bất bạo động không thực tiễn, là vì dấn thân vào đó có vẻ đầy thách thức: chúng ta sẽ trở nên nản lòng. Tuy nhiên, trong khi trước đây chỉ cầu mong được hòa bình trên chính lãnh thổ của mình là đủ, hoặc cho lân bang, thì ngày nay, chúng ta nói đến hòa bình thế giới. Đó là sự kiện rất thích đáng. Sự tùy thuộc hỗ tương của loài người giờ đã quá hiển nhiên: hòa bình duy nhấtý nghĩa để nói lên là hòa bình thế giới.

Một trong các khía cạnh đầy triển vọng của tân thời đại là sự trổi vượt của vận chuyển hòa bình quốc tế. Nếu chúng ta ít được nghe về nó ngày hôm nay hơn là vào cuối Chiến tranh Lạnh, có thể chỉ vì lý tưởng của nó đã thẩm thấu vào dòng ý thức chủ yếu. Nhưng tôi muốn ngụ ý gì khi nói đến hòa bình? Có một nền tảng nào để giả thiết rằng chiến tranh là sinh hoạt tự nhiên của loài người, cho dù là đáng tiếc? Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa hòa bình như là một sự vắng mặt của chiến tranh, và hòa bình như là một trạng thái yên tịnh được thiết lập trên ý nghĩa sâu xa về sự an ninh, phát khởi từ sự hiểu biết hỗ tương, bao dung cùng quan điểm của người khác, và tôn trọng quyền lợi của họ. Hòa bình trong ý nghĩa đó không phải là điều ta nhìn thấy ở Âu châu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh kéo dài hơn bốn thập niên. Đó chỉ mới là sự gần đúng. Nền tảng kiến lập thật sự của nó chính là sự sợ hãinghi ngờtâm lý kỳ lạ của sự tàn phá hỗ tương chắc chắn (thường được viết tắt là MAD [điên] = mutually assured destruction). Thật thế, thứ "hòa bình" đặc thù của Chiến tranh Lạnh quả thật bất an, mong manh, mà bất cứ sự hiểu lầm nghiêm trọng của một phe nào sẽ đưa đến các hậu quả khốc liệt. Nhìn lại, đặc biệt là với kiến thứcchúng ta có được về sự quản lý lộn xộn trên các thứ hệ thống khí giới ở vài khu vực nào đó, tôi nghĩ thật là một huyền nhiệm khi chúng ta đã thoát khỏi sự tàn phá bằng một cách nào đó!

Hòa bình không phải là thứ gì hiện hữu độc lập cùng chúng ta, cũng như chiến tranh. Quả thật một số cá nhân — các lãnh tụ chính trị, nhà làm chính sách, tướng lãnh quân đội — đã chịu trách nhiệm nặng nề đối với hòa bình. Tuy nhiên, những người đó không phải đến từ chốn không đâu. Họ không ra đời hoặc trưởng thành ngoài không gian. Giống như chúng ta, họ được nuôi nấng bằng sữa mẹ và tình thân ái. Họ là thành viên của gia đình nhân loại, và được dưỡng nuôi trong xã hội do chính các cá nhân chúng ta đã góp phần tạo dựng. Hòa bình trên thế giới do đó tùy thuộc vào hòa bình trong trái tim của các cá nhân. Điều này lại tùy thuộc vào mọi người chúng ta thật hành luân lý qua giới luật các phản ứng trước ý niệmcảm xúc tiêu cực, và phát huy được các phẩm chất tâm linh căn bản.

Nếu hòa bình thật sự là điều gì sâu xa hơn một sự quân bình mong manh đặt trên sự hiềm khích lẫn nhau, nếu cuối cùngtùy thuộc vào quyết định của một sự tranh chấp nội bộ, thế thì chúng ta sẽ nói gì về chiến tranh? Mặc dù một cách nghịch lý, mục tiêu của hầu hết các chiến dịch quân sự là hòa bình, trên hiện thực, chiến tranh giống như lửa đối với cộng đồng nhân loại, mà dầu châm vào chính là các người sống. Nó còn giống như lửa trong cách thức lan tràn ra. Nếu, lấy thí dụ, nhìn vào diễn tiến của cuộc hỗn loạn tại cựu Nam tư, ta sẽ thấy rằng điều manh nha chỉ là một cuộc tranh cãi hạn hẹp, đã lan nhanh nuốt trọn cả một khu vực. Tương tự, nếu nhìn vào các cuộc chiến lẻ tẻ, chúng ta thấy mới đầu các chỉ huy nhận ra các vùng yếu kém, họ phản ứng bằng cách tăng cường lực lượng — giống hệt như ném người sống vào lửa. Nhưng vì thói quen, chúng ta không thấy điều đó. Chúng ta thất bại trong việc nhận ra rằng, bản chất chân thật của chiến tranh là sự tàn nhẫn lạnh lùngđau khổ.

Sự thật không may là chúng ta được điều kiện hóa để nhìn chiến tranh như một điều gì kích thích và còn lộng lẫy nữa: các chiến binh trong quân phục bảnh bao (rất hấp dẫn đối với trẻ em) cùng dàn nhạc quân hành đi bên cạnh họ. Chúng ta xem giết chóc là điều ghê tởm, nhưng lại không liên kết chiến tranh cùng giết chóc. Trái lại, còn xem như đây là cơ hội cho người ta chứng tỏ tài năng và đảm lược. Chúng ta nói đến các anh hùng do chiến tranh sản xuất, gần như là con số người bị giết càng lớn, thì cá nhân đó càng hào hùng. Và chúng ta nói đến các thứ khí giới loại này loại khác như là những mẫu kỹ thuật tuyệt vời, quên đi mất khi sử dụng nó sẽ gây thương tậtvong mạng người sống. Bạn của quý vị, bạn của tôi, mẹ chúng ta, cha chúng ta, anh chị em chúng ta, quý vị và tôi.

Điều còn tệ hơn nữa là sự kiện trong chiến tranh tối tân, vai trò của những kẻ tham chiến đã không còn đụng độ chỉ trên chiến trường dưới mặt đất. Đồng lúc, ảnh hưởng của nó đối với những người không tham chiến càng lớn lao hơn nữa. Những người đau khổ trong chiến tranh võ trang hiện nay chính là các kẻ vô tội — không phải chỉ có các gia đìnhthân nhân tham chiến, mà con số lớn hơn nhiều của các thường dân không hề giữ vai trò gì trực tiếp. Ngay cả sau khi chiến cuộc đã qua, còn tiếp tục tràn đầy nỗi khổ với các bãi mìn, và thuốc độc từ các loại khí giới hóa học — chưa kể đến nền kinh tế suy thoái. Điều này có nghĩa, càng ngày càng nhiều phụ nữ, trẻ em, và người già trong số các nạn nhân trước tiên.

Hiện thực về chiến tranh tối tân vốn là cả một thứ doanh nghiệp, gần giống như trò chơi điện tử. Sự tinh xảo tăng tiến không ngừng của các loại khí giới đã vượt ngoài khả năng tưởng tượng của một thường dân trung bình. Khả năng tàn phá của chúng thật đáng kinh hoàng, khiến cho bất cứ biện luận gì cho chiến tranh đều chỉ có giá trị quá thấp kém trước những người phản đối. Chúng ta hầu như có thể được tha thứ nếu có chút hoài niệm về các loại chiến trận thời xa xưa. Ít ra người ta còn đấu nhau mặt đối mặt. Không có sự phủ nhận các đau khổ dính dấp. Trong những ngày đó, đích thân các tướng lãnh cầm đầu quân lính của họ ra sa trường. Nếu tướng lãnh bị giết, thì chiến cuộc gần như kết thúc. Nhưng với sự tiến bộ của kỹ thuật, các tướng lãnh bắt đầu ở xa mãi tận phía sau. Ngày nay, họ có thể ở cách xa hàng ngàn dặm, trong các hầm trú ẩn nằm sâu dưới đất. Khi nhìn thấy điều đó, tôi hầu như thấy được sự phát triển một loại đạn "khôn ngoan" biết tìm kiếm những kẻ chỉ huy quyết định trận chiến trước hết. Đối với tôi điều đó công bằng hơn, và trên nền tảng đó, tôi có thể thấy người ta hoan nghinh một loại khí giới có thể tiêu diệt các kẻ quyết định trong khi để cho các người vô tội được an toàn.

Bởi vì thực trạng của khả năng tàn phá đó, chúng ta cần phải nhìn nhận rằng, cho dù được dùng vào mục tiêu tự vệ hoặc tấn công, khí giới chỉ hiện hữu để hủy diệt loài người. Nhưng nếu giả định rằng hòa bình chỉ thuần túy tùy thuộc vào sự giải giới, thì chúng ta cũng phải nhìn nhận là khí giới không thể tự chúng hoạt động. Mặc dù được thiết kế để giết người, một khi còn nằm trong kho chứa, chúng không thể làm hại. Phải có kẻ nào đó bấm nút để phóng phi tiễn bay đi, hoặc bóp cò để bắn ra một viên đạn. Không có lực "tà ác" nào có thể làm điều đó. Chỉ con người là có thể. Do đó, hòa bình thế giới thật sự đòi hỏi chúng ta phải bắt đầu tháo gỡ các cơ ngơi quân sự do chúng ta thiết lập. Chúng ta không thể hy vọng vui hưởng hòa bình một khi các chế độ độc tài vẫn còn được các lực lượng quân sự chống đỡ, vốn không ngần ngại gây chuyện bất công theo ý thích. Bất công làm tiêu mòn chân lý, và không có chân lý không thể có hòa bình lâu dài. Tại sao không? Bởi vì khi chúng tachân lý lẽ thật bên mình, cùng với nó, ta có cả sự chân thành và tự tin. Đảo lại, khi thiếu chân lý lẽ thật, cách duy nhấtthể đạt đến mục tiêu ngắn hạn của mình là bằng bạo lực. Nhưng khi quyết định bằng cách đó, bằng cách thách đố lẽ thật, người ta không cảm thấy đúng — cho dù là người thắng hoặc kẻ bại. Cảm xúc tiêu cực này sẽ làm tiêu mòn hòa bình, vốn chỉ được áp đặt bằng bạo lực.

Đương nhiên chúng ta không thể hy vọng thực hiện sự giải giới qua đêm. Dù đáng mong mỏi cách mấy, giải giới đồng loạt thật khó thực hiện vô cùng. Dù chúng ta mong muốn nhìn thấy một xã hội trong đó xung đột võ trang là chuyện đã lùi vào quá khứ, cứu cánh tối hậu của ta phải là sự hủy diệt tất cả các loại khí giới, nhưng điều hiển nhiên là việc hủy diệt mọi khí giới là kỳ vọng quá cao vời.

Nói cho cùng, ngay cả hai nắm tay ta cũng có thể xem là khí giới. Và luôn luôn có một nhóm phá rối và cuồng tín tạo phiền nhiễu cho người khác. Do đó, chúng ta phải chấp nhận, một khi còn con người, sẽ còn cần các phương cách để giải quyết các điều hạ tiện.

Chúng ta mỗi người đều giữ một vai trò trong đó. Như là các cá nhân, chúng ta phải tự giải giới bên trong — qua sự đối phó các ý niệmcảm xúc tiêu cực và vun bồi các phẩm chất tích cực — hầu tạo điều kiện cho sự giải giới bên ngoài. Thật vậy, hòa bình thế giới chân thật lâu bền chỉ có thể do kết quả của mỗi người trong chúng ta nỗ lực tự bên trong. Các cảm xúc phiền nhiễu là dưỡng khí cho tranh chấp. Điều cốt yếu là chúng ta phải có cảm giác cùng người khác, và nhìn nhận quyền hạnh phúc của họ, không làm điều gì góp phần vào nỗi đau khổ của họ. Muốn làm được điều này, cần bỏ thời giờ quán chiếu kinh nghiệm thật về chiến tranh của các nạn nhân ra sao. Về phần tôi, tôi chỉ cần nghĩ đến chuyến viếng thăm Hiroshima vài năm trước đây, là đủ thấy các cảnh tàn khốc nhất sống động lại. Trong viện bảo tàng tại đó, tôi nhìn thấy một chiếc đồng hồ đã ngừng vào đúng giây phút quả bom nguyên tử phát nổ. Tôi thấy một gói kim khâu, trong đó tất cả kim dính liền vào nhau vì sức nóng.

Điều được đòi hỏi là chúng ta phải kiến lập các mục tiêu rõ ràng với các phương tiện nhờ đó có thể giải giới từ từ. Và chúng ta phải phát huy được một ý chí chính trị để làm việc đó. Với sự tôn trọng các biện pháp thực tiễn cần thiết hầu mang đến việc giải thể quân sự, chúng ta cần nhìn nhận rằng, điều đó chỉ có thể xảy ra trong khuôn khổ một ý thức trách nhiệm rộng rãi của toàn thể. Nếu chỉ hủy bỏ các loại khí giới sát hại tập thể vẫn chưa đủ. Chúng ta phải tạo điều kiện thuận lợi cho mục tiêu của mình. Cách cụ thể nhất để làm điều đó là xây dựng trên các khởi xướng hiện hữu. Ở đây, tôi nghĩ đến các nỗ lực qua hàng bao nhiêu năm hầu kiểm soát việc sử dụng các loại khí giới nào đó — và hủy bỏ trong vài trường hợp. Trong các thập niên 1970 và 1980, chúng ta chứng kiến các cuộc đàm phán của cơ quan SALT (Strategic Arms Limitation Treaties = Thỏa hiệp Hạn chế Vũ khí Chiến lược) giữa hai khối Đông và Tây. Nhiều năm qua chúng ta cũng đã có một thỏa hiệp kiểm soát khí giới hạt nhân do nhiều quốc gia ký kết. Và mặc dù sự bành trướng của võ khí hạt nhân, ý tưởng về một cấm đoán trên toàn cầu vẫn còn tồn tại. Các tiến bộ khích lệ còn được thực hiện trong việc cấm bãi mìn. Trong khi quyển sách này được viết, phần lớn các chính quyền trên thế giới đã ký kết nghi thức từ bỏ việc sử dụng mìn. Vì vậy, trong khi quả thật đến giờ vẫn chưa có một khởi xướng nào hoàn toàn thành công, sự hiện hữu của chúng chứng thực các phương cách hủy diệt này vốn không được mong muốn. Chúng còn cho thấy căn bản của loài người là muốn sống trong hòa bình. Và chúng cung ứng một điểm khởi đầu hữu ích có thể triển khai.

Một cách khác giúp chúng ta đi xa hơn trong mục tiêu sự giải thể quân sự toàn cầu là giải tán dần dà kỹ nghệ khí giới. Đối với nhiều người, đề nghị này có vẻ một ý tưởng phi lý và không thể thực hiện. Họ sẽ phản đối rằng, trừ phi mọi người đồng ý làm như thế cùng một lúc, bằng không đó là chuyện điên rồ. Và, họ sẽ bảo, điều đó không bao giờ xảy ra. Ngoài ra, họ còn thêm, có một lập luận kinh tế cần phải cứu xét. Thế nhưng nếu chúng ta nhìn vấn đề theo quan điểm của những người đau khổhậu quả của bạo lực võ trang, sẽ khó mà phủ nhận trách nhiệm phải vượt qua các phản bác đó bằng cách này hoặc cách khác. Thật vậy, mỗi khi tôi nghĩ đến kỹ nghệ khí giới và sự đau khổ nó mang lại, tôi lại hồi tưởng đến chuyến viếng thăm trại xử tử của Đức quốc xã ở Auschwitz. Khi tôi đứng nhìn hỏa lò thiêu đốt hàng mấy ngàn người cũng như chính tôi — nhiều người vẫn còn sống, những con người vốn không thể chịu đựng nổi sức nóng của một que diêm — đã khiến tôi bị đả kích nặng nề, trước sự chế tạo các thứ dụng cụ giết người này một cách tỉ mỉ và thận trọng của các tay thợ có tài. Tôi còn thấy cả các kỹ sư (toàn là những người thông minh) đứng trước bảng chỉ dẫn, cẩn thận phác họa lại hình thức của phòng nhiên liệu và tính toán kích thước của các ống khói lò, chiều cao và chiều rộng. Tôi nghĩ đến những tay thợ biến thiết kế đó thành sản phẩm. Chắc là họ rất hãnh diệnviệc làm của mình, cũng như các thợ khéo khác. Rồi tôi lại nghĩ đến các tay thiết kế và sản xuất khí giới hiện đại cũng làm y như vậy. Họ cũng đang chế tạo các thứ phương tiện hủy diệt hàng ngàn người, nếu không phải là hàng triệu người đồng loại của mình. Phải chăng đó là một ý nghĩ phiền toái?

Với điều đó trong đầu, tất cả cá nhân tham gia vào việc làm kia tốt hơn nên thử xét họ có thể minh xác sự dính líu của mình vào đó hay không. Chắc là họ sẽ đau khổ nếu đơn phương từ bỏ nó. Cũng chẳng ngờ vực chi khi các nền kinh tế của các quốc gia sản xuất khí giới sẽ đau khổ khi các cơ sở của mình bị đóng cửa. Nhưng cái giá đó có xứng đáng hay không? Ngoài ra, có rất nhiều thí dụ trên thế giới về các hãng xưởng thành công trong việc chuyển từ khí giới sang một thứ hình thức sản xuất khác. Chúng ta còn có cả thí dụ của một quốc gia trên thế giới không có quân đội mà ta có thể cứu xét trong liên hệ cùng các nước lân bang. Đó là Costa Rica, giải thể quân đội từ năm 1949 đến giờ, rất tiện ích trong mực sống, y tế, và nền giáo dục rất tốt đẹp.

Về lập luận cho rằng thực tiễn hơn là nên giới hạn chỉ xuất cảng khí giới đến các nước đáng tin cậy và an toàn, tôi cho rằng đó là quan điểm rất thiển cận. Nhiều lần đã cho thấy việc đó không thể làm. Chúng ta đều quen thuộc cùng lịch sử hiện đại về chiến tranh vùng Vịnh Ba tư. Trong thập niên 1970, các đồng minh Tây phương đã võ trang cho vua Shah của Iran hầu tạo lực lượng đối lập trước đe dọa từ Nga. Tiếp theo, khi không khí chính trị thay đổi, Iran tự nó đã biến thành một mối đe dọa cho quyền lợi của Tây phương. Thế là các đồng minh bắt đầu võ trang cho Iraq chống lại Iran. Nhưng rồi, thời thế lại thay đổi nữa, các khí giới này được dùng để chống lại các đồng minh khác của Tây phương tại vùng Vịnh (Kuwait). Kết quả là, các quốc gia sản xuất khí giới phải tự mình ra trận với chính khách hàng của họ. Nói cách khác, không có gì có thể gọi là khách hàng "an toàn" cho khí giới.

Tôi không thể phủ nhận rằng cảm hứng của tôi đối với việc giải giớigiải thể quân sự chỉ là lý tưởng. Đồng thời, có nhiều cứ điểm sáng tỏ để được lạc quan. Một trong số là sự kiện khôi hài rằng, cho đến nay khí giới hạt nhân và sát hại tập thể rất được quan tâm đến, nhưng quả thật rất khó nghĩ ra trong hoàn cảnh nào chúng mới hữu dụng. Các thứ khí giới đó rõ ràng là một sự lãng phí tiền bạc. Sản xuất chúng rất tốn kém, lại không thể hình dung sử dụng chúng ra sao, và không có việc gì làm ngoài tồn kho chúng, một điều cũng tốn kém rất nhiều. Thật thế, chúng quả vô dụng và không là gì cả ngoài một sự trút bỏ tiền bạc.

Một lý do khác để lạc quan là sự ràng buộc bền chặt giữa các nền kinh tế quốc gia. Điều này tạo ra một không khí trong đó khái niệm thuần quyền lợi quốc gia đã trở nên ngày càng mất dần ý nghĩa. Kết quả, ý tưởng chiến tranh như phương tiện giải quyết tranh chấp bắt đầu có vẻ lỗi thời. Nơi nào còn có loài người, nơi đó luôn luôn còn tranh chấp, điều đó đúng. Sự bất đồng thỉnh thoảng lại nổi lên. Nhưng cho dù hiện thực về việc gia tăng phát triển võ khí hạt nhân, chúng ta vẫn tìm ra phương cách tốt hơn là bạo lực để giải quyết vấn đề. Điều này có nghĩa là đối thoại trong tinh thần hòa giảithỏa hiệp. Đó không phải chỉ là ý tưởng vọng cầu của riêng tôi. Khuynh hướng của thế giới nghiêng về tập hợp chính trị quốc tế, trong đó Liên hiệp Âu châu có thể là thí dụ cụ thể nhất, có nghĩa là có thể hướng về một thời điểm nào đó, khi việc bảo tồn quân đội quốc gia bị xem như là thiếu tánh chất kinh tế và không cần thiết. Thay vì nghĩ theo khuôn khổ bảo vệ bờ cõi từng quốc gia, việc nghĩ đến an ninh từng khu vực còn hữu lý hơn. Hiện đã manh nha các kế hoạch phòng thủ Âu châu kết hợp chung sát cánh hơn; một đạo vệ binh Pháp-Đức đã hoạt động từ mười năm qua. Hiện nay, ít nhất tại Liên hiệp Âu châu, điều khi mới khởi sự chỉ thuần túy là một nền mậu dịch hợp tác, giờ đã nhận lãnh cả trách nhiệm an ninh khu vực. Và điều có thể diễn ra tại Âu châu, tức có lý do đặt hy vọng vào các nhóm mậu dịch quốc tế khác — hiện đã có khá nhiều — sẽ dần dà tiến triển theo. Tại sao không?

Sự xuất hiện của các lực lượng phòng thủ khu vực chung, theo tôi, là đóng góp lớn lao vào chuyển tiếp từ các bận rộn hiện hữu giữa các quốc gia sang sự công nhận các cộng đồng ít hạn hẹp hơn. Chúng có thể lót đường cho một thế giới sẽ không còn các đạo quân hiện dịch nữa. Một phối cảnh như thế, dĩ nhiên, phải diễn tiến theo từng giai đoạn. Các lực lượng quân sự quốc gia nhường chỗ cho lực lượng an ninh khu vực. Dần dà lại đến lượt chúng sẽ giải thể, nhường chỗ cho lực lượng vệ binh toàn cầu. Mục tiêu chính của lực lượng này là bảo vệ cho công lý, an ninh cộng đồng, và nhân quyền trên thế giới. Tuy nhiên, các nhiệm vụ đặc biệt của họ rất đa dạng. Bảo vệ chống lại việc sử dụng bạo lực tiếm đoạt quyền bính là một trong các nhiệm vụ của họ. Về phần công tác, các vấn đề luật pháp sẽ được họ thi hành trước nhất. Nhưng tôi thiết tưởng, các cộng đồng bị đe dọa — do lân bang hoặc vài thành phần cũng như các đảng phái chính trị cực đoan — cũng có thể gọi họ đến; cũng như các cộng đồng quốc tế mỗi khi có bạo lực phát động từ tranh chấp, chẳng hạn do tranh luận về tôn giáo hoặc lý tưởng.

Mặc dù quả thật chúng ta còn ở quá xa cùng hoàn cảnh lý tưởng đó, nhưng, một lần nữa, đó không phải là một sự tưởng tượng cầu kỳ. Có thể thế hệ này không sống đủ để nhìn thấy nó. Nhưng chúng ta đã quen nhìn thấy quân đội của Liên Hiệp quốc hành quân dưới tính cách bảo vệ hòa bình. Chúng ta cũng bắt đầu thấy khuynh hướng nhất trí rằng, dưới bất kỳ trường hợp nào, việc sử dụng phương thức can thiệp được xem như chánh đáng.

Như một phương tiện phát triển xa hơn nữa, chúng ta có thể cứu xét sự thành lập của các Khu vực Hòa bình. Nơi đó, tôi hình dung một phần hoặc nhiều phần của một hoặc nhiều quốc gia sẽ được phi quân sự nhằm tạo thành các ốc đảo quân bình, ưu tiên cho các vị trí chiến lược nổi bật. Những khu vực này có thể xem như là các hải tiêu hy vọng cho thế giới còn lại. Phải nhìn nhận là ý kiến đó có vẻ khá tham vọng, nhưng nó không phải chưa từng có trước đây. Chúng ta đã từng có một khu phi quân sự được quốc tế công nhận ở Nam cực. Tôi cũng chẳng phải là người đầu tiên đề ra ý kiến này. Cựu Tổng thống Nga Mikhail Gorbachev từng đề nghị tình trạng như thế cho vùng biên giới Nga-Hoa. Chính tôi cũng đã đẩy mạnh ý tưởng này cho Tây tạng.

Dĩ nhiên, không phải khó nghĩ đến các vùng khác trên thế giới ngoài Tây tạng, nơi đó các cộng đồng lân cận hưởng lợi rất nhiều nhờ sự thiết lập vùng phi quân sự. Cũng như Ấn độTrung quốc — cả hai nước đều tương đối nghèo — sẽ tiết kiệm được một phần lợi tức hàng năm đáng kể, nếu Tây tạng trở thành Khu vực Hòa bình được quốc tế công nhận; cũng như rất nhiều nước trên mỗi lục địa sẽ trút bỏ được gánh nặng phung phí khi phải duy trì một quân số lớn lao dọc theo biên giới. Tôi vẫn hằng nghĩ, lấy thí dụ, Đức quốc là một địa điểm thích hợp nhất cho Khu vực Hòa bình, nằm ngay trung tâm của Âu châu và đã từng kinh qua hai trận thế chiến trong thế kỷ hai mươi.

Trong tất cả điều đó, tôi tin rằng Liên Hiệp quốc giữ một vai trò rất hệ trọng. Không phải đó chỉ là đoàn thể duy nhất tận hiến cho các vấn đề toàn cầu. Còn cần phải ngưỡng phục các ý kiến đằng sau Tòa án Quốc tế ở Hague, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, và các hình thức cống hiến khác của các Hội nghị Geneva. Nhưng hiện nay, và trong tương lai gần, Liên Hiệp quốc vẫn là cơ chế toàn cầu duy nhất có khả năng vừa ảnh hưởng vừa thực hiện được chính sách nhân danh cộng đồng quốc tế. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ trích Liên Hiệp quốc trên căn bản sự kém hiệu năng, và quả thật nhiều khi chúng ta thấy các quyết định bị bỏ qua, bỏ rơibỏ quên. Tuy nhiên, mặc dù các khiếm khuyết đó, tôi vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào Liên Hiệp quốc, không những chỉ trên các nguyên tắc thành lập, mà cả trên một số thành quả thu hoạch kể từ khi thành hình vào năm 1945. Chúng ta chỉ cần tự hỏi rằng, phải chăng nó đã cứu giúp nhiều nhân mạng qua nhiều trường hợp tệ hại, thì mới thấy nó có khả năng hơn chỉ là một thứ hành chánh "không răng cắn" như nhiều người nói đến. Chúng ta còn phải xét đến các công tác lớn lao của các tổ chức phụ thuộc vào nó, như UNICEF, Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp quốc UNHCR, UNESCO, và Tổ chức Y tế Thế giới WHO. Điều này vẫn đúng dù cho một số chương trình và chính sách và các tổ chức khác trên thế giới bị sai hỏng và lạc hướng.

Tôi thấy rằng Liên Hiệp quốc, nếu được phát triển đúng khả năng, sẽ là một cỗ xe thích đáng để chuyên chở các ước vọng nhân bản như là một toàn khối. Tuy là nó chưa thể hiện điều đó một cách thật hữu hiệu, nhưng chúng ta cũng chỉ mới bắt đầu nhìn thấy ý thức toàn cầu được phát khởi (thực hiện được nhờ cách mạng tin học). Dẫu khó khăn tột độ, chúng ta cũng đã chứng kiến nó hành động tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới, dù rằng trong hiện tại, mới chỉ có một hoặc hai nước làm mũi dùi phát động. Sự kiện các nước tìm một hình thức luật lệ theo huấn lệnh của Liên Hiệp quốc, cho thấy một nhu cầu biện minh trước sự thừa nhận của tập thể. Đó là chỉ dấu sự phát huy của cảm thức về một cộng đồng nhân loại hợp nhất và tùy thuộc hỗ tương.

Một trong các nhược điểm đặc biệt của Liên Hiệp quốc là hiện tại tuy nó cung ứng được một diễn đàn cho các chính quyền riêng lẽ, nhưng các cá nhân công dân không thể phát biểu ở đó. Nó cũng không có cơ chế cho những người muốn phát biểu đối lập cùng chính quyền của họ được lắng nghe. Vấn đề tệ hại hơn nữa là hệ thống phủ quyết (veto) hiện thời đã mở cửa cho sự giật dây của các siêu cường. Đó là các khiếm khuyết trầm trọng.

Đối với vấn đề các cá nhân không có tiếng nói, ở đây chúng ta có thể quán xét vài điều cấp tiến hơn. Cũng như các nền dân chủ được đảm bảo bằng ba cột trụ độc lập của tư pháp, hành pháp, và lập pháp; do đó chúng ta cần có một cơ chế độc lập thật sự ở trình độ quốc tế. Nhưng có thể Liên Hiệp quốc không hoàn toàn thích hợp với vai trò đó. Tôi từng theo dõi các cuộc hội thảo quốc tế, như là hội nghị thượng đỉnh Địa cầu ở Ba tây, trong đó các cá nhân đại diện cho quốc gia của họ không sao tránh khỏi việc đặt quyền lợi quốc gia trước hết, cho dù thực tế của vấn đề đưa ra vượt khỏi hẳn mọi biên cương. Đảo lại, khi người tham dự đại hội quốc tế chỉ là các cá nhân — ở đây tôi nghĩ đến các nhóm như Hội Y sĩ Quốc tế, Hội Phòng ngừa Chiến tranh Hạt nhân, hoặc các đề xướng chống mậu dịch võ khí của Hội Nhân vật Giải Nobel Hòa bình, mà tôi là thành viên — sẽ có sự quan tâm lớn lao hơn dành cho riêng nhân quyền. Tinh thần của họ sẽ thuần túy quốc tế và cởi mở hơn nhiều. Điều này khiến tôi nghĩ, rất hữu ích nếu tạo dựng một cơ chế có nhiệm vụ chính là phát động các vấn đề nhân bản trên phối cảnh về luân lý, một tổ chức có thể mệnh danh là Hội đồng Cố vấn Thế giới (chắc chắn sẽ tìm ra một danh xưng hay hơn). Đây sẽ là một nhóm các cá nhân đến từ các bối cảnh khác nhau. Các nghệ sĩ, quản trị ngân hàng, môi sinh gia, luật sư, thi sĩ, học giả, nhà tư tưởng tôn giáo, và nhà văn, cũng như các nam nữ công dân nổi tiếng qua sự liêm khiết và tận tụy cùng các giá trị luân lýnhân bản nền tảng. Cơ chế đó không hề bị các thế lực chính trị đầu tư, nhờ vậy công bố của nó sẽ không thiên lệch. Nhưng do phẩm chất độc lập của nó — không có ràng buộc cùng một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào, và không có lý tưởng — cho nên các thảo luận sẽ tiêu biểu được lương tâm của thế giới. Nhờ đó họ có được thẩm quyền về đạo đức.

Dĩ nhiên, sẽ có rất nhiều người chỉ trích đề nghị này, cùng với điều tôi đã nói về việc giải thể quân sự, giải giới, và tái lập Liên Hiệp quốc, đặt trên nền tảng là thiếu thực tế, hay chỉ là quá đơn giản. Hoặc họ sẽ bảo rằng không thể áp dụng cho "thế giới thật." Nhưng trong khi người ta thường hài lòng chỉ nội việc chỉ tríchchê trách người khác về điều gì sai trái, đương nhiên ít ra chúng ta cũng nên đưa ra các ý kiến xây dựng. Một điều có thể đoan quyết. Đó là khả năng thật sự ban phát tình thương cho loài người, công bằng, hòa bình, tự do, tạo dựng một thế giới tốt đẹptừ ái hơn. Khả năng ở đây. Nếu, qua sự giúp đỡ của giáo dục và sự sử dụng đúng đắn truyền thông, chúng ta có thể phối hợp vài đề xướng trên đây cùng với sự áp dụng các nguyên tắc luân lý, và sẽ có trong tầm tay một thứ môi trường thích hợp, trong đó việc giải giớigiải thể quân đội trở nên không còn gì để tranh biện.

Trên căn bản đó, chúng ta sẽ có thể tạo điều kiện cho một nền hòa bình thế giới trường tồn.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 189240)
01/04/2012(Xem: 34713)
08/11/2018(Xem: 13601)
08/02/2015(Xem: 51958)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.