Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Đức Nhuận

07/12/201012:00 SA(Xem: 26147)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Đức Nhuận


TIỂU SỬ

HOÀ THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN

thichducnhuan

THÂN THẾ:

Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN pháp danh Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng chạp năm Quý Hợi( thứ 7 ngày 19 tháng giêng năm 1924).

Chánh quán: làng Lạc Chánh, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Thân phụ là Đồng Văn Xuân và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục(cả hai vị đều đã mãn phần).

Ngài là con thứ tư trong một gia đình thanh bần- dòng quý tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào( 2 trai, 1gái).

XUẤT GIA:

Ngài xuất gia năm 1937, Y chỉ sưHoà thượng thượng TÂM hạTHƯỞNG, trụ trì chùa làng LIÊU HẢI, phủ Nghĩa Hưng, thuộc sơn môn Phú Ninh( Nam Định)

Năm 1941 thụ Sa di giới tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh. 

Năm 1942 thụ Đại giới Tỳ Khưu tại giới đàn Tổ đình Phú Ninh.

Đã học tại các Tùng Lâm:

Tổ đình Phú Ninh

Phật học viện chùa Cồn( Nam Định)

Tổ đình Tế Xuyên ( Hà Nam)

Phật học viện Báo Quốc( Huế)

Phật học đường Ấn Quang ( Sài Gòn)

ĐẠO NGHIỆP:

Năm 1949, chính thức hoạt động phật sự với chức vụ phó chủ tịch Hội Phật Giáo Nam Định ( Miền Xuân Trường Hải Hậu), chủ tịch là Hoà Thượng THÍCH TRUNG QUÁN, trụ trì chùa làng Quần Thượng ( Hải Hậu) và cuối năm 1950, xin từ chức trở về sống nếp sống của một tăng sĩ, tiếp tục sự nghiệp học vấn và nghiên cứu Phật học.

Đầu năm 1954 vào Nam sống cuộc đời tĩnh tu.

Năm 1956-1957, được sự tín nhiệm của chư tăng cử giữ chức chủ tịch ( trị sự trưởng) Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam (GHTGVN).

Năm 1959-61, giữ chức uỷ viên văn hoá Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1962-63, đảm nhận chức tổng thư ký Giáo hội Tăng Già Việt Nam.

Năm 1963, khởi động phong trào đầu tiên chống chế độ độc tài nhà Ngô (tại Sài Gòn) trong vụ triệt hạ cờ Phật giáođàn áp phật tử tại Huế, nhân mùa Phật đản PL 2507(1963).

Năm 1964-65, giữ chức vụ trưởng vụ kiểm duyệt GHPGVNTN.

Năm 1965-66, chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Vạn Hạnh, tạp chí nghiên cứu, phát huy Văn hóa Phật giáo và văn hoá dân tộc, với sự cộng tác của một số học giả, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ tại thủ đô Sài Gòn (tạp chí xuất bản được tròn 2 năm, 24 số)

Năm 1969-73, Giáo sư phân khoa Phật họctriết học Đông Phương Viện Đại học Vạn Hạnh( sau niên khoá đó, vì bận công tác nên đã xin nghỉ dạy).

Năm 1967-73, giữ chức chánh thư ký Viện Tăng Thống, do đức tăng thống THÍCH TỊNH KHIẾT lãnh đạo và là hội viên Hội đồng giá phẩm trung ương GHPGVNTN.

Năm 1969-71, trùng tu tổ đình Giác Minh. Nguyên trụ sở Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam.

Năm 1971-72, chủ bút nguyệt san Hoá Đạo, cơ quan truyền bá chánh phátp của Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN.

Năm 1975-87, đảm trách trụ trì tổ đình Giác Minh.

Năm 1985-93, bị nhà nước Việt Nam bắt giam với tội danh “tổ chức chống cách mạng”.

Năm 1993 đến nay (1996), tĩnh tu chùa Giác Minh, Sài Gòn.

Hoà thượng vẫn tiếp tục đọc, viết và ưu tư về đường hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam.

Năm 1998 Hoà Thượng đã được chính thức suy tôn lên ngôi vị Cố Vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo GHPGVNTN.

Ngài đã viết cho các Nhật báo: Thời Luận, Tin Sáng, Dân chủ, Gió Nam, và các tạp chí: Phật giáo Việt Nam, Văn Hoá Á Châu, Liên Hoa, Văn, Vấn Đề, Tư Tưởng…..

Đã diễn thuyết về đề tài Phật giáo và Văn Hoá Dân tộc tại các trường Đại học:

Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn (1959)

Trường Quốc gia Âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn(1963).

Viện Phật Học Vạn Hạnh (1970) và đã đề tựa cùng giới thiệu những tác giảtác phẩmgiá trị về mặt tôn giáovăn học.

TÁC PHẨM ĐÃ IN:

GIÓ THIÊNG (thơ) Vạn Hạnh, 1959

PHẬT HỌC TINH HOA- Một Tổng Hợp Đạo Lý (đã tái bản 4 lần) Vạn Hạnh 1960

CHUYỂN HIỆN ĐẠO PHẬT VÀO THỜI ĐẠI, Vạn Hạnh 1967

TRAO CHO THỜI ĐẠI MỘT NỘI DUNG PHẬT CHẤT (sách đã dịch ra Anh ngữ, Vạn Hạnh 1969)

 SỨ MỆNH NGƯỜI PHẬT TỬ ĐỐI VỚI DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP

KIẾN THIẾT VĂN MINH PHẬT GIÁO

ĐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỦ VIỆT

( ba tác phẩm này do Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới tại California, USA ấn hành 1995-1996) và tái bản tại Sài Gòn năm 1997.

THƠ: Sáng một niềm tin ( dịch và sáng tác từ năm 1975 đến nay), viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành 1999.

HƯỚNG ĐI CỦA THỜI ĐẠI, Viện Triết Lý và Triết Học Thế giới tại California, U.S.A ấn hành 2001.

DỊCH KINH:

- NHỮNG ĐIỀU PHẬT DẠY- Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương.

-LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT- Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh.

(cả hai tác phẩm trên nguyên văn chữ Hán trích trong “Thánh Điển Yếu Tập” chùa Giác Minh ấn tống 1980-1995, ký tên: Thái Không).

KHÁI NIỆM TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM, Viện Triết Lý Việt NamTriết học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành 1999.

Vào những năm cuối cuộc đời, chư Tăngtín đồ chúng theo học hỏi trực tiếp với ngài rất đông.

Vào ngày mồng 8 tháng chạp năm Tân Tỵ (2001), Hoà Thượng cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các bác sĩ tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng vì tuổi cao sứuu yếu, Ngài không qua khỏi và đã an tường xả thân vào lúc 16 giờ 53 phút chiều ngày thứ hai, 21 tháng giêng năm 2002 ( nhằm ngày mùng 9 tháng chạp năm Tân Tỵ) hưởng thọ 79 tuổi, 59 hạ lạp.

 Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Hoà Thượng đã nổ lực không ngừng trong việc xiễn dương đạo Pháp. Cuôc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đao hạnh và sự nghiệp hoằng hoá cho Tăng ni va Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nammai sau.

 

Sabba pàpassa akaranam
Kusalassa upasampada
Sacitta pariyodapamam
Etam Buddhâna sâsanam.
Dhammapada XIV, 5

Chấm dứt mọi việc ác
Thực hiện những điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Ấy lời đức Phật dạy.

“Đừng tin tưởng vào một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con ngườicuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn.”

Anguttara Nikaya





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 190809)
01/04/2012(Xem: 36416)
08/11/2018(Xem: 15099)
08/02/2015(Xem: 54233)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :