- Lời Đầu Sách
- Lược Khảo Lịch Sử Kinh
- Phẩm 1: Phẩm Tự
- Phẩm 2 Phương Tiện
- Phẩm 3 Thí Dụ
- Phẩm 4 Tín Giải
- Phẩm 5 Dược Thảo Dụ
- Phẩm 6 Thọ Ký
- Phẩm 7 Hóa Thành Dụ
- Phẩm 8 Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký
- Phẩm 9 Phẩm Thọ Học Vô Học Nhơn Ký
- Phẩm 10 Pháp Sư
- Phẩm 11 Hiện Bảo Tháp
- Phẩm 12 Đề Bà Đạt Đa
- Phẩm 13 Trì
- Phẩm 14 An Lạc Hạnh
- Phẩm 15 Tùng Địa Dũng Xuất
- Phẩm 16 Như Lai Thọ Lượng
- Phẩm 17 Phân Biệt Công Đức
- Phẩm 18 Tùy Hỉ Công Đức
- Phẩm 19 Pháp Sư Công Đức
- Phẩm 20 Thường Bất Kinh Bồ Tát
- Phẩm 21 Như Lai Thần Lực
- Phẩm 22 Chúc Lụy
- Phẩm 23 Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
- Phẩm 24 Diệu Âm Bồ Tát
- Phẩm 25 Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn
- Phẩm 26 Đà La Ni
- Phẩm 27 Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự
- Phẩm 28 Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát
- Toát Yếu Toàn Bộ
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI
Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không
PHẨM 21 NHƯ LAI THẦN LỰC
Như Lai Thần
Lực là sức thần của Như Lai. Đây có hai ý. Ý thứ nhất là khi Phật thành đạo có
đủ thần thông diệu dụng, nên việc làm của Ngài vượt hẳn sức của người thường,
vì vậy người đời không thể biết hết được, nên gọi là thần lực của Như Lai. Ý
thứ hai, Như Lai là chỉ Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Nếu ai biết quay
lại sống với Tri kiến Phật nơi mình, thì sẽ được diệu dụng không thể nghĩ bàn,
nên gọi đó là Như Lai Thần Lực.
CHÁNH
VĂN:
1.- Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát đông như số vi trần trong
nghìn thế giới từ dưới đất vọt lên đó, đều ở trước đức Phật một lòng chấp tay,
chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Thế Tôn! Sau khi
Phật diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ
rộng nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn được pháp lớn thanh tịnh
này để thọ trì, đọc tụng, giải nói,
biên chép mà cúng dường đó."
GIẢNG:
Đến đây, chư Bồ-tát từ dưới đất vọt lên vô số, đều chấp tay
bạch Phật rằng sau khi Phật diệt độ, thì ở các cõi nước của Phật phân thân giáo
hóa, lúc đó các ngài sẽ tới giáo hóa bằng kinh Pháp Hoa.
CHÁNH
VĂN:
2.- Lúc đó, Thế Tôn ở trước ngài Văn-thù-sư-lợi v.v... vô lượng
trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ-tát cựu trụ ở nơi cõi Ta-bà và các Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la,
ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân v.v..., trước tất cả
chúng, hiện sức thần thông lớn bày tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm thế,
tất cả lỗ chân lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều khắp
soi cả cõi nước trong mười phương. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây
báu cũng lại như thế: bày tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng.
Lúc đức Thích-ca Mâu-ni Phật và các đức
Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn trăm nghìn năm vậy sau mới huờn nhiếp
tướng lưỡi, đồng thời tằng hắng cùng chung khảy móng tay, hai tiếng vang đó
khắp đến cõi nước của các đức Phật trong mười phương, đất đều sáu điệu vang
động, chúng sanh trong đó: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la,
khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân v.v... nhờ sức thần của Phật đều
thấy trong cõi Ta-bà này vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi
trên tòa sư tử dưới những cây báu và thấy đức Thích-ca Mâu-ni Phật cùng đức Đa
Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm
nghìn muôn ức vị Bồ-tát và hàng tứ chúng cung kính vây quanh đức Thích-ca Mâu-ni
Phật, đã thấy thế rồi đều rất vui mừng được chưa từng có.
Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng
rằng: "Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số thế giới có nước
tên Ta-bà, trong đó có Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni hiện nay vì các đại Bồ-tát nói
kinh Đại thừa tên 'Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm', các
ông phải thâm tâm tùy hỉ, cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích-ca Mâu-ni Phật."
Các chúng sanh đó nghe tiếng
nói giữa hư không rồi, chấp tay xoay về cõiTa-bà nói thế này: "Nam-mô
Thích-ca Mâu-ni
Các vật rải đó từ mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành
màn báu trùm khắp trên các đức Phật ở trong đây. Bấy giờ mười phương cõi nước
thông đạt không ngại như một cõi Phật.
GIẢNG:
Đoạn này Phật hiện thần thông. Ngài hiện thần thông sao không biến
hóa bay đi, hay biến thân nhỏ thành thân lớn... mà lại hiện thần thông bằng
cách le lưỡi dài rộng cho đến cõi trời Phạm thiên, rồi trong mỗi lỗ chân lông
phóng hào quang sáng đủ màu sắc? Hiện tướng ấy biểu trưng ý nghĩa gì?
Nghĩa thứ nhất theo kinh A-hàm, người
mà ba đời không nói dối, thì tướng lưỡi dài, le ra tới mí tóc. Tướng lưỡi Phật dài
đến cõi trời Phạm thiên, chứng tỏ Phật vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát cho tới khi
thành Phật chưa từng nói dối. Lời Phật nói là lời nói chân thật, trải qua ba
đời quá khứ, hiện tại, vị lai không thay đổi. Ví dụ Phật nói: Các pháp hữu vi
đều là vô thường, không cố định.
Nghĩa thứ hai tiêu biểu lời nói của
Phật là lời khéo léo mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, do diệu dụng của thiệt căn
thanh tịnh mà có.
Trong sáu căn, ba căn có công đức viên
mãn là nhĩ căn, thiệt căn và ý căn. Vì vậy mà chư Bồ-tát và tất cả người tu,
đều chọn ý căn, nhĩ căn để tu và khi giáo hóa thì dùng thiệt căn để tuyên dương
chánh pháp. Mà "chánh pháp" được tuyên dương trong kinh Pháp Hoa là
Tri kiến Phật, trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, không bị giới hạn ở
một nơi nào. Nên tuyên dương pháp đó, cái lưỡi cũng rộng dài không thể nghĩ
bàn, nếu lưỡi nhỏ có giới hạn thì đâu nói được pháp lớn.
Tướng tất cả lỗ chân lông Phật phóng ra vô lượng vô số tia sáng,
soi khắp cả mười phương, biểu trưng ý nghĩa gì? Như trước đã nói, người thọ trì
kinh Pháp Hoa, là trở về sống với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt có sẵn nơi
mình. Bởi hằng sống với Tri kiến Phật nơi mình, tức nhiên toàn thân đều thanh
tịnh sáng suốt, nên có khả năng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng này thanh tịnh, nên
chiếu diệu khắp cả mười phương, không có giới hạn ở một khu vực nào, không
riêng ở một người nào, và ai ai cũng có. Nếu khéo tu, thì ánh sáng ấy chiếu soi
cùng khắp, như chư Phật không thua không kém.
Lại một hiện tượng lạ nữa là, sau khi thâu nhiếp thần thông trở
lại bình thường, Phật tằng hắng và khảy móng tay. Hai tiếng ấy vang khắp mười
phương quốc độ, chúng sanh trong ấy nương sức thần của Phật, thấy ở cõi Ta-bà
Phật đang nói pháp và có Phật Đa Bảo ngồi trên tòa sư tử chứng minh. Hình ảnh
ấy biểu trưng ý nghĩa gì? Nếu không tu học theo Thiền tông thì điều này chúng
ta khó mà hiểu được. Trong Thiền sử Trung Hoa, mỗi khi có Thiền tăng đến hỏi đạo,
thì Tổ Lâm Tế không đáp bằng lời, mà chỉ đánh hoặ�c hét. Vậy cái đánh hoặc hét
có tác dụng gì đối với Thiền tăng? Tiếng hét chỉ là tiếng hét, cái đánh chỉ là
cái đánh. Thiền tăng nhân nghe tiếng hét, hoặc bị đánh, tỉnh ngộ, nhận ra Tánh
giác nơi mình. Thiền tông gọi là kiến tánh hay ngộ đạo. Ngài Hương Nghiêm nghe
tiếng viên gạch chạm vào cây tre, liền ngộ đạo, trường hợp này khác nào tiếng
khảy móng tay ở đây! Thông thường ngôn ngữ đều phát xuất từ ý niệm phân biệt
đối đãi, phàm ý niệm đối đãi không diễn đạt được chỗ cứu kính cùng tột. Vì vậy,
khi muốn chỉ cái cứu kính tột cùng thì các Thiền sư hoặc hét, hoặc đánh, hoặc
hư hư... Cũng vậy, ở đây Phật tằng hắng, hay khảy móng tay, cốt để cho chúng sanh
thâm nhập cái cứu kính cùng tột đó, chớ không phải gây tiếng động để cho suy
nghĩ. Vì cái cứu kính cùng tột không hình tướng, không giới hạn, nên nói trùm
khắp mười phương, ở đây động thì tất cả nơi đều động, khiến cho mọi chúng sanh
nhận tiếng động đó, mà hướng về để nhận ra cái cứu kính chân thật.
Khi Phật hiện các tướng trên, thì chư thiên báo cho Bồ-tát và
chúng Tỳ-kheo biết là hiện tướng của Phật Thích-ca đang nói pháp ở cõi Ta-bà.
Nên các vị hướng về Ngài tùy hỉ và niệm "Nam-mô Thích-ca Mâu-ni
Phật", đồng thời vói tay rải hoa hương, trân bảo cúng dường Phật. Lúc bấy
giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật. Tới đây chúng
ta thấy lý kinh quá rõ ràng, là khi thể nhập được Tri kiến Phật thì mười phương
đều thông đồng, không có trong không có ngoài, không trên không dưới. Vì không trong
không ngoài, không trên không dưới, trùm khắp tất cả, nơi này thanh tịnh thì
nơi khác cũng thanh tịnh, ở đây không chướng ngại thì nơi khác cũng không
chướng ngại. Nên nói mười phương tức một, một tức mười phương, thông đồng,
không riêng không khác.
CHÁNH VĂN:
4.- Khi đó, Phật bảo đại chúng bậc thượng hạnh Bồ-tát
thảy: "Thần lực của các đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế;
nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp,
vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được.
Nói tóm đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự
tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của Như
Lai đều tuyên bày rõ nói trong kinh này, cho nên các ông sau khi Như Lai diệt
độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời nói mà
tu hành.
Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói,
biên chép, đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc trong vườn,
hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện
đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.
Vì sao? Phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức
Phật ở đây mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đức Phật ở đây mà
chuyển pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập Niết-bàn."
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
5.- Các Phật, đấng cứu thế
Trụ trong thần thông lớn
Vì vui đẹp chúng sanh
Hiện vô lượng thần lực:
Tướng lưỡi đến Phạm thiên
Thân phóng vô số quang
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này.
Tiếng tằng hắng của Phật
Cùng tiếng khảy móng tay
Khắp vang mười phương cõi
Đất đều sáu món động.
Sau khi Phật diệt độ
Người trì được kinh này
Các Phật đều vui mừng
Hiện vô lượng thần lực.
Vì chúc lụy kinh này
Khen ngợi người thọ trì
Ở trong vô lượng kiếp
Vẫn còn chẳng hết được
Công đức của người đó
Vô biên vô cùng tận
Như mười phương hư không
Chẳng thể được ngằn mé.
Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và các Phật phân thân.
Lại thấy ta ngày nay
Giáo hóa các Bồ-tát.
Người trì được kinh này
Khiến ta và phân thân
Phật Đa Bảo diệt độ
Tất cả đều vui mừng.
Mười phương Phật hiện tại
Cùng quá khứ vị lai
Cũng thấy cũng cúng dường
Cũng khiến được vui mừng.
Các Phật ngồi đạo tràng
Pháp bí yếu đã được
Người trì đọc kinh này
Chẳng lâu cũng sẽ được.
Người trì được kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh tự và lời lẽ
Ưa nói không cùng tận
Như gió trong hư không
Tất cả không chướng ngại.
Sau khi Như Lai diệt
Biết kinh của Phật nói
Nhân duyên và thứ đệ
Theo nghĩa nói như thật.
Như ánh sáng nhựt nguyệt
Hay trừ các tối tăm
Người đó đi trong đời
Hay dứt tối chúng sanh
Dạy vô lượng Bồ-tát
Rốt ráo trụ Nhứt thừa.
Cho nên người có trí
Nghe công đức lợi này
Sau khi ta diệt độ
Nên thọ trì kinh này
Người đó ở Phật đạo
Quyết định không có nghi.
GIẢNG:
Tới đây Phật qui kết, mọi thần lực mà Phật hiện, tuy nói là bất
khả tư nghì, song nếu đem vô số thần lực đó mà phó chúc và nói về công đức của
kinh Pháp Hoa, vẫn không nói hết được. Vì kinh Pháp Hoa là cái thể bao hàm tất
cả thần thông diệu dụng. Cho nên tu đừng có ham luyện thần thông, mà phải biết
mình có Tri kiến Phật, quay về sống với Tri kiến Phật, đừng chạy theo ngoại
cảnh, thì được thanh tịnh sáng suốt, phát ra vô số diệu dụng. Đừng kiếm tìm
thần thông, vì thần thông là tướng hư dối không thật, nếu nhập được Thể thì mọi
diệu dụng theo đó mà có, không nhập được Thể mà tập cái Dụng thì đó chỉ là ngọn
ngành tạm thời, không phải cứu kính. Thế nên, người tu phải biết cái nào là gốc
cái nào là ngọn. Nếu cứ lo luyện thần thông mà bỏ quên cái Thể, đó là tu theo
ngọn mất gốc. Người tu Phật chân chánh là thể nhập Bản thể, lấy Bản thể làm
chánh, rồi mọi thần thông diệu dụng từ Bản thể mà phát ra. Thế nên cái dụng
không thể diễn đạt Bản thể.
Sau nữa, Phật nói kinh Pháp Hoa ở đâu, thì ở đó nên dựng tháp cúng dường. Gần đây chúng ta thấy quí vị in một lần đến năm bảy ngàn bộ, như vậy làm sao dựng đủ tháp để thờ? Đó là chúng ta chỉ biết kinh Pháp Hoa bằng văn tự chớ không phải kinh Pháp Hoa vô tự chỉ cho Tri kiến Phật. Ở đâu mà có người ngộ được Tri kiến Phật thì chỗ đó có Phật hiện, chỗ đó đáng cho chúng sanh dựng tháp cúng dường. Vì vậy nên Phật nói kinh Pháp Hoa ở chỗ nào, thì chỗ đó là đạo tràng, là chỗ chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn cũng ở chỗ đó.