MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA) Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo) Tỳ kheo GiớiĐức hiệu đính, ấn bản 2003
TIỂU SỬHÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA)
(1921 - 1984)
Nguyên:
- Tăng ThốngGiáo HộiTăng GiàPhật Giáo Nguyên Thủy
(Theravàda) Việt Nam.
- Thành viên Hội ĐồngChứng MinhGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
- Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
- Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
Hòa thượng Giới Nghiêm (Thitasìlamahathera), thế danh Nguyễn Đình Trấn, sinh
ngày 5/5/1921 tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thốngđạo đứclâu đời, tại một quê
hương nghèo khổ, nhưng lại phát tích rất nhiều tu sĩ và cao tăng thuộc cả hai
truyền thừa Nam Bắc tôn. Chỉ riêng trong gia đình, bác của Ngài - Hòa thượng
Thích Phước Duyên - và chú của Ngài đều là bậc xuất gia. Còn vị thân sinh - Hòa
thượng Thích Quang Diệu (Nguyễn Đình Tải) - sau nửa cuộc đờilập gia đình với
mẹ của Ngài là cụ bà Huỳnh Thị Thành, cũng xuất gia, sống đời phạm hạnh.
Lớn lên trong truyền thốnggia đình như vậy, nên năm chín tuổi, Ngài đã tìm đến
một ngôi chùa hẻo lánh, nổi tiếng nhiều thú dữ, ma thiêng nước độc, thuộc địa
phận làng Bãng Lãng, để tu học. Ngài thọ giới Sa-di ở đây.
Đến năm 1940, vì quê nhà chiến tranh loạn lạc, sự tu hành bị trở ngại, Ngài đã
vào Đà Nẵng, xin ở chùa Phổ Đà, sau đó thọ Đại Giới đànTỳ kheo, thuộc hệ phái
Bắc truyền.
Bấy giờ, Phật giáoNam tông
(Theravàda) bắt đầu du nhập vào Việt Nam, nhờ vậy Ngài có cơ hội nghiên
cứugiáo lý Nguyên Thủy. Vốn tâm cơ linh mẫn, bén nhạy, và do túc duyên của
nhiều đời nhiều kiếp, Ngài cảm thấy đây mới thật đúng là Chánh Pháp, là giáo lý
chơn truyền chưa hề bị pha trộn, xen tạp các tư tưởng của các đạo giáo khác.
Duyên may đã đến. Năm 1944, Ngài được thiện hữutrí thứcgiới thiệu và giúp đỡ
sang du học tại Phnôm-pênh, Campuchia. Năm 1947, Hòa thượng Niếp-Tích truyền
giới Tỳ-kheo (Bhikkhu) theo truyền thốngPhật GiáoNam Tông (Theravàda) cho
Ngài. Ngài lại còn được kỳ duyên học đạo với Đức Vua Sãi Campuchia, là Trưởng
lãoHòa thượng Chuon-Natch.
Do nhu cầu trí tuệ, hiếu học, hiếu tu; từ Campuchia, Ngài tiếp tục sang Thái
Lan và Miến Điện để tầm sư học đạo. Rời Pháp học, Ngài quay sang Pháp hành; và
ở tại Miến Điện, Ngài được học Thiền Tứ-niệm-xứ với Hòa thượngThiền sư Mahasì
Sayàdaw.
Thế là sau hơn mười năm bôn ba xứ người tầm cầu Chánh Pháp, Ngài hồi hương với
chí nguyện, mang giáo lý nguyên thủy rất cũ xưa mà cũng rất mới mẻ về Việt Nam
để quảng bá, hoằng truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp tín đồ.
Tại Sài Gòn - Gia Định, năm 1957, Ngài cùng với các vị trưởng lãocao tăng,
thạc đức khác, như: hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Bửu Chơn, hòa thượng Thiện
Luật, hòa thượngTối Thắng, hòa thượngGiác Quang, hòa thượngKim Quang, pháp
sư Thông-Kham vận độngthành lậpGiáo hộiTăng giàPhật giáo Nguyên thủy (Theravàda)
Việt Nam.
Năm 1963, trong lúc tranh đấu chống chế độ độc tàigia đình trị của Ngô triều,
Ngài bị bắt ở Sơn Trà - Đà Nẵng. Sau khi gia đình họ Ngô sụp đổ, Ngài được bầu
làm Tăng thốngGiáo hộiTăng giàNguyên thủyViệt Namliên tiếp trong bốn nhiệm
ky, từ năm 1964 đến năm 1974.
Năm 1966, Hòa thượng phát động phong trào chống chế độ lao tù tại các nhà giam
Mỹ Thị, Đà Nẵng và Gành Ráng, Qui Nhơn.
Năm 1975, Ngài tham gia vào Ban liên lạcPhật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí
Minh, giữ chức vụ Phó chủ tịch.
Năm 1979, Ngài tái đắc cử Tăng thốngGiáo hộiTăng giàNguyên thủy Việt Nam.
Cũng trong năm này, Ngài được thỉnh tham giaphái đoàn cấp lãnh đạoPhật giáo
Nguyên thủyViệt Nam, đi Campuchia để làm thầy tế độ cho các sư sãi ở quốc độ này,
đã bị Pôn-Pốt, lêng-Xê-ri bắt hoàn tục. Từ đó, Phật Giáo Campuchia được hồi
sinh và thắt chặt tình đoàn kết Việt Nam - Campuchia.
Năm 1980, Ban vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ngài tham gia
vào tổ chức này với tư cách là Phó trưởng ban.
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra
đời, thống nhất Phật giáo Nam - Bắc, thống nhất các hệ phái; Ngài được thỉnh
vào Hội đồngChứng minh và được đề cử làm Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội
Phật giáo Việt Nam.
Ngoài ra, Ngài còn tham dự nhiều Hội nghị Quốc tế về Phật giáo, đặc biệt là Hội
nghịkết tậpTam Tạng lần thứ sáu tại Rangoon, thủ đô nước Mianma.
Trong suốt hơn năm mươi năm xuất giahành đạo, hoằng pháp và phục vụxã hội,
Ngài đã để lại cho hậu thế nhiều công đức và nhiều công trìnhPhật sự to lớn.
Ngài đã mở một Phật học viện Sơ cấp tại chùa Tam Bảo, Đà Nẵng. Và tại ngôi Chùa
Tháp tôn nghiêm hùng vĩ này, nhiều khóa thiền đã được khai giảng để hướng dẫn
cho các hành giả là Chư Tăng, Tu Nữ và các hàng Phật tử.
Tại Núi Lớn, Vũng Tàu, Ngài khai sơn một rừng thiền giữa thiên nhiên khoảng
khoát, rợp bóng mát cây xanh, dành cho những hành giảchuyên tu Tứ-niệm-xứ. Nơi
đây gồm có hàng trăm cốc liêu rải rác giữa các sườn đồi, dưới những tàn cổ thụlâu đời; là nơi mà Chư Tăng, Tu Nữ, Phật tửmười phương thường vân tập về vào
mỗi độ an cư để theo học những khóa thiền ba tháng hoặc bảy tháng. Tại Tam Bảothiền viện này, có rất nhiều hành giả đạt kết quả pháp hànhtốt đẹp, khả dĩ làm
hành trang tư lương cho mình suốt cuộc đờitu tập.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, Quận Tân Bình, Ngài mở Phật học việnTrung đẳng tại
chùa Phật Bảo, nơi Ngài làm Viện chủ và tiến sĩThiện Giới làm Giám đốc Phật
học viện. Nơi đây đã đào tạo nhiều Tăng tài cho Hệ phái Nam tông.
Sau năm 1975, Ngài tiếp tục mở nhiều khóa thiền tại chùa Phật Bảo; và thường
haylui tới các chùa để nhắc nhở, khuyến hóa, sách tấn tứ chúngmôn đồtinh tấn
tu niệm.
Về sự nghiệpxây dựng chùa chiền: từ miền Nam đến Cao nguyên, rồi ra miền Trung,
đâu đâu cũng có bàn tay và dấu chân của Ngài trong sứ mạng khai sáng Giáo Pháp
chơn truyền của Đức Từ Phụ.
Ngài đã xây dựng hoặc đứng ra chủ trì xây dựng tất cả mười sáu ngôi chùa sau
đây:
Huế: Định Quang Tự ở Giạ Lê; Tăng Quang Tự ở Gia Hội.
Đà Nẵng: Tam Bảo Tự, tổ đình Phật giáoNam tông miền Trung.
Hội An: Nam
Quang Tự.
Quảng Ngãi: Tăng Bảo Tự.
Quy Nhơn: Huệ Quang Tự ở Qui Nhơn; Phước Quang Tự ở Bình
Định.
Nha Trang: Như Ý Tự.
Phan Thiết: Bình Long Tự.
Đà Lạt: Bửu Sơn Tự; Pháp Quân Tự.
Mỹ Tho: Pháp Bảo Tự.
Biên Hòa: Phước Sơn Tự.
Bà Rịa - Vũng Tàu: Tam BảoThiền Viện.
Thành phố Hồ Chí Minh: Phật Bảo Tự; Diệu Quang Tự (Dành cho
Tu nữ).
Về sự nghiệpphiên dịchkinh điển của Ngài, gồm có:
NHỮNG TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
Hạnh phúc kinh. Tiểu sử Phật Thích Ca.
Giải về kiếp. Thiền TứNiệm Xứ.
Giải về bạn.
Mi Tiên Vấn Đáp (Quyển I, II, III)
SẮP XUẤT BẢN:
Pháp Đoàn kết. Giải thoát giáo.
Giải về cõi trời.
Phật bổn sanh.
Giải về lửa. Dạ Xoa hỏi Phật.
Nhà của Tâm.
Vô Ấn Tượng Pháp.
Kinh Ổ Mối. Vi Diệu Phápvấn đáp.
Ba mươi bảy Pháp trợ Bồ-đề. Pháp Sốgiảng giải. Vi Diệu Phápvắn tắt. Tam Tạng, quyển 1, 2, 3, 4. Tam Tạng, quyển 40, 41.
Ngoài những sự nghiệp vĩ đại ấy, Ngài lại còn có số đệ tửxuất gia đông đảo
nhất của Phật giáoNam
tông. Một số du học ở nước ngoài, đã thành tài, đã trở nên cao tăng, danh tăng
đang hoằng pháp ở Mỹ và ở Pháp, như Hòa thượngTiến sĩPháp Nhẫn, Thượng tọaTịnh Đức, Thượng tọa Chơn Trí, Thượng tọaĐức Minh v.v... Ở trong nước hiện
nay, nhiều đệ tử do Ngài tế độ hoặc hướng dẫn đã trở nên những bậc trưởng lão
cho tứ chúngy chỉ, hoặc đạo cao đức trọng, hoặc tài đứcuyên thâm, hoặc thâm
niên cao hạ... như Hòa thượng Hộ Nhẫn ở Huế, cố Hòa thượng Pháp Tri ở Sài Gòn,
Thượng tọaViên Minh ở Bửu Long, Thượng tọaTâm Hỷ, Thượng tọa Hộ Chơn v.v...
Như vậy, cuộc đời Ngài đi qua trần gian không dài, nhưng đã làm việc hết sức
mình cho chánh pháp, cho xã hội, cho môn đồ.
Năm 1984, đến khi lâm trọng bệnh, mặc dù đã được hội đồng y - bác sĩ bệnh viện
Chợ Rẫy hết sức cứu chữa cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Giáo hội, của các cấp
chính quyền, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Ngài đã an nhiênthị tịch
lúc 10h30' ngày 13 tháng 7 năm Giáp Tý, tức ngày 9/8/1984 tại chùa Phật Bảo,
hưởng thọ 63 tuổi.
Hàng năm, vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, toàn thể Tăng tín đồPhật giáoNam tông và
Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm lễ tưởng niệm cố Hòa thượng, một vị trưởng lãosáng lập Hệ phái Tăng giàNguyên thủyViệt Nam, một thiền sưđạo hạnhnghiêm
minh, một bậc thầy từ hòa khả kính, một cao tăng nhiệt tình trong hàng Giáo
phẩm tôn túc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trước sự mất mát to lớn ấy, các hàng đệ tử đã đóng góp tịnh tài và công sức xây
dựng ngôi Bảo tháp tại chùa Phật Bảo, tôn trí di cốt của Ngài để tưởng niệm
công đức và thể hiện hạnh tri ân, quanh năm trầm hoa kính viếng, chiêm bái,
phụng thờ.
Dẫu Ngài đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng bóng mát của tàn đại thụ mãi còn che phủ
các ngôi già -lam, nơi Ngài đã dày côngkiến tạo và giáo huấnmôn đồ suốt một
đời không mệt mỏi.
Cầu nguyện cho công hạnh ba-la-mật của Ngài sớm được tựu thành viên mãn.
Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm sự kiện đản sinh, thành đạo và nhập diệt của Đức Phật. Năm ngoái là dấu mốc đầu tiên Đại lễ Vesak được đưa vào để tổ chức tại Nhà Trắng khi các đại diện từ ba truyền thống Phật giáo lớn tề tựu cùng nhau để thắp nến và cầu nguyện nhân ngày lễ đặc biệt này.
Một buổi nhạc Thiền trang nghiêm, cảm động đã thực hiện hoàn mãn hôm Chủ Nhật 15/5/2022 tại Tu Viện Đại Bi, Garden Grove, California. Nội dung buổi nhạc Thiền là để Tưởng nhớ Thầy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong dịp tròn 100 ngày viên tịch của Thầy. Và cũng trùng hợp: hôm Chủ Nhật cũng là ngày Lễ Phật Đản.
Kharkov là một trong những nơi bị oanh tạc khốc liệt trong cuộc chiến xâm lăng Ukraine những ngày qua. Tuy nhiên Nga đã bác đề xuất thiết lập hành lang nhân đạo tại Kharkov (và cả Sumy).
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.