LUẬN KHỞI TÍN
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần 05
Ghi Chú
Ghi Chú
(1)
Là bác sĩ Lê đình
Thám, vốn là bậc thầy của tôi. Bản dịch giải của bác sĩ được chính bác sĩ giải
thích theo luận Thích ma ha diễn. Bản này chưa in.
Ghi Chú (2)
Nhan đề The
Awakening of Faith, do Timothy Richard dịch.
Ghi Chú (3)
Hai bản này chứng
tỏ có 1 nguyên bản Phạn văn, vì nhiều chỗ rõ ràng bản sau không đồng ý với cách
hiểu của bản trước.
Ghi Chú (4)
Vạn 71/391B của
đại sư Pháp tạng, Vạn 72/38B của đại sư Đức thanh, Chính 45/6 của đại sư Cát
tạng, Chính 50/189 của ngài Chân đế, Chính 50/183 của ngài La thập, Chính
50/314-317 của Phú pháp nhân duyên, Phật học nghiên cứu bài 14 và 16 của Lương
Khải Siêu.
Ghi Chú (5)
Vị này, ngài Huyền
tráng ghi trong Tây vức ký rằng cùng hoàng đế Ca nị sắc ca tổ chức kiết tập Đại
tỳ bà sa (Phật học nghiên cứu bài 14 dẫn).
Ghi Chú (6)
và
Ghi Chú (7)
Chính xác nhất thì
phải nói là duy nghiệp, dầu duy nghiệp là một cách nói để nói duy tâm.
Ghi Chú (8)
Tài liệu để viết
đoạn này, đặc biệt phải ghi là Chính 41/1 của đại sư Khuy cơ, Chính 45/8 của
đại sư Cát tạng, Chính 50/250 của ngài Huyền tráng, Chính 50/307 của Phú pháp
nhân duyên, Chính 25/30, 32 và 34 của Công đức luận, Chính 49/1-4 của Ca diếp
kiết kinh, Chính 49/15 của Dị tông luận, Phật học nghiên cứu các bài 3, 11, 12,
14 và 16, của Lương Khải Siêu, quí và đáng khen là Nguyên thỉ Phật giáo thánh
điển chi tập thành của Ấn thuận.
Ghi Chú (9)
Tiêu chuẩn chọn
lấy và lựa bỏ rõ ràng là quả vị La hán, tạng Paly cho thấy rõ như vậy.
Ghi Chú (10)
Có thể còn lựa bỏ
phần lớn Tạp tạng (bản sinh, nói Bồ tát hạnh của Phật). Tạp tạng văn nhiều hơn
3 tạng (Công đức luận, Chính 25/32).
Ghi Chú (11)
Đại sĩ tạng (Bồ
tát tạng) nói Phật là Phật, không phải cũng chỉ là 1 vị La hán.
Ghi Chú (12)
Ví dụ Tăng nhất a
hàm vốn có 100 sự, ngài A nan truyền cho ngài Ưu đa la. Mười hai năm sau ngày
được tụng ra (trong kiết tập 1, do ngài Ca diếp chủ trì) thì ngài A nan nhập
diệt. Bấy giờ chư tỷ kheo chỉ thích tu thiền định, không ưa học thuộc lòng, sau
đó ngài Ưu đa la cũng nhập diệt, do vậy mà kinh này mất 90 sự. Thầy trò truyền
cho nhau là khẩu truyền, không cho chép ra văn bản, nên bấy giờ khẩu truyền chỉ
còn 11 sự; riêng của Thuyết hữu bộ không có tự văn và sự 11. Đệ tử ngài Ưu đa
la là ngài Thiện giác, do thầy khẩu truyền mà học thuộc lòng kinh này, được 11
sự thì ngài Ưu đa la nhập diệt. Nay 3 tạng hiện hành toàn là của ngài Thiện
giác khẩu truyền (Công đức luận, Chính 25/34). Ngài Thương na hòa tu (đệ tử của
ngài A nan) nói với đệ tử của mình là ngài Ưu ba cúc đa (thầy của A dục vương):
77.000 (bài tụng) về bản sinh, 10.000 (bài tụng) về luận tạng, 80.000 (bài
tụng) về luật tạng, các pháp như vậy ta nhập diệt thì cũng diệt theo ta (Phú
pháp nhân duyên, Chính 50/304).
Ghi Chú (13)
Dị tông luận có 2
vị cùng tên Đại thiên. Thế hữu bồ tát, tác giả Dị tông luận, đối với vị trước
thì không nói gì, đối với vị sau thì nói là đa văn tinh tiến (Chính 49/15).
Công đức luận cũng nói chỉ có ngài Đại thiên là bậc đại sĩ (Chính 25/32). Đại
tỳ bà sa (cuốn 99) phản tuyên truyền ngài Đại thiên là đại ác, chỉ phản chứng
ngài là vị rất quan trọng trong việc đề cao đại thừa (nghĩa là chống Thượng tọa
bộ).
Ghi Chú (14)
Thường nói 5 sự
của ngài Đại thiên đưa ra là nguyên nhân phân chia ra các bộ phái Phật giáo.
Xét ra không hoàn toàn đúng như vậy. Rõ ràng 5 sự là nói sự bất toàn của quả vị
La hán: vấn đề nghiêm trọng là ở đó. Còn nguyên nhân phân chia bộ phái thì
chính là cái cách triệu tập kiết tập 1 của ngài Ca diếp. Sau đó, phát triển thì
phân hóa, thông lệ mọi tư tưởng sử là như vậy. Ngoài ra cũng phải nói đến ảnh
hưởng của sự thống nhất toàn Ấn của A dục vương và sự xâm nhập đất Ấn của đại
đế A lịch sơn đại.
Ghi Chú (15)
May mắn là 3 tạng
chép bằng ngữ văn Paly này được con (hay em) của A dục vương mang đến Tích lan,
nên còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Ghi Chú (16)
Như vậy ngữ văn
Paly cũng chỉ là 1 trong những ngữ văn địa phương, không phải là ngôn ngữ của
Phật như ngài Giác âm (hay Phật âm) giải thích, không nhiều thì ít, bắt chước
ngoại đạo bảo ngữ văn Chanda (Chandaso: Phạn ngữ) là ngôn ngữ của Phạn
thiên.
Ghi Chú (17)
Trước ngài Mã minh
có ngài Na tiên. Na tiên là gọi tắt Na dà tê na, dịch ý là Long quân, là 1
trong 16 vị Đại la hán, thầy của Di lan đà vương (người Hy lạp, thời đại ở giữa
A dục vương và Ca nị sắc ca vương). Na tiên tỷ kheo kinh của ngài tuy là giáo
lý tiểu thừa, nhưng ngài còn có Tam thân luận, nay mất, nhưng từ sự thuật lại
của các đại sư Khuy cơ và Viên trắc, có thể đoán định ngài là người đã học lý
hóa đại thừa (Phật học nghiên cứu, bài 16). Tôi cho rằng có thế đi nữa thì ngài
Na tiên cũng chỉ là vị mở đầu nói đến học lý đại thừa mà thôi.
Ghi Chú (18)
Làm thì hơn hết,
làm, chính văn là nghiệp, có nghĩa là việc làm, động tác, hành vi.
Ghi Chú (19)
Thân thì vô hạn,
dịch sát và đủ là sắc thân thì vô ngại tự tại. Vô hạn là thân Phật thì biểu
hiện đủ cả và khắp cả.
Ghi Chú (20)
Biển pháp tánh
chân như phi ngã. Pháp tánh là bản thể của các pháp; bản thể ấy là chân như,
sâu rộng như biển cả, có đủ vô lượng phẩm chất tốt đẹp, nên gọi là biển pháp
tánh chân như. Còn phi ngã là lấy Đường dịch mà bổ túc; Đường dịch: vô ngã cú
nghĩa pháp (pháp tánh chân như phi ngã). Chữ phi ngã ở đây rất quan trọng, vì
pháp tánh chân như thì không phải biến dạng của khái niệm bản ngã dưới bất cứ
dạng thức nào. Biển pháp tánh chân như phi ngã là bản thể của thân Phật, là bản
thân của Phật.
Ghi Chú (21)
Tu tập chính xác,
chính xác, chính văn là như thật, dịch sát là đúng như sự thật.
Ghi Chú (22)
Kho tàng công đức,
công đức là phẩm chất, thuộc tính, đặc tính, thành quả tốt đẹp.
Ghi Chú (23)
Pháp là thể tướng
... của Pháp nói trên, 8 câu này căn cứ Đường dịch mà phân câu và dịch. Dịch
như vậy hơn phân câu và dịch như sau: Pháp là thể tướng của chính thân Phật,
thể là biển cả Pháp tánh chân như, tướng là kho tàng vô lượng công đức. Tăng là
các vị tu tập một cách đúng như sự thật của Pháp nói trên.
Ghi Chú (24)
Đức tin, chính văn
là chánh tín, dịch sát và đủ là tin một cách chính xác.
Ghi Chú (25)
Đại thừa: cỗ xe vĩ
đại.
Ghi Chú (26)
Đức tin đại thừa,
đức tin ở đây chính văn là tín căn, 1 trong 5 căn (5 thiện căn: 5 điều lành căn
bản, là tín, tiến, niệm, định, tuệ). Thường nói thiện căn, hay nói các căn lanh
chậm, căn ấy là 5 căn này.
Ghi Chú (27)
Cách tu, dịch sát
và đủ là chỉ cách tu tập đức tin đại thừa.
Ghi Chú (28)
Khuyên tu, dịch
sát và đủ là khuyên tu tập bằng cách chỉ lợi ích.
Ghi Chú (29)
Khéo giữ tâm trí,
Đường dịch: thuần hóa tâm mình.
Ghi Chú (30)
Bao sự tác hại,
tác hại, chính văn là tà võng, là như chính văn c4 nói rõ: quỉ quái gây rối,
việc đời bận rộn, bịnh tật hành hạ.
Ghi Chú (31)
Lầm lỗi của tâm
trí người thường và nhị thừa. Nhị thừa: thường chỉ cho Thanh văn và Duyên giác,
nhưng có lúc chỉ cho Thanh văn mà thôi. Các vị Thanh văn là cấp hai, đối với Bồ
tát là cấp một, nên gọi là nhị thừa. Người thường thì bám víu cuộc đời mà không
làm việc thiện, nhị thừa thì khiếp sợ cuộc đời mà không có đại bi, toàn là những
lầm lỗi cần sửa chữa bằng đại thừa.
Ghi Chú (32)
Thân và tâm đều
siêu việt, nói cách khác là 3 nghiệp thân miệng ý đều hơn hết. Thân tâm hay 3
nghiệp của Phật là biểu tượng của Pháp, nên nhìn vào sắc tướng hay cử động của
ngài, nghe âm thanh hay lời chữ của ngài, thấy ánh sáng hay từ bi của ngài, đều
có thể tiếp nhận và lý giải về Pháp.
Ghi Chú (33)
Âm thanh toàn hảo:
viên âm.
Ghi Chú (34)
Tâm chúng sinh,
nói Tâm không cũng được, chữ Tâm viết hoa, không phải chữ tâm bình thường. Nhưng
nói Tâm chúng sinh thì có nghĩa Tâm ấy đang ở trong lĩnh vực mê, Tâm ấy mới đủ
để biểu thị tất cả thể tướng dụng của Tâm, trong mê cũng như trong ngộ, nơi
Phật đà cũng như nơi chúng ta. Thêm nữa, nói Tâm chúng sinh thì có cái ngữ khí
trực chỉ: đại thừa là gì? là chính cái Tâm của anh đó.
Ghi Chú (35)
Pháp thế gian và
pháp xuất thế: lĩnh vực mê và lĩnh vực ngộ, nhiễm pháp và tịnh pháp (ô nhiễm và
trong sáng).
Ghi Chú (36)
Chân như, sinh
diệt: mặt bất biến, mặt chuyển biến.
Ghi Chú (36b)
Chân như, sinh
diệt: mặt bất biến, mặt chuyển biến.
Ghi Chú (37)
Thể tướng dụng:
thực thể, thể trạng, hoạt dụng. Thể của Tâm được gọi là chân như, tướng của Tâm
được gọi là Như lai tạng, dụng của Tâm được gọi là thiện nhân quả (ác nhân quả
là nghịch dụng, cái dụng thác loạn, nên không được nói đến).
Ghi Chú (38)
Chân như, tạm
dịch: trung thật như thế (vì chân như là bản thể mà không pháp nào, người nào
và lúc nào mà không siêu việt mọi sự khái niệm).
Ghi Chú (39)
Nhất quán bất
biến, chính văn là bình đẳng, bất tăng bất giảm.
Ghi Chú (40)
Như lai tạng, tạm
dịch: kho tàng Như lai, bào thai Như lai (vì sung mãn tánh đức : nên Như lai
tạng chính là nghĩa Có của chân như).
Ghi Chú (41)
Tánh đức: thuộc
tính tốt đẹp mà sẵn có, vốn có.
Ghi Chú (42)
Hết thảy Phật đà
đã vận dụng và hết thảy Bồ tát đang vận dụng cái Tâm như vậy mà đạt đến địa vị
Như lai,câu này cắt nghĩa cái căn bản nghĩa Tâm là đại thừa: Tâm vĩ đại, được
các bậc vĩ đại (đại) vận dụng mà đạt đến địa vị vĩ đại (thừa) nên gọi là
Tâm-đại-thừa.
Ghi Chú (43)
Phân tích sắc thái
phát huy về Tâm, chính văn là phân biệt phát thu đạo tướng, dịch sát và đủ là
phân tích (phân biệt) những sắc thái của Bồ tát (tướng) phát huy mà đi mau đến
(phát thu) tuệ giác của Phật đà (đạo) chứng ngộ về Tâm. Do vậy cũng có thể dịch
tắt là phân tích sắc thái phát tâm.
Ghi Chú (44)
Pháp tánh đồng
nhất, chính văn là nhất pháp giới.
Ghi Chú (45)
Cơ sở của tiết mục
giáo pháp Phật dạy, chính văn là pháp môn thể.
Ghi Chú (46)
Khái niệm vĩ đại
và tổng quát, chính văn là đại tổng tướng.
Ghi Chú (47)
Hết thảy các pháp,
pháp ở đây có thể đổi ra khái niệm, như đại sư Thái hư và học giả Lương Khải
Siêu đã nói.
Ghi Chú (48)
Phân biệt, chính
văn là vọng niệm (hay niệm), ngài Huyền tráng dịch là phân biệt, và có thể thay
bằng chữ khái niệm.
Ghi Chú (49)
Các pháp chỉ do
phân biệt mà có sai biệt, đối chiếu với chính văn nói về không của chân như
dưới đây, biết câu này có nghĩa là do phân biệt mà có những phạm trù đối kháng
nhau.
Ghi Chú (50)
Gọi là chân như
thì cũng không phải là một đối tượng: nói chân như thì không phải là đối tượng
hóa chân như.
Ghi Chú (51)
Phi phạm trù đối
kháng nhau, siêu phân biệt không chính xác, những phạm trù phân biệt ấy là như
chính văn nói tiếp theo câu này.
Ghi Chú (52)
Khẳng định, phủ
định, dịch sát là có, không.
Ghi Chú (53)
Đồng nhất, biệt
lập, dịch sát là một, khác.
Ghi Chú (54)
Do Như lai tạng mà
có tâm sinh diệt. Tâm sinh diệt là a lại da thức. Do Như lai tạng mà có a lại
da thức là như nói do cánh tay chỉ lên mà có cánh tay chỉ xuống. Như đã nói,
Như lai tạng là thực thể sung mãn tánh đức; thực thể ấy như cánh tay có khă
năng chỉ lên, nhưng khi chưa chỉ lên mà đang chỉ xuống thì đó là cánh tay chỉ
lên mà đang chỉ xuống: như vậy gọi là do Như lai tạng mà có a lại da.
Ghi Chú (55)
Bất diệt và sinh
diệt, do chính văn h2 sau đây mà biết bất diệt với sinh diệt ở đây nên hiểu là
tịnh pháp (vô thỉ mà vô chung: sinh diệt mà không đoạn diệt) và nhiễm pháp (vô
thỉ mà hữu chung: sinh diệt mà đoạn diệt). Hiểu như vậy, hoặc hiểu như Thích ma
ha diễn luận nói là vô vi với hữu vi, hơn là hiểu như thường hay nói bản thể
với tướng dụng.
Ghi Chú (56)
A lại da thức:
thức Không mất. Thức ở đây là căn bản của các thức, hơn là một trong các thức.
A lại da thức là căn bản y - là căn bản mà từ đó các pháp nhiễm tịnh được bao
quát và phát sinh, nên gọi là Không mất.
Ghi Chú (57)
Các pháp: ở đây
vẫn là các pháp tịnh nhiễm (tuệ giác và bất giác).
Ghi Chú (58)
Pháp thân, ở đây,
như chính văn đã nói: Tâm thể tách rời phân biệt ấy chính là pháp tánh..., là
pháp thân... Chính pháp thân này được gọi là tuệ giác vốn có. Lời này cho thấy
vì sao thân Phật được gọi là pháp thân (hay trí thân). Tuệ giác của Phật mà ví
như đèn đuốc to lớn chiếu soi vạn vật thì thật không bằng ví như khối thủy tinh
trong suốt vạn vật ảnh hiện đủ cả. Cái khối trong suốt ấy là tâm thể bản giác,
với những tên gọi khác nữa là pháp tánh, là pháp thân. Ý nghĩa ở đây là như
vậy. Vậy pháp thân có nghĩa là Phật lấy tâm thể bản giác làm thân, và pháp thân
ấy cũng gọi là trí thân.
Ghi Chú (59)
Do tuệ giác mà có
bất giác, nói giản dị thì do chính cái khả năng biết (tuệ giác) mà có cái biết,
nhưng biết mà biết sai thì gọi là bất giác (vô minh).
Ghi Chú (60)
Chế ngự phân biệt
sau không cho nổi lên là trạng thái hủy diệt (diệt tướng). Phân biệt bị chế ngự
đó là phiền não.
Ghi Chú (61)
Phân biệt mâu
thuẫn với tâm thể là trạng thái dị biệt (dị tướng). Phân biệt này là các phạm
trù mà căn bản là ngã chấp.
Ghi Chú (62)
Phân biệt bám trụ
tâm thể là trạng thái tồn tại (trụ tướng). Phân biệt này là đối tượng hóa mà
nắm lấy tâm thể.
Ghi Chú (63)
Thích ứng tối hậu
nên giác ngộ khởi điểm nơi tâm thể là trạng thái phát sinh (sinh tướng). Phân
biệt này được giả thiết là phân biệt khởi điểm, thấy được khi tách rời phân
biệt.
Ghi Chú (64)
Tâm thể vĩnh viễn
trong sáng là như Phật đã ví dụ ở chỗ khác: vàng đã lọc hết quặng thì vĩnh viễn
là vàng ròng.
Ghi Chú (65)
Nói khởi điểm thì
chính là sự không còn phân biệt: sự tách rời phân biệt cho thấy chính cái phân
biệt cuối cùng là khởi điểm, chứ không có khởi điểm nào cả.
Ghi Chú (66)
Phát sinh, tồn
tại, dị biệt và hủy diệt là 4 trạng thái sinh trụ dị diệt của bất giác mà được
thỉ giác đối trị.
Ghi Chú (67)
Sức mạnh của Pháp,
Pháp ở đây là chân như và giáo pháp xuất từ chân như.
Ghi Chú (68)
Thức hóa hợp là a
lại da thức -- là sự hóa hợp với nhiễm pháp của thức ấy.
Ghi Chú (69)
Tâm liên tục là
nhiễm pháp của a lại da thức, nói cách khác là ý và ý thức sẽ nói ở 12.
Ghi Chú (70)
Tâm dụng (hay tâm
tướng) là nhiễm pháp nói trên; đó là nghịch dụng của Tâm, vô thỉ nhưng hữu
chung.
Ghi Chú (71)
Công đức ở đây là
phẩm chất và thành quả do tu hành mà phát huy và thu đạt.
Ghi Chú (72)
Nhân tố huân tập
và (72A) Duyên tố huân tập, huân tập nghĩa đen là xông ướp cho ăn nhập vào. Đó
là chữ ví dụ (như áo xông hương gì, dầu ướp hoa nào, thì áo và dầu có hơi của
hương và hoa ấy) để nói sự tác động và hỗ trợ mà ở đây là của tuệ giác và của
Phật đối với tâm thức chúng sinh. Sự huân tập có yếu tố chính và yếu tố phụ;
yếu tố chính là phần tác động (gọi là Nhân tố huân tập), còn yếu tố phụ là phần
hỗ trợ (gọi là Duyên tố huân tập) -- 2 chữ tác động và hỗ trợ là dịch sự huân
tập của nhân tố và duyên tố.
Ghi Chú
(72A)
Nhân tố huân tập
và (72A) Duyên tố huân tập, huân tập nghĩa đen là xông ướp cho ăn nhập vào. Đó
là chữ ví dụ (như áo xông hương gì, dầu ướp hoa nào, thì áo và dầu có hơi của
hương và hoa ấy) để nói sự tác động và hỗ trợ mà ở đây là của tuệ giác và của
Phật đối với tâm thức chúng sinh. Sự huân tập có yếu tố chính và yếu tố phụ;
yếu tố chính là phần tác động (gọi là Nhân tố huân tập), còn yếu tố phụ là phần
hỗ trợ (gọi là Duyên tố huân tập) --2 chữ tác động và hỗ trợ là dịch sự huân
tập của nhân tố và duyên tố.
Ghi Chú (73)
Phiền não chướng
và sở tri chướng. Phiền não chướng chính là những tâm lý xấu và ác, làm chướng
ngại cho giải thoát niết bàn. Sở tri chướng cũng gọi là trí chướng. Sở tri là
các pháp, đối với các pháp ấy mà không biết được là vì ngu si, nên gọi ngu si
là sở tri chướng. Nhưng không biết hay biết sai thì bị gọi là ngu si, mà biết
chưa hoàn toàn lại tự mãn đã đủ, thì chính sự tự mãn ấy cũng chướng ngại cho sự
toàn giác, nên cũng gọi là sở tri chướng, và vì vậy mà sở tri chướng cũng gọi
là trí chướng (trí ở đây là trí biết chưa hoàn toàn). Sở tri chướng, như vậy,
là chướng ngại cho tuệ giác bồ đề.
Ghi Chú (74)
Vì có phương hướng
mới có sự lạc đường, như vì phía mặt trời mọc là hướng đông nên đi về hướng tây
là lạc đường.
Ghi Chú (75)
Do sự phân biệt
của bất giác có cái khả năng biết danh từ và ý nghĩa, nên được nói cho về tuệ
giác. Câu này rất quan trọng. Chủ trương ý thức là khả năng văn tư tu chánh
pháp, nói rõ rệt như Nhiếp luận và luận Chỉ quán, là do câu này.
Ghi Chú (76)
Do sự phân biệt
... có thể nói đến. Trọn câu này Đường dịch gọn hơn, dầu không đủ ý bằng, như
sau "nên đối với bất giác mà nói tuệ giác, không bất giác thì tuệ giác cũng
không".
Ghi Chú (77)
Tâm, ý, ý thức
(hay tâm ý thức) ở đây cũng chỉ các thức thứ 8, thứ 7 và thứ 6.
Ghi Chú (78)
Ba, tên là hiện
thức ..., lúc nào cũng tự chuyển động liên tục, câu này có nghĩa là hằng thẩm
tư lương ngã tướng tùy. Thức thứ 7 có luôn, không cần chú ý, khêu gợi. Thức ấy
là sự tự ý thức về tự ngã, tự ngã là đối tượng thường trực của nó, là chính nó.
Do đó mà tất cả tâm thức đều là phản ảnh tự ngã ấy: đều thành ô nhiễm.
Ghi Chú (79)
Bốn, tên là phân
biệt thức, là phân biệt cái đáng ghét cái đáng ưa, phân biệt, chính văn là trí,
cái đáng ghét cái đáng ưa, chính văn là nhiễm tịnh. Cả 2 chính văn này đều
không chỉnh nên phải chuyển dịch. Chuyển dịch như đã dịch thì có nghĩa câu này
nói về ngã ái của thức thứ 7. Vì ngã ái nên thấy cái này đáng ưa vì hợp với
ngã, cái kia đáng ghét vì trái với ngã. Ưa ghét này dẫn đến chiếm đoạt hay
chống cự, nghĩa là ái dẫn ra thủ.
Ghi Chú (80)
Mọi sự phân biệt,
ở đây chính yếu là phân biệt tâm vật, tự tha, v/v.
Ghi Chú (81)
Ý thức: thức của
ý.
Ghi Chú (82)
Phân ly thức: thức
thứ 6 mà phần chính là ngũ câu ý thức (ý thức đi đôi với 5 thức trước), nên
ngoài ý căn còn 5 căn trước nữa: cái thức có từ 6 căn khác nhau, gọi là phân ly
thức.
Ghi Chú (83)
Phân biệt sự thức:
cái thức nhận thức mọi sự: cả 6 đối cảnh.
Ghi Chú (84)
Kiến và ái: kiến
là tất cả kiến thức sai lầm (mà phần chính là ngã kiến), ái là tất cả phiền não
xấu ác (mà phần chính là ngã ái).
Ghi Chú (85)
Nhiễm tâm ở đây
chỉ cho 3 tế 6 thô mà lược lại thành 6 nhiễm tâm.
Ghi Chú (86)
Bồ tát từ khi sự
tin hoàn hảo, sự tin hoàn hảo, dịch đủ là phát huy tâm thể bằng sự tin hoàn hảo
(gọi tắt là phát tâm bằng sự tin); địa vị của các vị Bồ tát này là hết tín thứ
10, nghĩa là vào trú thứ 1.
Ghi Chú (87)
Địa vị Bồ tát sự
tin hoàn hảo: hết tín thứ 10.
Ghi Chú (88)
Địa vị Bồ tát tuệ
giác trong suốt: địa thứ 1.
Ghi Chú (89)
Địa vị Bồ tát giới
pháp hoàn hảo: địa thứ 2.
Ghi Chú (90)
Địa vị Bồ tát
phương tiện vô tướng: địa thứ 7.
Ghi Chú (91)
Địa vị Bồ tát tự
tại với cảnh: địa thứ 8.
Ghi Chú (92)
Địa vị Bồ tát tự
tại với tâm: địa thứ 9.
Ghi Chú (93)
Địa vị Bồ tát tận
cùng địa vị: địa thứ 10.
Ghi Chú (94)
Có thích ứng ...
cũng bất đồng. Có thích ứng (tương ưng) là loại nhiễm tâm dễ thấy; khi tâm dơ
bẩn thì nó có, khi tâm trong sáng thì nó không. Không thích ứng (bất tương ưng)
là loại nhiễm tâm khó thấy; tâm dơ bẩn, trong sáng hay trung tính, khi nào nó
cũng có và làm dơ bẩn cả. Loại sau chính là bất cọng vô minh của Nhiếp
luận.
Ghi Chú (95)
Nhiễm tâm thì gọi
là phiền não chướng..., nhiễm tâm thì năng kiến, năng hiện, cố thủ đối cảnh...
; còn bất giác thì gọi là sở tri chướng... Câu này cho thấy năng động (động
thức) là bất giác, là nhiễm tâm căn bản. Cái trí căn bản là trí hội nhập chân
như : như lý trí biết như sở hữu tánh, nói cách khác là đại niết bàn. Cái trí
sự dụng là trí toàn giác vạn hữu: như lượng trí biết tận sở hữu tánh, nói cách
khác là đại bồ đề.
Ghi Chú (96)
Vì bất giác mà
vọng động, vọng động ở đây là nhiễm tâm, tức 3 tế 6 thô của bất giác mà đã lược
thành 6 nhiễm tâm.
Ghi Chú (97)
Tâm tướng diệt,
tâm tướng ở đây là nhiễm tâm, cũng gọi là tâm dụng.
Ghi Chú (98)
Cái khổ sinh diệt,
sinh diệt, có bản chép sinh tử: sai. Cái khổ sinh diệt, sau này hay gọi là biến
dịch sinh tử.