ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích
Thiện Siêu
Học viện Phật
giáo Việt
II. PHẨM PHÂN BIỆT CĂN
Phẩm
này gồm 47 bài tụng, chia làm bốn đoạn chính:
1) 22 căn.
2) Các pháp
câu sanh.
3) Tánh
cách câu sanh.
4) 6 nhơn,
4 duyên và 5 quả.
Đoạn 1 - 22 căn:
Các pháp hữu vi
có thế, có dụng. Phẩm Giới nói về thể, Phẩm này nói về dụng. Cái tác dụng mạnh
mẽ, rõ rệt nhất của các pháp nhiễm tịnh là 22 căn, nên căn được nêu làm tên
phẩm, và được nói đến trước tiên. (Luận Chính Lý gọi là phẩm Sai biệt,
Luận Tạp Tâm gọi là phẩm Hành).
22 căn là: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân (cơ năng phát thức), nam căn, nữ căn (sự sai biệt hữu
tình, tướng mạo), mạng căn (khả năng tồn tục của một chúng sanh), ưu, hỷ, khổ,
lạc, xả (thuộc pháp ô nhiễm), ý căn (khả năng tiếp nối sanh tử tự tại tùy
hành), tín, tấn, niệm, định, huệ (năm căn thanh tịnh), vị tri đương tri, dĩ
tri, cụ tri (ba căn vô lậu), 8 căn sau thuộc pháp thanh tịnh.
Con số 22 căn
chính do Phật nói rải rác trong các kinh A-hàm và các đệ tử gom chung lại. Toàn
bộ Phật pháp chỉ thuyết giảng hai mặt mê và ngộ. Mê là sanh tử lưu chuyển. Ngộ là
hoàn diệt Niết-bàn. Luận Chánh Lý nói: "Sanh tử tiếp nối là nghĩa lưu
chuyển, sanh tử chấm dứt là nghĩa hoàn diệt". Về mặt hiện thực lưu
chuyển phải có 14 căn đầu trong 22 căn đó. Về mặt hiện thực hoàn diệt
cần có 8 căn sau trong 22 căn căn đó. Ở đây đặc biệt tìm hiểu 5 căn là mạng
căn, ý căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn và cụ tri căn trong 22 căn đó.
Mạng căn: mạng căn là thể sanh
mạng, thọ mạng của loài hữu tình. Chính nó có công năng kết hợp với khí nóng và
thức (thọ, noãn, thức) tạo thành một hữu tình, sống và bảo trì sự sống vừa thân
và tâm đó trong một thời gian ngắn dài của một đời. Nếu khi ba thứ thọ, noãn,
thức rời nhau thì sự sống cũng chấm dứt. Nói cách khác, đây là nghiệp lực (sức
mạnh của nghiệp) đưa đẩy giống như trái banh lăn xa hay gần là do sức người đá.
Khi sức đá hết thì trái banh phải ngưng lại.
Ý căn: Ý căn cũng tức là tâm
căn, tâm vương, làm chỗ dựa cho sáu thức niệm trước sanh khởi, sáu thức niệm
sau bởi năng lực vô gián diệt của nó. Ý căn có hai khả năng đặc biệt: một là
làm nối tiếp một sinh mạng trong tương lai, hai là tự tại vận hành. Như kinh
Tạp A-hàm 36 nói: "Tâm năng đạo thế gian, tâm năng biến nhiếp thọ".
Tất cả điều tốt xấu lành dữ của thế gian đều do tâm dắt dẫn, tâm làm chủ thâu
nhiếp mọi sự.
Ba căn vô
lậu: Là
vị tri đương tri,dĩ tri, cụ tri, dựa theo ba đạo là kiến đạo, tu đạo, vô học
đạo để kiến lập và lấy 9 căn là ý, hỷ, lạc, xả, tín, tấn, niệm, định, tuệ, làm
thể. Người hành giả khi tiến tu trên đường giải thoát, quán sát lý Tứ đế theo
tiến trình phát khởi16 tâm là 8 nhẫn 8 trí để dứt trừ 88 sử kiến hoặc mà nhập kiến
đạo. Nhưng khi sanh kh?i tâm thứ 15, vẫn chưa biết rõ lý Tứ đế, đợi đến khi tâm
thứ 16 khởi lên mới biết trọn lý Tứ đế và dứt trọn kiến hoặc. Ở tại địa vị này
phát sinh 9 căn như trên gọi là vị tri đương tri căn. Vì kế theo dĩ tri căn ở
tu đạo phải dựa vào đây mới phát khởi ra được. Tiếp giai đoạn kiến đạo là giai đoạn
tu đạo, tại đây cũng phải tiếp tục quán lý Tứ đế để dứt hết 81 phẩm tư hoặc .
Khi tu quán để dứt tư hoặc này phát sinh 9 căn như trên gọi là dĩ tri căn, vì nhờ
đây làm căn cứ mới tiến đến cụ tri căn. Ở vô học đạo với 9 căn như trên làm tự
thể. Tiểu Bộ Kinh tập I trang 458 nói: "Vị tri đương tri căn, tri căn,
cụ tri căn", (căn: tôi sẽ biết điều chưa được biết; căn về sự biết; căn
của người đã biết. Căn với nghĩa sức mạnh hoặc phương pháp. Ba căn này liên hệ
đến tương lai, hiện tại, quá khứ. Căn của vị đã biết được đối với bốn sự thật,
đã thành tựu những gì cần phải làm).
Đoạn 2: CÁC PHÁP CÂU SANH
Câu sanh tức
duyên sanh, nhằm phá tà kiến vô nhân sanh, tạo hóa sanh. Các pháp hữu vi (hiện
tượng) không thể đơn độc riêng sanh, mà phải có những pháp khác đồng thời nương
nhau mà phát sanh, nên gọi là câu sanh. Các pháp, trong vũ trụ nhiều vô lượng
không thể kể xiết, nhưng có thể quy hết trong năm loại là sắc, tâm, tâm sở, tâm
bất tương ưng hành và vô vi. Trong năm loại này, trừ vô vi là pháp thường hằng không
biến hóa sanh diệt, không thuộc pháp câu sanh; bốn loại còn lại thuộc pháp hữu
vi nên đều là câu sanh. Vậy, các pháp câu sanh là những pháp gì?
Xem đồ biểu sau:
5 VỊ, |
HỮU VI, 72 |
* SẮC PHÁP, 11 |
5 căn, 5 trần, và vô biểu sắc. |
* TÂM PHÁP, 1 |
6 thức tâm vương. |
||
* TÂM SỞ PHÁP, 46 |
ĐẠI ĐỊA PHÁP, 10: Thọ, tưởng, tư, xúc, dục, huệ, niệm tác ý,
thắng giải, tam ma địa. |
||
* BẤT TƯƠNG ƯNG, 14 |
Đắc, phi đắc, đồng phận, vô tưởng thiền,vô ưởng định, diệt tận định,mạng căn,sanh, trụ, dị,diệt, cú văn thân. |
||
VÔ VI, 3 |
- Hư không. |
|
Biểu đồ phụ: THEO DUY THỨC CÓ 5 VỊ, 100 PHÁP.
5 VỊ, |
HỮU VI, 94 |
* SẮC PHÁP, 11 |
5 căn, 5 trần, pháp xứ sở nhiếp sắc |
|
* TÂM PHÁP,8 |
8 thức tâm vương. |
|
||
* TÂM SỞ PHÁP, 51 |
- Biến hành: Như 10 đại địa pháp của Câu xá |
|
||
- Tùy phiền não, 20 |
- Tiểu tùy, 10: Như 10 tiểu phiền não địa pháp trong Câu-xá.
|
|||
- Bất định 4: Hối, miên, tầm, tứ. |
|
|||
* BẤT TƯƠNG ƯNG, 24: Như Câu-xá trừ phi đắc, thêm dị sanh tánh, lưu chuyển, định dị, tương ưng, thế tấc, thứ đệ, thời, phương, số, hòa hiệp, bất hòa hiệp. |
|
|
||
VÔ VI, 6 |
* Hư không vô vi. |
|
|
Về
sắc và tâm pháp đã giải thích ở phẩm Giới. Đây chỉ nói đến tâm sở, tâm bất
tương ưng hành và tánh cách câu sanh của nó.
1. Tâm sở
pháp: Tâm
thức vô hình, khi đối tiếp cảnh vật khách quan, không những nó thu nhận tướng
chung của các pháp như tác dụng của tâm vương, mà còn thu nhận tướng riêng. Chính
tác dụng chủ quan thu nhận tướng riêng này, nó tùy thuộc tâm vương như bầy tôi
tùy thuộc vua, là sở hữu của vua, nên gọi nó là tâm sở, hay tâm sở hữu pháp.
Loại này gồm 46 thứ chia thành 6 nhóm:
a. Đại địa pháp: 10 thứ
b. Đại thiện
địa pháp: 10 thứ
c. Đại phiền
não địa pháp: 6 thứ
d. Đại bất
thiện địa pháp: 2 thứ
đ. Tiểu phiền
não địa pháp:10 thứ
e. Bất định
địa pháp: 8 thứ
(Chung cả 46 thứ này xem rõ đồ biểu trên)
a. Đại địa pháp: chỉ tâm vương. Tâm vương là mảnh đất mà tâm
sở hiện hành và lưu hành trên đó. Đại, chỉ cho 10 tâm sở thọ, tưởng, tư v.v...
Vì 10 tâm sở này có công dụng rất lớn thông cả ba tâm thiện, ác, vô ký và bất
cứ lúc nào tâm vương sanh khởi thì cũng đều có nó tương ưng khởi theo.
Nói tóm, tâm vương là mảnh đất cho 10 tâm sở thọ, tưởng, v.v...có
công dụng rất lớn nương tựa, hiện hành nên gọi là đại địa pháp.
b. Đại thiện địa pháp: Có hai cách giải thích:
1. 10 tâm sở: tín, bất phóng dật, v.v...chỉ thuộc thiện tánh nên
gọi là thiện.
2. Biến khắp
các thiện tâm. Hễ đã là thiện thì đều có nó, nên gọi là đại. Địa nghĩa như trên.
c. Đại phiền não địa pháp: Vì tánh của 6 tâm sở này thuộc về
ác và hữu phú vô ký (nhiễm ô) hay làm não loạn lòng người, và khắp các tâm
nhiễm ô đều có nó, nên gọi là đại phiền não.
d. Đại bất thiện địa pháp: Vì tánh chất hai tâm sở này
thuộc về ác, và khắp các ác tâm đều có nó, nên gọi là đại bất thiện.
đ. Tiểu phiền não địa pháp: Mười tâm sở này, tánh chất giống
như đại phiền não, đến địa vị tu đạo mới đoạn trừ. Nhưng nó chỉ riêng biệt khởi
lên theo đệ lục ý thức nên gọi là tiểu phiền não.
e. Bất định địa pháp: Tánh chất của tám tâm sở này không thuộc
thiện như đại thiện địa pháp, không nhiễm ô như địa và tiểu phiền não địa pháp,
cũng không giống đại bất thiện địa pháp. Nhưng nó lại tùy lúc trở thành thiện, hoặc
ác, hoặc vô ký, nên gọi là bất định. Và nó không biến khắp các tâm như mấy thứ
trên, nên trên đầu không có thêm chữ đại hay tiểu.
2. Tâm bất
tương ưng hànhpháp: Vì loại pháp này không tương ứng với tâm pháp nên gọi là bất tương
ưng để giản biệt với tâm sở. Hành là hành uẩn, tức muốn nói nó thuộc hành uẩn,
chứ không thuộc sắc uẩn hay vô vi.
Sao gọi là tâm
tương ưng và tâm bất tương ưng? Tâm tương ưng là chỉ cho các tâm sở tương ứng
hòa hợp với tâm vương bởi năm sự đồng đẳng:
a. Đồng sở y: Tâm vương tâm sở đồng nương một căn mà hiện khởi.
Như khi nhãn thức tâm vương nương nhãn căn mà hiện khởi, thì tâm sở tương ưng
với nhãn thức cũng nương nhãn căn mà hiện khởi, chứ không thể nương căn khác.
b. Đồng sở duyên: Tâm vương tiếp xúc cảnh nào thì tâm sở
tương ưng cũng tiếp xúc cảnh đó.
c. Đồng hành tướng: Sự nhận thức của tâm vương như thế nào thì
nhận thức của tâm sở tương ưng cũng như thế ấy. Hành tướng tức tướng mạo hiểu
biết, sự nhận thức là tướng hành động của tâm.
d. Đồng thời gian: Tâm vương, tâm sở tương ưng phải đồng
một lúc hiện khởi.
đ. Đồng thể sự: Mỗi tâm vương, tâm sở tương ưng đều có tự thể
riêng bằng nhau hòa hợp lại mới thành nghĩa tương ưng.
Loại tâm bất
tương ưng hành có 14 thứ như kê trên.
Đoạn 3: TÁNH CÁCH CÂU SANH
Bất luận sắc
pháp hay tâm pháp, tuy Hữu bộ chủ trương chúng đều thật hữu, tương quan phát
sinh, song tâm và vật ngang nhau chứ không phải cái này sinh cái kia. Khi sanh
khởi đều có đủ bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt, cùng sanh khởi, vì thế mới gọi là
pháp hữu vi. Nếu không có bốn tướng này kèm theo, thì hẳn thành pháp vô vi.
Ngoài bốn tướng hữu vi này ra, mỗi sắc pháp sanh khởi còn có bao nhiêu thứ đồng
sanh với nó? Mỗi tâm pháp sanh khởi còn có bao nhiêu thứ đồng sanh với nó?
1. Tánh cách
câu sanh của sắc pháp: Sắc pháp là chỉ tất cả sự vật có sắc chất từ trong căn thân
đến ngoài khí giới sơn hà đại địa đều do bốn đại năng tạo là đất, nước, lửa,
gió và bốn đại sở tạo (cũng gọi là bốn vi trần) là sắc, hương, vị, xúc, hòa hợp
tạo thành. Và chính ngay tự mỗi đại hay mỗi cực vi cũng đều có hòa lẫn các đại
hay các cực vi khác. Ví dụ: Địa đại lấy cực vi cứng (cố thể) làm thể chính,
nhưng trong nó vẫn có tánh ướt (dịch thể) của thủy đại, nếu không thì vàng bạc
thể cứng, làm sao nấu chảy, và nếu không có tánh ướt thì đất sẽ rã rời không
thành đất được. Trong đất vẫn có tánh nóng của lửa nên đập đá có lửa văng ra,
và nhờ tánh nóng mà đất không bị thối mục. Trong đất có tánh động, (động lực,
khí lực) của gió, nên cây cứng cũng lung lay và mới lớn lên được. Trong đất vẫn
có đủ sắc, hương, vị, xúc hòa hợp nên mới thành được. Thủy, hỏa, phong, sắc,
hương, vị, xúc cũng đều có đủ tánh chất của các đại khác và các vi hòa hợp lẫn
lộn tươmg tự như vậy mới thành. Suy ra để biết.
2. Tánh cách
câu sanh của tâm, tâm sở: Như đã liệt kê trên, tâm sở gồm 46 thứ, trong đó, có thứ thuộc
thiện tánh, có thứ thuộc ác tánh có thứ thuộc vô ký tánh và có thứ thông cả ba
tánh. Vậy, khi tâm vương khởi thiện tất phải cùng với tâm sở thiện tương ưng,
khi tâm vương khởi ác tất phải cùng với tâm sở ác tương ưng, khi tâm vương khởi
vô ký tất phải cùng tâm sở vô ký cùng khởi. Vậy khi tâm vương thiện hay ác
khởi, có mấy thứ tâm sở cùng khởi với nó?
BIỂU ĐỒ - Biểu
đồ tánh chất tâm sở cùng khởi với tâm vương
Tâm Vương |
Thiện tánh |
|
10 đại địa pháp |
Ác tánh |
|
10 đại địa pháp |
|
Vô ký |
Hữu phú |
|
|
Vô phú |
10 đại địa pháp |
Đoạn 4: Sáu Nhân - Bốn Duyên - Năm Quả:
Muôn pháp đều
do nhân duyên mà sanh mà diệt. Duyên hợp thì sanh, duyên tán thì diệt, vốn
không có tự tánh chân thật. Tuy nhiên, có nhân thì có quả và ngược lại, nhân
quả rõ ràng. Đó là cơ sở của nền giáo lý Phật. Vũ trụ bao la, các pháp vô cùng,
luật nhân quả nhân duyên cũng thâm sâu, phức tạp, khó suy cùng manh mối. Song,
theo Câu-xá tông có sáu nhân, bốn duyên, năm quả, còn tông Pháp tướng Duy thức
thì đề ra bốn duyên, mười nhân, năm quả. Ở đây giải về sáu nhân, bốn duyên, năm
quả, của tông Câu-xá.
A. SÁU NHÂN
Sáu nhân là: Năng tác
nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, tương ưng nhân, biến hành nhân, dị thục
nhân (có thể gọi là sáu dữ kiện hay căn nhân).
1. Năng tác
nhân: Nhân
là năng tác, quả là sở tác. Năng tác tức nhân, nên gọi là năng tác nhân. Bất kỳ
dữ kiện nào dù không liên hệ trực tiếp, nhưng nếu có sự trợ giúp cho kết quả
được sanh thành đều gọi là năng tác nhân. Nhân này có hai thứ:
a. Hữu lực năng tác nhân: Hữu lực là có sức giúp một cách tích cực. Như
nhãn căn đối với nhãn thức, đất giúp cây cỏ mọc. Chỉ pháp hữu vi mới có tánh
cách hữu lực năng tác nhân này; pháp vô vi thì không.
b. Vô lực năng tác nhân: Vô lực là chỉ giúp một cách tiêu cực. Nói cách
khác, là không giúp gì cả, chỉ không làm trở ngại cho sự sanh thành của kết
quả. Như hư không không làm trở ngại mọi vật phát sanh, tảng đá trên núi không
làm trở ngại cây lúa mọc dưới đồng, v.v...
Pháp vô vi vô
tướng, không làm chướng ngại gì, nên cũng thuộc vô lực năng tác nhân này. Như
vậy, năng tác nhân có phạm vi rất rộng rãi, bao gồm cả hữu vi và vô vi, nhưng
trừ tự thân của mỗi pháp chính nó, vì tự thân không thể làm nhân cho tự thân.
Hỏi: Nếu vậy, năm nhân kia
cũng làm năng tác nhân được chứ?
Đáp: Được, nhưng vì năm
nhân kia còn có công dụng khác và đã có tên gọi khác, nên không gọi chúng là
năng tác nhân.
2. Câu hữu
nhân: Thông
thường về mặt thời gian, luôn luôn nhân trước quả sau, nhân quả khác thời;
nhưng về mặt không gian, nhân quả lại đồng thời, cùng có một lúc, một chỗ nên
gọi là câu hữu nhân. Có hai thứ:
a. Hỗ vi quả câu hữu nhân: (nguyên nhân hỗ tương), không có vật nào đứng
riêng rẽ mà thành, phải từ hai vật trở lên nương nhau đắp đổi làm nhân làm quả
thì mới thành được. Như sự hỗ tương giữa bốn đại. Như tục ngữ nói: "Cây
đa cậy thần, thần cậy cây đa".
b. Đồng nhất quả câu hữu nhân: (Nguyên nhân hiệp đồng), một người
không thể tổ chức thành một xã hội, nhiều người có cùng mục đích mới tổ chức
thành xã hội. Hạt giống, đất, nước, phân,... tuy khác nhau, nhưng cùng chung tạo
ra kết quả là cây lúa, bốn đại hợp nhau mới tồn tại và tạo ra sự vật. Như tục
ngữ nói: "Ba cây chụm lại thành hòn núi cao".
3. Đồng loại
nhân: Tánh
đồng loại liên tục trong sự vật là nguyên nhân cho sự sanh thành của vật. Như
niệm lành trước làm nhân cho niệm lành sau, niệm ác trước làm nhân cho niệm ác
sau, nhiệt độ trong nước mới tăng dần thì nước mới sôi, nếu cứ đứt đoạn tăng
giảm không chừng thì không thể nào sôi được. Như tục ngữ nói: "Có công
mài sắc, có ngày thành kim". Đồng loại nhân là nguyên nhân của sự đồng
loại tương tục tự nội.
4. Tương ưng
nhân: Tương
ưng có nghĩa như câu hữu, vì nó là một phần của câu hữu nhân, chỉ khác là câu
hữu nhân có phạm vi quán thông cả vũ trụ vạn hữu sắc tâm, còn tương ưng nhân
thì chỉ giới hạn ở tâm vương và tâm sở. Hiện tượng tâm vương, tâm sở không thể
tách rời mà phải tương ưng thuận hợp tư trợ cho nhau để phát sinh. Vậy chính sự
tương đó cũng là nguyên nhân. Giữa tâm vương và tâm sở có đủ năm sự đồng nhau
mới thành tương ưng, như đã nói trên.
5. Biến hành
nhân: Biến
hành đồng nghĩa với đồng loại. Nó là một phần của đồng loại. Nhưng đồng
loại nhân có phạm vi quán thông cả vũ trụ, còn biến hành nhân này chỉ giới hạn
ở mười một phiền não biến hành của tâm sở, chỉ ra tánh quan hệ tiền nhân hậu
quả của nó mà thôi. Mười một phiền não biến hành đó là bảy món: thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, vô minh trong mười hoặc (phiền
não) do mê lý Khổ đế sinh ra, cộng với bốn món: tà kiến, kiến thủ, nghi, vô
minh trong bảy hoặc (phiền não) do mê lý Tập đế sinh ra. Nó có tác dụng làm
nhân phát sinh tất cả phiền não, nên gọi là biến hành nhân.
6. Dị thục
nhân: Nhân
và quả khác loại, khác tánh với nhau, hoặc biến đổi đưa đến quả thành thục, là
nguyên nhân đưa đến quả báo dị thục, gọi là dị thục nhân. Do nhân thiện ác mà
cảm quả dị thục vô ký. Như do nhân thiện mà cảm quả báo vui, do nhân ác nghiệp
mà cảm quả báo khổ. Nhưng vui là vui, khổ là khổ, không thể bảo tự thân sự vui
khổ là thiện hay ác, mặc dù quả báo vui khổ là do nghiệp nhân thiện ác gây ra.
Đây là tâm của lý nhân quả.
Tóm lại, nguyên
nhân của vạn pháp tuy rộng lớn vô cùng, nhưng tóm lại không ngoài hai loại nhân
quả đồng thời và nhân quả dị thời. Nguyên nhân đồng thời là xét về mặt không gian,
các sự vật cùng nương nhau, giúp nhau phát khởi, như A-B nương nhau sinh tồn.
Nguyên nhân dị thời là nhìn về mặt thời gian trước sau tiếp tục giúp nhau khởi,
như hạt lúa trước sanh cây sanh lúa sau.
Trong sáu nhân
này, hai nhân câu hữu và tương ưng thuộc về nguyên nhân đồng
thời, dù câu hữu nhân thông cả vũ trụ vạn hữu và tương ưng nhân chỉ giới
hạn ở tâm và tâm sở. Ba nhân đồng loại, biền hành, dị thục đều thuộc về
nguyên nhân dị thời, dù đồng loại nhân thông cả vũ trụ vạn hữu, biến hành
nhân chỉ giới hạn ở lãnh vực của tâm, dị thục nhân thì nhắm vào tánh nhân quả
bất đồng mà nói. Chỉ riêng năng tác nhân là nguyên nhân bao trùm tất cả,
không luận đồng thời, dị thời, nội tâm, ngoại vật, hữu vi vô vi đều có thể trở thành
năng tác nhân cho nhau được cả.
B. BỐN DUYÊN
Duyên nghĩa là
quan hệ. Sự vật hình thành và tồn tại giữa những mối quan hê chằng chịt phức
tạp. Có bốn duyên:
1. Nhân
duyên: Thông
thường giải thích nhân là yếu tố chính, duyên là yếu tố phụ đối với hậu quả.
Nhưng ở đây nhân duyên là cái duyên của nhân. Lấy nhân làm duyên gọi là nhân
duyên. Đó là yếu tố quan hệ mật thiết trực tiếp với hậu quả. Nên trong sáu nhân
nói trên trừ năng tác nhân, còn lại đều thuộc vào nhân duyên này.
2. Đẳng vô
gián duyên: Là sự diễn ra trong trật tự liên tục tự nội, từ hiện tượng trước
đến hiện tượng sau. Nếu hiện tượng trước đứng im không mở lối, thì hiện tượng
sau không tiến bước được. Như chân trước không để xuống thì chân sau không dở
lên được, và như vậy không thành đi, đến, nên cũng còn gọi là khai đạo
duyên. Duyên này chủ yếu chỉ thuộc nội tâm. Nó là cái duyên tiếp nối bình
đẳng trước sau không gián đoạn của tâm.
3. Sở duyên
duyên: Là
duyên của sở duyên, của đối tượng. Đây là cái duyên của sự đối đãi chủ khách,
trong ngoài. Có khách mới thành chủ, có đối tượng tâm mới sinh. Duyên này chủ
yếu cũng thuộc nội tâm.
4. Tăng
thượng duyên: Là cái duyên giúp thêm từ bên ngoài có hai thứ:
a. Thuận tăng thượng duyên: Duyên giúp thêm sự thuận lợi để
phát triển, như mưa gió thuận thời đối với hoa màu.
b. Nghịch tăng thượng duyên: Duyên giúp thêm một cách trái ngược làm
cho lụn bại, như hạn hán đối với hoa màu.
Tăng thượng
duyên này tương đương với năng tác nhân, phạm vi rất rộng.
Xem biểu đồ
đối chiếu sáu nhân bốn duyên sau:
Sáu nhân |
- Năng tác nhân |
Vô lực |
|
|
Hữu lực |
- Tăng thượng |
Bốn duyên |
||
- Tương ưng nhân |
|
- Nhân duyên |
Hỏi: Giữa sáu nhân và bốn duyên có gì sai khác?
Đáp: Nên biết nhân duyên là
chủ yếu của đạo Phật, nhằm cắt nghĩa sự sanh khởi biến hoại của hiện tượng vạn
pháp một cách đúng đắn, chứ không như lối cắt nghĩa theo tà nhân và vô nhân.
Song, phạm vi duyên sanh rất rộng, nên nó được diễn đạt rất nhiều cách, bốn
duyên chủ yếu nói về sự hiện khởi của nhận thức, còn sáu nhân chủ yếu sự hoạt
động của sanh mạng, ngoài sự chỉ chung cả muôn pháp. Đó là điểm sai khác của
chúng.
C. NĂM QUẢ
Nhân và duyên
tạo ra quả. Quả có hai loại lớn là:
- Quả hữu vi, có sanh diệt biến dị, do nhân duyên sanh.
- Quả vô
vi, thường trú không sanh diệt, do Thánh giả chứng đắc.
1. Quả hữu
vi: Có
bốn thứ:
a.Dị thục
quả:
tức thân quả báo của loài hữu tình hoặc khổ hoặc vui trong lục đạo. Quả dị thục
do nhân dị thục trong sáu nhân và tăng thượng duyên trong bốn duyên tạo thành. Bản
chất của nhân dị thục là thiện ác, bản chất của quả dị thục là khổ vui vô ký.
Vì bản chất của nhân và quả khác nhau như thế nên gọi là quả dị thục. Nhân quả dị
thục chính là trạng thái chúng sanh sanh tử luân hồi vậy.
b.Đẳng lưu
quả: Tánh chất của quả giống với nhân. Tâm trước lành sanh ra tâm sau
lành, tâm trước ác sanh ra tâm sau ác. Đẳng lưu quả do đồng loại nhân, biến
hành nhân và tăng thượng duyên tạo ra.
c.Sĩ dụng
quả: Sĩ là sĩ phu, dụng là tác dụng của năng lực. Kết quả do năng lực
tác dụng của sĩ phu gọi là sĩ dụng quả. Có hai thứ:
1. Nhân sĩ dụng: Chỉ năng lực con người hoặc loài có tri
giác tạo ra với trí tuệ và tay chân qua các công nghiệp trong lao động. Chính
kết quả công nghiệp này là sĩ dụng qủa.
2. Pháp sĩ dụng: Chỉ cho pháp như sắc, tâm tuy không hoàn
toàn là một con người hay loài có tri thức, nhưng có năng lực tác động tạo ra
quả giống như con người. Ví như do sức người đập đá vỡ là nhân sĩ dụng, còn như
mặt trời làm đá vỡ là pháp sĩ dụng.
d. Tăng
thượng duyên: Là kết quả của năng tác nhân và bốn duyên hợp thành. Như có học
thì biết, nhưng còn tùy thuộc ông thầy dạy dỡ hay hay, đèn sách tốt hay xấu mà
kết quả hiểu biết được nhiều hay ít, đúng hay sai. Đây là tăng thượng quả.
2. Quả vô
vi: Là
quả thứ năm trong năm quả tức ly hệ quả. Ly hệ là thoát ly sự ràng buộc
của phiền não vô minh. Ly hệ quả tức là Niết-bàn, là trạch diệt vô vi,
là kết quả mà chỉ các thánh giả chứng đắc khi đoạn tận sự ràng buộc của tham ái
phiền não nhờ năng lực của trí tuệ tu đạo. Quả này thuộc quả vô vi, không do
sáu nhân và bốn duyên tạo thành.
CÁC PHÁP HỮU
VI DUYÊN SANH
Trong 75 pháp
kể trên, trừ ba pháp vô vi thường trú bất biến, không phải nguyên nhân năng
sinh, cũng không phải là kết quả sở sinh, không phải thuộc phạm vi nhân quả,
còn 72 pháp kia thuộc hữu vi đều theo luật duyên sinh. Như 11 sắc pháp do nhân
duyên và tăng thượng duyên sinh, 47 tâm pháp do bốn duyên sinh, 14 pháp bất
tương ưng hành thì do nhân duyên và tăng thượng duyên sinh.