Tự Do Khảo SátĐức Phật hướng dẫn các
môn đệ Ngài theo đường lối phân biện và
nghiên cứu tìm hiểu. Đặt
niềm tin vào bất cứ gì không phải là
tinh thần Phật Giáo. Sau đây là cuộc
đàm thoại giữa
Đức Bổn Sư và các
đệ tử Ngài:
"Nếu bây giờ,
hiểu biết và
bảo tồn điều này, các con nói chăng rằng: 'Chúng ta tôn vinh
Đức Bổn Sư, và vì
tôn kính Ngài ta phải
quý trọng những gì Ngài dạy?'"
"Bạch Ngài, không."
"Điều gì các con
xác nhận, này chư
đệ tử, có
phải chăng chỉ là những gì các con
nhận thức, trông thấy và nắm vững?"
"Bạch Ngài, đúng vậy." Và cũng
tương hợp với
thái độ hoàn toàn chân chánh để khảo sát
chân lý, trong khái luận
Phật Giáo bằng tiếng Sanskrit (Bắc Phạn) về phương thức luận lý, Jnànasàra-samuccaya, 31, có đoạn:
"Cũng như người khôn ngoan
sáng suốt thử vàng bằng cách đốt, cắt và cọ chà (trên đá thử vàng), cùng thế ấy, các con phải làm như vậy trước khi
chấp nhận lời của
Như Lai, khi đã
thận trọng khảo sát chớ không phải chỉ vì
tôn kính Như Lai."
Một lần nọ, dân chúng Kàlàma của xứ Kesaputta
đến gần Đức Phật và bạch: "Bạch
Đức Thế Tôn, có những
đạo sĩ ẩn dật và những vị
bà la môn đến tại Kesaputta. Về quan kiến của chính họ, họ
tuyên ngôn và
giải thích dong dài đầy đủ; nhưng về
quan điểm của người khác thì họ
phỉ báng, khinh rẻ, chê bai và
bóp méo. Vã lại,
Bạch Đức Thế Tôn, những
vị đạo sĩ và
bà la môn khác cũng vậy, đến Kesaputta và cũng làm
y như vậy. Khi lắng tai nghe họ,
Bạch Đức Thế Tôn, chúng con
hoài nghi và hoang mang, không biết đàng nào
nói đúng và đàng nào sai."
Đức Bổn Sư mở
lời khuyên dạy:
"Đúng vậy, này người Kàlàma,
hoài nghi như vậy là đúng, nêu lên những câu hỏi về những gì mình còn
nghi ngờ và những gì chưa được
sáng tỏ là đúng. Còn
ngờ vực trong một
vấn đề ắt có hoang mang lưỡng lự."
"Không nên để tập tục
cổ truyền, những lời
đồn đãi, những
luận thuyết suông, hay những
kết luận hấp tấp dẫn đi
sai lạc, hoặc sau khi vội vã suy tư và
chấp nhận một
lý thuyết nào, hoặc vì lòng
tôn kính một
vị đạo sĩ. Nhưng này người Kàlàma, khi các con tự mình
hiểu biết rằng: "Những điều này
bất lợi, đáng bị khiển trách, bị những bậc
thiện trí chỉ trích chê bai; những điều này khi được
thực hiện và
đảm nhận, dẫn đến mất mát và
phiền lụy -- chừng ấy
dĩ nhiên, hởi người Kàlàma, các con hãy
bác bỏ."
"Giờ đây, người Kàlàma, các con nghĩ thế nào? Khi
tham ái,
sân hận và
si mê khởi sanh trong tâm một người, sự khởi sanh ấy tạo
lợi ích hay gây mất mát cho người ấy?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, điều ấy gây mất mát."
"Giờ đây, hởi người Kàlàma, bị
tham ái,
sân hận và
si mê ức chế thấm nhuần, người ấy có gây
tội ác và
sai lầm dẫn dắt kẻ khác đến mất mát và
sầu muộn lâu dài không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, có."
"Đúng vậy, này người Kàlàma, các con nghĩ thế nào? Những điều ấy tạo
lợi ích hay gây bất lợi?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, gây
bất lợi."
"Những điều ấy có đáng bị khiển trách không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, đáng bị khiển trách." "Những điều ấy có bị bậc
thiện trí chỉ trích không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, có bị
chỉ trích."
"Nếu
thực hiện và
đảm nhận, những điều ấy có dẫn đến mất mát và
sầu muộn không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, những điều ấy dẫn đến mất mát và
sầu muộn."
"Như vậy, này người Kàlàma, đây là lời của
Như Lai khuyên nhủ các con hôm nay: 'Không nên để dẫn dắt đi
sai lạc, nhưng khi tự các con
hiểu biết rằng: Những điều ấy gây
bất lợi và dẫn đến mất mát và
sầu muộn ... các con hãy
bác bỏ,' đó là
lý do tại sao
Như Lai tuyên ngôn những lời trên."
"Hởi người Kàlàma, không nên để ... dẫn dắt đi
sai lạc như vậy. Nhưng khi tự các con
hiểu biết: Những điều này tạo
lợi ích, không bị khiển trách, được bậc
thiện trí tán duơng: Khi được
thực hiện và
đảm nhận những điều này đưa đến
hạnh phúc và
lợi ích -- chừng đó, này người Kàlàma, sau khi đã
đảm nhận, hãy
ẩn náu trong ấy."
"Giờ đây, này người Kàlàma,, các con nghĩ thế nào? Khi tâm không-tham-ái, không-sân-hận và không-si-mê khởi sanh đến một người, sự khởi sanh ấy tạo
lợi ích hay gây mất mát cho người ấy?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, tạo
lợi ích."
"Người ấy không bị
tham ái,
sân hận và
si mê ức chế thấm nhuần, có xa tránh
lỗi lầm và dẫn dắt kẻ khác đến
hạnh phúc không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, có."
"Đúng vậy, này người Kàlàma, các con nghĩ thế nào? Những điều ấy tạo
lợi ích hay gây bất lợi?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, tạo lợi ích"
"Những điều ấy có đáng bị khiển trách không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, không đáng bị khiển trách."
"Những điều ấy đáng bị
chỉ trích chê bai hay đáng được tán dương?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, đáng được
tán dương."
"Khi được
thực hiện và
đảm nhận, những điều ấy có dẫn đến
hạnh phúc không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, có dẫn đến
hạnh phúc."
"Như vậy, đây là lời
Như Lai khuyên nhủ các con hôm nay: 'Không nên để dẫn dắt đi
sai lạc ... nhưng khi tự các con
hiểu biết: Những điều này tạo
lợi ích ... và dẫn đến
hạnh phúc ... hãy
đảm nhận và
ẩn náu trong những điều ấy' đó là
lý do tại sao
Như Lai tuyên ngôn như vậy." (Đoạn trên đây được trích từ Anguttara Nikàya,
Tạp A Hàm, i, 188
Bài kinh số 65; cũng xin xem Anguttara Nikàya, i, 66; và Anguttara Nikàya ii, Kinh Bhadiya Sutta 193.)
Người đọc sẽ
ghi nhận rằng
bài kinh Kàlàma Sutta này mạnh mẻ
bác bỏ tín điều và
đức tin mù quáng và khuyến khích
tự do khảo sát.
Tuy nhiên, không nên vội vã
kết luận rằng
Đức Phật dạy chỉ nên
dựa trên kinh nghiệm bản thân để
thực hành, rằng Ngài
bác bỏ tất cả
giáo lý và
đức tin, và
Giáo Pháp (Dhamma) của Ngài truyền dạy chỉ giản dị là một
hệ thống giáo thuyết
tự do, mời mọc mỗi người
chấp nhận và
tôn trọng bất luận gì mình thích. Người đọc nên
thận trọng chú tâm đọc phần
cuối cùng của
bài kinh trong đó
Đức Phật nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ba
nguyên nhân căn cội của những gì
bất thiện (ba căn
bất thiện): tham, sân, si và những đối nghịch với nó, ba căn nguyên từ đó
xuất phát tất cả những gì là thiện (ba
thiện căn):
buông xả,
thiện ý và
trí tuệ. "Như vậy
bài kinh này,
thuyết giảng cho người Kàlàma,
cung ứng một trắc nghiệm châu đáo, tận tường, để
tăng cường niềm tin nơi
Giáo Pháp,
xem như một
giáo lý đáng tin cậy, một
lối sống dẫn đến
giải thoát."
Để cho
công trình thảo luận về
bài kinh này được đầy đủ hơn, xin mời người đọc
tham khảo bài viết rất
sáng tỏ tựa đề "A Look at the Kàlàma Sutta" của
tác giả Bhikkhu Bodhi, đăng trong bản tin Buddhist Publication Society Newsletter, số 9, vào
mùa Xuân 1988.
Trong
Phật Giáo không có sự
cưỡng bách hay bắt buộc và không đòi hỏi nơi
tín đồ một
đức tin mù quáng. Từ ngoài nhìn vào, người có tánh
hoài nghi sẽ lấy làm
hoan hỷ lắng
nghe lời kêu gọi nên khảo sát tận tường. Từ đầu đến cuối
Phật Giáo được
mở rộng cho tất cả những ai có mắt để thấy và có tâm để
hiểu biết.
Một lần nọ, khi
Đức Thế Tôn ngự trong một vườn xoài tại Nàlandà, có Upàli, một
tín đồ nhiệt thành của phái Nigantha Nàtaputta (Jaina Mahàvira),
vâng theo lời dạy của Mahàvìra, vị
giáo chủ,
đến gần Đức Phật với
ý định duy nhất là
tranh luận và thắng Ngài. Đề tài là lý
nghiệp báo mà cả hai vị,
Đức Phật và Mahàvìra, đều đã giáo truyền,
mặc dầu quan điểm vẫn khác nhau. Sau cuộc
thảo luận rất
thân thiện, Upàli
minh xác rằng lý lẽ của
Đức Phật là đúng hơn,
chấp thuận quan điểm của Ngài và sẵn sàng
trở thành một
tín đồ Phật Giáo (upàsaka). Nhưng
Đức Phật nhắc nhở ông:
"Này Upàli, về
vấn đề chân lý Ông phải khảo sát tận tường và cặn kẻ. Đối với người
danh tiếng như Ông,
tốt hơn là phải khảo sát tận tường."
Tuy nhiên, nghe vậy Upàli càng
hoan hỷ thỏa thích hơn và xin
quy y,
trở về nương tựa nơi Phật, Pháp, Tăng.
Mặc dầu Upàli
vững chắc đặt
niềm tin nơi Ngài và muốn
trở thành Phật tử,
Đức Phật khuyên ông nên
tiếp tục tôn trọng và hỗ trợ các vị thầy cũ như xưa. (Upàli Sutta, Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, 56)
Như vậy,
Đức Phật khuyên dạy tầm quan trọng của
tự do tư tưởng,
tự do ngôn luận và đức khoan hồng
đại độ, không vì khác
tôn giáo mà chia rẽ nhau.
Bước
theo dấu chân của
Đức Bổn Sư,
Hoàng Đế Asoka (A Dục), người
Phật tử, trị vì xứ Ấn vào thế kỷ thứ Ba trước Dương Lịch,
tuyên bố những lời được ghi tạc vào đá (Rock Edict XII) như sau:
"Ta không nên chỉ tôn thờ
tôn giáo của mình và chê bai
chỉ trích tôn giáo của kẻ khác, mà phải
thành kính quý trọng tôn giáo của những người khác vì
lý do này hay
lý do khác. Hành động như thế ta giúp cho chính
tôn giáo của ta
trưởng thành và cũng hỗ trợ
tôn giáo của người khác. Hành động trái ngược, ta đào mồ chôn chính
tôn giáo mình và cũng gây
tổn thương cho các
tôn giáo khác. Bất cứ ai tôn thờ
tôn giáo mình và chê bai
chỉ trích tôn giáo khác cũng làm theo lòng nhiệt thành đối với
tôn giáo mình,
quả thật vậy, nghĩ rằng: 'Ta sẽ tôn vinh chính
tôn giáo của ta.' Nhưng ngược lại, làm như vậy họ gây
tổn thương trầm trọng cho
tôn giáo họ. Do đó ta phải đoàn kết. Tất cả hãy lắng nghe và
hoan hỷ lắng nghe
giáo lý được dạy trong các
tôn giáo khác."
Trong
Phật Giáo không ai
bị bắt buộc phải tin điều gì mà mình không
biết trước.
Giáo lý có tánh cách
phân tách của
Đức Phật (vibhajjavàda)
không chấp nhận
đức tin mù quáng. Bằng nhiều
phương cách,
bản chất tuyệt đối triết lý-phân tách của Ngài đã
minh bạch sáng tỏ.
Ngoại trừ
Đức Phật, không vị
giáo chủ nào
xuất hiện trên
thế gian mà có đức tánh này một cách
trọn vẹn và đầy đủ như thế. Ngài là vị
triết gia phân giải tối thượng. Nơi đây "triết gia phân giải" có nghĩa là
tuyên ngôn điều gì sau khi
thấu triệt điều ấy trong nhiều đặc tánh khác nhau, sắp xếp những đặc tánh theo một thứ tự
thích nghi, mỗi mỗi đều
rõ ràng minh bạch. Sách Vimati Vinodani, một
bình chú của Bản
Chú Giải Tạng Luật nói rằng
triết gia phân giải có đặc tánh của người
tuyên ngôn điều gì sau khi đã đi sâu vào
chi tiết; người ấy không nhìn sự vật một cách hợp
nhất như một
toàn thể, tức nhìn tất cả sự vật
cùng chung trong một khối, mà sau khi
phân chia theo đặc tướng
nổi bật của nó, tất cả, một cách
rõ ràng, riêng biệt, như thế mọi
ý kiến sai
sự thật và mọi
hoài nghi đều tan biến, c
hân lý quy ước và chân lý tuyệt đỉnh (sammuti paramattha-sacca, tục đế và chân đế) có thể được
thông suốt. Trong quyển Sàrattha-dìpani, một
bình chú khác của Bản
Chú Giải Tạng Luật, ta thấy như sau:
"Một người binh vực và khuyến khích phương pháp phân giải là Đức Bổn Sư, bởi vì Ngài xa lánh hai cực đoan thường kiến và tuyệt diệt, mà dạy pháp tùy-thuộc-phát-sanh (thập nhị nhân duyên), con đường ở giữa (Trung Đạo)."Cũng như nhà cơ thể học sành nghề
phân giải một cánh tay hay một cái
chân thành tế bào và các tế bào thành nguyên tử và điện tử,
Đức Phật phân tách tất cả những
pháp hữu vi đến từng
nguyên tố cơ bản. Do đó Ngài được tôn là Vibhajjavàdi, vị Thầy của Thuyết
Phân Giải.
Chân lý của
Giáo Pháp (Dhamma) chỉ có thể được nắm vững bằng
trí tuệ minh sát, không bao giờ bằng
đức tin mù quáng. Người tìm
chân lý không thể
thỏa mãn với sự
hiểu biết trên bề mặt, mà lặn sâu để
khám phá những gì
tiềm ẩn phía dưới. Đó là loại khảo sát mà
Phật Giáo khuyến khích. Loại khảo sát này dưỡng nuôi
chánh kiến.
Cũng như
tin tưởng mù quáng là trái ngược với
tinh thần của
lời Phật dạy, van vái nguyện cầu một đấng
thần linh ngoại lai tưởng tượng là đối nghịch với
lối sống của người
Phật tử.
Đức Phật,
minh mẫn sáng suốt và
trong sạch nhất giữa
chúng sanh,
quán chiếu tìm hiểu toàn thể vũ trụ,
nhận thức rằng khái niệm về một
thần linh tối thượng trị vì
thế gian chỉ giản dị là một
ảo mộng. Chính nổi niềm kinh sợ của
con người gieo mầm cho
vô minh tạo một nguyên lý
ngoại lai toàn tri và có mặt cùng khắp. Và khi
ý niệm được tạo ra,
con người mãi sống trong nổi
kinh hoàng của trẻ con, trong sự kinh sợ mà chính mình tạo, và tự gây cho mình những
tổn thương không xiết kể.
Tôn sùng cao thượng nhất là kính bái
con người cao cả nhất của
nhân loại, những
tâm hồn lớn mạnh và hùng dũng đã nắm vững
chân lý thâm sâu,
quét sạch vô minh,
phiền não tai hại nhất, vị chúa tể
ô nhiễm, đã gây tất cả mọi cuồng điên của
chúng ta, và diệt tận cội rễ của tất cả mọi
hình thức ái dục. Những người tận tường
thông suốt chân lý mới thật sự có thể hỗ trợ ta, nhưng người
Phật tử không van vái nguyện cầu các Ngài. Người
Phật tử chỉ kính bái người đã
khám phá chân lý và vạch tỏ cho mình
con đường hạnh phúc.
Hạnh phúc là cái gì ta phải chính mình
thành tựu; không ai có thể làm cho mình
tốt hơn hay
xấu hơn.
Con người phải được
tự do tìm hiểu mình và những
quyền năng ngủ ngầm bên trong mình. Hãy để cho
con người tập đứng vững
một mình.
Ý niệm chủ trương rằng
cần phải có ai khác
nâng đỡ từ thấp lên một tầng lớp cao hơn và cứu rỗi ta, có chiều hướng làm cho
con người ươn hèn và
yếu kém. Suy tư như vậy hạ thấp phẩm giá
con người. "Tùy thuộc nơi một
quyền năng ngoại lai thông
thường có nghĩa là
quy hàng, đem
nỗ lực của mình ra
đầu phục." Do đó,
Đức Phật kêu gọi hàng
tín đồ nên tự mình nương tựa nơi mình. Ngoại trừ chính ta, không ai
ban cho ta
trạng thái thanh bình an lạc thật sự; người khác có thể
gián tiếp giúp đỡ, nhưng
giải thoát vượt ra khỏi mọi khổ đau, mỗi người phải
cố gắng gia công cho chính mình.
Ngành
tâm lý học
khám phá những khả năng tiềm tàng ngủ ngầm bên trong
con người, và chính
con người phải
nỗ lực trau giồi và khai triển những tiềm năng ấy. Mỗi
cá nhân phải tận lực để tự
giải thoát. Không ai trên
quả địa cầu hay trên cảnh Trời nào có thể
ban cho người khác
đặc ân giải thoát chỉ vì người này van vái cầu lụy điều ấy. Khả năng
uốn nắn đời sống mình nằm trong tay của chính mình.
"Chớ nên van vái!
Bóng tối sẽ không sáng hơn!
Đừng hỏi
Im Lặng, vì nó không biết nói!
Chớ nên
phiền nhiễu cái tâm
ưu phiền của bạn
Với những đau buồn ngụy tín!
Hởi các Anh, các Chị!
Không nên nguyện cầu cúng tế những
thần linh bất lực
Với những quà biếu và nhạc thiều!
Không nên dùng máu huyết để hối lộ,
Hoặc dâng cúng bánh trái;
Mỗi người tự tạo ngục tù cho mình,
Phải tìm
giải thoát từ bên trong các bạn."
-- Light of Asia, Sir Edwin Arnold
"Cái gì
thúc đẩy người ta
tin tưởng nơi
Thượng Đế không phải là luận lý có tánh
cách trí thức chút nào. Phần đông người ta tin nơi
Thượng Đế bởi vì từ thủa bé thơ họ được dạy như vậy, và đó là
lý do chánh. Như vậy tôi nghĩ rằng
lý do hùng mạnh hơn tất cả là lòng
mong mỏi muốn được
an toàn, một loại cảm nghĩ như có được người
anh cả trông nom. Điều này có
vai trò rất quan trọng,
ảnh hưởng sâu đậm, làm cho
con người muốn có
niềm tin nơi
Thượng Đế." (Bertrand Russel).
Nguyên Nhân Đạo ĐứcTôn giáo là cái gì người ta phải
đến gần bằng
lý luận và suy tư. Nếu, sau khi
nghiên cứu tận tường, lời dạy nào
cảm xúc thuận chiều với tâm và trí ta, hãy
chấp nhận những nguyên tắc của nó vào
lối sống mình.
Cố gắng theo một
tín ngưỡng khi
không có lý do để mình
thỏa mãn với
tín ngưỡng ấy thì
quả thật là điên rồ. Ta phải ngay thẳng. Phải
thành thật với mình và với kẻ khác. Tự phỉnh gạt mình sẽ dẫn đến
xung đột tâm lý và
bất hạnh. Trong sự
lựa chọn tôn giáo, không ai có quyền dẩm chân lên
tự do của kẻ khác.
Tự do tư tưởng là quyền của mỗi người từ lúc vào đời.
ép buộc người khác đi lệch ra ngoài
lối sống vốn
thích hợp với
tâm tánh và
quan niệm họ, khuynh hướng và chiều
hiểu biết của họ,
quả thật là
sai lầm.
Cưỡng bách, dầu với
hình thức nào, vẫn là tệ hại.
Cưỡng bách một người phải theo
tín ngưỡng mà người ấy không thích là loại
cưỡng bách đen tối nhất. Cáng họng, bắt buộc người ta phải nuốt như vậy không thể là
tốt đẹp cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu.
Con người phải được phép
trưởng thành theo đường lối nào sẽ đem lại cho họ sự mở mang
tốt đẹp nhất. Mọi
ép buộc nhằm khép
tư tưởng vào một khuôn khổ
nhất định là trực tiếp
xen vào sự rộng mở
tâm trí ấy. Người
Phật tử xem sự dẩm
chân như thế ấy là loại hẹp hòi
tồi tệ nhất.
Tự thanh lọc, làm cho mình trở nên
trong sạch, không phải do một nguyên lý
ngoại lai nào mà chỉ đến với người
tự do suy gẫm những
vấn đề của chính mình mà không bị
trắc trở hay
chướng ngại. Những người khác có thể hỗ trợ nếu ta sẵn sàng nhận lãnh hay mong tìm được giúp đỡ.
Hạnh phúc cao thượng
nhất chỉ có thể đến do tự mình
hiểu biết, tự mình
chứng ngộ, tự mình
thức tỉnh và
lãnh hội chân lý. Ta phải
gia công cố gắng thích nghi, phá vỡ những xiềng xích đã trói chặt
chúng ta từ thủa nào và thoát đến
tự do, vượt ra khỏi mọi
sầu muộn bằng cách
kiên trì tận lực
chuyên cần, chớ không phải do nhờ
trung gian của ai khác.
Chư Tăng Phật Giáo không phải là những vị
tu sĩ trung gian để
hành lễ và
cử hành những
nghi thức cúng tế, không
ban hành phép lành và rửa sạch
tội lỗi. Một vị tỳ khưu
lý tưởng không đứng ra làm
trung gian giữa
con người và một
quyền lực siêu nhiên, bởi vì
Phật Giáo dạy rằng mỗi
cá nhân, dầu tăng sĩ hay
thiện tín, chỉ
đơn độc đảm nhận trách nhiệm thành đạt giải thoát cho mình. Do đó, không
cần cầu cạnh
ân huệ của một
tu sĩ trung gian.
"Hành ác do ta, Do chính ta, ta phải chịu đau khổ, Ngưng hành động sai lầm do ta, Trở nên trong sạch do chính ta. Không ai cứu ta, ngoài chính ta, Không ai có thể, và không ai có quyền năng; Chính chúng ta phải tiến bước trên Con Đường, Chư Phật chỉ rọi sáng con đường."
Chính
Đức Phật, lần đầu tiên
trong lịch sử thế giới, dạy rằng có thể
giải thoát mà không
cần thiết phải có một đấng
cứu thế. Bằng những lời dạy và gương lành
trong sạch Ngài
giáo huấn lối sống chuyên cần,
"Hãy gia công thành tựu giải thoát với chú niệm" (appamàdena sampàdetha) là
di huấn tối hậu của
Đức Bổn Sư.
Mỗi
chúng sanh là tạo hóa của mình; ngoài hành động của chính ta không thấy có tạo hóa nào khác trong
thế gian. Bằng hành động ta tạo
tâm tánh,
cá thể, và
tư cách cá nhân của mình. Tất cả
chúng ta đều do mình tự tạo. Do đó
Đức Phật dạy rằng
"Chúng ta là thừa kế của chính hành động của ta, là người mang theo với mình hành động của mình, hành động của chúng ta là thai bào từ đó chúng ta được sanh ra đời," (Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, 135) và
chúng ta phải trở nên
tốt hơn, chỉ bằng cách
sửa đổi hành động, tự tạo
trở lại và
thành đạt giải thoát, vượt ra khỏi mọi khổ đau. Có thể có
phương cách nào khác chăng? Nếu
xuyên qua vô minh và
ái dục chúng ta mãi lạc bước,
thênh thang trong đêm tối dài dẳng của vòng
luân hồi mà không tự
uốn nắn mình, thì làm sao có sự khác biệt lớn lao và những điểm
dị đồng như thế giữa những
chúng sanh mà ngày nay ta
nhận thấy trong
thế giới.
Giáo lý nghiệp báo (kamma), vốn là
giải đáp duy nhất hợp lý nhằm
giải thích toàn thể khối
đau khổ gọi là
thế gian, không thể
bị loại bỏ. Ngoài lý
nghiệp báo, tất cả những lối
giải thích về kiếp
sinh tồn luôn luôn
biến đổi này
hoàn toàn không
thỏa đáng, bởi vì không chú trọng đến
chức năng thật sự của phần
tâm linh (nàma, danh), tuy vô hình, không thể sờ đụng, nhưng là
yếu tố quyết định trong tiến trình
trở thành (bhava, hữu). Nhưng khi
chúng ta nhìn kiếp sống
vô thường không ngừng
biến chuyển này, mà phần chánh được
uốn nắn do
định luật nhân quả trong sắc thái
tiềm ẩn của tiến trình tâm, ta
hiểu biết chắc chắn rằng cái khuôn đúc tạo hình cho
đời sống là
vô minh, và
vô số hình thức biến đổi vô thường là biểu hiện của nhiều loại
ái dục đủ màu sắc, thúc giục và
lôi cuốn tất cả, từ kiếp này sang kiếp khác, khởi sanh rồi
hoại diệt, như
bong bóng nước trong
đại dương mênh mông của vòng
luân hồi.
Chừng đó, ta
nhận thức ý nghĩa của
định luật nhân quả xuyên qua những
hiện tượng trở-thành-trở-lại, tức
tái sanh:
chúng ta đang gặt hái những gì chính mình đã gieo trong
quá khứ; đôi khi ta cũng thâu hoạch, ta biết vậy, những gì đã gieo trong kiếp sống
hiện tiền. Cũng dường thế ấy, những hành động của
chúng ta tại đây sẽ đúc khuôn cho kiếp sống
vị lai và như vậy,
chúng ta bắt đầu
hiểu biết vị trí của mình trong
vũ trụ huyền bí này.
Tuy nhiên, nên ghi nhớ rằng theo
Phật Giáo, không phải tất cả mọi sự việc đều xảy diễn do nghiệp
quá khứ. Như vậy
chúng ta không nên vội vã khiển trách hay
tán dương một vị Trời (Deva) hay một nhân vật
tốt phước nào khi phải chịu
đau khổ hay khi được
thọ hưởng phước lành. Không, chí đến
Đức Phật cũng không thể cứu vớt
chúng ta ra khỏi dây
trói buộc của vòng
luân hồi (samsàra). Mỗi
cá nhân phải tự mình
gia công nỗ lực cần thiết để tự
giải thoát. Trong đôi tay
phàm tục của
chúng ta có sẵn
quyền năng uốn nắn cuộc sống của ta. Một cách
gián tiếp, người khác có thể giúp ta một tay, nhưng để
giải thoát ra khỏi mọi
đau khổ, mỗi người phải tự đặt mình trên hòn đe rồi tự mình ra công đập, uốn, giũa mài.
Chúng ta tin rằng:
"Bất luận gì
con người làm,
Điều ấy, chính
con người sẽ gặp;
Người tốt gặp điều lành; và điều xấu đến với kẻ xấu;
Và như thế, tất cả hành động đều như hột giống,
Giống nào trổ quả nấy."
Chúng ta thấy một
triều đại của
định luật thiên nhiên nhân và quả
vô cùng tận, và không có chi khác
thống trị vũ trụ.
Toàn thể thế gian đều do
luật nhân quả chi phối. Trọn
thế giới nằm vỏn vẹn dưới quyền điều khiển và
kiểm soát của
luật nhân quả vô cùng tận này,
hay nói cách khác, hành động và
phản ứng của hành động.
Trau Giồi
Nội TâmCon người là một tiến trình danh và sắc luôn luôn
biến chuyển, và
yếu tố quan trọng nhất nằm trong tiến trình tâm.
Kiểm soát tâm là
trung tâm điểm, là phần nòng cốt của
Giáo Pháp, những lời dạy của
Đức Phật.
Hạnh phúc phải được
tìm ra và phải được
gia công làm cho nó trở nên
tốt đẹp, toàn hảo, qua những
yếu tố tinh thần bên trong,
tâm thức của ta. Nhưng khi mà tâm bị nhơ bẩn, thì không thể
thành tựu điều chi đáng giá trong đó.
Vì lẽ ấy,
Đức Phật rất chú trọng đến
trạng thái trong sạch của tâm, xem đó là
điều kiện thiết yếu để tạo
hạnh phúc thật sự và đưa đến
giải thoát ra khỏi khổ đau.
Đức Bổn Sư thường nhắc nhở chư vị
đệ tử:
"Hãy tự tìm các con," và "Hãy thuần hóa cái tâm của các con." --(Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, 16)"Người dẫn thủy nhập điền đào mương cho nước chảy, Thợ làm tên uốn nắn mũi tên cho ngay thẳng, Thợ mộc uốn gỗ. Bậc đệ tử thiện trí tự kiểm soát mình." -- (Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 80)
Giữ mình, tránh những hành động
tham ái và tự
rèn luyện để có những hành động không-tham-ái, tức
vị tha, là
con đường an lạc và thật sự
hạnh phúc trong giáo thuyết của
Đức Phật. Hai
bài kinh do
Đức Phật thuyết giảng --Trường
A Hàm số 25 và
Trung A Hàm số 22 -- nói lên
rõ ràng tại sao
Đức Phật ban
truyền Giáo Pháp, Dhamma,
giáo huấn của
đạo Phật.
1.
Đức Thế Tôn đã
giác ngộ. Ngài dạy
Giáo Pháp để
giác ngộ kẻ khác.
2. Ngài đã tự
kiểm soát. Ngài dạy
Giáo Pháp để người khác tự
kiểm soát.
3. Đã
thành đạt trạng thái tĩnh lặng, Ngài dạy
Giáo Pháp để người khác
thành đạt tĩnh lặng.
4. Đã
vượt qua bờ bên kia (ogha, dòng nước
ô nhiễm), Ngài dạy
Giáo Pháp để giúp người khác
vượt qua (đáo bĩ ngạn).
5. Đã
chứng ngộ Niết Bàn (bằng cách
dập tắt ngọn lửa của
ô nhiễm, parinibbuto), Ngài dạy người khác để cho họ
thành tựu Niết Bàn.
Giáo Pháp,
Đạo Giáo do
Đức Phật ban truyền, không phải để
học hỏi suông hay chỉ để giữ làm
của riêng.
Đức Phật rõ ràng dạy rằng
Giáo Pháp là
phương tiện đưa
chúng sanh vượt thoát qua khỏi biển
trầm luân đau khổ,
đại dương mênh mông của vòng
luân hồi (samsàra), những kiếp sống
triền miên tiếp diễn, và đến tận
bờ bên kia,
chắc chắn và
an toàn, của
trạng thái Vô Sanh Bất Diệt,
Niết Bàn.
Giáo Pháp như chiếc bè để đưa khách lữ hành
vượt qua vùng nước lũ.
Chỉ khi nào
thuần thục, không còn được phép cưỡng kháng, và
đi theo đúng
con đường tiến bộ trật tự chân chánh, tâm mới trở nên hữu dụng, cho
cá nhân người làm chủ nó và cho
xã hội. Do
bản chất thiên nhiên của nó, tâm vô
trật tự là một món nợ cho cả hai, người làm chủ nó và cho kẻ khác. Tất cả mọi tàn phá trên
thế gian đều do những người không biết đường lối
kiểm soát tâm và không biết làm thế nào để giữ thân
quân bình và
trầm tĩnh. Do đó
Đức Phật dạy:
"Bất luận gì mà kẻ thù có thể gây cho kẻ thù -- Người oán hận cho người oán hận -- Một cái tâm hướng về chiều ác Có thể gây nguy hại còn to lớn hơn nhiều." --(Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 42)Đối với
thế gian,
địa vị xã hội,
giai cấp, màu da,
tài sản và
quyền thế, không thể là phẩm giá của một người. Chỉ có
tâm tánh mới làm cho
con người là vĩ đại hay xứng đáng được
tôn kính. "Tâm tánh là cái gì sẽ
phát lộ khi ta sống cuộc sống
mạnh bạo hướng về
lý tưởng và
sinh hoạt khéo léo. Cũng như
kim cương là chất thán tố (carbon) dưới
sức ép thật cao, cùng thế ấy,
cuộc đời mà được sống dưới
áp lực của
tình trạng tinh thần tận lực và
liên tục cố gắng cũng tạo nên
châu báu của nó,
tâm tánh."
Chính tâm tánh làm sáng chói
trí tuệ (apadàna sobhinì pannà).
Con người trong
hiện tại là kết quả của nhiều triệu
tư tưởng và hành động
liên tục tiếp diễn. Không phải tự mình đã sẵn là vậy và không còn
biến đổi,
con người đang luôn luôn
trở thành và sẽ còn luôn luôn
trở thành.
Tâm tánh của
con người do chính mình đã chọn và đã
quyết định trước.
Tư tưởng, hành động mà mình đã chọn,
thói quen lặp đi lặp lại ấy, sẽ là số phận mà
con người trở thành.
"Tâm sáng chói lúc ra đời, chỉ những ô nhiễm bất cẩn làm bợn nhơ (pabhassaramidam bhikkhave cittam, tam ca kho àgantukehi upallilesehi upakkilittham)",
Đức Phật dạy như vậy. Và những người khác, cùng một
ý nghĩa với Phật ngôn trên, nói lên điều ấy với những danh từ khác: "Do bẩm tánh
thiên nhiên chúng sanh vốn dịu hiền, nhưng vì bất cẩn ta để cho các
ác pháp làm hoen ố."
Bằng cách
chú tâm và suy tư chân chánh về những gì ta gặp phải trong cuộc sống
hằng ngày,
kiểm soát những khuynh hướng xấu và
kềm chế những
quyến rũ, ta có thể giữ tâm khỏi bị
ô nhiễm. Khó mà
từ bỏ những gì phỉnh gạt và nắm giữ ta
trong vòng nô lệ; và khó mà
trừ khử những
tà ma quỷ quái thường
vãng lai khuấy phá tâm
con người dưới
hình thức tư tưởng bất thiện. Những
ma quái ấy là biểu hiện của tham, sân, si -- lobha, dosa và moha, đạo binh gồm ba
đơn vị của
Ma Vương (Màra). Chí đến khi vượt đến
tuyệt đỉnh cao của
trạng thái hoàn toàn trong sạch bằng cách
liên tục rèn luyện tâm, ta không thể
trọn vẹn đánh đuổi những người chủ nhà này.
Chỉ
từ bỏ suông những
hình thức bề ngoài như nhịn ăn v.v..., không có chiều hướng thanh lọc con ngưòi, những điều ấy không làm cho
con người trở nên
thánh thiện và
tránh khỏi mọi
tổn hại.
Pháp hành khổ hạnh ép xác là một
cực đoan mà
Đức Bổn Sư bác bỏ trong
Bài Pháp Đầu Tiên, kinh
Chuyển Pháp Luân, cũng như Ngài đã
loại bỏ lối sống lợi dưỡng, gọi đó là
thấp hèn. Tránh xa hai
cực đoan ấy
Đức Phật vạch tỏ cho
thế gian con đường ở giữa --
Majjhimà Patipadà, Trung Đạo -- dắt dẫn
con người đến
thanh bình an lạc,
giác ngộ và
Niết Bàn(upasamàya, sambodhàya nibbànàya). Spinoza viết: "Những gì thường xảy ra
trong đời sống và được
con người quý chuộng, xem là
tốt đẹp nhất, có thể thâu gọn làm ba điều,
giàu sang,
danh thơm tiếng tốt, và
tham vọng. Ba điều này làm cho tâm vọng động đến độ khó lòng có thể nghĩ đến gì
tốt đẹp khác."
Khát vọng của
con người quả thật là
phiền nhiễu.
Tham vọng của những
chúng sanh mù quáng đã gây nên
sân hận và tất cả những
đau khổ khác.
Kẻ thù của
toàn thể thế gian là
tham ái, do đó tất cả mọi điều xấu đến với
chúng sanh. Khi bị trở ngại vì một
nguyên nhân nào,
tham ái này
biến đổi thành
sân hận. Và
con người sa vào màn lưới mà chính mình đã giăng bằng khát vọng mong tìm khoái lạc, dường như nhện, trong màn lưới của nó. Nhưng khi được
rèn luyện trong
giới luật, phát triển trong thiền
vắng lặng, và được rọi tỏ trong ánh sáng
chân lý, bậc
thiện trí liên tục cắt đứt
trói buộc, phá tan màn lưới. Bậc
thiện trí thức xem người tự
chinh phục chính mình bằng cách diệt tận khát vọng là cao cả hơn người đã
chinh phục hằng muôn ngàn quân nơi trận địa.
Tiết chế không dùng chất say, và
gia công chuyên cần,
vững vàng củng cố hạnh
nhẫn nhục và đức tánh
trong sạch, bậc
thiện trí rèn luyện tâm mình.
Thái độ lúc nào cũng
trầm tĩnh cho thấy là
con người thấm nhuần văn hóa. Giữ
thái độ trầm tĩnh khi tất cả mọi sự việc quanh mình đều
thuận lợi thì không phải là khó lắm. Nhưng
nghiêm chỉnh điềm nhiên giữa những
hoàn cảnh không
thuận lợi thì
quả thật là khó, và chính điều khó ấy đáng cho ta
cố gắng thực hành; bởi vì do
công phu tự
kiểm soát chặt chẽ như vậy ta
xây đắp tâm tánh dũng mãnh. Tự
kiểm soát là chìa khóa mở cửa đến
hạnh phúc. Đó là chúa tể của
giới luật, là
năng lực nằm phía sau tất cả mọi
thành tựu thật sự. Hành động của người không tự
kiểm soát ắt không có
mục tiêu, không
nhất quyết vững chắc. Và người
lợi dưỡng trong nhục dục
ngũ trần như vậy cũng giống như chim gõ kiến
thèm khát, ăn cây mã đề hoang dại đến lâm trọng bịnh. Người xưa có lời dạy:
"Nếu
mãi nghĩ ngợi về nhục dục
ngũ trần,
Điều này làm khởi sanh sức
quyến rũ;
Từ
năng lực quyến rũ tăng trưởng tham vọng;
Tham vọng bật cháy lòng khát khao mãnh liệt;
Khát vọng sanh
buông lung, không
thận trọng;
Rồi từ đó quên tất cả
Để cho
mục tiêu cao cả ra đi
Và ngấm ngầm
phá hoại tâm,
Cho đến khi
mục tiêu, tâm và
con người,
Tất cả đều hư hoại."
Vì thiếu
kiểm soát mà trong tâm phát sanh đủ loại
xung đột lẫn nhau. Muốn loại trừ
xung đột ấy, ta phải kềm hãm lòng khát khao
thèm muốn và
nỗ lực sống
cuộc đời tự chế và
trong sạch.
"Thông thường
chúng ta mãi bị
trói buộc quá nhiều vào
giác quan và
trần cảnh,
chúng ta chỉ sống trong
thế gian vật chất mà lãng quên
tiếp xúc với
năng lực bên trong.
Tuy nhiên, phải tập ẩn rút vào những
thực tại bên trong. Bằng cách ẩn rút vào
im lặng ta có thể
học hỏi phương thức nhằm
chế ngự những nhược điểm và những
thiếu sót của
kinh nghiệm bình thường. Không làm vậy cuộc sống của
chúng ta thiếu
ý nghĩa, không
mục tiêu, thiếu hướng đi và không nguồn
cảm hứng."
Không phải bao nhiêu luận lý và
tranh biện về
phương cách hoàn bị
cải thiện đời sống mà dẫn
chúng ta đến
mục tiêu mong mỏi. Không phải bao nhiêu
suy cứu hay khảo sát mà đem ta một tấc đàng
đến gần đích hơn. Nhưng mỗi hành động thật sự
buông bỏ và tách rời,
xa lìa những đối tượng đã
kích thích lòng khát khao, vốn dẫn dắt ta đi sâu vào đêm tối của
vô minh và lừa phỉnh, đưa
chúng ta vào tròng
nô lệ của chúng, sẽ đưa
chúng ta đến đích, đến
hạnh phúc, đến
thanh bình an lạc.
Không có gì
mơ hồ trong
giáo huấn của
Đức Phật. Đã
hiểu biết điều gì xấu là xấu, và điều gì tốt là tốt, tại sao cần
do dự, không
nhất quyết tránh điều xấu và mạnh dạn tiến bước trên
con đường tốt? Theo trí
minh mẫn sáng suốt của người
Phật tử, họ không thể làm gì khác hơn là trau giồi điều tốt và
lánh xa điều xấu. Đối với người
Phật tử,
hành thiện là điều không
thể không làm, nếu họ
thông hiểu lời dạy của
Đức Bổn Sư:
Sabba pàpassa akaranam Kussalassa upasampadà Sacitta pariyodapanam Etam Buddhànasàsanam."Gác bỏ qua mọi ác pháp Không bỏ sót thiện pháp nào không làm, Gội rửa tâm trong sạch -- Đó là giáo huấn của các bậc Toàn Giác." (Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 183)
Dầu sao, mỗi người có thể chiến thắng nếu họ muốn. Tất cả
chúng ta không thể là chánh khách, nghệ sĩ hay
triết gia vĩ đại, nhưng quan trọng hơn, nếu muốn vậy,
chúng ta có thể là người tốt.
Lắm khi những
cố gắng của
chúng ta để
thành đạt trạng thái toàn hảo không
thành công viên mãn. Nhưng thất bại không quan trọng, ngày nào mà ta còn
thành thật quyết tâm nỗ lực. Không ai bỗng nhiên nhảy vọt đến tận
tuyệt đỉnh núi cao.
Chúng ta leo từng bậc. Như người thợ bạc
thiện xảo, từng chút, từng chút, thổi đi bợn nhơ của vàng,
con người phải
kiên trì,
gia công thanh lọc
đời sống mình,
gạn lọc những
ác pháp. Một em bé tập đứng và
dần dần bước đi một cách khó nhọc. Cùng thế ấy, trong cuộc diễn hành đến
trạng thái tuyệt hảo, tất cả những người lớn cũng
di chuyển từng giai đoạn đến
thành công cuối cùng,
xuyên qua những thất bại lặp đi và lặp lại.
Con đường mà
Đức Phật chỉ vạch để
chúng ta trau giồi tâm và làm cho tâm lớn mạnh là
pháp hành thiền. Đó là
phương cách thận trọng phát triển tâm, nhằm thâu hoạch
thành quả tuyển chọn,
hạnh phúc tuyệt đối và an nghỉ
tối thượng, không còn
mảy may vương víu tới những
phiền nhiễu của cuộc sống. Đó là
con đường luôn luôn giữ
chánh niệm, không ngừng
ghi nhận tất cả những hành động của mình.
Trông chừng và hay biết đầy đủ, đó là
yếu tố đưa
pháp hành thiền đến
viên mãn. Người mà lúc nào cũng giữ
chánh niệm và tự hay
biết mình, người ấy đã ở ngưỡng cửa của
trạng thái Vô Sanh Bất Diệt --
Niết Bàn.