“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

14/11/20224:16 CH(Xem: 4575)
“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già
“KỊCH BẢN” ĐÓN PHẬT
TRONG KINH LĂNG-GIÀ

Huỳnh Ngọc Chiến

duc phat thuyet phapTrong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật. Trong các bộ Trường Bộ Kinh hay Trung Bộ Kinh, v.v.  sau câu mở đầu “Tôi nghe như vầy” là gần như ta thấy hiện ra hình ảnh Đức Thế Tôn ngồi một cách bình dị nơi  khu vườn xoài của Kỳ-bà (Jīvaka) tại thành Vương-xá (Rājagaha), để thuyết giảng cho chúng Tỳ-kheo bằng những pháp thoại cũng bình dịdễ hiểu. Hoặc có khi Đức Phật  thuyết pháp tại các bộ lạc, hoặc các tiểu quốc, v.v.  Nhưng nói chung là Đức Phật cứ tùy nghi thuyết phápmọi nơi, trong những bối cảnh rất đổi trần gian.

Bước sang thế giới kinh điển đại thừa thì mọi chuyện đều đổi khác. Cái Bồ Đề Đạo Tràng bình dị trong các kinh Nikāya được chuyển thành một bối cảnh cực kỳ hoành tráng. Chỗ ngồi của Đức Phật biến thành sư tử tọa, thính chúng phải là hàng vạn Bồ Tát thông tuệ từ vô lượng các Phật độ cùng về vân tập. Mỗi lần Đức Phật chuẩn bị thuyết pháp là cả một kịch bản hoành tráng về không gian lẫn thính chúng, khiến ta không khỏi khâm phục trí tưởng tượng cực kỳ phong phú của những vị Bồ-tát viết kinh.

Thử nhìn thính chúng trong kinh Duy Ma (bản dịch của cố HT.Thích Huệ Hưng):  

tám nghìn chúng Đại Tỳ-kheo, hai vạn hai nghìn Bồ-tát, là những vị có tiếng tăm, đều đã thành tựu trí hạnh đại thừa, do nhờ oai thần của chư Phật lập nên. Các Ngài làm bức thành hộ pháp, giữ gìn chánh pháp, diễn nói pháp âm rất oai hùng, tự tại vô úy như sư tử rống danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không cầu thỉnh mà các Ngài sẵn sàng làm bạn giúp cho an vui. Các Ngài xương minh Tam bảo không dể dứt mất, hàng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo; sáu căn ba nghiệp đều đã thanh tịnh; trọn lìa năm món che ngăn và mười điều ràng buộc. Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoát; niệm định tổng trì  bình đẳng, biện tài thông suốt như suối tuôn không dứt. Các hạnh bồ thí, trì giớí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và sức phương tiện lợi mình lợì người thảy đều đầy đủ. Đã được đến bực vô sở đắc mà không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp nhẫn), hay tùy thuận dìễn nói pháp luân bất thối, khéo hiểu rõ chân tướng các pháp, thấu biết căn cơ chúng sanh, oai đức bao trùm đại chúng, không còn sợ sệt chi cả.

Còn đây là không gian

Bấy giờ Đức Phật nói Pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đông đảo cung kính vây quanh đấy, ví như núi chúa Tu Di hiển bày nơi bể cả. Ngài ngồi yên trên tòa Sư tử  trang nghiêm bằng các thứ báu, oai đức che trùm tất cả đại chúng… Lại nữa, các núi Tu Di, Mục Chơn Lân Dà , Đại Mục Chơn Lân Đà, Tuyết Sơn, Hương Sơn, Bảo Sơn, Kim Sơn, Hắc Sơn, Thiết Vi, Đại Thiết Vi, bể lớn, sông, rạch, dòng ngòi, nguốn suối, cũng với mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thiên cung, long cung và cùng các vị tôn thần, nơi cõi Tam thiên đại thiên thế giới này đều hiện trong lọng bảy báu, và chư Phật trong mười phương, chư Phật đang nói pháp, cũng hiện trong lọng bảy báu ấy.

Đại khái trên đây là “kịch bảnphổ biến chung để chuẩn bị cho Đức Phật thuyết pháp, mà ta thường  thấy trong phần mở đầu của hầu hết kinh điển Đại thừa, trừ kinh Nhập Lăng-già!  

Bản dịch kinh Nhập Lăng-già nổi tiếng của pháp sư Cầu Na Bạt Đà La đi thẳng vào trọng tâm của kinh chỉ bằng một chiêu thức “Nhất thiết Phật ngữ tâm” theo kiểu “khai môn kiến sơn”, chứ không  không có “vòng vò Tam Quốc”, nên ta không thấy được các bước chuẩn bị. Nhưng trong bản dịch của Thực Xoa Nan ĐàBồ Đề Lưu Chi lại có một phẩm mở đầu, giống như bản Phạn ngữ hiện nay, và chính phẩm mở đầu đó đã cho ta thấy Đức Phật cùng “phái đoàn” các Bồ-tát đến thành Lăng Già để giảng pháp được chào đón theo một kịch bản vô cùng mãn  nhãn, khác hẳn với các kinh khác. Đó là một cảnh tượng siêu nhiên hòa quyện với môi trường thế gian  một cách rất đỗi hài hòa. 

Thính chúng dĩ nhiên cũng như bao kinh điển đại thừa khác, gồm những vị Bồ-tát đã:

…du hý đối với các loại tam muội, đầy đủ [mười] tự tại, [mười] lực và [sáu] thần thông, được chư Phật dùng tay làm phép quán đảnh. Các ngài đều khéo hiểu nghĩa tự tâm sở hiện, tùy thuận theo các loại tâm hành của chúng sinhđiều phục giáo hóa; đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã, các ngài đều thông đạt rốt ráo.[1]

Lăng-già (Laṅkā) là một hòn đảo cô độc nằm giữa đại dương, một trong số các hòn đảo ở miền nam Ấn Độ. Lăng Già thường được đồng hóa với Ceylon, song các học giả vẫn chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về điểm này. Từ “nhập” ở đây có lẽ ám chỉ việc đức Phật vượt biển vào đảo để thuyết pháp, và chính vì thế mà Ngài cùng các Bồ Tát được vua thành Lăng Già  là Quỷ vương Rāvana (La Bà Na) đón tiếp cực kỳ trọng thể. Kinh được xem như do Đức Phật tuyên thuyết trong thời gian Ngài an trú tại đó. Cuộc đối thoại diễn ra giữa đức Phật với Bồ-tát Đại Tuệ (Mahamāti), là bậc thượng thủ của các Bồ Tát vân tập tại đây. Dù được tuyên thuyết tại một địa điểm xa xôi như Lăng-già, nhưng nếu so sánh với kinh Hoa nghiêm được tuyên thuyết một phần trên các cõi trời huyền bí thì dù sao thành Lăng-già vẫn còn có một nền tảng mang tính trần tục hơn.

Cảnh thành Lăng-già, trong bản dịch của Thực Xoa Nan ĐàCầu Na Bạt Đà La chỉ được mô tả chung chung là “thành này được trang nghiêm bằng hoa báu cùng vô số bảo thạch, v.v. ”, nhưng qua bản dịch của Bồ Đề Lưu Chi, địa điểm thuyết pháp đó mới được mô tả một cách tuyệt diệu qua nhiều chi tiết :

Núi này đó do vô số bảo tính tạo thành, giữa các bảo tính này, ánh sáng toả rực rỡ như trăm ngàn mặt trời chiếu sáng núi vàng. Lại có vô lượng vườn hoa, cây thơm đều là rừng hương báu, gió nhẹ thổi qua làm động cành rung lá, khiến trăm ngàn loại diệu hương nhất thời lan tỏa, trăm ngàn diệu âm nhất thời cùng phát. Núi non chập chùng khuất khúc, đâu đâu cũng có tiên đường, linh thất, khám thờ, đều do vô số vật báu tạo thành; trong ngoài cùng sáng chói khiến mặt trời mặt trăng không thể hiện ra. [2]

Rāvana, vua loài Dạ xoa, lập tức cùng chư quyến thuộc, cưỡi xe hoa [3] đi đến chỗ của Phật để thỉnh Đức Phật vào thành. Khi đến nơi, họ xuống xe, đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng từ trái sang phải. Rồi tất cả cùng tấu nhạc, dùng miếng ngọc nhân-đa-là màu xanh để gãy đủ các loại nhạc khí; đàn xong, họ đặt cây đàn tỳ bà (vīṇā) qua một bên, cây đàn đó được khảm bằng ngọc lưu ly thượng phẩm, đặt trong lớp vải vô giá màu vàng nhạt (priyaṅgu); họ xướng đủ các âm điệu, như câu lục (saharṣya), thần tiên khúc (riṣabha), trì địa điệu (gāndhāra), minh ý (dhāvata), cận văn (niṣāda), trung lệnh (madhyama), kê thi ca (kāiśika), v.v. lời ca dặt dìu theo các giai điệu thổ phong (grāma), nhã điệu (mūrchana), v.v. giọng hát hài hòa theo tiếng đàn tỳ bà, rồi đọc lời kệ để ca ngợi Đức Phật.

Các điệu khúc này không có trong các bản Hán ngữ, có lẽ các dịch giả thời đó xem đây là những chi tiết không quan trong, nên chỉ lướt qua, thậm chí bỏ qua, nhưng nhìn dưới góc độ văn hóaâm nhạc, ta sẽ  thấy có nhiều điểm vô cùng thú vị. Những tên gọi trên đây được dịch theo bản (Đ) và bản (H).

Ta có thể hình dung cảnh tượng đó như một buổi đại nhạc hội với đủ thể loại nào là Tango, Rumba, nào là  Bolero, Chachacha, nào là Valse, Paso Doble, v.v. lần lượt được diễn tấu làm nền cho những điệu múa nhịp nhàng của vô số thái nữ kiều diễm để đón chào Đức Phật cùng “phái đoàn” Bồ-tát vào thành Lăng-già. Dùng âm nhạc và thái nữ múa hát để thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, đó là một kịch bản chưa từng  thấy xuất hiện  trong kinh điển  Đại thừa. Và có  lẽ chưa bao giờ trong nền văn học Ấn Độ, kể cả trong các bộ sử thi Mahābhārata và Rāmāyaṇa lại có một cảnh tượng chào đón bằng ca vũ hoành tráng và lộng lẫy đến mức đó. Giống như một đại lễ hội trần gian!

Mức độ kỳ ảo của buổi thuyết pháp lại được nâng lên thêm một tầng khi Đức Phật, để đáp ứng tâm nguyện thiết tha cầu pháp của Rāvana cùng chư quyến thuộc, đã dùng thần lực để biến “Thành Lăng-già lộng lẫy, có vô số bảo thạch trang nghiêm, có các đỉnh núi vây quanh, các núi này tươi mát, đẹp đẽ và có lưới ngọc che phủ.” thành vô số thành Lăng-già  được trang nghiêm bằng châu ngọcvô lượng các vật bằng bảo châu lộng lẫy. Trên mỗi đỉnh núi đều hiện ra một đức Phật và Rāvana đứng đó, cùng với toàn thể pháp hội và Bồ-tát Đại Tuệ đang thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp; tất cả các quốc độ đều hiện ở đó, và nơi mỗi quốc độ đều có một bậc Đạo sư dùng diệu âm để thuyết về cảnh giới thánh trí  tự chứng.

Rồi sau đó bậc Đạo sư cùng chư Bồ-tát  biến mất trong hư không, để lại Rāvana đứng một mình trơ trọi trong lâu đài, khiến vị vua này hoát nhiên đại ngộ pháp tính (Dharmatā) cuả vạn pháp đều do tâm biến hiện.

Tiếp theo đó lại diễn ra một màn trình diễn âm nhạc kỳ diệu nữa giữa một không gian cực kỳ hoa lệ. Lúc bấy giờ, chúa tể thành Lăng-già, được Đức Thế Tôn cho phép, bèn từ chỗ ngồi trên đỉnh núi có trân bảo sáng rực rỡ như hoa sen báu bạch tịnh mà đứng dậy, có vô số thiên nữ vây quanh, với đầy đủ các loại hoa, tràng hoa, hương thơm, phan lọng, cờ xí, vòng khuyên, vương miện, khăn quấn đầu tiara lộng lẫy tuyệt vời chưa tùng có, chưa từng nghe bỗng hiện ra, âm nhạc được cử lên vang lừng hay hơn tất cả các thứ nhạc mà Trời, Rồng (Nagā), Dạ Xoa (Yaksha), Càn-thát-bà (Gandharva), RākshakaKhẩn Na La (Kinnara), Ma Hầu La Già (Mahoraga) và chúng sinh đã từng nghe; các nhạc cụ được tạo ra sánh ngang với bất cứ mọi thứ có trong cõi dục giới, và các nhạc cụ thù thắng như vậy cũng được nhìn thấy ở các cõi Phật; bao quanh Đức Thế Tôn và các Bồ-tát là tấm lưới bảo châu, vô số cờ xí phan lọng đủ loại được trương ra trong hư không, cao bằng bảy cây sa-la (talanga) để cung nghinh đức Phật; từ trên trời cao phẩm vật cúng dường rắc xuống nhiều như mây trời và âm nhạc tấu lên vang lừng, chúa tể thành Lăng-già ngồi trên đỉnh núi trân báu có những tòa sen bằng bảo châu trang nghiêm. Các tòa sen này rực rỡ chói lọi chỉ kém ánh mặt trời.  

Cảnh tượng Đức Phật dùng lực để biến hóa một đỉnh Lăng-già thành ra vô số đỉnh Lăng-già tương tự thật chẳng khác nào trò chơi kính vạn hoa. Một đối tượng sẽ hóa thân thành vô số các đối tượng khác nhau, như khi ta bước vào một căn phòng làm bằng những tấm gương phản chiếu. Đây là cảnh tượng minh họa sinh động cho cảnh giới  “tương tức tương nhập”, “viên dung vô ngại”, “nhất thức nhất thiết”, v.v.  trong tư tưởng Hoa nghiêm. Tông Hoa nghiêm thường dùng những tấm gương làm thí dụ để minh giải tư tưởng ấy. Thử dựng một căn phong nhỏ với  tám tấm gương là những bức vách ở tám hướng, thêm một tấm ở phía trên, một tấm ở phía dưới, và ở giữa ta đặt một ngọn đèn. Mỗi tấm gương phản chiếu một ngọn đèn, cùng chín tấm gương kia. Đó cũng là cảnh tượng trên đỉnh  Lăng-già qua thần lực biến hóa của Đức Phật.

Chính vì không lưu ý đến điểm này mà cả hai bản dịch của Cầu Na Bạt Đà LaThực Xoa Nan Đà có một điểm nhầm lẫn trong chương 2, là chương bắt đầu đi vào phần chính kinh. Cả hai bản đều dịch :

爾 時 大 慧 菩 薩 與 摩 帝 菩 薩 。俱 遊 一 切 諸 佛 剎 土 。承 佛 神 力 。從 坐 而 起 偏 袒 右 肩 右 膝 著 地 合 掌 恭 敬 。以 偈 讚 曰 : ( Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ cùng các Bồ-tát Đại Tuệ khác , vốn đã từng cùng nhau dạo chơi tất cả các cõi Phật, nương thần lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, vạch vai áo phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, dùng kệ tán thán Thế Tôn).

Cả hai bản dịch nổi tiếng này đều ghi là  Bồ-tát Đại Tuệ và Bồ-tát Ma Đế, tức tất cả hai vị, nhưng trong nguyên văn Phạn ngữ không có từ Ma Đế (Mati), mà vẫn là Đại Tuệ (Mahāmati).

Bản (S) dịch cũng không có Bồ-tát Ma Đế :

At that time Mahamati the Bodhisattva-Mahasattva who had visited all the Buddha-lands, together with all the Bodhisattvas, …” (Lúc bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ, vốn đã dạo chơi tất cả các cõi Phật, liền cùng tất cả những vị Bồ-tát khác…;

Bản (B) là dịch sát nguyên bản Phạn ngữ :

爾 時 聖 者 大 慧 菩 薩 與 諸 一 切 大 慧 菩 薩 。俱 遊 一 切 諸 佛 國 土 …” (Lúc bấy giờ, bậc giả thánh giả Bồ Tát Đại Tuệ cùng tất cả những Bồ-tát Đại Tuệ khác đã cùng nhau dạo chơi tất cả các cõi Phật…),

Bản dịch tiếng Việt của cư sĩ Tuệ Khai: “Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ-ttát cùng tất cả những Bồ tát đại tuệ đều du hành ở tất cả đất nước chư Phật…,”[4] nhưng “Bồ-tát Đại Tuệ” ở đây lại được hiểu theo nghĩa là những “Bồ-tát có trí tuệ vĩ đại”, chứ không phải là tên riêng. Chỉ có bản (H) dịch sát nguyên tác Phạn ngữ và lý giải điểm này cực kỳ lý thú: do trước đó Đức Phật dùng thần lực biến hóa ra vô số pháp hội của thành Lăng-già để điểm hóa Rāvana về “vạn pháp duy tâm”, trong mỗi pháp hội đó đều có một Bồ-tát Đại Tuệ thỉnh pháp, nên tất cả những Bồ-tát Đại Tuệ ở chương này đều là một Đại Tuệ duy nhất, được biến hóa ra từ một “bản gốc Đại Tuệ”. Nhất thiết tức nhất!

Kịch bản này dường như không lặp lại lần thứ hai trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Và có một chi tiết lý thú là các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác từ vô lượng kiếp trong trong quá khứ vẫn luôn ghé về thành này để giảng thuyết cùng một nội dung là cảnh giới thánh trí tự chứng. Ở đây, ta tưởng chừng như gặp lại tư tưởng Quy Hồi Vĩnh Cửu của Nietzche.

Mối quan hệ giữa chương mở đầu kỳ lạ này với nội dung kinh Nhập Lăng-già vẫn đang là một huyền án đối với các nhà nghiên cứu Phật học. Chưa bao giờ kinh điển Phật giáo lại mô tả âm nhạc cặn kẽ và hào hứng đến thế. Phải chăng dùng âm nhạc để mở màn cho việc thuyết pháp là điểm lôi cuốn các đoàn truyền giáo trong quá khứ? Hay nó còn ẩn chứa một mật ý nào đó mà những vị Bồ-tát viết kinh muốn gởi gắm lại cho chúng ta? 

Ghi chú :

[1]   Những đoạn viết và trích dẫn liên quan đến nội dung kinh Nhập Lăng-già trong bài ày đều dựa vào ba bản dịch dưới đây: (1) The Lankavatara Sutra, a Mahayana text, translated from the Sanskrit by Daisetz Teitaro Suzuki, The Prajñā Press, 1978; viết tắt là bản (S); (2). Nhập Lăng-già kinhPhạn bản tân dịch 入 楞 伽 經 梵 本 新 譯, Đàm Tích Vĩnh dịch, Toàn thư văn hóa hữu hạn công ty, 2005; viết tắt là bản (Đ); (3). Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經 (Phạn Hán đối chiếu), Hoàng Bảo Sinh dịch, Trung Quốc Xã hội Khoa học xuất bản xã, 2018; viết tắt là bản (H).

[2]. 彼 山 種 種 寶 性 所 成 。 諸 寶 間 錯 光 明 赫 炎 。 如 百 千 日 照 曜 金 山 。 復 有 無 量 花 園 香 樹 皆 寶 香 林 。 微 風 吹 擊 搖 枝 動 葉 。 百 千 妙 香 一 時 流 布 。 百 千 妙 音 一 時 俱 發 。 重 巖 屈 曲 處 處 皆 有 仙 堂 靈 室 龕 窟 。 無 數 眾 寶 所 成 。 內 外 明 徹 日 月 光 暉 不 能 復 現 。(Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經, Bồ Đề Lưu Chi 菩 提 留 支, CBETA, 大 正 新 脩 大 正 藏 經, Vol. 16, No. 672.

[3]   Xe hoa (pauṣpakam vimānam) chỉ loại xe thần bay trong không trung, được trang trí bằng các loại hoa trời. Vimānam thường được dùng để chỉ cung điện, nên bản Thực Xoa Nan Đà dịch là “hoa cung điện 花 宮 殿”, nhưng nó cũng được dùng để chỉ loại xe bay. Pauṣpakam là tên xe. Xe hoa ở đây giống như các loại loan xa (xe loan) mà thần tiên dùng để cưỡi trên không, trong truyện cổ Trung Quốc.

[4]   https://thienphatgiao.org/kinh-nhap-lang-gia-tue-khai-dich/2/

(huynhngocchien.com)
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 189050)
01/04/2012(Xem: 34549)
08/11/2018(Xem: 13440)
08/02/2015(Xem: 51663)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.