Đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ 14 & Mike Austin
VẦNG SÁNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG
Thích Nhuận Châu dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Lao Động
LUÂN HỒI VÀ CHÚNG SINH
MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ thế nào về việc đạo Phật được truyền đến Hoa Kỳ và các
nước phương Tây?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôn giáo không có biên giới. Có một số người Mỹ quan tâm đến
đạo Phật, và nếu đạo Phật có ích cho họ, thì như vậy là đủ rồi.
MIKE AUSTIN: Nói chung, không chỉ là sự quan tâm đến đạo Phật, mà còn có sự
kiện phục hưng đời sống tâm linh ở quốc gia này trong 15 năm qua. Ngài cho rằng
điều gì đã gây ra sự kiện này?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có thể là nhờ vào sự phát triển vật chất, và văn hóa Hoa Kỳ là
một sự pha trộn nhiều nền văn hóa. Vì thế, người Mỹ rất cởi mở đối với bất cứ
điều gì. Hẳn phải có nhiều yếu tố, như cạnh tranh nhiều trong công việc và
những điều tương tự như vậy... khiến cho người ta phải đối mặt với những khó
khăn, và ngoài ra họ còn trở nên quan tâm đến điều gì đó nghiêm túc hơn. Bạn
thấy đó, họ trở nên sâu sắc hơn.
MIKE AUSTIN: Từ trong khó khăn nảy sinh mối quan tâm đến sự phát triển tâm
linh?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu tâm loạn động, chỉ cần quán tưởng về một điểm hay một đề
tài trong một thời gian ngắn thì sẽ có được sự an tĩnh. Từ ban sơ, con người đã
trở nên bị thu hút vào loại hình sinh hoạt này vì nó giống như một bữa tiệc
tinh thần hay một kỳ nghỉ. Và không chỉ là đạo Phật, mà là tất cả những
tôn giáo của phương Đông.
MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ gì về những lễ nghi tôn giáo? Con người từ bỏ tư cách cá
nhân của mình trước một vị giáo chủ hay đấng quyền năng?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Để trả lời điều này, tôi sẽ nói về cách đánh giá một bậc thầy
trong đạo Phật. Giáo lý mà đức Phật truyền dạy không phải là để phô bày kiến
thức với người khác, mà là để giúp họ. Vì thế, bất luận tư tưởng hay nhận thức
riêng của mình là như thế nào, một bậc thầy luôn giảng dạy giáo lý phù hợp theo
với cá tính, sự quan tâm... của người nghe. Những người học Phật, nếu muốn xác
định được ý nghĩa rốt ráo thì phải phân biệt giữa những gì có thể diễn giải -
như khi được nói ra vì một mục đích cụ thể - và những gì là rốt ráo, hay chân
lý tuyệt đối. Nếu trong sự phân định những gì là có thể diễn giải và những gì
là sự thật tuyệt đối trong một kinh điển, người ta phải dựa vào một kinh điển
khác, thì lại phải cần đến một kinh điển khác nữa để xác tín kinh điển trước
đó, và thêm một kinh điển nữa để xác tín kinh điển sau này. Sự việc sẽ có thể
kéo dài đến vô cùng. Do vậy, một khi người ta đã khẳng định rằng có sự phân
biệt hai ý nghĩa này, thì cần thiết phải dựa trên sự suy luận để thực thi.
Những gì không bị phá vỡ bởi sự suy luận, đó là chân lý tuyệt đối. Do có thực
tế này, đức Phật đã chỉ ra bốn chỗ y cứ (tứ y):
- Không y cứ vào con người, mà y cứ vào giáo pháp (Y pháp bất y nhân).
- Về giáo pháp, không y cứ vào từ ngữ, mà y cứ vào ý nghĩa (y nghĩa bất y ngữ).
- Về ý nghĩa, không y cứ vào ý nghĩa diễn giải, mà y cứ vào chân lý tuyệt đối
(y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh).
- Về chân lý tuyệt đối, không y cứ vào sự nhận hiểu của ý thức thông thường, mà
y cứ vào sự hiểu biết của trí tuệ siêu việt (y trí bất y thức)
Do đây, độ tin cậy của giáo pháp không thể xác định qua việc đánh giá người
giảng dạy, mà phải qua sự thẩm định chính giáo pháp ấy.
Trong kinh, đức Phật dạy rằng: “Các tỳ-kheo và thiện tri thức nên tin nhận lời
dạy của Như Lai không phải do lòng kính trọng mà là qua sự phân tích giáo lý
ấy, như người thợ kim hoàn phân tích chất vàng bằng cách cắt đứt, nung chảy,
mài giũa và đánh bóng nó.”
Người ta không chỉ xác định rằng đức Phật là cội nguồn nương tựa đáng tin cậy
bởi sự kiện là thân tướng đức Phật được trang nghiêm bằng những tướng tốt chính
và phụ, mà bởi vì giáo pháp của ngài để thành tựu các cảnh giới cao và sự chí
thiện là đáng nương cậy. Vì giáo lý dành cho các cảnh giới cao đề cập đến vật
thể, có liên quan đến những hiện tượng rất ẩn mật và vượt ngoài những tiến
trình suy luận thông thường, nên cần thiết phải tham cứu đạo Phật để thành tựu
sự chí thiện.
Một cách cụ thể, đây là những giáo lý về nhận thức trí tuệ tánh không. Thông
qua sự xác định rằng giáo lý ấy là đúng đắn và hiển nhiên, người ta sẽ đi đến
kết luận rằng giáo lý về các cảnh giới cao là chân xác. Như ngài Pháp Xứng đã
nói, bậc đạo sư phải là người khéo léo trong cách tiếp xử, cái gì thừa nhận và
cái gì loại trừ. Người ta không thể nào chấp nhận một bậc thầy chỉ vì người ấy
thi thố phép lạ, có khả năng thấu thị, nhìn thấy những vật từ xa hoặc có khả
năng thể hiện những năng lực vật lý nào đó. Dù người ta có thể nhìn thấy được
từ xa hay không cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng là người ta biết cách để
đạt được sự an lạc - như ngài Pháp Xứng nói. Nếu chỉ cần thấy được vật thể từ
xa, thì người ta nên quy y con chim kên kên! (Đây là ý trong bài kệ căn bản của
Lượng thích luận.)
Tất cả những điều này là để cho thấy rằng một bậc thầy phải có đầy đủ phẩm chất
khi giải thích những gì được thừa nhận và những gì phải loại trừ. Do vậy, trong
tạng Kinh, Luật và trong nhiều phần khác nhau của các tan-tra, đức Phật đề ra
một cách chi tiết những phẩm hạnh của các bậc thầy ở từng cấp độ khác nhau.
Sự phân tích về một bậc thầy để xem vị ấy có đủ các phẩm hạnh hay không là điều
rất quan trọng trước khi chấp nhận. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong
việc tu tập tan-tra. Trong một tan-tra có nói rằng vì sự nguy hiểm rất lớn cho
cả thầy lẫn trò, nên nhất thiết phải tìm hiểu kĩ lưỡng trước đó, cho dù có phải
mất đến 12 năm để đi đến một kết luận.
Trong đạo Phật, nếu chỉ có niềm tin là đủ thì đức Phật hẳn không cần phải đề ra
những chi tiết quan trọng đến thế liên quan đến việc chọn lựa một bậc thầy.
Trong sự tu tập Tan-tra, pháp tu Du-già Tan-tra là rất quan trọng. Nhưng cho dù
là quan trọng, nó cũng không được thực hiện trên nền tảng của niềm tin mù
quáng. Trong Giới kinh có nói rằng nếu một vị Lạt-ma giảng dạy trái ngược với
giáo lý thì người ta nên phản đối điều đó.
Một bản kinh được trích dẫn trong tác phẩm Bồ-đề đạo thứ đệ của Tông-khách-ba
nói rằng người ta nên nương tựa vào vị Lạt-ma bằng cách tán thành những gì phù
hợp với giáo lý và phản đối những gì không phù hợp. Đây là một bản kinh trong
Bồ Tát tạng.