NỀN TẢNG PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG
NHỊ ĐẾ ĐƠM HOA TRÊN ĐẤT TRUNG QUỐC
(Foundations of T'ien T'ai Philosophy)
Paul L. Swanson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Phần phụ chú bản dịch
1. Mục tthứ nhất là phần lưu thông của tất cả các kinh (đọc nội dung Fa hua hsuan i, pp. 159-163). Từ đây cho đến chương cuối của Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Thiên Thai Trí Khải luận về những giáo pháp đặc thù và ý nghĩa kinh Pháp Hoa.
2. Giáo pháp của Phật khác nhau tùy thời điểm [vì muốn] khế hợp với căn cơ thính chúng, nhưng bản hoài và giáo lý căn bản được Phật nhấn mạnh thì là một.
3. Một cách rốt ráo, tất cả thiện hạnh là Bồ tát hạnh chân chánh với mục tiêu duy nhất là đưa chúng sinh đến Phật quả.
4. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, 500 vị tỳ khiêu hỏi ngài Xá Lợi Phất về nhân tái s inh luân hồi, và mỗi vị trình bày cách hiểu của riêng mình đối với câu trả lời đưa đến tứ quả A la hán. Có người nói rằng vô minh và tham ái làm nhân tái sinh luân hồi; người khác cho rằng từ trói buộc và năm món dục, nghiệp v.v... Ngài Xá Lợi Phật thưa hỏi Phật vị tỳ khiêu nào trong 500 vị đã trả lời đúng, Phật đáp rằng “Không có ai sai”. Đọc T12, 820b2-19; Yamamoto III, 868-869.
5. Phẩm thứ tám về không-hai, kinh Duy Ma Cật, 31 vị Bồ tát (ngài Văn Thù Sư Lợi là vị thứ 32), mỗi người nói ra cái hiểu của riêng mình về “vào pháp không-hai” (advaya-dharma-mukkhpravesa). Ngài Văn Thù tán thán tất cả rằng “tất cả những gì đã nói đều đúng”. Tuy nhiên, ngài Văn Thù nói thêm rằng, vì họ đã dùng ngôn từ để diễn đạt cái hiểu của họ về pháp không-hai nên lối giải thích của họ vẫn hàm chứa nhị nguyên. Tiếp theo là bối cảnh quan trọng khi ngài Văn Thù hỏi ngài Duy Ma Cật nghĩ gì về pháp không-hai, và ngài Duy Ma Cật yên lặng, là sự “diễn đạt” viên mãn ý nghĩa không-hai. T14, 550b-551a; đọc thêm bản dịch Anh ngữ của Sara Boin về tác phẩm L'enseignement de Vimalakirti, 1976, 188-203 của Lamotte.
6. The Shakusen kogi chỉ cho Đại Trí Độ Luận, mục 48-3 (T25, 402a), nhưng tôi chưa tìm được đoạn văn khế hợp. Đọc Bukkyo taikei-i, 421.
7. Sổ tức quán. Trung Hoa thường nhìn đây là pháp thiến quán Tiểu thừa.
8. Thiên Thai Trí khải thường dùng cụm từ nầy để nói về mục tiêu hành trì “bất khả đắc”. Vì tất cả các pháp thiếu tự tánh nên không có gì gọi là chứng đắc. Một cách giải thích hoặc sử dụng khác nhóm chữ nầy là cái được nói đến vượt ngoài ngôn từ, tức là người ta không thể nắm bắt một cách khái niệm các pháp bắt nguồn từ đâu, đi về đâu, là cái gì v.v..., vì chúng là không.
9. Hoặc “nguyên lý thực hành”.
10. Gunabhadra là một người Bà La Môn từ Trung Ấn đến Trung quốc vào đầu thế kỷ thứ 5. Đọc phần tiểu sử trong Kao seng chuan, T50, 340a-342b. Dẩn chứng nầy tìm thấy ở cuối phần tiểu sử 342a 21.
11. T25, 190c3. Bài kệ tiếp tục: “những tên gọi khác nhau được dùng khế hợp với căn cơ chúng sinh”. Lamotte, với bản dịch Pháp ngữ Le Traité de la Grande Vertu de Sagesse 1949, Vol. 2, 1062:
La Prajna est un Dharma unique
Auquel le Buddha applique toutes sortes de noms;
Selon les capacites des êtres,
Il lui applique des vocables différents.
12. Đọc kinh Đại Bát Niết Bàn, phần thuyết về ý nghĩa giải thoát. T12, 632a 26- 635c8; Yamamoto I, 115-130.
13. Đọc kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 810b8-12; Yamoto III, 830.
14. Đọc ẩn dụ về căn nhà lửa trong kinh Pháp Hoa, T9, 14c17-18; Hurvitz, Lotus Sutra, 71.
15. Đọc ẩn dụ về căn nhà lửa trong kinh Pháp Hoa, T9, 15a13; Hurvitz, Lotus Sutra, 74.
16. Một từ thường được dùng trong Đại Trí Độ Luận, kinh Pháp Hoa, và Phật học Thiên Thai Tông, chỉ cho một khía cạnh khả hữu của thực tại. Đọc phẩm “Phương Tiện”, kinh Pháp Hoa, T9, 5a-b; Hurvitz, Lotus Sutra, 22ff. Hoặc, trong phần giới thiệu kinh Pháp Hoa “giáo lý về thực tướng của các pháp mà Ta đã thuyết cho các ngươi”( Hurvitz, Lotus Sutra, 19).
17. Một câu quan trọng khác trong phẩm “Phương Tiện”, kinh Pháp Hoa. Đọc T9, 7a- b; Hurvitz, Lotus sutra, 30ff.
18. Đây là những việc người cha giao phó cho người con nghèo cùng để giúp người con trưởng thành. Đọc ẩn dụ về người cùng tử, kinh Pháp Hoa; Hurvitz, Lotus Sutra, 87, T9, 16b-17.
19. Ekabhumi. Chỉ cho một mặt đất làm nền móng cho cỏ cây đâm chồi. Đọc ẩn dụ về các loại cỏ thuốc, kinh Pháp Hoa, T9, 19b5. Hurvitz, Lotus Sutra, 101-102, được phiên dịch như sau: “Một đám mây dày đặc bao phủ, che trọn ngàn triệu thế giới, và cùng lúc mưa rơi khắp đây đó như nhau, thấm nhuần mọi nơi. Cỏ cây, buội rừng, và các cỏ thuốc, hoặc rễ, thân, cành, lá nhỏ; hoặc rễ, thân, cành, lá bậc trung; hoặc rễ, thân, cành, lá lớn rộng; tất cả các cây, lớn và nhỏ; hoặc cao, hoặc vừa tầm, hoặc thấp; tất cả đều tiếp nhận được [nước mưa]. Cùng một đám mây tuôn mưa tưới khắp, xứng hợp nên kết hoa, trổ trái Dù rằng từ một mặt đất, cùng một cơn mưa, nhưng cỏ cây có khác”.
20. Một câu kinh khác từ phẩm thứ năm, kinh Pháp Hoa: T9, 20b22. Hurvitz, Lotus Sutra, dịch như sau; “Nầy Ca Diếp, phải nên biết rằng, đưa ra nhân duyên và các ẩn dụ khác nhau, Ta vì muốn chỉ bày Phật đạo, đây là pháp phương tiện. Chư Phật cũng giống như vậy. Nay, vì ông, Ta thuyết ra lời rất mực chân thực...”.
21. Một tên gọi khác của mục tiêu tối thượng Bồ đề, hoặc Niết Bàn. Được dùng để chỉ mục đích của những người đi tìm châu ngọc trong phẩm thứ bảy, Hóa Thành Dụ, kinh Pháp Hoa, T9, 26a24. Hurvitz, Lotus Sutra, 148, dịch như sau: “Hết lòng mong muốn vượt qua đoạn đường nầy để đến được nơi chôn dấu kho tàng trân bảo”.
22. Chỗ nầy chỉ cho ẩn dụ hạt châu cột trong chéo áo của người bạn nghèo khó, phẩm thứ tám, kinh Pháp Hoa, T9, 29a. Hurvitz, Lotus Sutra, 164-165, dịch như sau: “Có một người nam kia tìm đến nhà một người bạn thân, say rượu nằm [ngủ]. Lức ấy, người bạn kia có việc phải đi ngay nên cột một hạt châu vô giá vào áo người bạn nầy, để đó rồi lên đường. Người nam thứ nhất khi tỉnh rượu thì chẳng biết việc gì [đã xảy ra]. Sau khi khỏe trở lại người nầy tha phương tìm cầu sự ăn mặc. Khó khăn vất vã mà chẳng kiếm được nhiều. Sau một thời gian, tình cờ gặp lại người bạn cũ, người bạn nầy nói rằng: “tại sao anh vì một ít vật thực mà ra nông nỗi nầy?. Lúc trước, tôi vì muốn anh khỏi phải nhọc nhằn, vui hưởng năm món dục, ngày ấy tháng ấy đã cột một hạt châu vô giá vào chéo áo anh. Hẳn rằng hạt châu vẫn còn đó. Vì anh chẳng biết nên chịu khốn khó tìm cầu ăn mặc. Anh thật ngu muội quá đỗi. Nay anh chỉ cần lấy hạt châu nầy ra, đổi lấy những vật cần dùng, chẳng phải chịu nghèo khó nữa.”. Đức Phật cũng như vậy...
23. Một câu kinh từ phẩm thứ 11, kinh Pháp Hoa, T9, 32b28-29. Hurvitz, Lotus Sutra, 183, dịch như sau: “Hy hữu thay, Đức Thích Ca, bậc thầy của thế gian, với trí tuệ lớn rộng bình đẳng đã thuyết ra Bồ tát pháp, Ngài có thể thuyết vô số diệu pháp mà chư Phật hằng giữ gìn”.
24. Tất cả những khái niệm, văn cú, và ẩn dụ nầy trình bày ý tưởng rằng mặc dù thực tại qua ngôn từ và khái niệm có khác, nhưng rốt ráo chỉ là Một.
25. Có ý nói rằng nếu các kinh được thuyết ra từ chư Phật thì hẳn nhiên là giáo lý khác nhau.
26. Cũng có thể dịch là “nghĩa đen” hoặc “tạm thời”. Đây là chữ Thiên Thai Tông dùng để phân loại nội dung những kinh điển và giáo pháp khác nhau, chỉ cho Tạng giáo, Thông giáo, và Biệt giáo được thuyết tùy duyên.
27. Đây là pháp đối trị pháp “khế cơ”, chỉ cho giáo lý Pháp Hoa viên mãn, vượt trên giáo lý hữu vi hạn hẹp của Tạng giáo, Thông giáo, và Biệt giáo, được thuyết giảng tùy duyên.
28. Đó là, căn cơ tu tập và chứng đắc của tất cả chúng sinh không giống nhau.
29. Ẩn dụ về người cùng tử, phẩm 4, kinh Pháp Hoa, T9, 17a15ff. Hurvitz, Lotus Sutra, 87, dịch như sau: “Rồi một ngày kia, nhìn qua cửa, ông thấy người con vóc hình tiều tụy, phân đất bụi bặm bám đầy người. Lập tức, ông cởi bỏ chuỗi ngọc, bộ áo sang quý và các đồ trang sức; khoác vào người chiếc áo vải thô dơ bẩn, lại lấy bụi đất làm cả người lấm lem, tay phải cầm lấy đồ hốt phân dơ. Dáng điệu nghiêm nghị, ông nói với các người giúp việc: “Các người hãy làm việc! Đừng biếng nhác!”. Dùng phương tiện nầy, ông đến gần người con của mình. Sau đó nói với người nầy: “Còn anh nầy, hãy luôn ở lại đây làm việc, đừng đi đâu khác!. Ta sẽ gia tăng tiền công cho anh... Từ nay anh cũng như con ta vậy”. Câu chuyện nầy, trong những chuyện khác, biểu thị phương tiện thiện xảo của Đức Thích Ca Mâu Ni khi rời tòa báu Bồ đề, và thuyết pháp tại Lộc Uyển.
30. Ý nghĩa của câu nầy không rõ ràng, nhưng tôi tin rằng chỉ cho Tạng giáo, vì câu kế tiếp chỉ cho ba giáo pháp còn lại. Nói cách khác, lối giải thích thuộc Tạng giáo thích hợp cho một số người, tức hàng Thanh văn, như dọn rửa nhà xí là việc làm thích hợp cho người con ngu muội vào lúc đó. Thiên Thai Đại sư nói rằng không nên phổ thông hóa những phương tiện thiện xảo nầy. Không phải rằng ai cũng cần dọn rửa nhà xí, và hạnh Thanh văn thuộc Tiểu thừa thì không phải hoàn toàn thích hợp.
31. T9, 6c19. Hurvitz, Lotus Sutra, 28, dịch như sau: “Thôi hãy dừng lại, đừng nên nói nữa. Pháp của Ta vi diệu khó nghỉ bàn. Những kẻ tăng thượng mạn kia, nếu có nghe thấy, chắc hẳn sẽ không tin nhận”.
32. Chỉ cho sư Huệ Quán, một môn đồ của pháp sư Cưu Ma La Thập. Theo tiểu sử trong Kao seng chuan, T50, 368b-c, sư Huệ Quán viết luận đề “Pháp Hoa Tông Yếu Tự”, pháp sư Cưu Ma La Thập rất khen ngợi. Tập sách nầy không còn lưu truyền, ngoài bài tựa còn lại trong Xuất Tam Tạng Ký Tập, T55, 57a-b.
33. So sánh T55, 57a8.
34. Sư Huệ Quán dẩn chứng, T55, 57a9-10. Đọc ẩn dụ căn nhà lửa, phẩm thứ ba, kinh Pháp Hoa, T9, 15a7-8.
35. So sánh T55, 57a23-24.
36. Từ phẩm thứ hai, kinh Pháp Hoa, T5c25. Hurvitz, Lotus Sutra, dịch như sau; “các pháp nầy chẳng thể chỉ bày; lời, là những ký hiệu, chính nơi đó là tịch tịnh”.
37. Huệ Cơ là vị pháp sư đã viết bài luận về kinh Pháp Hoa trong ba chuan. Đọc Kao seng chuan, T50, 379a-b.
38. Ba con đường chứng đạo khác nhau từ tam thừa, tức tứ thánh đế của Thanh văn, duyên sinh (pratityasamutpada) của Duyên giác, và lục độ ba la mật của Bồ tát.
39. Ba mục tiêu A La Hán, Bích Chi Phật, và Bồ Tát.
40. Không rõ chỗ nầy chỉ cho một hoặc nhiều pháp sư. Có thể nói đến một pháp sư nào đó ở phương Bắc, hoặc nói tổng quát các pháp sư của Thập Địa Luận, Đọc các học giả Địa luận.
41. Chỉ cho sư Pháp Vân (467-529), một trong ba đại học giả đời Lương. Đọc chi tiết, chương 8.
42. Thiên Thai Đại Sư muốn nói đến tập “Pháp Hoa Nghĩa Ký”, đọc T33, 572c-574a. đặc biệt 572c14ff. Đại sư tóm lược cách giải thích về chữ “diệu” và kinh Pháp Hoa của sư Pháp Vân.
43. So sánh với nguyên văn Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân, T33, 573a 24-29.
44. Shakusen kogi cho rằng đây là học thuyết của các học giả Thành Thật Luận. Đọc Bukkyo Taikei, Fa hua hsuan i, I 445.
45. Đệ Cửu Vô Ngại Đạo, bậc thứ chín diệt phiền não, [hành giả không còn] phiền não làm chướng ngại. Theo A tỳ đạt ma, chỗ nầy gọi là Vô Gián Đạo (anantara- marga). Đọc ghi chú 53.
46. So sánh với nguyên văn Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân, T33, 573a29-b3.
47. Thiên Thai Trí Khải muốn nói đến bốn hạng kiến hoc và tư hoặc:
Kiến hoặc trong ba cõi
Tư hoặc trong cõi dục
Tư Hoặc trong cõi sắc
Tư hoặc trong cõi vô sắc
48. So sánh với nguyên văn Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân, T33, 573b3-9.
49. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh: những đặc tính của Niết Bàn và Như Lai Tạng, là một trong những đề mục của kinh Đại Niết Bàn, bốn đặc tính nầy thường xuất hiện trên những trang kinh. Thí dụ, đọc phẩm Trường Thọ thứ tư, T12, 622a.
50. So sánh với nguyên văn Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân, T33, 573b12-20.
51. Đọc Hóa Thành Dụ, phẩm thứ 7, kinh Pháp Hoa, 148ff. Ẩn dụ nói về một nhóm đông người trên đường khó khăn tìm nơi chôn dấu kho tàng. Mọi người mỏi mệt, chợt nhìn thấy từ xa hiện ra một tòa thành khiến họ phấn khởi tiếp tục cuộc hành trình.
52. So sánh với nguyên văn Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân, T33, 573b20-c1.
53. Theo A tỳ đạt ma, ba cõi dục, sắc và vô sắc mỗi cõi có chín thứ lớp kiến hoặc và tư hoặc. Con đường diệt những hoặc nầy gọi là anantara-marga, và đến chỗ diệt được những hoặc nầy gọi là vimukti-marga. Đọc T27, 318a.
54. Ý nghĩa câu nầy không rõ ràng, tôi chưa thể tìm được đoạn văn tương ưng trong Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân.
55. So sánh với nguyên văn Pháp Hoa Nghĩa Ký của sư Pháp Vân, T33, 573a1-9.
56. Niết bàn. Đọc ghi chú 21 và 51 trong ẩn dụ về hóa thành.
57. Bốn thứ lớp của kiến hoặc và tư hoặc, và căn bản vô minh. Đọc ghi chú 47.
58. Vì Thông giáo nhấn mạnh trên Không. Ở đây Thiên Thai Trí Khải phê bình sư Tăng Triệu và pháp sư Cưu Ma La Thập, và gián tiếp phê bình các học giả Tam Luận Tông việc chỉ chuyên chú vào giáo lý về Không.
59. Vì sư Pháp Vân là người chú giải kinh Pháp Hoa có uy thế, Thiên Thai Đại Sư nhắm vào ông, và cho thấy rằng phê bình toàn bộ chú giải của sư Pháp Vân cũng không khác với việc phê bình tất cả những chú giải khác về kinh Pháp Hoa.
60. Tôi chưa thể tìm được phần dẩn chứng nầy, nhưng đọc Đại Trí Độ Luận, T25, 389c16: “Đi trên đại thừa, hành giả chứng đắc tất cả trí tuệ, và chuyển bánh xe pháp”. Tại điểm nầy, Thiên Thai Trí Khải giới thiệu Tứ Nhất rằng giáo, hành, nhân, và lí là một thực tại hợp nhất. Phần dẩn chứng thứ nhất là Giáo Nhất.
61. Visesacinta-brahmapariprccha Sutra, T15, 33-62, là một bản kinh Đại thừa do pháp sư Cưu Ma La Thập dịch năm 402; nhấn mạnh trên pháp bất nhị của Luân hồi và Niết bàn, tánh đồng nhất của tất cả các pháp, và các mặt khả hữu của chân lí. Chỗ dẩn chứng nầy tìm thấy trong mười bài kệ về biến hạnh của chư Bồ tát. Đại sư dẩn chứng bài kệ gần nhất, T15, 37c23-25: “Hiểu rõ ràng các pháp không hoài nghi rằng không hề có sự phân biệt giữa đạo và vô-đạo, và tâm ô nhiễm; đây là biến hạnh của chư Bồ tát.” Thiên Thai Đại Sư dẩn chứng chỗ nầy để trình bày lớp thứ hai là Hành Nhất.
62. Shakusen kogi cho rằng đây là phẩm thứ 45 của bản dịch cũ kinh Hoa Nghiêm, đọc T9, 683c19-684. Đây là mục đầu của phẩm Nhập Pháp Giới, nhấn mạnh rằng hành giả không cần phải dùng thân tứ đại, hoặc bằng bất cứ đường lối nào, đi đến nơi nào khác để vào pháp giới, rằng không cần phải rời vườn Lộc Uyển là nơi Đức Thích Ca đang thuyết pháp để tìm đến một cảnh giới viên toàn, rằng cảnh giới của chư Phật và cõi chúng sinh, Niết bàn và Luân hồi là Một. Đây là chỗ trình bày lớp thứ ba là Nhân Nhất.
63. Đây là câu cuối trong “Bài pháp Bồ đề đạo tràng của kinh Duy Ma Cật”, T15, 542c15-543a5. Đoạn văn từ bản dịch của pháp sư Cưu Ma La Thập, T14, 543a4-5 thì hơi khác một chút; Boin, 98, dịch như sau: “Đây là chỗ thâm nhập hoàn toàn tất cả pháp trong một niệm (citaikaksanikah sarvadharmaniravasesadhigamah) vì đã đạt đến đại trí (sarvajnajnanasamudagamat)”. Đây là chỗ trình bày lớp thứ tư là Lí Nhất.
64. Phật tánh. Thiên Thai Đại Sư chia Phật tánh làm ba đề mục, hoặc ba loại nhân chứng đắc Bồ đề: “chánh nhân Phật tánh” tức tất cả chúng sinh đều vốn có Phật tánh. Chỗ nầy hợp với cảnh giới khách quan trong việc chứng đạo. “Liễu nhân Phật tánh” tức trí tuệ chiếu soi hoặc chứng ngộ Phật tánh vốn có. Chỗ nầy hợp với vai trò của trí trong việc chứng đạo. “Duyên nhân Phật tánh”, duyên và hành của Phật đạo, đưa đến sự chứng được trí tuệ. Chỗ nầy hợp với vai trò của hành trong việc chứng đạo. Đọc đồ biểu 7.
Nói cách khác, Thiên Thai Trí Khải phê bình sư Pháp Vân đã bất nhất khi cho rằng giáo lý Pháp Hoa là “quảng”. Sư Pháp Vân phân loại kinh Đại Bát Niết Bàn, [nói rằng kinh nầy] dạy rõ về Phật tánh phổ khắp, siêu việt hơn kinh Pháp Hoa, là bản kinh không dạy về Phật tánh như vậy. Nếu thực vậy thì tại sao ông lại còn nói rằng giáo lý về nhân Phật tánh của kinh Pháp Hoa là sâu rộng?. Để không mâu thuẩn, Thiên Thai Trí Khải nói, sư Pháp Vân phải tự cho rằng giáo lý trong kinh Đại Bát Niết Bàn “rộng hơn” cho nên siêu việt hơn giáo lý kinh Pháp Hoa. Chi tiết về luận đề nầy, đọc chương 8.
65. “Các nhân vô thường, hoặc giới hạn”.
66. Đọc phẩm “Như Lai Thọ Lượng”, kinh Pháp Hoa, T942a29ff. Câu “hai lần số trên” thấy trong T9, 42c23. Hurvitz, Lotus Sutra, dịch đoạn văn nầy như sau: “Cũng như vậy, từ ta chứng đạo đến nay trải hằng vô số kiếp. Thọ mạng của Ta hằng a tăng kỳ kiếp khó tính đếm, kéo dài chưa hề cùng tận. Thiện nam tử, thọ mạng Ta chứng được khi hành Bồ tát đạo cho đến nay vẫn chưa dứt, vì gấp hai lần số trên.”
67. Thiên Thai Trí Khải trình bày vị trí của sư Pháp Vân không hoàn toàn phù hợp với sự trình bày [ngày nay] thấy trong Fa hua i chi, T572c-574a. Đọc luận đề về sư Pháp Vân, chương 8.
68. Thí dụ từ những bản văn Thiên Thai Trí Khải đã dẩn chứng như kinh Đại Bát Nhã, kinh Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn, kinh Hoa Nghiêm, và kinh Duy Ma Cật.
69. Câu nầy thấy trong Pancavimsati-sahasrika-prajnaparamita Sutra, T8, 286b28-29. Cũng thấy trong Đại Trí Độ Luận, T25, 468b18-19, và trong 469a-c.
70. Đọc Đại Trí Độ Luận, T25, 347c23. Bản văn được đọc như sau: “Tất cả chúng sinh cõi trời không thể biết được cái mà Bồ tát dùng thiên nhãn để thấy. Tại sao? Vì Bồ tát vượt ngoài ba cõi, và chứng đắc thân sinh từ pháp tánh, như vậy mà chứng đắc mười lực của Bồ tát.”
71. Bản Taisho đọc là “vị”, nhưng có thể đã nhìn lầm với chữ “hành”.
72. Đây là đoạn mở đầu kinh Duy Ma Cật, T14,537a 23-23. Boin 3-4, dựa trên bản Tây Tạng: asamasama-buddhajnanabhisekabhisikta; adhyasaya; bala; vaisaradya; và avenika-buddhadharma.
73. Từ phẩm “Bất tư nghị giải thoát” [Acintyavimoksatha, T25, 547a 15-17. Boin, 150, dịch: “Những ma vương hành xử như ma vương [tức ma quỉ] trong vô số cõi nước [aprameyalokadhatu], [hầu hết] Bồ tát khắp mười phương thành tựu giải thoát bất tư nghị [acintyavimoksa]”.
74. Bản văn liên quan đến hệ thống phân loại của sư Pháp Vân không còn lưu truyền, ngoại trừ một vài mật ý phần mở đầu tác phẩm Ta ch'eng i chi, T34, 572c3-13. Sư Cát Tạng ghi lại rõ ràng hơn trong tác phẩm Fa hua hsuan lun, T34, 372a18-21 của sư. Bản văn, như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, nói về nghĩa chữ “diệu”. “Hỏi: Nói về diệu, là quả Bồ đề được gọi là diệu vì là thường, hoặc vì chưa phải là thường?”. Đáp: “Sư Pháp Vân ở Quang Trạch Tự nói rằng đó là vô thường.”. Lý do là vì sư phân pháp Phật ra thành năm thời. Chỉ riêng thời thứ năm, kinh Đại Bát Niết Bàn, có giáo pháp thường trụ. Bốn thời kia là giáo pháp vô thường. Kinh Pháp Hoa được sư xem là giáo pháp vào thời thứ tư. Vì thế, Phật thân trong kinh Pháp Hoa là thân vô thường”. Đây chính thực là chỗ Thiên Thai Đại Sư tấn công.
75. Dịch nghĩa đen là “Nhân”.
76. Hoạt dụng cứu độ chúng sinh của chư Phật.
77. Đọc Đại Trí Độ Luận, T25, 402c-409c và 735ff.
78. Shakusen kogi thấy chỗ dẩn chứng nầy từ mục 43-20 của Đại Trí Độ Luận. Có một mục luận về ba loại trí thế gian, T25, 370, nhưng sau đó thì vượt qua các loại trí nầy vì không sánh được với trí tuệ cao hơn, là trí bát nhã ba la mật.
79. Dẩn chứng cùng đề mục “giới thiệu pháp không-hai” đã nói trên, T14, 551a16-18. Boin, 194-195, dịch: “Thức (vidya) và vô minh (avidya) là hai. Thức thì cùng tánh (svabhava) như vô minh. Tuy nhiên, vô minh nầy trung tính (avyakrta), vô lượng (asamkhyeya), và không thể tính kể (samkhyamargatikranta). Hiểu được chỗ nầy là vào pháp không-hai.”
80. Ẩn dụ nầy từ kinh Duy Ma Cật, T14, 548a25. Boin, 165, dịch: “... ví như có người vào vườn hoa Chiêm Ba không ngửi mùi [hôi] của cây thầu dầu mà chỉ ngửi mùi hoa thơm, vậy nên những người sống trong căn nhà ướp đầy hương thơm của pháp Phật thì không nhận lấy mùi [hoa] Thanh văn hoặc Duyên giác.”
81. Chỗ nầy chỉ cho phẩm “Bất tư nghị giải thoát” trong kinh Duy Ma Cật, T14, 546a- b, khi Ngài Duy Ma Cật dùng thần lực khiến ba mươi hai ngàn tòa sư tử hiện đầy kín gian phòng cho vô số người đến tham dự. . Những tòa ngồi nầy cao, rộng, đẹp đẽ làm sao, chẳng phải Bồ tát, đại Thanh văn, Đế Thích, Phạm vương, tứ Thiên vương trước đó từng thấy nghe”, (Boin, 139). Chư đại Bồ tát có thể tự đến ngồi vào các tòa vàng nầy, nhưng các bậc sơ phát tâm Bồ tát chứng được ngũ thông khi nghe pháp từ Ngài Duy Ma Cật thuyết ra, và chư đại Thanh văn trước hết phải hết lòng cung kính đảnh lễ Đức Phật Tu Di Đăng Vương”. Boin, 140-141 dịch đoạn văn nầy như sau: “ Đối với chư đại Thanh văn, họ không thể tự ngồi vào tòa. Khi đó cư sĩ Duy Ma Cật nói cùng tôn giả Xá Lợi Phất: “Ngài Xá Lợi Phất, xin hãy ngồi vào tòa.” Tôn giả Xá Lợi Phất trả lời: “Thưa cư sĩ, tòa quá cao và quá rộng, chúng tôi không thể lên ngồi được.” Ngài Duy Ma Cật liền nói; “Ngài Xá Lợi Phất hãy đảnh lễ Đức Phật Tu Di Đăng Vương, cầu xin Phật lực thì có thể lên tòa ngồi được”.
82. Chỗ nầy nói đến sự lạ của hoa trong phẩm “Thiên nữ”, kinh Duy Ma Cật, T14, 547c-548a. Boin, 160-161, dịch đoạn văn nầy như sau: “Thời bấy giờ có một thiên nữ sống trong nhà cư sĩ Duy Ma Cật, từng nghe giáo pháp của các Bồ tát ma ha tát, lòng kinh ngạc, hoan hỉ, cảm kích, liền lấy những vật đẹp đẽ, và tung trải hoa trên thân các hàng đại Bồ tát và đại Thanh văn. Khi cô rải hoa trên thân các vị Bồ tát đều rơi xuống đất, trong khi đến các vị đại Thanh văn thì hoa vướng lại mà không rơi xuống đất. Các vị đại Thanh văn liền dùng thần lực phủi bỏ, nhưng vẫn không được... [Thiên nữ nói]: “Ngài Xá Lợi Phất, hãy nhìn các bậc Bồ tát ma ha tát: hoa không vướng vào thân được vì chư vị đã dứt bỏ khái niệm phân biệt. Còn chư Thanh văn thì hoa vẫn vướng trên thân, vì chư vị chưa dứt trừ được khái niệm phân biệt.”
83. Shakusen kogi thấy chỗ dẩn chứng nầy từ mục 25-21 của Đại Trí Độ Luận, nhưng tôi vẫn chưa tìm được. Mục T25, 750c28-29 không nói về tam muội vô lượng sắc tướng, và tam muội vô lượng thọ, tưởng, hành, thức.
84. Chân lí nầy, theo sư Pháp Vân, được trình bày rốt ráo trong kinh Đại Bát Niết Bàn.
85. Tôi chưa tìm được một dẩn chứng tương đương, nhưng kinh Đại Bát Nhã có câu: “Bát nhã ba la mật có thể sinh ra tất cả chư Phật” (T25, 549c4-5 và T8, 326b2-3). Nhóm chữ “Phật mẫu” xuất hiện ở tựa đề phẩm kinh trước (T8, 323a).
86. Đây có thể là đoạn văn nằm trong phần mở đầu của phẩm “Cúng dường pháp” gần cuối kinh Duy Ma Cật, T556a2-3. Boin, 252, dịch: “Bạch Thế Tôn, con từ lâu xưa đã từng được nghe pháp thuyết ra từ kim khẩu Như Lai và pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi, hằng trăm nghìn lời giải thích kinh pháp, nhưng chưa từng được nghe pháp thâm sâu như (na maya evam rupo dharmaparyayah srutapurvah) bất khả tư nghị như thế nầy (acintyavikurvananaya-pravesanirdesa).”
87. Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, và Phật nhãn. Xem ghi chú ở trên.
88. Sự tròn đầy hoặc rốt ráo của Phật tánh.
89. Chỉ cho Phật lực có thể kéo dài hoặc rút ngắn kiếp sống vì lợi ích chúng sinh. Đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa T33, 749c-751c, của Thiên Thai Đại Sư về luận đề nầy và các loại thần thông khác. Sư Pháp Vân cũng tham khảo về đề tài thần thông trong tác phẩm Pháp Hoa Nghĩa Ký, T33, 573c1-9. Về điểm nầy, sư Pháp Vân nói rằng kinh Pháp Hoa thuyết về hoạt dụng của Phật thì siêu việt hơn những bản kinh trước đó, vì theo kinh Pháp Hoa, Phật dùng Phật lực trụ trên non Linh Thứu, và tất cả những nơi khác, trong vô lượng số kiếp.
90. Theo Thiên Thai Trí Khải, thần thông của chư Phật được sử dụng một cách vô tác, không cần dụng công. Đây cũng là nhóm chữ được dùng để mô tả sự thuyết minh toàn hảo về tứ thánh đế.
91. Nói cách khác, mục đích của thần thông không phải chỉ để kéo dài thọ mạng một cách thô thiển, nhưng còn là chứng đạo và thuyết pháp. Thần thông kéo dài thọ mạng là thần thông “thô”.
92. Hoặc là Thiên Thai Đại Sư đã không nói cho chúng ta điều gì về sư Pháp Vân, hoặc là đại sư đã hiểu lầm. Bởi vì tôi chưa tìm thấy chỗ nào trong các bản văn của sư Pháp Vân cho rằng thần thông nầy chỉ để kéo dài thọ mạng. Lối phê bình sau cùng nầy dường như được [người đời sau] thêm vào, vì thấy rằng không hợp với đường lối phê bình của Thiên Thai Đại Sư. Có lẻ vì vốn là thêm vào nên không tìm được tài liệu lưu giữ [phản ảnh lời phê bình].
93. Một bản dịch trực tiếp đoạn văn quan trọng của truyền thống Thiên Thai được đọc như sau: “tức không, tức giả, tức trung”, hoặc “không như-nó-là”, “giả như-nó-là”, và “trung như-nó-là”. Đây là một cách Trí Khải tóm lược học thuyết về tam đế của đại sư, là cái đồng thời xác định tánh không (thiếu chủ tể) của vạn pháp, hiện hữu giả tạm hoặc tạm thời, và tánh chung đồng và nghĩa tương tức của hai pháp trên với Trung Đạo. Cứ như vậy, Trí Khải phát họa những chặng đường trước mặt, cái hiểu đúng về chân lí (hoặc thập pháp giới, hoặc tất cả hiện tướng, hoặc thế giới khách quan), và sự “vi diệu” nầy được hiểu như là vừa thiếu một chủ thể thường hằng, bất biến, vừa là một sự có mặt giả tạo.
94. Vì tất cả nền tảng là không, và liên hệ trong cùng lý tánh.
95. Nghĩa đen là “hoành”. Thiên Thai Đại Sư đôi khi dùng nhóm chữ “chẳng tung, chẳng hoành” để nói rằng đối với chân lí không có sự [phân chia] theo đường [dọc] cao hay thấp, và để trình bày khái niệm “chẳng một, chẳng khác” hoặc “chẳng đồng, chẳng dị”. Nói cách khác, có những khác biệt trong tướng giả tạm, nên cái “một” của thực tại không có cái đồng dạng, đồng nguồn theo đường ngang.
Điểm nầy được biểu thị qua nhiều cách khác nhau, như một nguyên âm trong Phạn văn, hoặc Siddham, “chẳng ngang, chẳng dọc”. Một ẩn dụ khác được dùng là ba con mắt của đấng Mahesvara được vẽ theo hình tam giác. Kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 616b11-17, hai ẩn dụ nầy được dùng để biểu thị tánh đồng và dị của giải thoát, thân Như Lai, và trí bát nhã.
96. Được phân biệt như giả hữu.
97. Đây là câu được dùng trong kinh Pháp Hoa diễn đạt việcPhật chứng đạo vô lượng kiếp khó tính đếm trong quá khứ. Đọc phẩm “Như Lai Thọ Lượng”, kinh Pháp Hoa, T9, 42c19-21. Hurvitz, Lotus Sutra, 239, dịch: “Như vậy, từ ta chứng đắc Bồ đề thuở lâu xưa. Thọ mạng của Ta kéo dài vô số a tăng kỳ kiếp, chưa từng chấm dứt.”
98. Câu văn nầy có thể được giải thích nhiều cách. Một đoạn văn khác là: “(Ứng thân Phật) thị hiện trên bản có nghĩa là “nguồn” và “gốc” cũng như “thủy” chỉ cho “bản địa” hoặc căn bản cội nguồn, Phật thường trụ. Vì vậy theo truyền thống Thiên Thai Tông thì nửa phần cuối kinh Pháp Hoa gọi là Bản Môn vì nói đến Phật thường trụ. Nửa phần đầu, mặt khác, chỉ cho tích, hoặc sự hiển thị của vị Phật thường trụ trong thế giới giả tạm, giới hạn nầy, vì muốn phổ độ chúng sinh. Những luận đề liên quan trên căn bản lịch sử, đọc Alicia Matsunaga, The Buddhist Philosophy of Assimilation, Tokyo: Sophia University, 1969, đặc biệt các trang 104-120.
99. Tóm lại, kinh Pháp Hoa xứng đáng được gọi là vi diệu vì thuyết giảng sự hợp nhất đồng thời của Không và giả hữu của vạn pháp, và nhấn mạnh trên tánh thường trụ của Phật.
100. Kinh Hoa Nghiêm. Ở đây, Thiên Thai Đại Sư muốn nói đến ẩn dụ về Ngũ Vị. Ẩn dụ nầy so sánh việc gạn lọc chất sữa qua năm tiến trình với việc chứng đắc Niết Bàn, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 690c28-691a8; Yamamoto-I, 348. Theo Thiên Thai Tông, ẩn dụ nầy được dùng trên những chặng đường phát huy Phật pháp. Ngũ Vị là sữa, kem, sữa đặc, bơ, và đề hồ. Ngũ Vị khế hợp với Ngũ Thời trong Phán Giáo của Thiên Thai Tông.
101. Chỗ nầy chỉ cho thuyết Tứ Giáo của Thiên Thai Đại Sư. Ba pháp thô đầu là Tạng, Thông, và Biệt giáo. Pháp tế sau cùng là Viên giáo.
102. Thông giáo và Biệt giáo.
103. Kinh Pháp Hoa.
104. Thiên Thai Tông Viên giáo phân chia 52 quả vị chứng đắc Bồ đề qua sáu bậc tương nhập, như sau:
1. Lý tức: Muôn loài đều có sẵn Phật tánh và lý tánh hội tụ, hợp nhất. Lý tánh nầy có trong tất cả chúng sinh, ngay cả với những chúng sinh chưa từng nghe nói đến Phật pháp.
2. Danh tự tức: Tánh đồng nhất hy hữu của pháp Phật. Với quả vị chứng đạo thì chỉ cho những người chỉ nghe giáo lý của Phật.
3. Quán hành tức: Thực hành pháp quán. Chỗ nầy chỉ cho Ngũ Phẩm Đệ Tử Vị.
4. Tương tự tức: Chứng đắc tương tự như thực chứng nhưng chưa đến chỗ cùng tột. Một cách cụ thể chỉ cho việc diệt được kiến và tư hoặc trong ba cõi. Chỗ nầy chỉ cho Thập Tín Vị.
5. Phần chứng tức: Từ Thập Trụ Vị cho đến Đẳng Giác Vị.
6. Cứu cánh tức: Quả vị giác ngộ viên mãn.
Đọc chi tiết Chappell, T'ien T'ai Buddhism, 160-161; và Hurvitz, Chih I, 363-368. Lục Tức cũng được nói chi tiết trong Maha Chỉ Quán, T46, 10bff. Đọc Donner 1976, 163-172.
105. Tôn sư của Thiên Thai Trí Khải, theo truyền thống Thiên Thai là vị Tổ thứ hai. Đọc chi tiết chương tám; và Paul Magnin 1979.
106. Phân định tất cả thực tại qua ba mặt Chúng Sinh (biểu thị tổng quát thế giới hiện tượng), Phật (biểu thị tánh viên mãn), và Tâm. Nền tảng sự phân tích của Thiên Thai Trí Khải ở đây chắc chắn là từ kinh nghiệm tu tập hạnh an lạc, dựa vào phẩm An Lạc Hạnh thứ 14, kinh Pháp Hoa, dưới sự dạy bảo của tôn sư Huệ Tư. Đọc Hurvitz, Chih-i, 108-109. Huệ Tư, Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa, T46, 657- 702. Tuy nhiên, trong tác phẩm nầy, Tổ Huệ Tư nhấn mạnh vào chúng sinh pháp, và sự tu tập quán chiếu kinh Pháp Hoa hơn là ba pháp chúng sinh, Phật, và tâm. Tuy nhiên luôn có sự khế hợp giữa tác phẩm nầy và những luận đề của Thiên Thai Đại Sư vì cả hai thường dẩn chứng cùng nhều đoạn kinh Pháp Hoa và Đại Bát Niết Bàn. Đường lối minh định thực tại như trên có thể dựa vào bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm, T9, 465c26-29:
Tâm, như một họa sĩ,
Vẽ năm nhóm khác nhau.
Khắp nơi trên thế giới
Không một pháp nào chẳng từ tâm sinh.
Phật cũng giống như tâm,
Và giống như Phật, là chúng sinh.
Tâm, Phật, và chúng sinh,
Cả ba không khác biệt.
107. Đây là chỗ then chốt căn cứ vào phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa, T9,7a 22-28 mà Trí Khải đã nói về sự thị hiện của Phật trong thế gian nầy. Hurvitz, Lotus Sutra, 30, dịch như sau: “Chư Phật, Thế Tôn, vì một nhân duyên xuất hiện trên thế gian. Xá Lợi Phất, ý Ta muốn nói điều gì về Phật, Thế Tôn, và một đại nhân duyên?. Phật, Thế Tôn xuất hiện trên thế gian nầy vì muốn chúng sinh nghe tri kiến Phật mà được thanh tịnh. Chư Phật xuất hiện trên thế gian vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sinh. Chư Phật xuất hiện trên thế gian vì muốn chúng sinh hiểu được. Chư Phật xuất hiện trên thế gian vì muốn chúng sinh vài được tri kiến Phật.
108. Liên hệ đến phẩm “Công đức Pháp sư”, kinh Pháp Hoa, T9, 47c, nói về công đức của những người tu trì kinh Pháp Hoa. Sự giải thích của Thiên Thai Trí Khải về đoạn kinh văn nầy là lối giải thích hợp nhất tất cả ngũ nhãn, từ nhục nhãn cho đến Phật nhãn, vốn sẵn có khả năng của Phật nhãn, hoặc tri kiến Phật. Tuy nhiên, chính kinh Pháp Hoa không hiển lộ chỗ nầy. Hoặc rõ hơn như bản dịch của Hurvitz, phân ra nhiều khả năng khác nhau trong khi nhấn mạnh vào năng lực của nhục nhãn là năng lực có thể chứng đắc được từ những hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa.
Hurvitz, Lotus Sutra, 264-265, dịch: “Nếu có bất cứ thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thọ trì kinh Diệu Pháp nầy, hoặc đọc, tụng, giải thích, biên chép, người ấy sẽ đạt được tám trăm công đức của mắt... với những phương tiện của công đức đó, người ấy sẽ trang nghiêm sáu căn, khiến chúng được thanh tịnh. Thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân kia, với cặp mắt thanh tịnh do cha mẹ sinh, sẽ nhìn thấy được núi rừng, sông biển, cả bên trong và bên ngoài... Người ấy sẽ thấy biết thông suốt các nhân duyên, quả báo, nghiệp và nơi thọ sinh... Người ấy sẽ chứng đắc được tám trăm công đức nhãn căn thanh tịnh. Với cặp mắt cha mẹ sinh, người ấy sẽ thấy muôn ngàn cõi nước, trong và ngoài núi Diệu Cao... Người người sẽ nhìn thấy từ năng lực của nhục nhãn, dù chưa đắc được thiên nhãn.” Cùng đoạn văn trong Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh của tổ Huệ Tư, T46, 698c20-24: “Nếu có người chấp nhận kinh Pháp Hoa, tụng đọc và thọ trì [giáo lý nầy]..., người ấy sẽ viên mãn bốn loại diệu an lạc hạnh, đắc lục thông, và cặp mắt do cha mẹ sinh sẽ được thường tịnh. Khi chứng được cái thấy nầy, người ấy có thể thấy được tất cả các cõi Phật.”
109. Kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 397b25; Yamamoto I, 138. Chỗ nầy đối nghịch với các bậc Thanh văn, là những người chỉ có nhục nhãn, dù đắc được thiên nhãn.
110. Ương Quật Ma La kinh (Angulimalika Sutra, T2, No. 120, ghi lại chuyện của Ương Quật Ma La, muốn giết một ngàn người. Đức Phật là người thứ một ngàn [mà ông ta nhắm đến], nhưng Phật đã chuyển hóa được ông trở thành môn đồ. Kinh nầy thuyết về đốn ngộ thay vì tiệm ngộ. Chỗ dẩn chứng nầy tìm thấy trong một dòng kệ cùng nói về sáu căn. Đọc T2, 531c24. Bản chánh thì có hơi khác: “Gọi là nhãn căn / khi đó là Phật nhãn là thường hằng / đến chỗ rõ biết / đầy đủ không suy giảm hoặc hoại diệt”. Phần nầy cũng được dẩn chứng và luận trong tác phẩm Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh của tổ Huệ Tư, T46, 699c6.
111. Tôi chưa thể tìm được câu nầy trong kinh Đại Bát Nhã, nhưng thấy dẩn chứng trong Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa của tổ Huệ Tư, T46, 699b1-2.
112. Nói cách khác, không có một chủ thể được nhìn thấy hoặc nắm giữ, vì tất cả các pháp đều Không. Tôi chưa thể tìm được câu dẩn chứng in hệt như trên, nhưng trong kinh Đại Bát Nhã T8, 333c, và Đại Trí Độ Luận T25, 559b đưa ra nhiều câu văn cùng ý trên, chỉ cho tất cả mọi thứ từ năm uẩn và ba la mật cho đến vô minh và phiền não, tất cả cái gọi là “vạn pháp”, và tất cả đều bất tư nghị, bất khả đắc, vô sinh diệt v.v...như biểu thị tánh Không của tất cả các pháp.
113. Danh tự kép khó hiểu nầy chỉ cho cả hai, như sẽ nói rõ trong câu tiếp theo, Phật pháp (Buddha-dharma) là những điều Phật dạy, và chính vị Phật và Phật là gì, như là công đức và hoạt dụng [phổ độ chúng sinh] trên các cõi nước.
114. Đây là câu nói nổi tiếng trong phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa, T9, 6c19 mà Thiên Thai Trí Khải thường trưng dẩn sự vi diệu bất khả thuyết của Phật pháp. Hurvitz, Lotus Sutra, 28, dịch: “Dừng lại, dừng lại! Không cần phải nói nữa. Pháp của Ta vi diệu khó nghĩ bàn.”
115. Một cặp khác trong học thuyết của Trí Khải là trí tuệ và chân lý, chi tiết về hai mặt nầy liên hệ đến một sự phân tích đầy đủ trong Thiên Thai Tông. Đọc Fukushima 1978/5, 10-12. Trong nhiều mặt, mặt thứ nhất [quyền] khế hợp với giả đế (samvrtisatya), và mặt thứ hai [thực] khế hợp với chân đế (paramarthasatya). Đại sư luận chi tiết về nội dung những danh từ nầy trong đề mục tiếp theo.
116. Câu nầy cũng từ phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa, T9, 5c20. Hurvitz, Lotus Sutra, 23, dịch: “Các pháp sâu xa và vi diệu, khó thấy và khó hiểu...”.
117. Câu dẩn chứng trong kinh Pháp Hoa nầy, T9, 5c16, trước câu trên một vài dòng. Hurvitz, Lotus Sutra, 23, dịch: “[Trong] tất cả các loài chúng sinh, không ai có thể biết được Phật.”
118. Câu nầy ở giữa hai câu trên, kinh Pháp Hoa, T9, 5c18. Hurvitz, Lotus Sutra, 23, dịch: “Đối với lực (bala), vô úy (vaisaradya), giải thoát (vimoksa), và tam muội (samadhi), cũng như các pháp khác của Phật, không một ai có thể thấu suốt được”.
119. Câu nầy xuất hiện ngay trước câu trên, kinh Pháp Hoa, T9, 5c11, và là một trong những câu ưng ý đối với Trí Khải Đại Sư. Hurvitz, Lotus Sutra, 22, dịch: “Với các pháp hy hữu, khó hiểu mà Phật đã viên mãn, chỉ có Phật với Phật mới có thể đến chỗ tận cùng...”.
120. Một hình thức kệ từ kinh Pháp Hoa, T9, 37c17-19. Đọc Hurvitz, Lotus Sutra, dịch như sau:
“An trụ nơi thanh vắng,
Hằng trau nhiếp tự tâm
Tự tại chẳng lay động
Ví như núi Diệu Cao.
Quán sát tất cả pháp
Tất cả đều không thực
Đều giống như hư không.
Chẳng có chi bền vững.
Không sinh cũng không xuất
Không động cũng không thối
Thường trụ trong nhất tướng
Đó gọi là cận xứ.”
121. Dẩn chứng từ phẩm Pháp Sư, kinh Pháp Hoa, T9, 30c5. Hurvitz, Lotus Sutra, 174, dịch: “Nếu có bất cứ người nào, trước mặt Phật, nghe một dòng kệ, hoặc một câu kinh Pháp Hoa, sinh lòng hoan hỷ, ta đều thọ ký rằng người ấy sẽ chứng đắc tam miệu tam bồ đề.”
122. Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, T9, No.277. Thiên Thai Tông xem kinh nầy như tam bộ Pháp Hoa. Kinh giải thích về những pháp quán của Bồ tát Phổ Hiền.
123. T9, 392c24-25. Kato, et al. 1975, 363, viết: “Khi hành giả tâm không, tội lỗi và phước báu không có chỗ đứng. Với trạng thái nầy, tất cả pháp chẳng trụ cũng chẳng diệt. Nếu hành giả có thể đến được chỗ nầy, tâm thiền quán thì cũng chẳng có tâm nào để nắm giữ. Pháp không trụ trong pháp.”
124. T9, 391a3. Tôi không chắc chắn là đã hiểu rõ ý của Thiên Thai Đại Sư khi dẩn chứng câu nầy. Bản văn nói đến sáu căn thanh tịnh, kết quả là hành giả “thân tâm an lạc, xa lìa những tư tưởng tà vạy, dấn thân vào pháp Phật đến đổi hòa nhập với pháp”.
125. Từ mục mở đầu bản văn nói về thực tại vô tự tánh của Như Lai, kinh Duy Ma Cật, T14, 554b28-555a2. Boin, 238, dịch đoạn văn nầy như sau: “Rồi thì đấng Thiện Thệ hỏi cư sĩ Duy Ma Cật: “Nầy thiện nam tử, nếu như ông vì muốn thấy Như Lai mà đến đây, ông thấy Như Lai như thế nào?.” Được kể lại rằng ngài Duy Ma Cật trả lời: “Bạch Ngài, tôi giờ đây thấy Như Lai, tôi thấy như không có gì để thấy.”
126. Dẩn chứng nầy được thấy trong phần vấn đáp giữa ngài Văn Thù Sư Lợi và cư sĩ Duy Ma Cật, kinh Duy Ma Cật, T14, 544c6-7. Boin dịch: “Sự giải thoát của chư Phật có thể tìm thấy nơi đâu? [Ngài Duy Ma Cật trả lời] “Có thể tìm thấy trong sơ tâm (cittapurvacarita) của chúng sinh”. Lối dịch nầy dựa trên bản văn Tây Tạng. Boin ghi chú rằng trong các bản dịch của pháp sư Cưu Ma La Thập và pháp sư Huyền Trang thấy ghi rằng “trong các tâm hành của chúng sinh”.
127. T9, 465c29. Đọc ghi chú 106.
128. So sánh với câu trước từ kinh Hoa Nghiêm đã được dẩn chứng nguyên văn, Thiên Thai Đại Sư đã uyển chuyển vị trí của đoạn văn nầy. Nguyên văn trong T9, 624a 6-12, đọc như sau; “Những cuộn kinh nầy trong ba ngàn thế giới có mặt trong chỉ một vi trần. Tất cả những vi trần cũng như vậy. Thuở xưa kia, có một người xuất hiện trên thế giới có được trí tuệ đầy đủ và thiên nhãn thanh tịnh, thấy được những cuộn kinh nầy trong một vi trần. Người ấy liền nghĩ rằng: {Làm cách nào những cuộn kinh vĩ đại kia lại có mặt trong một hạt bụi mà lợi ích được chúng sinh?. Tôi sẽ cố công dùng sức phương tiện đập nát hạt bụi nầy ra để chúng sinh được lợi ích.} Lúc bấy giờ người ấy dùng phương tiện khéo đập vỡ vi trần, mang ra những cuộn kinh khiến chúng sinh được lợi ích.” Trong nguyên bản, chữ “tâm” không được dùng, và dường như đưa ra một điểm hoàn toàn khác với điểm của Trí Khải. Đại sư đưa ra câu văn nầy để xây nền cho ý tưởng rằng tâm thì vi diệu, và câu kinh nầy chỉ liên hệ với ý tưởng nầy trong kinh Hoa Nghiêm, dạy tổng quát về sự tương tức giữa tâm và cảnh. Với nghĩa đó, tâm và vi trần là một, và “đập nát vi trần” hoặc “diệt được tâm chất chứa vọng trần nhiều như cát bụi” để hiển bày [nghĩa] ngàn cuộn kinh, có thể giải thích cùng một ý nghĩa. Cách dịch đoạn văn của Trí Khải gần gủi với nguyên văn kinh Hoa Nghiêm: “Diệt tâm và vi trần, những cuộn kinh trong đại thiên sẽ xuất hiện”.
129. T25, 276b10. Lamote, Đại Trí Độ Luận IV, 1939, viết: “Tout ce qui existe dans le triple monde (traidhatuka) est fait par la pensée (citta).
130. Đọc Đại Trí Độ Luận, T25, 259b25. Lamote, Đại Trí Độ Luận IV, 1749, viết: “Pour qui recherche la vision correcte, Il ny a que les noms et formes. Celui qui veut juger et connaitre en vérité. Ne connaitra lui aussi que les noms et formes. Lamote cũng chỉ cho Atthakavagga of the Suttanipata. v. 909, 177; đọc T4, 183b3- 4.
131. Hurvitz, Chih-i, giải thích: “ấm” là “những thực chất vi tế do Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) đưa ra tiếp truyền từ kiếp nầy sang kiếp khác”. Đọc những đoạn văn khác trong kinh A Hàm, và Tạp A Hàm, T2, 69a 25, và Ngũ Ấm Thí Dụ Kinh (Wu yin pi-yu ching), T2, 501b25.
132. Chỗ phân loại nầy căn cứ vào bản dịch của pháp sư Cưu Ma La Thập, phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa, T9, 5c11-13, là bản dịch, như Hurvitz đưa ra, quá khác với bản Phạn văn còn lưu truyền mà Hurvitz đã dày công ghi cứu chỗ sai khác (Hurvitz, Lotus Sutra, 349-350). Hurvitz dịch phần nầy như sau: “Với các pháp tối thượng, khó hiểu mà Phật đã viên mãn, chỉ có Phật với Phật mới tận cùng chân lý, tức là, như thị của các pháp, như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị dụng, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng.” Đây là một thí dụ điển hình về ảnh hưởng quan trọng trên bản dịch của pháp sư Cưu Ma La Thập đối với sự phát triển của Thiên Thai Tông và Phật học Trung Hoa. Xem chi tiết, chương tám.
133. Ba cách đọc [uyển chuyển] nầy hẳn nhiên là hy hữu, trong cổ văn Trung Hoa, người đọc có thể xào qua xào lại thứ tự các chữ.
134. Ba cách đọc nầy phản ảnh tam đế. Để hiểu thực tại khi nhấn mạnh trên “như” tức nhấn mạnh trên tánh Không, hoặc sự thiếu vắng một tự tánh, của các pháp. Để hiểu thực tại khi nhấn mạnh trên mỗi tính chất tạm bợ tức nhấn mạnh trên Giả hữu của các pháp. Để hiểu thực tại như-nó-là tức nhận ra tánh Không Giả đồng thời của các pháp là Trung Đạo.
135. Đó là chẳng một, chẳng khác.
136. Ba mặt Không, Giả, và Trung?.
137. Tham khảo về phần kệ tán trong đề mục nầy, T9, 5c23-25, Hurvitz, Lotus Sutra, 23, dịch:
Đối với những đại quả báo như thế kia
Những giáo lý về tánh và tướng khác nhau như vậy
Chỉ riêng Ta, và chư Phật khắp mười phương cõi nước
Có thể biết được những điều nầy.
Các pháp trên không thể chỉ ra
Ngôn từ, chỉ là những dấu hiệu, thường tịch tịnh.
138. Vì thế, chữ “đại” có thể dùng cho cả hai mặt giả và chân.
139. Nhưng kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.
140. Tuy nhiên, thí dụ, Bồ tát Quán Tự Tại ứng thân 32 tướng thế gian.
141. Đối nghịch với [chân] tuệ, không có nền tảng hợp lý.
142. Nền tảng vô phân biệt của tất cả các pháp là thiếu một chủ thể theo mặt thứ nhất của tam đế.
143. Các khác biệt của giả hữu theo mặt thứ hai của tam đế.
144. Tánh tương tức rốt ráo của tất cả các pháp theo mặt thứ ba của tam đế, trung.
145. Dharmadhatu không dựa vào bất cứ điều gì từ bên ngoài vì chính nó là nền tảng viên dung của chính chân lý.
146. Ở đây bắt đầu với một sự dụng công, ít thành công hơn so với thập như thị, đưa ra ba cách đọc đặc tính của mười pháp giới. Nếu có người nhấn mạnh trên “pháp giới” thay vì mười khía cạnh khác nhau, có nghĩa là nhấn mạnh trên tánh Không của vạn pháp. Thêm chi tiết, đọc Bukkyo taikei I, 517.
147. Nếu có người nhấn mạnh trên mười lãnh vực khác biệt hơn là trên tánh đồng nhất, có nghĩa là nhấn mạnh trên Giả hữu.
148. Lấy tất cả ba, và nhấn mạnh trên tánh như nhất là nhấn mạnh trên ý nghĩa của Trung Đạo.
149. Câu trả lời ẩn chứa cho cả hai câu hỏi nầy là “không”. Không một pháp ngoài một chân lý viên dung, và không một trí tuệ nào mà không sinh khởi qua pháp quán chân lý viên dung nầy. Thế gian thực nghiệm của chúng ta đây là một sự nhóm chứa của chân lý vẹn toàn, và Phật tuệ viên mãn chứng đắc được ở đây và bây giờ.
150. Một câu kinh Pháp Hoa, T9, 5c11, đã được dẩn chứng hơn một lần: “Chỉ có chư Phật mới có thể tận tường thực tướng của các pháp.”
151. Đọc ghi chú trên.
152. Cùng chỗ kinh Pháp Hoa đã dẩn chứng ở trên, T9, 5b25. Hurvitz, Lotus Sutra, 22, dịch; “Trí tuệ Phật sâu xa không tính kể. Đường vào Phật tuệ thực khó hiểu và khó vào đến đổi không một Thanh văn hoặc Duyên giác nào có thể biết được...”
153. Từ phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa, T9, 9c6, Phật thuyết về sự chứng đạo của Ngài dưới cội Bồ đề, và hai mươi một ngày an lạc. Hurvitz, Lotus Sutra, 43, dịch: “Trong hai mươi mốt ngày / Ta luôn nghĩ như vầy: / Trí tuệ Ta chứng được / vi diệu bậc nhất trong tất cả những điều vi diệu.”
154. Đọc T9, 5b25-c14: Hurvitz, Lotus Sutra, 22-23.
155. Đọc T9, 7a-b, Hurvitz, Lotus Sutra, 29-31.
156. “Căn nhà lửa” chỉ cho phẩm “Thí Dụ”, kinh Pháp Hoa, T9, 12b, trong đó người cha khuyến dụ các con chạy thoát khỏi căn nhà đang bốc lửa bằng cách hứa ban cho các con ba loại xe đẹp đẽ. Ẩn dụ nầy không khác với việc Phật thuyết giảng tam thừa, khi mục tiêu duy nhất cho tất cả là một Đại thừa. Đọc Hurvitz, Lotus Sutra, T9, 58ff.
157. Phẩm thứ tư, kinh Pháp Hoa, Hurvitz, Lotus Sutra, T9, 16b7ff, và Hurvitz, Lotus Sutra, 84ff.
158. Thí dụ về vị trưởng lão và người cùng tử, phẩm Tín Giải, kinh Pháp Hoa, T9, 16b25ff. Hurvitz, Lotus Sutra, 85ff. Câu chuyện người cha giàu có tìm được người con lưu lạc, đã cố gắng dùng những phương tiện khéo đưa người con đến chỗ nhận ra chân tánh của mình. Đọc ghi chú 29. Ẩn dụ nầy không khác với việc Phật dùng phương tiện thiện xảo khiến chúng sinh nhận ra chân tánh là Phật, hoặc là con của Phật.
159. Đọc phẩm thứ năm, kinh Pháp Hoa, T9, 19a 14ff; Hurvitz, 101ff, ẩn dụ về cơn mưa rơi đều khắp cỏ cây. Cây cối tùy khả năng mà hấp thụ nước mưa, như chúng sinh tùy khả năng mà lãnh hội pháp Phật. Đọc ghi chú 19.
160. Đọc ẩn dụ về hóa thành, phẩm thứ bảy, kinh Pháp Hoa, T9, 22a18ff; và Hurvitz, 130ff.
161. Phật biết tất cả về chân lý.
162. Hoặc, không hề lầm.
163. Đọc kinh Ương Quật Ma La, T2, 512-543, và ghi chú 10.
164. Vị cao nhất của tứ thiền trong cái gọi là nhị thập ngũ hữu. Đây là một thứ bậc chứng đắc cao qua pháp quán hoặc nhập định, và chỉ cho quả vị dưới quả “bất lai”. Đọc thêm chi tiết, Hurvitz, Chih-i, 339-342.
165. Hurvitz, Chih-i, 293ff đưa ra một đoạn văn dịch giản lược về phần nầy, dễ đọc và dễ hiểu hơn bản chánh văn, nhưng tôi thì dịch đầy đủ.
166. Một loại nhân đưa đến quả gần giống như nhân, thí dụ như một ý tưởng thiện khiến sinh thêm nhiều ý tưởng thiện. Hurvitz, Chih-i, 294, đồng nhất danh từ nầy với chữ vipakahetu, mà pháp sư Huyền Trang dịch là dị thục nhân.
167. Nhân gián tiếp hoặc duyên nhân.
168. Một loại quả gần giống như nhân, thí dụ như một ý tưởng ác khiến sinh thêm nhiều ý tưởng ác. Hurvitz, Chih-i, 294, đồng nhất danh từ nầy với chữ nisyandaphala.
169. Nghĩa đen là chỗ chỉ quy, là chỗ viên dung tất cả chân lý trong mười pháp giới.
170. Không rõ chỗ nầy chỉ cho tam pháp chúng sinh, Phật, và tâm; hoặc tam đế Không, Giả, và Trung. Một sự bất ngờ đối với cách giải thích của Thiên Thai Đại Sư không khác trong cả hai trường hợp.
171. Đọc T12, 733c28-29, Yamamoto II, 514. Đoạn văn nầy đưa đến một mục rất chi tiết luận về pháp sinh-bất-sinh, trong đó Thiên Thai Trí Khải đưa ra lập luận chi tiết về tứ thánh đế. Bản văn đọc được như sau: “Nầy thiện nam tử, pháp hữu lậu, khi chúng chưa sinh thì vốn có tánh sinh. Vì vậy mà chúng có thể sinh. Pháp vô lậu vốn không có tánh sinh. Vì thế chúng không thể sinh”.
172. Đó là, khác với một mảnh đất sét hoặc một phiến gỗ cây, chúng có tánh tái sinh nơi các cõi dữ.
173. Thân và tâm, rupa-citta.
174. Câu nầy trong chánh văn không rõ ràng, dường như chỉ cho những lực tà vạy trong bốn cõi, là sự lạm dụng những năng lực [vào việc bất chánh], thay vì dùng để cứu giúp chúng sinh, và chứng đạo.
175. T12, 760a 21-26. Đây là một đoạn trong chánh văn, đọc như sau: “Như khi Đề Bà Đạt Đa muốn xây một bức tường, ông lấy bùn đất mà không lấy màu vẽ; khi muốn vẽ một bức tranh thì chỉ lấy bột màu mà không lấy cỏ và gỗ; khi muốn may áo thì chỉ lấy chỉ mà không lấy đất và gỗ; khi làm nhà thì chỉ lấy bùn đất mà không lấy chỉ. Người ta có thể biết được phần nào kết quả của công việc từ những vật liệu được dùng.”
176. Chỗ nầy nói về việc theo đuổi những mong cầu bất kể cái giá phải trả để được. Thí dụ, người vì muốn thỏa mãn những ưa thích chẳng chút lợi ích mà làm hư hỏng thân tâm.
177. T12, 655a 22; Yamamoto I, 206-207. Đoạn văn nầy trong phẩm Văn Tự, trong đó mỗi chữ Phạn được giải thích ý nghĩa. Bắt đầu phẩm (T12, 653c16ff) là phần giải thích rằng văn tự chính nó là bán tự, và chỉ tạo được căn bản thông đạt khi được ráp lại với nhau, gọi là mãn tự. Đoạn kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Nghĩa của bán tự là nền tảng thông đạt bằng lời tất cả các thiện pháp. Vì thế nên gọi là bán tự. Mãn tự chỉ cho nền tảng thông đạt bằng lời các thiện pháp. Cũng giống như có người gieo những hạt giống dữ trên thế gian thì gọi là nửa người, và người gieo trồng thiện hạnh thì gọi là cả người.” Trong giáo lý Thiên Thai Tông, giáo lý Tiểu thừa gọi là “bán tự giáo”.
178. Theo tam đế.
179. Nguyên văn: “trung thực lý tâm”. Chỗ nầy chỉ cho chính chân lý hoặc chỉ cho tâm là cái hiểu được thực lý là trung đạo, tức đồng thời thiếu tự tánh và đồng thời [là] giả hữu.
180. “Trắng” (sukla-dharma).
181. Năm đức hạnh bậc vô học (asaiksa) chứng được: giới, định, tuệ, giải thoát, và giải thoát tri kiến. Đọc Taya et al. Bukkyogaku jiten, 138b. Theo Thiên Thai Tông đây là chỗ chứng đắc cao nhất của hành giả Tiểu thừa.
182. “Hành hành”. Tên gọi nầy đối lại với “tuệ hành”. Trong “Thứ đệ thiền môn”, T46, 535b13-17, một trong những tác phẩm đầu tay của Thiên Thai Trí Khải, đại sư định nghĩa những từ nầy như sau: “Có hai loại thực hành. Thứ nhất là tuệ hành, và thứ hai là hành hành … Hành hành được gọi như vậy bởi vì qua pháp thực hành nầy, con người chinh phục và diệt được tất cả phiền não. Tuệ hành gồm những việc diệt ảo tưởng về chân lý qua pháp chánh quán tứ thánh đế, thập nhị nhân duyên, và chân không...”
183. Bốn quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, và A la hán.
184. Người còn bảy lần tái sinh.
185. Chỗ nầy chỉ cho đoạn văn trong phẩm “Bồ tát Sư Tử Hống”, kinh Đại Bát Niết Bàn nói về hai loại trang nghiêm trí tuệ và phước đức; T12, 767b21-29. Đoạn kinh như sau: “Có hai thứ trang nghiêm, một là trí tuệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ tát được đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy, người ấy sẽ biết Phật tánh.
...Trí tuệ trang nghiêm từ sơ địa đến thập địa. Phước đức trang nghiêm từ đàn ba la mật đến bát nhã trí nhưng không gồm có bát nhã ba la mật (but does not include prajna-paramita). Trí tuệ trang nghiêm là trang nghiêm của chư Phật và chư Bồ tát. Phước đức trang nghiêm là trang nghiêm của chư Thanh văn, Duyên giác, và cửu trụ bồ tát... Phước đức trang nghiêm thì hữu vi, hữu lậu, có quả báo, chướng ngại, và không thường hằng. Đó là pháp phàm phu. Trí tuệ trang nghiêm là vô vi, vô lậu, không quả báo, không chướng ngại, và thường hằng.”
186. Chỗ dùng chữ nầy khiến liên tưởng đến, và có thể là dựa vào kinh Thắng Man (Srimaladevi Sutra), phẩm Nhất Thừa (ekayana) nói rằng các vị A la hán và Duyên giác chưa thực sự chấm dứt dòng tái sinh, chưa tu tập viên mãn các đức hạnh, chưa làm xong cái nên làm xong, và chưa hoàn toàn diệt phiền não cần phải diệt. Sau đó kinh đưa ra (T12, 219c20ff) hai loại sinh tử: thứ nhất là sinh tử thường thấy của thân phàm phu trong luân hồi, và thứ hai là biến dịch sinh tử, tức ứng thân bất nhiễm của chư Bồ tát trên thế gian để cứu độ chúng sinh. Kinh Thắng Man tiếp tục đưa ra sự phân biệt giữa hai loại phiền não thô và tế. Chư vị Thanh văn và Duyên giác diệt được phiền não thô, nhưng vẫn chưa diệt được những ô nhiễm ngấm ngầm từ căn bản vô minh.
187. Đọc Hurvitz, Chih-i, 297-299, đưa ra một giải thích khác và luận chi tiết phần nầy.
188. Bồ tát Tạng giáo chỉ cho Bồ tát Tiểu thừa, hoặc Đức Thích Ca từng tu tập lục độ ba la mật trong vô số a tăng kỳ kiếp về trước v.v... cho đến lần thọ thân sau cùng, chứng đắc quả Phật. Đọc Chappell, T'ien T'ai Buddhism, 105-107.
189. Lục thập vị, bát nhẫn, và bát trí nơi kiến hoặc đã diệt; thêm thập bát tâm, cửu vô gián, và cửu giải thoát, nơi tư hoặc đã diệt. Đọc Hurvitz, Chih-i, 258.
190. Ly Dục Địa, địa thứ sáu của Bồ tát thập địa (bhumi) của Thông giáo. Chi tiết về các quả vị Thông giáo, đọc Chappell, T'ien T'ai Teachings, 120-121; Hurvitz, Chih-i, 361-362.
191. Khác với hàng Bồ tát vẫn giữ lại ô nhiễm để tái sinh trên thế tục.
192. Muốn hiểu về các thứ lớp chứng đắc khác nhau thì cần hiểu điều Thiên Thai Trí Khải cố gắng giải thích trong vài hàng nầy. Trong tác phẩm Chih-i, Hurvitz đi rất sâu vào đề tài nầy, đòi hỏi một kiến thức căn bản [để có thể hiểu được]. Đọc đồ biểu về các vị khế hợp của Tứ Giáo trong Sekiguchi Shindai, 1977, Appendices, 50-51.
193. Khác với pháp quán của Viên giáo, đi thẳng vào thực tại, và hợp nhất tam đế.
194. Nói cách khác, chư vị tiếp nhận chân tánh của thực tại, gồm mười pháp giới, và có thể điều phục các chuyển động trong các cõi.
195. Những phiền não cần diệt, và có thể diệt bởi các Bồ tát Biệt giáo, tức vô minh trụ địa, và trần sa hoặc. Nội dung của trần sa hoặc thì không rõ ràng, chỉ được nói như là loại phiền não vi tế còn lưu lại sau khi những phiền não thô là kiến hoặc và tư hoặc đã diệt. Đây là hai loại phiền não mà các bậc Thanh văn, Duyên giác, và hành giả Thông giáo chưa thể vượt qua.
196. Nói cách khác, những người đã diệt và điều phục được phiền não, như các hành giả Tạng giáo và Thông giáo, có sự trói buộc nồng nhiệt vào Phật pháp, là nhân đưa đường tái sinh. Đọc chi tiết Bukkyo taikei I, 577ff.
197. Một đoạn trong phẩm thứ tư, kinh Duy Ma Cật, T9, 542b15-16, cư sĩ Duy Ma Cật nói cùng Bồ tát Di Lặc, Boin dịch: “tất cả chúng sinh là như, tất cả các pháp là như, tất cả hiền thánh là như, đây cũng là cái như của ngài Di Lặc... Như chẳng hai, chẳng khác. Ngài Di Lặc! Nếu ngài chứng đắc quả vị vô thượng và giải thoát viên mãn, thì tất cả chúng sinh cũng đều chứng đắc như vậy. Tại sao? Vì Bồ đề là của tất cả chúng sinh...”
198. Mặt thứ nhất trong ba mặt của Phật tánh.
199. Mặt thứ hai trong ba mặt của Phật tánh.
200. Mặt thứ ba trong ba mặt của Phật tánh.
201. Ba mặt của chân lý, gọi là quỹ [phạm] vì là thứ tự, khuôn mẫu của các pháp như chúng thực sự là. Tam quỹ phạm song song với tam Phật tánh:
Chân tánh quỹ phạm: Mặt hợp nhất, không ảo tưởng, không phân biệt của thực tại; khế hợp với cảnh giới khách quan, và Phật tánh như chánh nhân Bồ đề. Bồ đề vốn có trong tất cả chúng sinh vì chúng sinh có phần trong chân như thực tướng tức cái thiếu vắng chủ tể đồng thời là giả hữu.
Quán chiếu quỹ phạm: Cái dụng của trí tuệ diệt phiền não và hiển lộ chân tánh; khế hợp với Phật tánh như liễu nhân Bồ đề, vì trí tuệ chứng ngộ Bồ đề vốn có trong tất cả chúng sinh.
Tư thành quỹ phạm: Vạn hạnh song đôi với trí tuệ viên mãn vốn có; khế hợp với Phật tánh như hành và duyên nhân Bồ đề.
Đọc thêm chi tiết, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, đề mục tam quỹ phạm, T33, 741b- 746c.
202. Bốn đại nguyện là: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô số thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô tận thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Thấy rằng Thiên Thai Đại Sư là người đầu tiên thành lập bốn Bồ tát phổ nguyện nầy. Đọc Rhodes, 1984, và Chappell, T'ien T'ai Buddhism, 103.
203. Năm ba la mật còn lại là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, và thiền định.
204. Ba cách đọc “như thị tướng” v.v...
205. Vì là Không và Giả.
206. Mười pháp giới, và tất cả hiện hữu đều tương tức và tương nhập.
207. Tôi đã dịch “báo quả” là “retributive result” và “quả báo” là “resultant reward”, dù các chữ viết như nhau.
208. T9, 44b27, Hurvitz, Lotus Sutra, 247, dịch như sau: “Những chúng sinh kia / nghe được thọ mệnh của Như Lai / sẽ được vô số bất nhiễm / quả báo thanh tịnh”. Hurvitz có đề cập trong một chú thích rằng bản dịch kinh Pháp Hoa của pháp sư Cưu Ma La Thập rất khác với bản Phạn văn còn lưu truyền.
209. Một bài kệ trong phẩm “Tín Giải”, kinh Pháp Hoa, T9, 18c18-19. Trong đoạn văn nầy, Ngài Đại Ca Diếp giải thích ý nghĩa ẩn dụ về người cùng tử. T9, 44b27, Hurvitz, Lotus Sutra, 98, dịch như sau: “Hằng bao đêm dài chúng con / đã giữ gìn pháp Phật thanh tịnh / nhưng chỉ hôm nay / chúng con mới được quả / được báo / Giữa [biển] pháp của đấng Pháp Vương / đã từng gieo trồng Phạm hạnh / Ngày nay chúng con đã chứng được vô lậu / một quả đại thù thắng.”
210. Từ một đoạn cuối trong phẩm “Như Lai Thọ Lượng”, T9, 43c21.Hurvitz, Lotus Sutra, 244, dịch như sau: “Như trí tuệ thần thông / thọ mệnh của Ta vô số kiếp / chứng được sau thời gian dài hành trì.”
211. Đoạn văn nầy từ phẩm “Thuần Đà”, kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 612b19, khi ông Thuần Đà cúng dường Phật, và được quả báo thù thắng và Niết Bàn. Đọc Yamamoto I, 29ff.
212. Tam hiền chỉ cho thập trụ, thập hạnh, và thập hồi hướng. Thập thánh chỉ cho thập địa.
213. Phẩm thứ ba kinh Nhân Vương, T8, 826bff, luận về Bồ tát địa. Câu văn nầy tìm thấy ở đoạn 828a1.
214. Bản Nhiếp Đại Thừa, T31, 226b26, Paramartha dịch: “Hiện hữu duyên sinh thuộc luân hồi thì gọi là quả báo rất thô”. Nói cách khác, cõi luân hồi có đặc tính nhân duyên từ nghiệp, là yếu tố đưa đến sự tái sinh.
215. Tôi chưa thể tìm được xuất xứ câu văn dẩn chứng nầy. So sánh với một đoạn trong Thánh Kinh: “Vì đây nói lời chân thực, 'Kẻ gieo, người gặt'. Ta gởi ngươi đến gặt hái cái mà ngươi đã không tốn công; những kẻ khác đã bỏ công, và ngươi dự vào công khó của kẻ khác” (John 4:37-38).
216. Theo Thiên Thai Tông, “tăng đạo” chỉ cho trí tuệ giác ngộ dần dần vào trung đạo Viên giáo từ sơ trụ cho đến quả Phật. “Tổn sinh” chỉ cho diệt vô minh và giải thoát cõi luân hồi.
217. Trong đoạn văn nầy, Thiên Thai Trí Khải đã cẩn thận bao quanh đề mục người ta có thể nói rằng Phật có bất cứ [quả] báo nào hay không. Bản văn mà đại sư dẩn chứng thì nói rõ rằng người ta có thể nói về quả báo của Phật với nghĩa là kết quả của giác hạnh viên mãn; và như vậy thì Phật cũng có mười như-thị. Tuy nhiên, vì Phật đã diệt tất cả phiền não, và không còn dấu tích vô minh nào lưu lại, người ta không thể nói rằng Phật thọ quả báo từ ác nghiệp mà tái sinh trong luân hồi. Với nghĩa nầy thì Phật chỉ có chín như-thị. Như vậy, Trí Khải đã phân biệt giữa “quả báo” và “thọ báo” Bồ đề.
218. Một đoạn văn tiếp tục từ kinh Nhân Vương, T8, 828a1, đã dẩn chứng ở trên.
219. Ba mươi thân tận.
220. Từ kinh Nhân Vương, T8, 827c27, ngay trước đoạn văn dẩn chứng ở trên. Bản văn mô tả sự chứng đạo tối thượng sau khi trải qua các quả vị Bồ tát.
221. Người ta có thể nói rằng kiếp hiện tại của Phật là một “thọ báo” từ thiện nghiệp trong quá khứ.
222. Đoạn văn nầy từ phẩm “Thuần Đà”, kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 612b19. Đọc ghi chú 211.
223. Nhóm chữ nầy đã nói trong ghi chú 47.
224. Đại trí; sarvatha-jnàna.
225. Ở đây Thiên Thai Đại Sư trình bày sự khế hợp giữa bài kệ thứ 24:18 Trung Luận, nơi mà tam đế đã y cứ, và mười pháp giới. Đọc đồ biểu 1.
226. Nguồn gốc bản văn nầy chưa rõ, nhưng được tin rằng đó là từ A tỳ đạt ma. Trong “Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Tiêm”, tôn giả Trạm Nhiên nói rằng nội dung không khác với Abhidharma-kosabhasya, nhưng đây có thể chỉ cho đoạn văn nầy. Shakusen kogi đưa ra cả hai bản dịch có trước là Abhidharma-kosabhasya của Paramartha, và bản dịch mới của pháp sư Huyền Trang, nhưng hẳn nhiên là Thiên Thai Đại Sư chưa thấy bản của ngài Huyền Trang. (Đọc Bukkyo taikei I: 605- 606).
227. Samyaksambuddha. Bản Taisho ghi là “danh”, nhưng bản Bukkyo taikei dùng chữ “minh”, đổi nghĩa như sau: “họ không minh bạch được chánh biến tri”.
228. Hoặc, tất cả chân lý.
229. Trong phần nầy tôi đã dịch chữ “tướng” là tánh thay như chữ tướng trong như thị [tướng]. Trong phần nầy, cặp “tướng tánh” hoặc “tánh tướng”, một cách tổng quát chỉ cho thập như thị, nên “tánh” dễ đọc hơn, dù rằng với Anh ngữ thì không suông lắm.
230. Thiên Thai Trí Khải phê bình lối hiểu của A tỳ đạt ma về tánh Không, là một cái Không có từ sự chia chẻ (chiết không) các pháp để chứng minh rằng chúng không có tự thể. Với đại sư, đây là một lối hiểu thô về tánh Không, và vạn pháp nên được hiểu “tức Không”.
231. Phẩm Tín Giải, T9, 17b13-14, người cha nói cho mọi người biết liên hệ cha con. Đây là sự biểu thị mối liên hệ hợp nhất giữa Phật và chúng sinh, và tánh đồng nhất của tất cả chân lý. Hurvitz, Lotus Sutra, 88, dịch như sau: “Đến những ngày cuối đời, người cha bảo con mình tập họp tất cả thân tộc, quốc vương, quan đại thần, dòng Sát-đế-lị, cư sĩ. Khi mọi người đã đến đông đủ, người cha liền nói: “Các người nên biết, người nầy là con tôi, tôi đã sinh ra, trước kia trong thành nọ đã bỏ tôi mà đi, chịu nhiều thống khổ, phiêu bạt hơn năm mươi năm. Con tôi vốn tên ấy, tôi vốn tên ấy. Xưa kia, tôi ở tại thành nầy, lòng lo âu tìm kiếm con mình. Một ngày kia bất ngờ được gặp lại con. Người ấy chính thực là con tôi. Tôi chính thực là cha người. Những của cải tôi có ngày nay con tôi đều được cả. Tất cả gia sản chi ra, thu vào con tôi đều biết rõ.”
232. Đây là chân ngôn nổi tiếng của Thiên Thai Đại Sư tóm kết tất cả chân lý về một mối. Nói cách khác, tất cả hiện tượng, muôn sự, vạn pháp đều trong mối đạo giao viên mãn, và không có chân lý nào bên ngoài chân lý viên dung nầy.
233. Đọc T9, 12a27, 26b20, và 41b24.
234. Từ Trung Luận, T30, 33b11-12. Đọc phần phân tích bài kệ trong chương giới thiệu, và đồ biểu 1.
235. Chư vị vì chúng sinh mà trở lại thế gian giả tạm nầy.
236. Đọc phần thứ nhất của bài kệ, T12, 692a13, và phần thứ hai, T12, 693a1. Đây là bài kệ từ một câu chuyện nổi tiếng về tiền thân của Đức Thích Ca từng tu hành trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn. Một vị trời hiện ra thân tướng quỷ dữ đọc phần đầu của bài kệ cho Đức Thích Ca Mâu Ni tương lai, là người đã nguyện hiến thân cho quỷ đói để được nghe những dòng kệ sau cùng. Đọc Yamamoto I, 351-356.
237. Khế hợp với Pratiyasamutpada (Duyên sinh)
238. Khế hợp với Sunyata (Không).
239. Khế hợp với Prajnaptirupadaya (Giả hữu).
240. Khế hợp với Madhyama (Trung).
241. Nói cách khác, Niết Bàn chân thực không phải là sự tận diệt; mà hơn như thế, chân lý vốn tịch diệt tự bao giờ. Thiên Thai Trí Khải đã dẩn chứng kinh Pháp Hoa, T9, 8b25, Hurvitz, Lotus Sutra, 37, dịch như sau: “Chư pháp bản lai tướng thường tịch diệt”.
242. Theo tôn giả Trạm Nhiên trong “Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Tiêm”, đây là lối nói thường thấy trong kinh A Hàm (Bukkyo taikei I, 611). Thí dụ, đọc kinh Tăng Nhất A Hàm (Ekottaragama), T2, 551a13-14, có ba bài kệ:
Đừng làm việc dữ,
Làm tất cả hạnh lành.
Tâm người tự nhiên sẽ trở nên thanh tịnh,
Đây là lời dạy của chư Phật.
243. Đây là một chân ngôn nổi tiếng khác của Thiên Thai Trí Khải, diễn đạt ngắn gọn khái niệm chân lý viên dung của đại sư.
244. Nói cách khác, sự quảng đại của thực tại, của cảnh giới, thì chỉ có trí tuệ thâm sâu mới có thể lãnh hội được.
245. Hoặc “cảnh giới quảng đại của chư Phật”. Vì cả hai (Phật và cảnh giới) tương nhập nên có cùng nghĩa.
246. Nói cách khác, vì Phật hội nhập căn bản thực tại tức hiểu tận tường Phật trí, biết ngọn nguồn nguyên lý, đó là Phật giới.
247. Danh từ nầy mượn từ kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 820b2ff, Phật dạy rằng Ngài đã thuyết mười hai tạng kinh có khi là “tùy tự ý”, có khi là “tùy tha ý”, có khi phối hợp cả hai. (Đọc Yamamoto III, 868ff). Ở đây điều Thiên Thai Trí Khải đưa ra có khác. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói đến những phương pháp giáo hóa khác nhau; đại sư cũng tạm phân ra hai loại trí tuệ: trí biết Phật giới (thực trí), và trí biết chín cảnh giới kia, thế giới của chân lý khác quan (quyền trí). Dĩ nhiên, như Trí Khải vừa chỉ rõ, Phật giới bao gồm chín cảnh giới kia, và tất cả là những yếu tố của thực tại.
248. Cái khế hợp với trí Phật, và cái khế hợp với trí chúng sinh (trong chín cõi); hoặc thực trí và quyền trí.
249. Một đoạn trong phẩm “Như Lai Thọ Lượng”, kinh Pháp Hoa, T9, 42c10-12, Hurvitz, Lotus Sutra, 239, dịch như sau: “Thiện nam tử! Kinh điển của Như Lai thuyết ra tất cả đều vì mục đích giải thoát. Khi thì nói về thân mình, lúc lại chỉ thân người, khi thì nói việc mình, lúc lại chỉ việc người. Tất cả lời ta nói đều là lời chân thực, chẳng hư dối.”
250. Tạm nói là Thực.
251. Tạm nói là Quyền.
252. Tạm nói là Chân.
253. Tạm nói là Ngụy.
254. Khế hợp với Trung, là chỗ vượt trên sự phân biệt chân và ngụy.
255. Không có gì suy giảm từ Phật hoặc cõi Phật vì giả định tách rời với chín cõi khác.
256. Chỉ cho bài kệ nổi tiếng của kinh Hoa Nghiêm, nhấn mạnh trên sự quan trọng của tâm đối với cách nhìn thế giới khác quan. Đọc T9, 478c29. Đọc ghi chú 106.
Bài kệ nầy có thể được giải thích nhiều cách, cách nầy có vẻ “thuần lý” hơn cách khác. Phần thứ nhất của bài kệ thường được dẩn chứng làm căn bản cho thuyết duy tâm. Tuy nhiên, phần cuối của bài kệ, là chỗ đưa ra tánh bình đẳng giữa Phật, chúng sinh, và tâm; lại làm giảm giá trị của thuyết nầy. Nói cách khác, người ta có thể dùng bài kệ nầy với một biện minh ngang ngữa để tranh cãi rằng Phật giáo là cái học “duy Phật” hoặc “duy chúng sinh”. Tất cả những vị trí trên đều là những cách giải thích cực đoan. Bài kệ nầy cần được khảo cứu trong ánh sáng của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Luận về việc Thiên Thai Trí Khải thường dẩn chứng bài kệ nầy, đọc Ando Toshio 1978, 152ff.
257. Dẩn chứng nầy từ kinh Đại Bát Niết Bàn, thuyết về Phật tánh, T12, 769b12-13; Yamamoto II, 659. Bản văn đọc như sau: “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh đều tương ứng với ba tam muội: thượng, trung, và hạ. Thượng tam muội chỉ cho Phật tánh. Vì thế nên nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Trung chỉ cho tất cả chúng sinh tương ứng với sơ thiền (dhyana). Khi hội đủ duyên, chúng sinh có thể thực hành. Nếu chưa đủ duyên, thì chưa thể thực hành...”.
258. Thêm một lần nữa, đây không phải là cùng một dẩn chứng, nhưng ý nghĩa thì như nhau. Đọc kinh Hoa Nghiêm, T9, 409c1.
259. Tâm giống như một huyễn sư vì tạo ra huyễn cảnh, và ấn tượng từ tâm sinh thì không như thực tại như-thị từ cách chúng ta nhìn thế giới khách quan.
260. Có ý nói rằng con đường quán tâm là con đường thực tiển nhất.
261. Nói cách khác, tất cả các pháp đều tương nhập, và không có bất cứ một pháp nào sinh ra trong chính nó, và từ chính nó.
262. Có thể hiểu rằng giả hữu và Không chẳng nghịch nhau mà là đồng nghĩa.
263. Nói cách khác, “như” hoặc tánh viên dung của tất cả chân lý.
264. Đọc T46, 52b-55c. Đề mục nầy trong Maha Chỉ Quán được nói chi tiết trong Hurvitz, Chih-i, 302ff.
265. Nói cách khác, kinh Pháp Hoa không dùng tứ cú để thuyết về đề tài nầy qua [hai vế] “tương đối và tuyệt đối”, hoặc “chẳng tương đối cũng chẳng tuyệt đối”.
266. “Bán tự” và “mãn tự”, đọc ghi chú 177, kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm “Văn tự”, T12, 653c-655b.
267. Từ mục giới thiệu kinh Duy Ma Cật, T14, 537c15. Boin 9, dịch đoạn văn nầy “Chẳng là (sat) cũng chẳng chẳng-là (asat), tất cả các pháp từ nhân duyên sinh (hetun pratitya samutpannah)”.
268. Đoạn văn nầy tiếp theo đoạn văn trên trong mục giới thiệu kinh Duy Ma Cật, T14, 537c17. Boin 10, dịch: “Bậc đại khổ hạnh (munindra), ngài đã thắng được bè lũ ma vương, và chứng đạo giác ngộ tối thượng (pravarabodhi).”
269. Dẩn chứng nầy thấy trong Đại Trí Độ Luận, T25, 516c13-14: Kiến đệ nhị pháp luân chuyển. Bản dịch kinh Đại Bát Nhã của pháp sư Cưu Ma La Thập, T8, 553a16 có khác đôi chút, nhưng cũng đủ để lưu ý. Dịch rằng: “Tôi, tại Nam Diêm Phù Đề (Jambudvipa), lại được thấy chuyển pháp luân”. Trong bản nầy không có chữ “thứ hai”, và khác là, chuyển bánh xe pháp.. Tuy nhiên, Thiên Thai Trí Khải giải thích đoạn văn nầy với cái nhìn kinh Bát Nhã Ba La Mật là bước đặc thù thứ hai trên chặng đường hoằng pháp của Phật.
270. Kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 731b5-6, nếu đây thực sự là đoạn văn mà Trí Khải Đại Sư muốn nói đến, chỉ kể lại những sự việc trong đời Đức Thích Ca, và nói: “Tại thành Ba la nại, lần thứ nhất chuyển pháp luân cùng năm vị tỳ khiêu, và nhập Niết Bàn tại thành Câu thi na.” Phần nói về cuộc đời Đức Thích Ca Mâu Ni, tuy nhiên, kinh Đại Bát Niết Bàn lướt qua cách giải thích thuộc Tiểu thừa.
271. Từ phẩm Thí Dụ, kinh Pháp Hoa, T9, 12a18-19. Hurvitz, Lotus Sutra, 56-57, dịch: “Xưa kia, tại thành Ba la nại / ngài chuyển pháp luân tứ đế / thuyết các pháp phân biệt / sinh diệt của ngũ uẩn / ngày nay ngài lại chuyển đại pháp luân vi diệu.”
272. Nói cách khác, các giáo pháp không phải luôn ẩn hoặc luôn hiển. Nếu đây là cách đọc đúng về Trí Khải Đại Sư, thì nó không thể giải thích như một phê bình về những cố gắng về sau như tác phẩm Thiên Thai Tứ Giáo Nghi đưa ra một hệ thống phân loại rành mạch?.
273. Nói cách khác, người trí có thể chứng ngộ pháp viên mãn khi nghe được giáo pháp từ các kinh A hàm, Phương đẳng, hoặc Bát nhã ba la mật; mặc dù kinh Pháp Hoa là giáo pháp thù thắng, chứa đựng chân lý rõ ràng không qua bất cứ phương tiện hóa trang nào.
274. Chi tiết về phân loại giáo lý, đọc Hurvitz, Chih-i; và Chappell, T'ien T'ai Ssu chiao I. (Thiên Thai Tứ Giáo Nghi). Trí Khải Đại Sư cũng nói chi tiết về chủ đề nầy trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33,806bff.
275. Đây là một đoạn trong luận đề về Trung Luận của Pin-lo-ching, đọc T30, 1b21-23. Nguyên văn có thể được dịch như sau: “Trước hết, mười hai nhân duyên được giải thích cho những người theo Thanh văn thừa. Cũng vậy, đối với những người trí đã từng tu hành và có khả năng tiếp nhận diệu pháp, tánh duyên khởi được giải thích theo pháp Đại thừa; tức tất cả các pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng đồng chẳng dị v.v...”
276. Như trong Trung Luận 24:18, từ đó mượn Pratityasamutpada / Không / Giả hữu / Trung đạo, đưa vào Tứ Giáo như thấy trong đoạn văn kế tiếp.
277. Sự và Lý chẳng phải là không.
278. Trong trường hợp nầy paramarthasatya đối nghịch với samvrtisatya.
279. Nói cách khác, tại sao kinh Pháp Hoa được gọi là “mãn” nếu tất cả các kinh đều hàm súc chân lý viên mãn, như sữa cũng biến đổi thành chất đề hồ.
280. Chỉ cho học thuyết về ba loại hiện hữu giả tạm trong Thành Thật Luận. Đọc ý tưởng của tôi về đề tài nầy trong chương sáu. Tóm lại, ba loại giả hữu là nhân thành giả, tương tục giả, và tương đãi giả.
281. Đây không phải là một câu văn dẩn chứng trực tiếp mà là một đoạn kinh Duy Ma Cật, T14, 546b24ff, khi cư sĩ Duy Ma Cật nói với tôn giả Xá Lợi Phất về giải thoát bất tư nghị. Đọc Boin, 141ff.
282. Một chân lý tuyệt đối được dựng lập vượt lên trên cái gọi là những tướng giả tạm “bất tuyệt” thuộc thế giới hiện tượng.
283. Nói cách khác, chỉ cho những Bồ tát thấy được Không tức Giả, Luân hồi tức Niết bàn, hoặc tánh nhất chân; và quay trở lại cõi giả tạm nầy để cứu giúp chúng sinh.
284. Tất cả các pháp đều tương quan, và là những mặt của một chân lý. Làm sao lại có thể có bất cứ điều gì ra ngoài một chân lý nầy?.
285. Diệu lý có thể thấy được qua pháp quán thế giới hiện tượng nầy, mà không cần thiết phải bỏ qua giả cảnh.
286. Chân tánh vượt trên ngôn từ và khái niệm phân biệt, nhưng vì phải dùng đến văn tự, những chữ “diệu” hoặc “tuyệt” là những chữ gần nhất có thể mô tả được điều nầy.
287. Tóm tắt một đoạn văn trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuyết về ý nghĩa đại Niết Bàn đối lại với Niết Bàn của Tiểu thừa. Đọc T12, 745c24ff; Yamamoto II, 562ff. Những nhóm chữ “vô lượng” và “vô phân biệt” xuất hiện trong T12, 746b21-26: “Thiện nam tử, Đại có nghĩa vượt ngoài khái niệm phân biệt. Nếu những gì vượt ngoài khái niệm phân biệt, thì chúng sinh không thể tin nhận. Vì thế mà gọi là Đại Cứu Cánh Niết Bàn (Mahaparinirvana). Chỉ có chư Phật và chư Bồ tát mới có thể cảm nhận được nghĩa nầy. Vì thế mà gọi là Đại Cứu Cánh Niết Bàn. Cũng gọi là Đại vì đến từ vô lượng nhân duyên. Vì thế nên gọi là Đại. ”
288. Nói cách khác, khi nào văn tự còn được dùng để mô tả cái tuyệt đối, cái đang mô tả đó đối nghịch lại với tương đối.
289. Kinh Pháp Hoa, T9, 6c19, Hurvitz, Lotus Sutra, 28.
290. Kinh Pháp Hoa, T9, 5c25, Hurvitz, Lotus Sutra, 23.
291. Phẩm Dược Thảo Dụ, kinh Pháp Hoa, T9, 19c4-5. Hurvitz, Lotus Sutra, 103, dịch: “Các loại cây cối, lùm buội, các loại cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng, trung, hạ của chúng; nhưng Như Lai biết pháp nhất tướng, và nhất vị, tức tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng tịch diệt, tướng Niết Bàn tối thượng, đưa về tánh Không. Phật biết như vậy, quán sát lòng ưa thích của mỗi mỗi chúng sinh mà tùy cơ hướng dẩn họ.”
292. Tôi chưa thể tìm được xuất xứ đoạn văn dẩn chứng nầy.
293. T16, 189b1-2. Kinh nầy nhấn mạnh trên tánh Không của tất cả các pháp, được pháp sư Cưu Ma La Thập dịch sang Hoa văn năm 406. Đoạn văn nhấn mạnh trên tánh Không của ngay cả trí tuệ quán Không, rằng các pháp không tự sinh. Nói cách khác, ngay cả sự chứng ngộ nầy không sinh khởi ý nghĩa tự tánh – vạn pháp thiếu cái gọi là chủ thể.
294. Nói cách khác, còn có thể nói gì [sâu] hơn thế nữa?. Thêm tiếng thêm lời chỉ là vô nghĩa.
295. Có thể ở đây Trí Khải Đại Sư phê bình thuyết nhị đế của Tam Luận Tông, khi nói rằng họ đã chất đống muôn vàn phủ định. Đọc chương bảy về Tam Luận Tông.
296. Trong trường hợp nầy, chữ Giác chỉ cho Vitarka, là việc của tâm; và chữ Quán chỉ cho Vicara, tri giác vi tế hoặc sự dung công của tâm, đạt đến cái thấy chân thực. Giác-quán - tri giác phổ quát của thế gian chân xác từ những cách thấy cao hơn.
297. Tôi phải thú thật rằng tôi không mấy hiểu điểm chính trong ẩn dụ nầy. Ẩn dụ nầy từ kinh Đại Bát Niết Bàn, T8, 703a 25.
298. Thiên Thai Đại sư cũng dùng ẩn dụ nầy trong Maha Chỉ Quán, T46, 81c2. Tôn giả Trạm Nhiên, trong tác phẩm “Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết”, giải thích như sau: “hoàn trung có nghĩa là pháp giới sánh với một lâu đài. Đây là nơi Pháp Vương cư trú. Pháp Vương không có cái nhìn phiến diện. Chân tánh thì không ở ngoài pháp giới nầy. Chứng nghiệm được sự biến hóa và biết được thực tại thì gọi là 'tỉnh thức trong lâu đài'. Sau đó, tôn giả đưa ra thí dụ về Trang Tử. Đọc Bukkyo taikei, Moho Chih kuan IV, 68-69.
299. Ẩn dụ nầy cùng chỗ với ẩn dụ về con chó: T8, 703a 25.
300. Chỗ nầy, “Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Tiêm” giải thích rằng văn tự sánh với cục đất, chân tánh sánh với người. Con chó ngốc nghếch kia chưa biết bỏ qua cục đất ngôn từ. Sư tử, loài vật có trí khôn, biết bỏ danh mà được ý [tức bỏ cục đất mà đuổi theo người]. Vì vậy, hành giả nên phải biết rằng khái niệm và tri kiến sai lầm từ văn ngôn mà sinh. Nếu biết dừng khái niệm và tri kiến sai lầm, tức vượt qua được văn ngôn. Khi đã bước qua chữ và lời, người ấy có thể đi xa, và đặt một dấu chấm đối với những điều tương đối.”
301. Chú ngựa nầy không cần phải dùng roi quất vào thân mà chỉ cần thấy bóng chiếc roi thì biết ý chủ, chỉ cho người có thể thấy được chân lý mà không cần đến văn chương chữ nghĩa làm phương tiện.
302. Đọc kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 690c28-691a8.
303. Nói cách khác, chữ “tuyệt đối” ở đây không có nghĩa rằng người nầy siêu việt bậc nhất thế gian, nhưng có nghĩa rằng khả năng của người ấy khó ai sánh kịp. Như vậy, chữ “diệu” có nghĩa cũng có nghĩa là chỗ cao quý khó sánh kịp.
304. Đây là lối chơi chữ của người Trung Hoa vì chữ “tuyệt” cũng có nghĩa là “cắt đứt”, hoặc “rẽ ngang”.
305. Mười bốn phẩm đầu của kinh Pháp Hoa, thuyết về ứng thân Phật, tức Tích môn.
306. Đó là, nghĩa chân thực đến từ phương tiện thiện xảo đã thành tựu mục tiêu, và không còn cần thiết.
307. Mười bốn phẩm cuối của kinh Pháp Hoa thuyết về Bản môn.
308. Hành giả phải tu tập và vun bồi cái tâm trong sáng, là cái tâm [biết bỏ lại sau lưng] khái niệm và văn tự.
309. Trong đề mục [tương đối khó nắm bắt] nầy, Trí Khải Đại Sư xây dựng cách phân loại trên ba mặt về Tích môn, liên hệ đến mười bốn phẩm đầu kinh Pháp Hoa, khế hợp với chúng sinh pháp; Bản môn liên hệ đến mười bốn phẩm cuối kinh, khế hợp với Phật pháp; pháp quán Tâm khế hợp với tâm pháp. Số trang dày cộm còn lại của Pháp Hoa Huyền Nghĩa trình bày ba thứ lớp phân loại nầy dười hình thức tích môn thập diệu, bản môn thập diệu, và quán tâm thập diệu. Thực sự, hầu hết những luận giải đều liên quan đến tích môn thập diệu trong cõi kinh nghiệm thực chứng của con người, có thể đọc trong T33, 697c-765a. Bản môn thập diệu trong T33, 765a-771c; nhưng quán tâm thập diệu thì không được nói đến (có thể vì đây là chủ đề của Maha Chỉ Quán).
310. Bốn loại “tuyệt đãi diệu” đã nói ở phần trên.
311. Trên cán cân từ thấp lên cao.
312. Tức là nhau, hoặc tánh đồng nhất.
313. Mười bốn phẩm đầu kinh Pháp Hoa.
314. Mười bốn phẩm cuối kinh Pháp Hoa.
315. Mười cái diệu trong ba pháp: Phật, chúng sinh, và tâm.
316. Câu nầy từ kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 627c15. Kinh nói: “Cái gọi là Pháp là thầy của chư Phật. Vì thế nên Như Lai cung kính [Pháp]”. Vì thập như-thị, pratityasamutpada, tứ đế, nhị đế, tam đế, nhất đế, và vô đế đều là pháp, hoặc hơn nữa, là những giáo pháp thích ứng và có giá trị liên quan đến chân lý bất khả thuyết, được gọi là thầy của chư Phật.
317. Diệu cảnh được nói chi tiết trong T33, 698b-707a.
318. Tên gọi hai mươi loại trí, đọc T33,707a28-b6.
319. Chỗ nầy tương ưng với bảy loại nhị đế được đưa ra trong đề mục nhị đế dưới đây (T33, 702a-704c). Bảy loại là trí tương đối và trí chân thực của Tạng giáo, Thông giáo, Thông giáo tiếp Biệt giáo, Thông giáo tiếp Viên giáo, Biệt giáo, và Biệt giáo tiếp Viên giáo.
320. Chỗ nầy tương ưng với bảy loại tam đế được nói đến dưới đây (T33, 704c-705a). Bảy loại tam đế là Thông giáo tiếp Biệt giáo, Thông giáo tiếp Viên giáo, Biệt giáo, Biệt giáo tiếp Viên giáo, và Viên giáo.
321. Câu nầy xuất hiện ngay sau câu Pháp là thầy chư Phật, kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 627b16. Bản văn đọc như sau: “Cái gọi là Pháp là thầy của chư Phật. Vì thế nên Như Lai cung kính [Pháp]. Vì Pháp thường hằng nên Như Lai thường hằng”.
322. Diệu trí được nói chi tiết trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 707a24-715b16.
323. Thực hành pháp tiệm thứ từ thấp lên cao, và pháp khác với tiệm thứ, trực chỉ chân như. Ngũ hạnh cũng từ kinh Đại Bát Niết Bàn, T12, 67321ff, phẩm Thánh Hạnh. Bồ tát hành tức Thánh hạnh, phân ra như sau: giới, định, và tuệ. Phạm hạnh: vị Bồ tát nầy, với tâm thanh tịnh, cứu khổ ban vui cho chúng sinh. Thiên hạnh: thực hành phù hợp với chân tánh. Anh nhi hạnh: gieo nghiệp lành, trải lòng từ phù hợp căn cơ chúng sinh. Bệnh hạnh: Bồ tát trải thân mình trong pháp giới, chia sớt những khốn khổ của chúng sinh, đưa đường giác ngộ.
324. Chi tiết về Diệu Hành, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 715b17-716b10.
325. Phẩn Dược Thảo Dụ, kinh Pháp Hoa, T9, 19b1-5. Hurvitz, Lotus Sutra, dịch như sau: “Lưới mây giăng khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới, tuôn mưa lớn đều đặn khắp nơi thấm nhuần. Cỏ cây, lùm buội, cỏ thuốc, hoặc gốc nhỏ, thân nhỏ, cành nhỏ, lá nhỏ; hoặc gốc vừa, thân vừa, cành vừa, lá vừa; hoặc gốc lớn, thân lớn, cành lớn, lá lớn, tất cả đều nhận được nước mưa...”. Nói cách khác, dù căn tánh cây cỏ có khác nhau, nhưng mưa rơi không phân biệt, cũng như chúng sinh có khả năng, thứ lớp, vị thế khác nhau, nhưng chỉ có một chân lý và một mục tiêu chứng đắc.
326. Chi tiết về Diệu Vị, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 726b11-741b6.
327. Tam Quỹ Phạm, hoặc ba mặt của chân lý, gồm có chân tánh quỹ, quán chiếu quỹ, và tư thành quỹ, suy ra từ tam pháp là tam Bồ đề; tam pháp Chúng Sinh, Phật, và Tâm; và Lý, Tuệ, và Hành. Đọc Ando 1973, 40ff; và ghi chú 201.
328. Phật pháp là pháp khó lãnh hội.
329. Chi tiết về Diệu Tam Pháp, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 741b7-746c6.
330. Thêm chi tiết đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 748b10ff. Bốn cách là: minh ứng minh cảm, minh ứng hiển cảm, hiển ứng hiển cảm, và hiển ứng minh cảm.
331. Thêm chi tiết đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 748b28-c9.
332. Thêm chi tiết đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 748b28-c17ff. Chi tiết về “nhị thập ngũ hữu”, đọc Hurvitz, Chih-i, 339-342.
333. Thêm chi tiết về Diệu Cảm Ứng, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 746c7-749c26.
334. Ngũ thông thường được nói đến là thiên nhãn, thấy cái người đời không thể thấy; thiên nhĩ, nghe cái người đời không thể nghe; tha tâm, đọc được tâm người khác, túc mạng, biết những kiếp trước, và thần túc, đi được khắp nơi như ý. Đọc Nakamura, Bukkyogo daijiten, 370f. Tôi không biết được sự tương quan giữa năm thần thông trên và năm thần thông Thiên Thai Trí Khải đưa ra.
335. Những việc Phật làm trên thế gian nầy không kết nghiệp đưa đến tái sinh vì Phật có phiền não trói buộc.
336. Thêm chi tiết về Diệu Thần Thông, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 749c28- 751c22.
337. Thêm chi tiết về Diệu Thuyết Pháp, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 751c23- 755b8.
338. Thêm chi tiết về Diệu Quyến Thuộc, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 755b9- 758a 25.
339. Ẩn dụ nầy từ kinh Hoa Nghiêm, T9, 625b-c, Phật tuệ sánh với đại hải. Kinh Hoa Nghiêm trước tiên diễn tả việc hai mươi lăm ngàn dòng sông đổ vào biển lớn nhưng vô lượng nước trong biển lớn không tăng cũng không giảm. Rồi thì vô số long vương nhiều đến tám tỷ, tuôn mưa lớn vào biển cả, số nước mưa nhiều hơn tổng số nước trước kia, nhưng biển lớn đều tiếp nhận tất cả. Cứ như thế, nước trong biển lớn nhiều không thể tính kể. Tuy vậy, cũng không sánh được với trí tuệ Phật.. “Mặc dù nước trong biển lớn sâu, rộng, nhiều không tính kể, cũng không sánh bằng một phần trăm vô lượng trí của Như Lai” (T9, 625c13-14). Như vậy, lợi ích có được từ [sự tu trì pháp] Phật thì vô lượng.
340. Thêm chi tiết, T33, 755a 26-764b9.
341. T9, 5c11-12. Thiên Thai Đại Sư dẩn chứng câu văn nầy rất nhiều lần. Hurvitz, Lotus Sutra, 23, dịch: “Chỉ có Phật với Phật mới có thể tận tường chân lý”.