Khi
chúng tôi bắt đầu dịch kinh Pàli ra tiếng Việt, có người
bảo là một phận sự thuần chất tôn giáo, không dính gì
Đại học. Có người khắt khe hơn lại chỉ trích: “Đang
làm Viện trưởng một Viện Đại học mà dịch kinh là sẽ
có hại cho trách nhiệm điều khiển một Đại học”.
Chúng
tôi muốn chứng minh rằng dịch kinh như chúng tôi đang làm
cũng là một dịch vụ Đại học, không những không có xung
khắcmâu thuẫn, mà chính tiêu biểutốt đẹp cho thâu hóa
kiến thức và văn hóanhân loại, và phát huy tinh thần cầu
tiến, nghiên cứu, sáng tạo của Đại học.
Trước
hết, dịch kinh như là một phận sự chính của những vị
tu hành đi qua Ấn Độtu học. Như ngài Pháp Hiển người
Trung Hoa, đi qua Ấn Độ và Tích Lan vào thế kỷ thứ tư để
lại một số dịch phẩm quan trọng có thể dịch từ chữ
Sanskrit, Prakrit, Pàli qua chữ Hán. Ngài Huyền Trang, một nhà
chiêm bái Trung Hoa thế kỷ thứ 7, đã du học trên 17 năm,
và khi về nước đã dịch tất cả là 77 bộ kinh từ chữ
Phạn ra chữ Hán. Rồi đến ngài Nghĩa Tịnh người Trung Hoa
vào thế kỷ thứ tám cũng đi qua du học tại Ấn Độ với
một nhà sưViệt Nam, ngài Đại Thặng Đăng và khi về dịch
từ tiếng Phạn qua chữ Hán. Còn các vị sư Ấn Độ qua Việt
Nam và qua Trung Hoa cũng dịch kinh từ tiếng Phạn qua tiếng
Trung Hoa, và những bậc dịch Sư có danh tiếng như Ngài Sanghadeva
(Tăng-già-đề-bà), đã dịch tập Trung A-hàm, ngài Cưu-ma-la-thập
đã dịch tập Ma-ha Bát-nhã, Diệu Pháp Liên Hoa v.v. . .
Chính
công trình của các quý vị dịch Sư này đã xây dựng nên
Tam tạng Trung Hoa, một dịch Tạng phong phú nhất trong các
dịch Tạng. Thật sự, vấn đềdịch kinh điển là một công
trìnhvăn hóa hơn là một công trìnhtôn giáo, và ba Tạng
giáo điển Phật giáo không những phong phú nhất về lượng
và cũng dồi dào nhất về những uyên thâm triết lý và tinh
vi nhất về những phương pháptu hành. Những danh từ “Dhammacakkam
pavatteti” (Chuyển pháp luân), “Dhammam deseti” (Thuyết pháp)
mang nặng tính cách trao truyền chân lý, truyền thừapháp
môn và vì vậyphiên dịchkinh điển là một dịch vụ thuần
túyvăn hóa và rất phù hợp với công tác Đại học.
Khi
chúng tôi dịch từ tiếng Pàli ra tiếng Việt là chúng tôi
muốn giới thiệu ba Tạng Pàli cho các Phật tử và học giảViệt Nam, một tam Tạng kinh điển rất phong phú, rất gần
với lời dạy nguyên thủy của đức Phật, lại được phổ
biến rất rộng rãi khắp năm châu, qua công trình dịch thuật
của Hội Pàli Text Society, London.
Chúng
tôi lại đặc biệtdịch kinh Tạng, là một trong ba Tạng
được xem là ghi chép trung thành và thuần túy nhất những
lời dạy nguyên thủy của đức Phật. Từ trước cho đến
nay, tuy có một số kinh điển được dịch từ chữ Pàli ra
tiếng Việt, nhưng phần lớn là trích dịch, và các kinh được
dịch phần lớn dùng để tụng đọc trong các nghi lễ nên
có tính cáchtôn giáo nhiều hơn. Ở nơi đây, chúng tôicố
gắng dịch trọn vẹn, không bỏ qua một kinh nào, và dịch
có in nguyên bản Pàli đối chiếu với dụng ý để người
đọc có thể tự mình tìm hiểu nguyên nghĩa của từng chữ
từng câu, khỏi rơi vào những giải thích hay lệch lạc của
người dịch. Kinh Pàli được bắt đầu giới thiệu cho người
Việt Nam và người Việt Nam lần đầu tiên được đọc thẳng
kinh Tạng Pàli bằng tiếng Việt có nguyên bản Pàli đối
chiếu. Không những chúng tôigiới thiệukinh Tạng Pàli cho
các Phật tử và Học giảViệt Nam tụng đọc chúng tôi còn
cống hiến cho các Học giảViệt Nam những tài liệunghiên
cứu và tham khảo để viết những tham luận về Phật giáo.
Từ trước các Học giả có viết về Phật giáo chỉ có thể
trích dẫn các sách, do các người ngoại quốc viết về Phật
giáo, khó có thể tham chiếu từ tạng Pàli hay tạng Hán, và
như vậy có thể hiểu lầm và sai lạc. Nay các Học giả có
thể trích dẫn nơi bản dịch từ văn Pàli ra tiếng Việt
của chúng tôi, lại có thêm nguyên văn Pàli đối chiếu. Như
vậy sự trích dẫn được chính xác và khỏi lệch lạc.
Khi
chúng tôigiới thiệukinh tạng Pàli với các bản dịch năm
bộ Nikàya (Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương ưng Bộ Kinh,
Tăng Nhất Bộ Kinh, Tiểu Bộ Kinh), chúng tôigián tiếpgiới
thiệu bốn bộ A-hàm là Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm,
Tăng Nhất A-hàm và vô số kinh tương đương khác thuộc nhiều
học phái khác mà từ trước đến nay, rất ít người tham
khảo. Trường A-hàm được Hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch
ra Việt văn nhưng không được đầy đủ. Trung A-hàm được
Hòa thượng Thích Thanh Từ và Đại Đức Tuệ sĩ dịch ra
Việt văn nhưng chỉ dịch một số kinh và cũng chưa in thành
sách. Bản chữ Hán tuy có học tại các Phật học Viện, nhưng
cũng chỉ trích học. Bản chữ Hán được dịch vào thế kỷ
thứ 2 sau Kỷ nguyên nên rất xưa và khó hiểu và ít được
có người tham khảo. Chúng tôi xin kể sơ một ít danh từ
được Ngài Sanghade (ra dịch từ tập Màdhyàmàgama (Trung A-hàm)
ra chữ Hán. Như chữ Vedanà dịch là giác, sau dịch là thọ;
Savitakka, Savicàra, ngài dịch là hữu giác, hữu quán, về sau
dịch là hữu tầm, hữu tứ; Phassa, ngài dịch là cánh lạc,
về sau dịch là xúc. Chúng tôihy vọng khi bản Pàli được
trích dịch, thời nhiều đoạn A-hàm, tương đương được
sáng nghĩa hơn, và sẽ có nhiều vị tiếp tục dịch các bộ
A-hàm một cách trọn vẹn và đầy đủ. Bốn bộ A-hàm và
một số rất nhiều bài kinh chưa được phân loại là những
tài liệu rất quý giá đề cập đến các học phái, mà nay
hình như chỉ có ông André Bareau người Pháp nghiên cứu. Chúng
tôihy vọng trong một thời giangần đây, sẽ có một số
Học giảnghiên cứu đến những tài liệu này và sẽ khám
phá rất nhièu tài liệuPhật giáo mới lạ và hy hữu. Cho
nên khi dịch các tài liệu Pàli, chúng tôihy vọng mở đường
cho nhiều nghiên cứu khác đặt nặng vào bốn bộ A-hàm và
các kinh điển khác rải rác trong Tam Tạng. Như vậy trong khi
chúng tôi trực tiếp giới thiệukinh tạng Pàli, chúng tôigián tiếpgiới thiệukinh tạng A-hàm và tương đương, và
sự đóng góp này mang nặng tính chất vừa văn hóa, vừa Đại
học.
Cho
dịch và cho in các bản kinh Pàli, chúng tôi không mong muốn
gì hơn là để các Phật tử, các Học giả, các Sinh viên
được đọc thẳng vào những kinh điển thật sự nguyên thủy
hay gần nguyên thủy nhất, và tự mình tìm hiểu những lời
dạy thật sự của đức Phật, khỏi phải qua những lập
trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên
tạc của những Học giả và những Phật tử muốn giải thíchđạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. Muốn chạy
theodục vọng, thì giải thíchkinh điển một cách dễ hiễu
rằng đạo Phậtchấp nhận và tha thứdục vọng. Muốn giết
người và muốn bênh vực kẻ giết người, đạo Phật được
giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết
người. Muốn chạy theotà giáo và tà kiến, lại giải thíchđạo Phậtviên dungvô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi
tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo
được hết? Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhất là
phổ biến những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần
nguyên thủy nhất, để Phật tử được đọc thẳng ngay kinh
Phật, khỏi qua một ống kính màu nào. Đạo Phật cần những
cá nhânPhật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm
hiểu, rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự
hành trì, kinh nghiệmcá nhân.
Đạo
Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật,
theo một cách ồ ạtmù quáng, theo một cách thụ động nhắm
mắt, hay tự mình bóp méoxuyên tạcđạo Phật theo tà kiếndục vọng của mình. Chính kinh Đại Bát-niết-bàn, trang 124
- 126, tập III có ghi rằng: Dù chúng ta có nghe vị Tỳ kheo
nào nói tự thân nghe đức Phật, tự thân nghe các vị Thượng
tọa, Thủ chúng v.v... nói như vậy là Pháp, như vậy là Luật,
đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đả kích, chấp
thuận hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với Kinh, đối chiếu
với Luật, có phù hợp mới được chấp nhận, không phù
hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét,
tìm hiểu, suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có
thể nhận xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta chỉ có thể nhận
xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta được đọc những lời
dạy nguyên thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của đức
Phật.
Chúng
tôidịch kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không
muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục
đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những kinh điển
có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất,
để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của
đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dù
Ấn Độ, Trung Hoa hay Việt Nam. Chúng tôi cũng không có
trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên
thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc,
sau khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự mình suy tư,
tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới
có thể tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên
thủy. Trách nhiệmtìm hiểu, chứng nghiệmcá nhân là trách
nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì
đạo Phật là Đạo đến để mà thấy chứ không phải Đạo
đến để nhờ người thấy hộ, Đạo của người có mắt
(Cakkhumato), không phải Đạo của người nhắm mắt, Đạo
của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không
phải là Đạo của người không thấy, không biết (Apassato
Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy,
tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.
Thật
sự chúng tôi chỉ mong rằng quý vị hãy đọc thật kỹ và
suy tư thật chín chắn, những đoạn mà chúng tôiphiên dịch
rồi quý vị hãy tự hỏi, những đoạn ấy có phải là những
đoạn “Tiểu thừa” dành riêng cho những vị có tiểu tâm,
chỉ biết tư lợi không biết vị tha, chỉ biết tự giác
không biết giác tha. Như chúng tôi đã phân tích trong lời
giới thiệu bản dịch tập “Đại thừa Và Sự Liên Hệ
Với Tiểu Thừa”, chúng ta đừng có mắc bẫy các vị Bà-la-môn
Ấn Độ giáo đã tìm cáchgán cho chữ “Tiểu thừa”, để
loại ra ngoài những lời Phật dạycăn bản, như một số
Phật tửĐại thừa đã bị mê hoặc, không dám đọc những
lời Phật dạy, vì bị gán nhãn hiệu Tiểu thừa. Bên phái
Nam tông, tuy tôn thờ Tam tạng Pàli, nhưng một số Phật tử
cũng rơi vào một nạn tương tự, là chỉ học Luật tạng
và A-tỳ-đàm tạng, bỏ rơiKinh tạng Pàli, vì xem A-tỳ đàm
tạng mới đề cập đến Đệ Nhất Nghĩa đế, còn kinh tạng
chỉ bàn đến Tục đế mà thôi. Đây cũng là một lầm lạchết sức ngây thơ và nguy hiểm. Vì A-tỳ-đàm phát xuất từ
Kinh tạng, và bỏ gốc để tìm ngọn thì không khác gì kẻ
đi tìm lõi cây, mà chỉ mang về cành lá. Thật sự, đạo
Phật đâu có phân biệtTiểu thừa và Đại thừa, đâu có
chia đôi Chân đế, Tục đế. Những sự phân chia này chỉ
là hậu tác phẩm, hoặc của giáo sĩ Bà~la-môn mang danh Phật
tử muốn loại bỏ những gì tinh túy nhất của đạo Phật
không cho Phật tử học và tu, hay của một số đệ tử Phật
muốn làm Tổ sư một giáo phái, nên đề xướngcác chủ
thuyết lấn át những lời dạy nguyên thủy của đức Phật.
Thật
sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu
những lời dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
và vì trách nhiệm ấy mà chúng tôi đang cố gắngphiên dịchkinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần
suy tư chín chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là
những lời dạy trung thực của đức Bổn Sư chúng ta.
Đây
là sự đóng góp của Viện Đại họcVạn Hạnh vào nền
văn hóaPhật giáo bằng cách giới thiệu một cách đầy đủ
và trung thực những tàỉ liệu tiếng Việt quý báu nhất
về kinh tạng Pàli, vừa cho các Phật tửtìm hiểu, thực
hành và thực chứng, vừa giúp các Học giả Phật giáo có
những tài liệutham khảo khá đầy dủ và trung thực. Viện
Đại họcVạn Hạnh là môi trường đầu tiên nếu không
phải là độc nhất, đã cố gắnggiới thiệukinh Tạng Pàli
cho Phật tửViệt Nam, Học giả Vìệt Nam, dân chúng Việt
Nam. Viện Đại họcVạn Hạnh cũng đi tiên phong mở đường
cho một cao trào nghiên cứuđi thẳng vào lời dạy nguyên
thủy của đức Phật, khỏi bị những lệch lạc của học
phái hay của Bà-la-môn giáo. Điều quan hệ hơn nữa, Viện
Đại họcVạn Hạnh muốn khuyến khích các Học giả và các
Phật tử, tự mình mở mắttìm hiểu, suy tư, đối chiếu,
không có nhắm mắt tin theo, không có thụ độngchấp nhận,
trái lại phải biết thâu hóa, so sánh, phân tích, để làm
sáng tỏ những lời dạy nguyên thủy của đức Phật.
Câu chuyện bắt đầu rất đau buồn nhưng về sau lại mở ra một cánh cửa mới đầy hy vọng và tỉnh thức. Zach Obseon lúc nhỏ đã chứng kiến em gái của mình bị hiếp và giết chết, sau này lớn lên anh theo học ngành cảnh sát với tâm nguyện ngăn chặn cái ác, không để xảy ra những trường hợp như em gái của mình. Về phần kẻ thủ ác, anh ta tên Dennis Skillicorn , sau khi bị bắt và chịu án chung thân không ân xá. Trong thời gian ở tù, anh ta đã ăn năn tội lỗi của mình, anh ta và những bạn tù khác lập ra tờ báo “Compassion”, số tiền thu được làm học bổng cho Obseon cũng như những học viên cảnh sát khác.
Sam Lim, tân đại biểu Quốc hội Úc châu khóa 47, đã làm được một bước lịch sử: Sam Lim hôm Thứ Ba 26/7/2022 đã trở thành người đầu tiên tuyên thệ vào Quốc hội Úc bằng lời thề đặt tay trên kinh Phật. Đó là cuốn kinh được đọc nhiều nhất - Kinh Pháp Cú.
Chúng tôi rất vui mừng thông báo với đại chúng và cộng đồng Phật Pháp rằng Tăng đoàn do chúng tôi thành lập đã hình thành nên một ngôi Phạm Vũ ở Tiểu bang Pennsylvania, Mỹ Quốc: Phạm Vũ Pháp Vân.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.