Chương 7 : Luận Lý Về Hạnh

06/10/201012:00 SA(Xem: 24686)
Chương 7 : Luận Lý Về Hạnh
Chương 7
LUÂN LÝ VỀ HẠNH

Tôi từng đề nghị, nếu chúng ta muốn hạnh phúc chân thật, thì giới luật nội tại rất cần thiết. Tuy thế, chúng ta không thể ngưng ở giới luật. Mặc dù nó có thể ngăn ngừa ta thực hiện các hành sai quấy rất tiêu cực, nhưng chỉ giới luật không chưa đủ khiến ta đạt hạnh phúc với đặc tánh an bình nội tại. Muốn chuyển hóa được chính mình — các thói quenxu hướng — sao cho mọi hành động đều từ bi, cần phải phát huy được điều có thể gọi là "luân lý về hạnh". Cùng lúc với sự giới chế ý niệmcảm xúc tiêu cực, ta còn cần phải vun trồngtăng cường các phẩm hạnh tích cực. Các phẩm hạnh tích cực đó là gì? Các phẩm tánh cơ bản của loài người, hoặc đức hạnh tâm linh.

Sau từ bi (nying je), hạnh chủ yếu kế tiếp tiếng Tây tạng gọi là "so pa". Một lần nữa, ta lại có một chuyên từ có vẻ không sẵn có từ tương đương trong ngôn ngữ khác, mặc dù ý nghĩa tiềm chứa vốn rất phổ thông. Thông thường, "so pa" được dịch là "nhẫn nại," mặc dù tự nghĩa của nó là "có thể chịu đựng" hoặc "có thể chống lại." Nhưng từ này còn chứa một khái niệm về sự quyết định. Nó nói lên một phản ứng cẩn trọng (đối nghịch với phản ứng phi lý) chống lại ý niệmcảm xúc tiêu cực mạnh mẽ có xu hướng trổi dậy khi ta gặp nguy hiểm. Như thế, "so pa" là thứ tạo cho ta sức mạnh để chống kháng đau khổbảo vệ khỏi đánh mất tâm từ bi ngay dù đối với kẻ làm hại ta.

Trong hạn định này, tôi nhớ lại thí dụ của Lopon-la, một tăng sĩ ở Namgyal, tu viện riêng của Đạt lai Lạt ma. Sau khi tôi thoát khỏi Tây tạng, Lopon-la là một trong nhiều ngàn tăng ni và viên chức bị các lực lượng xâm chiếm bắt giam. Cuối cùng được phóng thích, ông được phép đến Ấn độ, nơi đó, ông tái nhập tu viện cũ của mình. Hơn hai mươi năm kể từ lần cuối được gặp ông, giờ tôi thấy Lopon-la cũng chẳng khác gì trong hồi ức của tôi là bao. Ông già hơn, dĩ nhiên, nhưng về vật lý không bị hư hao, và về tinh thần, tình cảnh tệ hại đã không ảnh hưởng ông chút nào. Sự nhẹ nhàng và thanh tịnh vẫn còn nơi ông. Trong khi trò chuyện, tôi được biết ông đã phải chịu đựng sự đối xử vô cùng khắc nghiệt trong suốt những năm dài bị giam cầm. Giống như những người khác, ông là đối tượng để "học tập cải tạo," trong suốt thời gian đó ông bị bắt buộc phải từ bỏ tôn giáo, và nhiều lần bị hành hạ tra tấn. Khi tôi hỏi có khi nào ông sợ hãi chăng, ông nhìn nhận chỉ có một điều khiến ông lo sợ: đó là có thể bị mất đi tâm từ bi và quan ngại đến các kẻ giam cầm mình.

Tôi rất cảm động vì điều đó, và rất cảm hứng. Nghe câu chuyện của Lopon-la càng xác quyết điều tôi hằng tin. Đó là không phải chỉ có thân thể vật lý của một người, hoặc trí thông minh hay giáo dục, hoặc cả đến điều kiện xã hội, có thể cho phép họ chịu đựng gian khổ. Điều ý nghĩa hơn nhiều chính là trạng thái tâm linh của họ. Và trong khi một số có thể sanh tồn bằng nghị lực đơn thuần, thì những người đau khổ ít nhất chính là người đạt đến một trình độ cao của "so pa".

Nhẫn nại và nghị lực (can đảm đối diện cùng kẻ địch) là hai chữ tương đối gần với ý nghĩa của "so pa" ở trình độ thứ nhất. Nhưng khi một người triển khai được nhiều hơn, đó là thái độ trong khi đối kháng, một cảm thức về sự không bị quấy nhiễu, phản ánh một sự cố tình chấp nhận tân khổ hầu theo đuổi một mục tiêu tâm linh cao hơn. Điều đó bao gồm việc chấp nhận thực tế của trạng huống qua nhận thức rằng, bên dưới đặc thái đó, là một mạng lưới phức tạp của các nhân duyênđiều kiện liên hệ với nhau.

"So pa" như thế là phương tiện giúp chúng ta thật hành chân bất bạo động. Nó cho phép chúng ta không những giới chế được các phản ứng vật lý khi bị kích động, mà còn cho phép ta buông bỏ được các ý niệmcảm xúc tiêu cực. Chúng ta không thể nói đến "so pa" khi chịu thua cho một người qua sự thù hiềm hoặc oán hận. Thí dụ, một viên chức cao cấp trong sở cứ làm ta khó chịu mà ta bắt buộc phải trì hoãn phản ứng mặc dù có cảm tưởng xấu, như thế không phải là "so pa". Tinh túy của "so pa" là sự nhẫn nại kiên quyết trước mặt đối phương. Nói cách khác, người hành kiên trì chịu đựng vốn quả quyết không chịu thua trước các thúc đẩy tiêu cực (được kinh nghiệm như cảm xúc phiền nhiễu dưới hình thức của giận dữ, thù ghét, muốn trả thù, vân vân) mà chỉ chống trả cảm thức bị thương tổn và ý muốn dĩ oán báo oán.

Không điều nào trên đây có ý muốn phủ nhận cũng có những lúc thích đáng để phản ứng lại cùng kẻ khác bằng các biện pháp mạnh. Cũng không phải thật hành nhẫn nại theo nghĩa mô tả trên, là phải chấp nhận tất cả mọi điều kẻ khác làm và chỉ chịu thua đơn giản.

"So pa" không nên bị lẫn lộn với sự thụ động đơn thuần. Trái lại, còn phải chọn nhận một thái độ đối kháng mạnh mẽ mới đúng nghĩa thật hành "so pa". Có những lúc trong đời của bất kỳ ai, các ngôn từ cứng rắn — thậm chí cả sự va chạm vật lý — phải được dùng đến. Nhưng vì sự bình tỉnh bên trong đã được bảo toàn, chứ không bị tràn ngập bởi các ý niệmcảm xúc tiêu cực, nên "so pa" có nghĩa là ta ở một vị thế mạnh mẽ hơn để lượng định một phản ứng bất bạo động thích đáng. Do vậy, ta thấy đó chính là đối cực của sự hèn nhát. Hèn nhát trổi dậy khi ta mất tự tin do bởi sợ sệt. Nhẫn nại chịu đựng có nghĩa là chúng ta vẫn kiên định cho dù có sợ.

Khi nói đến chấp nhận, tôi không ngụ ý là chúng ta không thể làm bất cứ điều gì trong quyền lực hầu giải quyết các vấn đề đến lúc khả thi. Nhưng trong trường hợp hiện đang đau khổ — mà ta đã nhận chịu trước đó — chấp nhận có thể giúp đảm bảo cho kinh nghiệm không bị trộn vào thêm các thứ gánh nặng đau khổ tinh thầncảm xúc. Thí dụ, không có điều gì ta có thể làm được trước tuổi già. Tốt hơnchấp nhận các điều kiện của nó thay vì sợ hãi. Thật vậy, tôi thường cảm thấy sự kiện các người già lão cứ muốn làm ra vẻ trẻ trung là điều hơi rồ dại.

Nhẫn nại chịu đựng, như thế, là một phẩm hạnh giúp chúng ta ngăn ngừa các ý niệmcảm xúc tiêu cực đến xâm nhập. Nó bảo toàn cho an bình nội tại trước trở lực. Khi thật hành nhẫn nại bằng cách đó, hành vi của ta có tánh thiện lành hợp luân lý. Như ta đã thấy, bước đầu trong việc thật hành luân lýkiểm soát phản ứng trước ý niệmcảm xúc tiêu cực khi chúng khởi dậy. Bước kế tiếp — điều phải làm sau khi đã đạp thắng — là đối kháng lại sự thách đố bằng sự nhẫn nại.

Ở đây, độc giả có thể phản đốichắc chắn có những trường hợp không thể làm được. Có những lúc kẻ thân cận ta nhất, biết hết các nhược điểm của ta, đối xử với ta một cách không thể nào ngăn được cơn giận tràn đến vượt mọi khả năng kháng chế? Trong các trường hợp đó, thật ra ta có thể thấy không sao giữ được tâm từ bi đối với kẻ khác, nhưng ít ra ta nên giữ gìn đừng phản ứng bạo động hoặc hung hăng. Rời phòng và ra ngoài đi bộ, hoặc đếm hai mươi hơi thở dài, có thể là điều tốt nhất: ta cần tìm cách nào đó để lắng dịu xuống một chút. Đó là vì sao ta cần phải đặt việc thật hành nhẫn nại làm trọng tâm trong đời sống hàng ngày. Đó là vấn đề thân quen cùng nó ở trình độ sâu xa nhất, sao cho mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn, mặc dù cho phải nỗ lực thêm, ta vẫn còn nhận biết có những gì dính dấp trong đó. Mặt khác, nếu ta cứ lơ là việc thật hành nhẫn nại cho đến khi phải kinh nghiệm trở ngại, hẳn ta rất khó thành công trong việc khắc phục thách đố.

Một trong các phương cách tốt nhất để khởi sự làm quen cùng đức tánh nhẫn nại, hoặc "so pa", đó là bỏ thời giờ quán chiếuhệ thống về các lợi lạc của nó. Nó là nguồn của sự tha thứ. Hơn nữa, không gì có thể vượt qua "so pa" trong việc bảo toàn sự quan tâm đến tha nhân của ta, cho dù họ hành xử ra sao. Khi "so pa" được phối hợp cùng khả năng phân biệt giữa hành động và tác nhân, tha thứ tự nhiên khởi dậy. Nó cho phép ta vẫn giữ được sự phán đoán về hành động, và cho phép ta có được tâm từ bi đối với người. Tương tự, khi ta triển khai được khả năng chịu đựng một cách nhẫn nại, ta thấy mình phát huy được một bảo toàn cân phân sự điềm tĩnhan nhiên. Ta sẽ bớt tánh đối kháng và dễ hòa hợp hơn. Điều đó sẽ tạo một không khí tích cực quanh ta khiến cho người khác dễ liên hệ hơn. Và nhờ căn bản cảm xúc vững chắc qua việc thật hành, chúng ta thấy chẳng những tinh thầntâm linh trở nên vững vàng, mà cả vật lý cũng khỏe mạnh. Tôi có sức khỏe tốt chắc chắn nhờ tôi thường có tâm điềm tĩnhan bình.

Nhưng lợi lạc quan yếu nhất của "so pa", hay nhẫn nại, nằm ở sự kiện nó hành xử như một kháng dược mạnh mẽ trước sự phiền nhiễu của sân hậnđe dọa lớn nhất cho sự an bình nội tại và hạnh phúc. Thật vậy, chúng ta thấy nhẫn nại là phương tiện tốt nhất để tự bảo vệ nội tâm của mình chống lại các ảnh hưởng tàn hại do sân hận. Thử quán xét: giàu có không thể nào bảo vệ khỏi sân hận. Học thức cũng không, cho dù người đó uyên bác hoặc thông minh đến đâu. Ngay cả luật pháp cũng không giúp gì được trong vấn đề này. Và danh vọng cũng vô ích. Chỉ có sự bảo vệ nội tâm của chịu đựng nhẫn nại mới có thể giúp ta khỏi kinh nghiệm hỗn loạn của ý niệmcảm xúc tiêu cực. Tâm thức, hoặc tinh thần ("lo"), không phải là vật lý. Nó không thể sờ chạm hoặc tác hại một cách trực tiếp. Chỉ có ý niệmcảm xúc tiêu cực có thể làm hại nó. Do đó, chỉ có một phẩm tánh tích cực tương ứng mới có thể bảo vệ được nó.

Trong bước thứ nhì trong việc thân quen cùng đức tánh nhẫn nại, rất cần nghĩ rằng nghịch cảnh không phải là mối đe dọa lớn lao cho an bình nội tâm, ngược lại còn có thể dùng như phương tiện hầu đạt được sự nhẫn nại. Qua phối cảnh đó, chúng ta thấy những kẻ hại mình, trong một ý nghĩa nào đó, lại là thầy của sự nhẫn nại. Những người đó dạy chúng ta rằng, ta không bao giờ có thể học khi nghe người khác nói, dù rằng họ khôn ngoan hay thánh thiện đến đâu. Cũng như độc giả không thể hy vọng học được đức hạnh chỉ nhờ việc đọc quyển sách này — trừ phi, dĩ nhiên, nó buồn nản đến độ đòi hỏi phải kiên trì mới đọc được! Đứng trước trở lực, chúng ta có thể học giá trị của sự chịu đựng nhẫn nại. Và, đặc biệt, kẻ hại ta lại cho ta cơ hội tốt để thật hành thái độ giới luật.

Điều đó không có nghĩa kẻ đó không chịu trách nhiệm về hành động của họ. Nhưng chỉ để nhắc nhở rằng họ có thể hành động phần lớn vì vô minh. Một đứa bé lớn lên trong môi trường bạo độngthể không được biết cách hành xử nào khác. Kết quả, vấn đề trách cứ trở thành thừa thãi. Phản ứng thích đáng đối với người tạo khổ cho ta — ở đây dĩ nhiên tôi không bàn đến các trường hợp đối phương chống ta hợp lý, hoặc từ khước các yêu cầu vô lý của ta — là nhận thức rằng trong khi tác hại, cuối cùng họ đã đánh mất sự an bình nội tâm, sự quân bình, và từ đó hạnh phúc của họ. Và điều tốt nhất chúng ta làm được là khởi tâm từ bi đối với họ, đặc biệt phải nhận biết nếu chỉ ước ao đơn giản nhìn thấy họ bị đau sẽ không thể làm hại họ thật sự. Nó lại còn chắc chắn sẽ làm hại cả chúng ta.

Thử tưởng tượng hai người láng giềng đang tranh chấp nhau. Một người xem nhẹ chuyện cãi cọ đó. Người kia bị ám ảnhâm mưu toan tính kế hoạch làm hại đối phương. Nhưng điều gì xảy ra? Nuôi dưỡng nghiền ngẫm ác niệm trong lòng, chẳng bao lâu người đó sanh bệnh. Khởi đầu là mất ăn, rồi đến mất ngủ. Dần dà sức khỏe suy sụp. Người đó ngày đêm khổ sở — kết quả đáng tức cười là — cuối cùng đã giúp ước muốn của đối phương được trọn vẹn.

Thật vậy, khi chúng ta suy nghĩ tận tường, có một điều gì không hoàn toàn hợp lý khi đơn cử các cá nhân như là đối tượng của sự sân hận. Thử làm một thực tập đơn giản bằng sự tưởng tượng. Quán xét trường hợp một người dùng lời lẽ ngược đãi chúng ta. Nếu ta cảm thấy nghiêng về sân hận trong trường hợp bị thương tổn đó, phải chăng tiêu điểm của cảm xúc ta là các lời lẽ đó, bởi vì chính chúng làm thương tổn ta? Hoặc ta sân hận đối với cá nhân đã la lối với ta? Có thể phản đối rằng, chính cá nhân đó đã la lối, và chúng ta đúng khi đặt trách nhiệm đạo đức lên kẻ đó chứ không phải lên lời của hắn. Điều đó có thể đúng. Nhưng đồng thời, nếu ta giận vì điều thật sự tạo ra cơn đau, thì chính lời lẽ mới là nguyên nhân trực tiếp. Hơn nữa, ta có thể trút cơn giận của mình lên điều đưa kẻ đó đến hành động ngược đãi ta, tức là các cảm xúc tiêu cực hay không? Bởi vì nếu kẻ đó điềm tĩnhan bình, hắn sẽ không hành xử như thế. Vậy mà trong ba yếu tố đó — lời lẽ gây thương tổn, người la lối chúng, và các động cơ tiêu cực thúc đẩy chúng — ta lại hướng cơn giận của mình vào người đó. Có một điều gì ở đây không được thông suốt lắm.

Nếu phản đối như là bản chất của kẻ ngược đãi mới chính thậtnguyên nhân của sự thương tổn, thì ta lại không có căn cứ hợp lý cho cơn giận đối với cá nhân đó. Nếu bản chất tối hậu của người đó là ác cảm đối với chúng ta, thì họ không thể nào hành xử khác đi. Trong trường hợp này, giận họ chỉ là vô nghĩa. Nếu ta bị đốt cháy, thật vô nghĩa nếu nổi giận cùng lửa. Bởi vì bản chất của lửa là đốt cháy. Nhưng để nhớ lại rằng khái niệm về ác cảm cố hữu hoặc sự tà ác cố hữu là điều giả tạo, chúng ta thử xét trường hợp trong các hoàn cảnh khác nhau, một người từng làm hại ta vẫn có thể trở thành bạn tốt. Chẳng có gì là lạ khi nghe các câu chuyện về các chiến sĩ của hai phe thù địch lại trở thành đồng minh trong thời bình. Và hầu hết chúng ta đều có kinh nghiệm gặp được những người từng có tiếng xấu lại trở thành rất dễ mến.

Dĩ nhiên tôi không đề nghị chúng ta phải luôn nên đưa các quán chiếu trên vào bất cứ hoàn cảnh nào. Khi ta bị đe dọa thân thể, tốt nhất nên tập trung năng lực, không phải vào việc lý luận như trên, mà nên bỏ chạy đi! Nhưng rất hữu ích nếu chịu bỏ thì giờ làm quen cùng các khía cạnh và lợi ích đa diện của sự nhẫn nại. Điều này có thể giúp ta đương đầu cùng mọi trở lực với một thái độ xây dựng.

Tôi đã nói đến "so pa", hoặc nhẫn nại, tác động như một đối lực trước sân hận. Thật vậy, đối với bất cứ trạng thái tiêu cực nào, chúng ta đều có thể nhận ra một thứ đối kháng cùng nó. Thí dụ, khiêm tốn đối kháng kiêu mạn; hài lòng đối kháng tham dục; tinh tấn đối kháng phóng dật. Do đó, nếu chúng ta muốn vượt qua trạng thái bất thiện khởi từ sự bành trướng của các ý niệmcảm xúc tiêu cực, thì việc vun trồng đức hạnh không thể tách rời khỏi giới luật phản ứng trước cảm xúc tiêu cực. Chúng đi sát bên nhau.

Chính vì vậy mà kỷ luật luân lý không thể thu hẹp chỉ trong sự giới chế hoặc chỉ qua sự xác định các phẩm tánh tích cực.

Để thấy rõ tiến trình giới luật song đôi cùng hành động đối kháng như thế nào, thử quán xét về sự lo âu. Có thể mô tả đó là một hình thái của lo sợ, nhưng có một cấu tạo tinh thần phát huy cao hơn. Ta bị buộc phải đối kháng cùng các kinh nghiệmsự kiện đã từng quan tâm đến. Nhưng từ sự quan tâm chuyển thành lo âu khi ta bắt đầu nghiền ngẫm và để cho trí tưởng thêm vào các phản ảnh tiêu cực. Rồi ta bắt đầu cảm thấy lo âuphiền muộn.

Và nếu càng buông thả vào phiền muộn, ta lại càng tìm thấy nhiều lý do hơn cho nó. Cuối cùng, ta sẽ thấy mình đang ở trong một trạng thái khốn khổ thường xuyên. Trạng thái này càng phát triển, thì ta càng giảm khả năng hành động đối kháng, và nó càng mạnh mẽ hơn lên. Nhưng nếu suy nghĩ cẩn thận, chúng ta thấy bên dưới tiến trình này là một nhãn quan hạn hẹp và thiếu phối cảnh thích đáng.

Điều này khiến ta quên khuấy là sự vật và sự kiện vốn hiện hữu như kết quả của vô số nguyên nhânđiều kiện. Ta cứ tập trung vào chỉ một hoặc hai khía cạnh của hoàn cảnh. Khi làm vậy, ta khó tránh tự hạn chế trong việc tìm ra phương thức vượt qua các khía cạnh đó. Vấn đề là nếu ta không thể làm vậy, sẽ có nguy cơ mất hẳn đạo đức. Như thế, bước đầu để vượt khỏi lo âutriển khai được một phối cảnh thích đáng cho hoàn cảnh của ta.

Điều đó có thể làm bằng nhiều phương cách khác nhau. Một cách hữu hiệu nhất là cố chuyển trọng điểm ra khỏi cái ngã và hướng về tha nhân. Khi thành công trong điều này, chúng ta sẽ thấy tỷ lệ khó khăn của vấn đề riêng tư giảm bớt. Không phải chúng ta nên quên đi nhu cầu tổng quát của mình, mà đúng hơn nên cùng lúc nhớ đến cả nhu cầu của tha nhân, cho dù đang bị cấp bách đến đâu. Điều này hữu ích, vì khi sự quan tâm đến tha nhân được chuyển vào hành động, ta tức khắc tìm được sự tự tin, và phiền muộn lo âu giảm bớt. Thật vậy, hầu hết các đau khổ tinh thầncảm xúc đều như một nét chính của đời sống hiện đạibao gồm cả cảm thức tuyệt vọng, cô đơn, vân vân — sẽ giảm thiểu khi ta bắt đầu dấn thân vào hành động với động lực quan tâm đến tha nhân. Theo ý tôi, điều đó giải thích được, nếu chỉ thể hiện hành động tích cực bằng bề ngoài, không đủ để giảm thiểu lo lắng. Khi động cơ bên dưới vượt quá mục tiêu ngắn hạn của ta, thì ta chỉ gia tăng thêm vấn đề mà thôi.

Còn những trường hợp cảm thấy như bất mãn cả trọn đời, và có lúc đau khổ ngập tràn — điều mà thỉnh thoảng xảy đến cho tất cả mọi người với mức độ khác nhau? Nếu điều này xảy ra, quan trọng nhất là phải nỗ lực tìm cách nâng cao tinh thần. Chúng ta có thể làm thế bằng cách hồi tưởng các sự may mắn trong đời. Chúng ta có thể, chẳng hạn như, từng được người nào thương yêu; có thể có tài năng nào đó; có thể nhận được một nền giáo dục tốt; có thể có đầy đủ các nhu cầu căn bảnthức ăn, áo quần, nhà cửa —; có thể làm được vài việc thiện trong quá khứ. Không khác nào một ngân hàng thu tiền lời cho dù trên các món nợ nhỏ nhất, chúng ta có thể cứu xét mỗi khía cạnh tích cực dù nhỏ nhặt nhất trong đời mình. Bởi vì nếu thất bại trong việc nâng cao tinh thần, ta sẽ gặp nguy cơ chìm đắm vào trong ý nghĩa bất lực. Điều này khiến ta sẽ tin tưởng mình hoàn toàn bất lực. Từ đó tạo thành điều kiện của sự tuyệt vọng. Ở điểm đó, tự tử là điều duy nhất để lựa chọn.

Trong nhiều trường hợp vô vọngtuyệt vọng, chúng ta thấy vấn đề chính do nhận thức của cá nhân về hoàn cảnh của họ hơn là do thực tế. Thật vậy, không thể giải quyết thiếu sự cộng tác của người khác. Trong trường hợp đó, vấn đề trở thành yêu cầu người khác giúp đỡ. Tuy nhiên, quả thật có những hoàn cảnh hầu như vô vọng. Đây là lúc đức tin tôn giáo có thể trở thành nguồn an ủi, nhưng đó lại là một đề tài khác.

Một luân lý về hạnh gồm có những gì khác nữa? Như nguyên tắc tổng quát, điểm trọng yếu là tránh cực đoan. Tương tự như ăn nhiều quá hoặc ít quá đều có hại, sự theo đuổi và thật hành đức hạnh cũng thế. Chúng ta nhận thấy ngay cả các nguyên nhân cao thượng khi đưa đến cực đoan cũng trở thành một nguồn tác hại. Thí dụ, can đảm quá độ và bất kể tình huống nào sẽ nhanh chóng trở thành điên rồ. Thật vậy, cực đoan làm mai một các mục tiêu chính của việc thật hành đức hạnh, sẽ làm sai lệch khuynh hướng của ta qua các phản ứng tinh thầncảm xúc quá trớn đối với tha nhân hay sự kiện, và tạo cho ta sự đau khổ khó tránh.

Điều quan trọng cần nhớ là, trong việc chuyển hóa tâm và trí sao cho hành động của ta có tánh luân lý tự khởi, đòi hỏi ta phải đặt sự theo đuổi đức hạnh làm trọng tâm của đời sống hàng ngày. Đó là vì thương yêutừ bi, nhẫn nại, tử tế, khiêm tốn, vân vân đều có tánh bổ sung. Và bởi vì rất khó thanh lọc mọi cảm xúc phiền nhiễu, nên ta phải tự kết thân cùng các đối lập của chúng ngay trước khi ý niệmcảm xúc tiêu cực khởi dậy. Thí dụ, sự vun bồi lòng quảng đại rất cần để đối kháng xu hướng giữ của quá kỹ và năng lực bỏ vào việc đó. Thật hành bố thí giúp ta vượt qua thói quen sẻn tham, mà ta thường tự biện bạch bằng cách nói, "Tôi sẽ còn lại thứ gì nếu bắt đầu cho đồ vật của mình đi?"

Bố thí hay trao tặng được nhận thức như một đức hạnh trong tất cả mọi tôn giáoxã hội văn minh, và nó rõ ràng có lợi cho cả người cho lẫn người nhận. Người nhận được nhẹ bớt gánh nặng của nhu cầu. Người cho được thoải mái vì niềm vui mà món quà của mình mang lại cho tha nhân. Đồng thời, phải nhận thức rằng có rất nhiều hạng loại và mức độ bố thí hay trao tặng. Khi ta cho với động cơ bên dưới là để tô điểm hình ảnh của mình trước người khác — hầu nổi tiếng hoặc khiến họ nghĩ ta có đức hạnh hoặc thánh thiện — ta đã làm hoen ố hành động đó. Trong trường hợp đó, điều ta đang thật hành không phải là lòng quảng đại, mà là việc tự thổi phồng lên. Tương tự, kẻ cho thật nhiều có khi cũng chẳng quảng đại hơn người cho ít. Tất cả tùy thuộc vào phương tiện và động cơ của người cho.

Mặc dù không phải là thay thế, nhưng trao tặng thời giờnăng lực cũng tiêu biểu cho một loại tặng phẩm còn cao hơn là tặng quà cáp. Ở đây tôi đặc biệt nghĩ đến món quà phục vụ cho những người khuyết tật tâm thần hoặc thể xác, cho người không nhà, cho người cô đơn, cho người bị giam cầm, và người từng bị giam cầm. Nhưng loại trao tặng đó còn gồm cả, chẳng hạn như các vị thầy đã trao truyền kiến thức của mình đến học trò. Như thế, theo tôi hiểu, hình thức từ bi nhất của bố thí là khi nó được làm mà không có ý niệm hoặc cầu vọng sự đền trả hoặc tưởng thưởng nào, và đặt nền tảng trên sự quan tâm chân thật đến tha nhân. Đó là vì khi ta càng nới được tụ điểm tích lũy lợi tha rộng bao nhiêu, thì càng thiết lập được nền tảng hạnh phúc tự lợi vững chắc bấy nhiêu.

Bảo rằng khiêm tốn là một chất liệu chủ yếu cho sự thật hành chuyển hóa, thoạt nghe có vẻ không phù hợp với sự phát biểu về nhu cầu tự tin. Nhưng cũng vì có thể phân biệt rõ rệt giữa loại tự tin hiệu lực, mang ý nghĩa tự trọng, và loại tự phụ — mà ta có thể mô tả như là một nhận thức về tầm quan trọng đặt nền tảng trên hình ảnh giả tạo của ngã — do đó cần phân biệt giữa khiêm tốn thật sự, như một sự nhũn nhặn, khác với sự thiếu tự tin. Hai thứ hoàn toàn khác biệt, tuy lại hay bị lẫn lộn. Điều này có thể giải thích phần nào, tại sao hiện nay khiêm tốn lại bị xem như là một nhược điểm hơn là chỉ dấu của sức mạnh nội tại — đặc biệt trong sinh hoạt doanh thương và nghiệp vụ. Đương nhiên, xã hội hiện đại không thích ứng cho khiêm tốn, khác với vị thế tại Tây tạng, hồi tôi còn bé. Khi đó, cả nền văn hóa lẫn dân tộc đều có sự ngưỡng mộ cơ bản đến khiêm tốn, tạo một khí hậu phù hợp cho sự nảy nở của đức hạnh này, trong khi tham vọng (cần phân biệt khác với nguyện vọng thích đáng muốn thành tựu trong các nhiệm vụ thiện lành) được xem như là một đặc tánh khác dễ dẫn đến tư tưởng hướng ngã. Tuy thế trong cuộc sống hiện đại, khiêm tốn lại quan trọng hơn bao giờ cả. Con người càng thành công, cả cá nhân lẫn gia đình qua sự phát triển khoa học và kỹ thuật, lại càng cần phải bảo tồn sự khiêm tốn. Bởi vì các thành quả tạm bợ càng lớn, thì chúng ta lại càng dễ bị sa vào sự kiêu hãnh và ngã mạn.

Một kỹ thuật hữu ích giúp phát huy được sự tự tin chân thật và khiêm tốn, phản ánh qua thí dụ về những người hợm mình là quan trọng trở thành trò cười cho người khác. Họ có thể không ý thức được bề ngoài trông họ điên rồ làm sao, nhưng đối với người khác thì thật hiển nhiên. Tuy nhiên đây không phải là chuyện ngồi đánh giá người khác. Đúng hơn đây là vấn đề đưa ta trở lại cùng các hậu quả tiêu cực của các trạng thái tâm trí như thế. Khi nhìn thấy, qua thí dụ của người khác, chúng ta có thể lập quyết định tránh chúng. Nếu chỉ trên ý nghĩa đó, chúng ta đã dùng nguyên tắc, ta không hại người chỉ vì căn bản là không muốn người hại, và dùng sự kiện là dễ nhận thấy sự sa ngã của kẻ khác hơn chấp nhận đức tánh của họ. Cũng thế, rất dễ bắt lỗi kẻ khác hơn là nhận lỗicủa mình.

Ở đây tôi phải thêm vào, nếu khiêm tốn không thể lầm lẫn với thiếu tự tin, thì nó lại chẳng có liên hệ gì đến ý nghĩa của vô giá trị. Thiếu một nhận định thích đáng về chân giá trị của mình luôn luôn là điều tai hại có thể đưa đến một trạng thái phân liệt tinh thần, cảm xúctâm linh. Trong trường hợp đó, cá nhân còn có thể đi đến chỗ ghét bản thân mình; dù tôi phải thú nhận là lần đầu tiên tôi nghe các nhà tâm lý học Tây phương giải thích, tôi cảm thấy khái niệm tự ghét có vẻ thiếu chặt chẽ. Nó có vẻ mâu thuẫn với nguyên tắc ước muốn nền tảng của con ngườihạnh phúc và tránh đau khổ. Nhưng giờ thì tôi chấp nhận khi con người mất tất cả mọi ý thức về phối cảnh, có nguy cơ tự ghét. Tất cả mọi người đều có khả năng thiện cảm. Lại nữa, ta vẫn có khuynh hướng hành thiện, ngay dù mới chỉ tượng hình qua ý niệm tích cực. Giả thiết rằng ta vô giá trị quả là một điều không đúng.

Một cách khác hầu tránh sự hạn hẹp của nhãn quan có thể dẫn đến các trạng thái cực đoan như tự ghét và tuyệt vọng, là hãy vui theo sự tốt lành của người khác, bất cứ lúc nào ta được gặp. Như một phần của cách thật hành này, có thể sử dụng mọi cơ hội hầu bày tỏ sự kính trọng người khác, ngay cả khích lệ họ bằng lời khen tặng khi thích đáng. Nếu lời khen đó có thể bị xem như là nịnh hót và khiến họ cảm thấy bị lừa, dĩ nhiên, tốt hơn là nên giữ thiện chí đó một cách kín đáo. Và khi chính mình được khen tặng, cần nhất là đừng để lời khen đó khiến ta khoái trá và tưởng mình quan trọng. Thay vì vậy, hãy nhìn nhận sự tử tế của người khác khi coi trọng phẩm chất tốt của ta.

Triển khai một thái độ hối tiếcsám hối có thể dùng như một phương tiện vượt qua các cảm xúc tiêu cực về chính mình, khởi dậy liên kết với các trường hợp trong quá khứ ta từng bỏ mặc cảm nghĩ của người khác và buông lung cho các tham muốn ích kỷtư lợi của mình. Ở đây, độc giả xin đừng nghĩ tôi đang biện thuyết cho một ý thức tội lỗi mà rất nhiều bạn hữu Tây phương của tôi từng nói đến. Trong ngữ vựng Tây tạng không có chữ gì có thể dịch chính xác chữ "tội lỗi" ("guilt"). Và bởi vì sự liên tưởng xã hội mạnh mẽ đó, tôi không chắc mình có hiểu thật trọn vẹn khái niệm đó chăng. Nhưng đối với tôi, trong khi thật tự nhiên và có thể hiểu là chúng tacảm xúc khó chịu liên hệ đến các sai lầm quá khứ, đôi khi phải có một yếu tố nhu nhược bản thân nào đó mới khiến cho điều đó nới rộng ra thành cảm xúc tội lỗi. Không có nghĩa lý gì khi cứ gậm nhấm một cách lo âu về các hành động tác hại đã từng làm trong quá khứ, cho đến độ phải tê liệt vì việc đó. Điều đã làm, đã qua đi. Nếu người đó tin nơi Thượng đế, hành động thích đáng là tìm phương thức nào đó để tái hợp cùng Ngài.

Cũng như trong thật hành Phật giáo, có nhiều nghi thức và thật hành thanh lọc. Khi cá nhân không có đức tin tôn giáo, quả thật đây là vấn đề nhận thứcchấp nhận các cảm xúc tiêu cực mà ta có thể liên hệ đến các việc làm sai, và do đó triển khai một cảm thức hối tiếcbuồn rầu. Tuy nhiên, thay vì ngưng lại ở việc hối tiếcbuồn rầu, nên dùng đó như một căn bản để giải quyết, tạo một trách nhiệm sâu xa hơn là không bao giờ làm hại đến người khác nữa, và quyết định sẽ làm điều ích lợi cho tha nhân. Việc phát lộ, hoặc thú tội, về hành động tiêu cực của ta cùng một người khác — nhất là người mà ta thật sự kính trọng và tin cẩn — cũng khá ích lợi trong trường hợp đó. Trên hết, chúng ta nên nhớ rằng, một khi vẫn còn giữ được sự quan tâm đến tha nhân, thì khả năng tự chuyển hóa vẫn tồn tại. Chúng ta sai lầm nếu chỉ tự nhìn nhận mức độ trầm trọng của lỗi lầm, và rồi, thay vì đối diện cùng cảm xúc, lại đánh mất mọi hy vọng và không làm gì cả. Điều đó chỉ tạo phiền phức sai lầm hơn.

Chúng tôi có một thành ngữ Tây tạng là, sự dấn thân vào thật hành một đức hạnh khó khăn như kéo một con lừa lên đồi, trong khi dấn thân vào sinh hoạt phá hoại lại dễ dàng như lăn đá tảng xuống dốc. Câu đó còn nói, các động cơ tiêu cực khởi dậy đột phát như là mưa và tụ tập tức khắc như nước đổ xuống do trọng lực. Điều khiến vấn đề tệ hại hơn nữa là xu hướng dung dưỡng cho các ý niệmcảm xúc tiêu cực, ngay cả khi đồng ý rằng điều đó không nên làm.

Do đó, chủ yếu là hãy tác động thẳng vào thứ xu hướng buông lung việc phải làm; bỏ thời giờ vào các sinh hoạt vô nghĩa; và co rút tránh né trước thách thức của sự chuyển hóa các thói quen chỉ vì công tác đó quá lớn lao. Đặc biệt, điều quan trọng là không nên cho phép mình buông xuôi trước tầm mức lớn lao của sự đau khổ của tha nhân. Sự đau khổ của bao nhiêu triệu người không phải là một duyên do để thương hại. Đó là duyên do để phát huy tâm từ bi.

Chúng ta còn phải nhìn nhận đã thất bại trong cách hành xử khi rõ ràng là hành động tuy cần thiết đó lại có tánh tiêu cực. Cho dù bất động trước cơn giận, sự độc ác hoặc tham dục, cảm xúc phiền nhiễu cũng đủ xem nhưyếu tố động lực. Điều đó đúng trong các việc giản dị cũng như trong các trường hợp phức tạp hơn. Nếu người chồng không cảnh cáo người vợ về một cái dĩa nóng mà bà sắp nhặt lên, chỉ vì ông ta muốn bà vợ bị bỏng, rõ ràng cảm xúc phiền nhiễu đã hiện hữu. Mặt khác, khi bất động chỉ là kết quả của sự buông lung, trạng thái tinh thầncảm xúc của cá nhân tuy không quá sức tiêu cực, nhưng hậu quả vẫn rất nghiêm trọng; vì sự bất động đó cũng thuộc vào loại ý niệmcảm xúc tiêu cực, như là sự thiếu vắng tâm từ bi. Như thế điều quan trọng là chúng ta phải quả quyết vượt qua xu hướng thói quen biếng nhác, cũng ngang bằng với sự thật tập giới luật trong các phản ứng trước cảm xúc phiền nhiễu.

Đó không phải là một trách vụ dễ dàng, và những người có tâm đạo phải hiểu rõ, không có phép lành cũng không có điểm hóatrừ phi ta có khả năng tiếp nhận — hoặc một thứ công thức bí mật hoặc nhiệm mầu nào, hoặc thần chúnghi thức nào — trừ phi ta có thể khám phá — có thể giúp ta đạt đến một sự chuyển hóa ngay tức khắc. Nó chỉ đến từng chút từng chút một, chẳng khác nào như xây dựng một tòa lâu đài phải đắp gạch từng viên từng viên một; hoặc là như một thành ngữ Tây tạng nói, biển cả được cấu thành qua từng giọt từng giọt một. Trong khi đó, không giống như thân thể ta rồi sẽ bệnh, lão, hao mòn, cảm xúc phiền nhiễu không bao giờ có tuổi, cần phải nhận thức rằng làm việc với chúng là một cuộc đấu tranh trọn đời. Độc giả cũng không nên giả thiếtchúng ta đang nói chuyện ở đây về sự thu thập một thứ kiến thức nào đó.

Đây cũng không phải vấn đề triển khai một sự xác tín nào có thể đến từ kiến thức đó. Điều chúng ta nói đến là việc đạt được một kinh nghiệm về đức hạnh nhờ thật hành thường xuyên và thân quen với nó đến độ biến thành tự khởi. Điều chúng ta thấy là khi càng triển khai được sự quan tâm đến lợi tha, càng dễ đi đến hành xử cho tha lợi. Khi chúng ta học được thói quen về nỗ lực đòi hỏi đó, việc tranh đấu sẽ nhẹ nhàng hơn. Dần dà, nó trở thành một bản chất thứ hai. Nhưng không thể có con đường tắt.

Dấn thân vào sinh hoạt đạo đức hơi giống như nuôi dưỡng một đứa bé. Có rất nhiều yếu tố liên hệ. Và, đặc biệt lúc ban đầu, chúng ta cần phải thật thận trọng và khéo léo trong sự tận hiến hầu cải thiện thói quenxu hướng của mình. Chúng ta cũng cần phải thực tế về điều ta mong sẽ đạt đến. Phải mất một thời gian dài để ta trở nên ta hiện giờ, và thói quen không thể thay đổi một sớm một chiều. Vì thế, trong khi các dấu hiệu tiến bộ hiện ra là điều tốt, nhưng lại sai lầm khi lượng định thái độ của ta bằng cách dùng một lý tưởng nào làm tiêu chuẩn; giống như ta thật điên rồ khi dùng trình độ đại học để đánh giá việc học và thành tựu của con ta đang học lớp vỡ lòng. Thành tựu là điều lý tưởng, chứ không phải là tiêu chuẩn. Cũng bởi lý lẽ này, làm việc đều đặn như một dòng nước xuôi chảy về phía mục tiêu chuyển hóa sẽ hữu hiệu hơn các nỗ lực đầy hùng khí nhưng ngắn ngủi nối tiếp bằng thời gian dài buông lung, hữu hiệu hơn rất nhiều.

Một phương pháp rất hữu ích giúp ta duy trì được sứ mạng chuyển hóa trọn đời này, đó là áp dụng một thời khóa biểu có thể điều chỉnh theo tầm mức tiến bộ. Dĩ nhiên, cũng như trong việc thật hành đức hạnh nói chung, nếu sử dụng một pháp thật hành tôn giáo là điều rất đáng khích lệ. Nhưng không có lý do gì những người không tín ngưỡng lại không thể sử dụng một số ý niệm và kỹ thuật đã phục vụ cho nhân loại rất nhiều suốt mấy thiên niên kỷ. Tạo một thói quen quan tâm đến tha lợi, và bỏ vài phút hàng ngày khi vừa thức giấc để quán chiếu giá trị của đời sống bằng một thái độ luân lý kỷ luật, đó là cách tốt để khởi đầu, cho dù tín ngưỡng của ta là gì, hoặc vả không có tín ngưỡng. Điều này cũng đúng khi bỏ ít thời gian vào cuối ngày để thẩm định ta đã thành tựu được bao nhiêu trong việc đó. Giới luật đơn giản như vậy cũng đủ ích lợi trong việc triển khai quyết định ngưng hành xử theo cách tự dung dưỡng nữa.

Nếu các đề nghị trên có vẻ hơi nặng nhọc cho độc giả không phải muốn đi tìm Niết-bàn hoặc cứu rỗi, mà chỉ muốn đạt hạnh phúc của loài người, tưởng cần tự nhắc lại, điều mang đến niềm vui và sự mãn nguyện lớn lao nhất trong đời chính là các hành động ta làm vì quan tâm đến người khác. Thật vậy, chúng ta có thể đi xa hơn. Bởi vì, trong khi các câu hỏi căn bản về hiện hữu của loài người, như tại sao ta ở đây, từ đâu ta đến, ta sẽ về đâu, và vũ trụ có sự khởi đầu hay chăng... mỗi câu đều gợi lên nhiều cách trả lời khác nhau theo các truyền thống triết lý khác nhau; nhưng rõ rệt một điều là, một cái tâm quảng đại và các hành động thiện lành quả thật dẫn đến một sự an bình lớn lao. Điều cũng rõ như thế, là các thứ tiêu cực đối nghịch sẽ mang đến các hậu quả không mong muốn. Hạnh phúc vươn lên từ các duyên khởi đạo đức. Nếu ta thật sự mong muốn hạnh phúc, không có cách hành xử nào khác ngoài con đường đạo đức: đó là phương pháp để thành đạt hạnh phúc. Và, chúng ta có thể thêm, căn nguồn của đạo đức, nền tảng của nó, chính là giới luật luân lý.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 189050)
01/04/2012(Xem: 34549)
08/11/2018(Xem: 13440)
08/02/2015(Xem: 51664)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.