I.- RÈN LUYỆN THÂN TÂM
" Hết ngày này qua ngày khác, hết giờ nọ sang giờ kia, người thợ vàng phải
công phu thế nào mới lọc được
vàng ròng thì người muốn cho
thân tâm mình trở nên
trong sạch cũng phải
cố gắng khó nhọc
rèn luyện như thế ".
Kinh Pháp CúSách Nho nói : " Viên ngọc không mài dũa không thể thành đồ vật,
con người không
học hỏi,
rèn luyện không biết cách làm người ".
Rèn luyện thân tâm con người là điều cốt yếu của sự
tiến hóa.
Công phu của sự
tiến hóa không ai có quyền thay thế, mà nó phải là
sự nghiệp riêng của từng người.
Con người vui hay buồn, sướng hay khổ, đều do
con người tạo tác.
Con người phải chịu
trách nhiệm trước
hành vi của mình.
Con người được an vui, khi nào
con người điều khiển được
thân tâm con người, không bị nó
lôi cuốn theo chiều của
dục vọng.
Bác sĩ Victor Pauchet nói : " Muốn
thành công trên đường đời
chúng ta phải làm chủ được
thời cuộc. Muốn làm chủ được
thời cuộc chúng ta phải làm chủ được người
xung quanh. Muốn làm chủ được người
xung quanh chúng ta phải làm chủ được mình ".
Do đó
chúng ta thấy
vấn đề rèn luyện là một
vấn đề cần thiết cho sự làm người. Thiếu nó nó sẽ
trở thành người không đúng ý nghiã của
con người. Có nó,
giá trị và
sự giải thoát tự đấy phát sinh.
A.-RÈN LUYỆN VỀ
TÂM TRÍ "Phải làm thế nào cho ta trở nên
tinh tiến,
quả quyết,
sáng suốt,
biết mình. Phải làm sao cho tâm ta
trở nên an định trong một
cảnh giới nào ".
Lời Phật dạy1.- BIẾT
ĐỊNH TÂM" Muốn tìm ngọc châu thì phải đợi sóng lặng. Nước động thì rất khó tìm. Nước định trong lặng thì
tâm châu tự hiện ".
Tọa Thiền Nghi
Hạnh phúc đâu xa ?
Kinh Pháp Cú nói : " Không lửa nào có thể ví được lửa của
tham dục. Không ngục tù nào có thể ví được với ngục tù của oán hờn. Không mối
ràng buộc nào có thể ví được với sự
rối loạn của
tâm trí. Không
đau khổ nào giống như sự
đau khổ của
loài người. Nhưng chẳng có
hạnh phúc nào lớn bằng sự
an định của
tâm trí ".
Đã nhiều
đau khổ... !
Cả một quảng
đời sống của
con người dù ngắn hay dài, dù
sang hay hèn, dù giàu hay nghèo đã được
diễn tả đầy đủ trong đoạn
giáo lý trên, mà
chúng ta không thể chối cãi được hay cho là
tiêu cực, nếu
chúng ta có con mắt nhìn đời một cách
tinh tế.
... Không phải đâu xa,
chúng ta thử nhìn vào những trang báo
hằng ngày, cũng đủ cho
chúng ta ý thức rõ ràng : đâu là người buông thả trái tim, lạc lõng trên đường tìm
hạnh phúc, mà kết quả đã đem lại cho họ
thất vọng ngẩn ngơ, chôn vùi kiếp sống,
hy sinh danh giá hay là giam mình nơi ngục thất. Đâu là người
tủi phận, hờn duyên, không gặp thời, hay
suy yếu, đã
hất hủi cuộc đời. Đâu là người ham chức trọng, tiền nhiều làm điều
phi pháp. đâu là người hằn thù gây oan, giá họa v.v...
Trong lúc đó, dù là người chủ động hay
bị động, thắng hay bại cũng không kém phần
đau khổ do
lương tâm cắn dứt hay
thân thể đau đớn. Vậy
chúng ta có thể
trả lời cho
nguyên nhân phát sinh ra
cảnh tượng ấy, chỉ do một chữ " muốn " mà thôi. " Đời ta có hạn, lòng muốn
vô cùng.
Lấy có hạn mà
tùy theo vô cùng nguy hại thay ! "
Khổng Tử.
Nổi khổ ở đời không sao kể siết được. Không thể dùng lửa, ngục tù hay
ràng buộc mà sánh ví được trong khi
đau khổ và biết
đau khổ.
Đau khổ là
hiện thân của tham, sân, si làm cho
con người phải
lưu lạc sinh tử, làm cho
bức tranh đời
hiện thực thường bị hoen ố. Mà những nổi khổ ấy
chúng ta có thể
tóm tắt dưới đây
theo quan niệm Đạo Phật :
1/
Sinh mệnh,
sinh hoạt là khổ.
2/ Ốm đau,
xấu xa là khổ.
3/ Già yếu, suy kém là khổ.
4/ Chết chóc, tiêu hoại là khổ.
5/
Ân ái biệt ly là khổ.
6/ Cầu không
toại ý là khổ.
7/
Oán hận gặp gỡ là khổ.
8/ Chiều theo
dục vọng là khổ.
Im lặng là
vàng bạcMuốn ngừng bớt
đau khổ chúng ta hãy gò cương
dục vọng lại, nhận
chân giá trị,
địa vị và
hoàn cảnh mình trong
phạm vi tự do.
Chúng ta hãy yên tĩnh mỗi ngày vài lần, trong vài mươi phút khi ban sáng và chiều tối để xét lại những việc
chúng ta đã làm xem phải hay trái. Trái,
chúng ta cương quyết sửa đổi. Phải,
chúng ta cố gắng làm với một
chương trình cụ thể của ngày mai. Trong ngày mai
chúng ta lại phải luôn luôn nhắc nhở tới nó, biết hướng nó theo
chân lý,
mặc dầu trong khi
thực hành,
chúng ta gặp nhiều
trở lực hay
thiệt thòi đôi chút. Cứ thế, cứ thế mãi, làm sao cho
tâm trí chúng ta không
tán loạn, không theo đà
dục vọng,
tự nhiên chúng ta thấy bớt
đau khổ. Như
chúng ta đứng vào
địa vị người
chăn trâu, mà
chúng ta không đủ
nghị lực để
rèn luyện con trâu của
chúng ta trong khuôn khổ ăn cỏ, thì nó sẽ là vật
phá hại đồng ruộng.
Trái lại, khi
chúng ta biết
rèn luyện nó, khiến nó biết
phân biệt lúa và cỏ có hại và có lợi cho mình, cho người thế nào, thì khi ấy, dầu
chúng ta không chăn dắt, nó cũng không dám vượt ra ngoài khuôn khổ, vì nó đã
thuần thục.
Như thế,
chúng ta biết rằng
đau khổ không ngoài
con người mà nó chỉ do
tâm trí chúng ta hòa theo
tiếng gọi của
ham muốn.
Ham muốn không bao giờ tới đích, không bao giờ
toại ý. Không tới đích, không
toại ý,
phản chiếu lại thành
đau khổ cho
thân tâm. Chỉ có
định tâm mới có thể đem lại cho
chúng ta một
hạnh phúc chân thật, vì biết theo đúng nghĩa sống của mình và của người. Cho nên ông Kempis cũng phải
công nhận rằng : " Kẻ làm chủ được
tâm hồn mình quý hơn kẻ thâu thành cướp lũy "
" Thu nhiếp được tâm thì
tâm định.
Tâm định thì rõ biết các Pháp ". Kinh
Di Giáo.
2.- BIẾT
NHẪN NHỤC"... Đức
nhẫn nhục không cái gì có thể
sánh bằng được. Người tu hạnh
nhẫn nhục đáng gọi là
đại lực sĩ ... "
Kinh
Di Giáo Chúng ta nên mặc áo giáp
nhẫn nhục cương quyết trừ quân giặc
phiền não.
Hoàn cảnh xã hội có nhiều sự
phức tạp. Tự thân
con người có nhiều sự
éo le. đâu là
hoàn cảnh quá
lạc quan. Đâu là
nội tâm bị kích động,
ngoại thân bị ngặt nghèo. Với
trạng huống ấy,
đạo Phật gán cho nó cái
danh hiệu là " giặc
phiền não ". Đã là giặc,
chắc chắn không một giờ, phút nào, một
địa vị nào, một
hoàn cảnh nào nó không
len lỏi phá hoại. Nó
phá hoại trong
tâm trí,
phá hoại ngoài cơ thể. Mà sức
phá hoại ấy, là
sức lực tiềm tàng ít người
lưu ý tới.
Vậy,
chúng ta phải đặt
chúng ta vào
địa vị người chiến sĩ. Người chiến sĩ có đủ
nghị lực, mặc áo giáp
nhẫn nhục, cầm thanh
gươm trí tuệ, cưỡi con ngựa
tinh tiến, xông ra trận tuyến, chiến đấu với địch thủ
phiền não. Chiến đấu để sống còn. Chiến đấu để
bảo vệ danh mệnh. Chiến đấu cho
đạo đức vô thượng. Chiến đấu cho
mục đích cao cả. Chiến đấu cho
giác ngộ,
giải thoát.
Thực tế đã cho
chúng ta thấy : quá
lạc quan mà không nhờ có sức
nhẫn nhục hỗ trợ, dễ đưa ta xuống hố
trụy lạc. Quá
bi quan mà không nhờ có sức
nhẫn nhục, cũng dễ đưa ta vào nơi tuyệt mệnh. Cho nên,
nhẫn nhục là một
phương pháp được
tôn trọng và
thực hành trước nhất đối với người
hành đạo hay người làm
việc đời.
Có
nhẫn nhục mới có thể
thành công.
Nhẫn nhục không phải là một món ăn khó
tiêu hóa, một kỹ thuật khó
thực hiện,
theo như nhiều người tưởng tượng.
Trái lại,
theo quan niệm đạo Phật, nó chỉ là một bài học
kinh nghiệm, giúp cho ta muốn nên người và
thành công.
Thất bại là mẹ
thành côngĐây, luận
Bảo Vương Tam Muội đã nhắc nhở
chúng ta : " Thân không cầu không bệnh, thân không bệnh thì
tham dục dễ sinh. Đời không cầu không nạn, đời không nạn thì
kiêu mạn,
xa hoa liền khởi.
Nghiên cứu về tâm, không cầu không chướng,
tâm không chướng thì chỗ học dễ vượt bực, sai đường. Lập hạnh không cầu
không ma chướng, hạnh
không ma chướng, thì
thệ nguyện không
kiên cố. Làm việc không cầu dễ thành, việc dễ thành thì trí hay
kiêu mạn.
Giao thiệp không
cầu lợi mình, lợi mình thì hại đến đạo nghiã. Đối với người không cầu chiều chuộng, người chiều chuộng thì dễ sinh
kiêu căng.
Thi ân không cầu trả báo, cầu trả báo thì ý có mưu tính. Thấy lợi không cầu được lợi,
cầu lợi thì
si tâm rung động. Bị
ức hiếp không cầu than oán, cầu than oán thì
oán hận càng tăng. Vậy nên các bậc
Thánh nhân giáo hóa : Lấy
hoạn nạn làm thú
tiêu dao. Lấy
chướng ngại làm
giải thoát. Lấy quần ma làm bạn Pháp. Lấy
hoạn nạn làm
thành tựu. Lấy tệ giao làm
tư lương. Lấy người trái ý làm
giao du. Lấy
thi ân làm đồ bỏ. Lấy
lợi ích làm
giàu sang. Lấy uất ức làm hạnh môn. Như thế, ở trong ngại
trở lại thông, cầu thông
trở lại ngại ".
Tất cả những
giáo lý trên đây đã vạch rõ
con đường cho
chúng ta,
chúng ta nên
đảm nhận lấy
giá trị ấy.
Chúng ta nên
cố gắng thực hành, để xứng đáng với
lời khen tặng của ông Kempis : " Kẻ biết
nhẫn nhục quý hơn
dũng sĩ ". Và,
chúng ta quyết giành lấy
thắng lợi về
chúng ta, để
chứng tỏ "
kiên nhẫn là
vạn năng " như
tục ngữ Ai Cập nói.
3.- BIẾT
HỌC HỎI" Nổi khổ bị thiêu đốt trong
ba đường dữ, nổi khổ của con lạc đà, con lừa phải chở nặng, nổi khổ
đói khát áp bức của loài quỷ đói chưa gọi là khổ.
Si mê không học, không biết hướng đi mới gọi là khổ ".
Kinh
Sa Di Thập GiớiSự
học hỏi rất quan hệ đến
đời sống của
loài người.
Đức Phật dạy : " Làm
đau thương không gì hơn buồn. Bắn tên hại người không gì bằng
ngu si. Không thể lấy
sức mạnh gì
trừ diệt được hai nỗi khổ ấy, chỉ có học nhiều mới có thể
trừ diệt được. Người mù sẽ nhờ học mà có mắt. Người tối sẽ nhờ học mà
sáng suốt. Nhờ học mới có thể
chỉ đường cho
mọi người. Có học như đem mắt cho người mù. Vậy, phải rời bỏ ngục
ngu si, xả lòng
kiêu mạn và sự
an hưởng giàu có, chuộng học nghe nhiều mới gọi là nhóm họp
công đức ".
Sự
học hỏi là điều rất quan hệ của
đời người. Không học, không khác chi khách hàng hải không có kim chỉ nam. Bao những cảnh
đồi phong,
bại tục, bao những nổi thương lòng sót ruột, bao những mối
buồn rầu,
lo lắng, đã làm
đau thương đến
con người,
đau thương lây cho cả
xã hội loài người, phần lớn đều do thiếu sự
học hỏi, hay là sự
học hỏi không được
áp dụng vào
mục đích chính đáng.
Sự
học hỏi quả là sự quan hệ của
đời người, thời
công phu của nó cũng không phải là
kém quan trọng.
Có công mài sắt có ngày nên kim
Con người không phải
tự nhiên mà có, tất nhiên sự học không phải
tự nhiên mà thành và
chắc chắn nó phải đòi hỏi ở sự gắng công bền chí của
chúng ta trong tất cả mọi
trường hợp :
Học hỏi nơi nhà trường
Nhà trường là một nơi
rèn luyện thân tâm con người. Nơi đó, có những sự tổ chức chu đáo, có những bậc sư phạm
đủ tài ba, hiểu
tâm lý, thay
cha mẹ chúng ta để rèn đúc cho
chúng ta cả về
thể dục,
trí dục và
đức dục, ngõ hầu làm cho
thân tâm chúng ta mỗi ngày một
tăng tiến.
Tự mình
học hỏiHoàn cảnh và
điều kiện nhiều khi không cho
chúng ta đạt tới
mục đích mong muốn. Không tới
mục đích, không phải là
chúng ta thôi hẳn, mà
chúng ta vẫn phải học, học bằng sách báo, học bằng
việc làm, nếu
chúng ta có
chí hướng về sự học.
Học hỏi xã hội :
Chúng ta không thể
suốt đời đóng
vai trò học mãi, mà có ngày
chúng ta phải ra đời
gánh vác việc
xã hội.
Gánh vác việc
xã hội, đứng giữa
xã hội,
xã hội là cả một trường học to lớn. Trong đó có đủ tất cả mọi màu sắc
học hỏi,
tùy ý mình
lựa chọn.
Lựa chọn để học, học để làm, làm để thí nghiệm sự học, học để
lãnh đạo cho
việc làm. Làm, cho học, học, làm làluật tắc
quyết định cho sự
tìm hiểu và hành động. Nghiã là : "
Suốt đời chúng ta vẫn học "
Cần học tất cả
Với sự
học hỏi,
chúng ta phải nhìn xa trông rộng, phải học đến nguyên lý của nó. Và, phải học tất cả
theo như cổ nhân đã nói : " Thấy người hay, người giỏi ta phải
cố gắng học hỏi cho bằng. Thấy người dở, người xấu, ta phải
cố gắng học hỏi để
xét nét tâm ta ". Nghiã là, không cứ điều hay điều dở,
việc phải, việc trái,
chúng ta đều phải
học hỏi.
học hỏi để
tiến tới,
học hỏi để
sửa chữa, mà
hậu quả là hướng về
lẽ phải, về
chân lý. dùng
chân lý làm đuốc sáng cho công việc, cho
đời sống hợp nghiã sống.
Như thế, nếu
chúng ta sống
một đời sống có
học hỏi, dùng
học hỏi làm
dẫn đường, thì
chúng ta lo gì không thành một người có
đủ tư cách làm người
nhập thế hay
xuất thế.
Chúng ta lo gì không biết hướng đi
chân chính, không có thể giúp đỡ hay
chỉ dẫn hướng đi cho người.
Chúng ta lo gì không có thể
sáng suốt trước mọi
vấn đề thắc mắc. Và, không thể
mặc nhận được như lời Đức
Thích Ca nói : " Người ta là người
trượng phu, há ta không thành người
trượng phu hay sao ? ".
Vậy
chúng ta có thể
cương quyết nhắc lại rằng : "
Nhất định xả
kiêu mạn, bỏ sự
an hưởng giàu có, chuộng học nghe nhiều,
diệt trừ ngu si, đem lại sự
lợi ích cho mình và người ".
4.- BIẾT SUY NGHIỆM
" Không có gì là nên hẳn và cũng không có gì là không nên hẳn "
Luận Ngữ" Chớ
tuyên bố điều gì mà không có
chứng minh được một cách giản dị và
quả quyết "
Pasteur
Sự thật là
sự thậtĐức Phật dạy : " Đừng vội
tin tưởng một điều gì mà điều đó thường nghe nhắc nhở đến luôn. Đừng
tin tưởng điều gì mà điều đó là một tập tục đã qua của ngàn xưa để lại. Đừng
tin tưởng những điều sáo ngữ hay bất cứ một điều gì mà người ta thường nói đến nhiều quá. Đừng
tin tưởng bất cứ điều gì, dầu cho điều đó là bút tích của
Thánh nhân xưa để lại bảo ta phải tin. Đừng
tin tưởng điều gì, dầu điều ấy ở dưới mãnh lực của ông Thầy hay nhà
truyền giáo. tất cả những
sự thật, theo suy nghiệm riêng của anh, và sau khi
xác nhận rõ ràng,
phù hợp với lẻ phải, tạo thành
hạnh phúc riêng cho anh và
hạnh phúc cho tất cả mọi loài, thì chính đó là
sự thật và anh
cố gắng sống theo
sự thật ấy ".
Đấy là một nguồn
tin tưởng không bị cục hạn hay
áp bức dưới một
hình thức nào mà
chúng ta có thể gọi
vắn tắt là "
tự do tin tưởng ". Có
tự do tin tưởng mới có một
giá trị, một kết quả xứng đáng và
viên mãn theo với
sự thật trong sự mong muốn của
chúng ta, nghĩa là
chúng ta muốn một việc gì được
thành tựu,
chúng ta phải được toàn quyền
tự do về
suy nghĩ,
kinh nghiệm và
lựa chọn.
Suy nghĩ Có
suy nghĩ mới phát sinh được nhiều sáng kiến. Có sáng kiến mới đem lại cho công
việc làm có một đường lối rõ rệt và tỉ mỉ.
Chúng ta muốn cấy một ruộng lúa, trước nhất
chúng ta phải
suy nghĩ về
thời tiết, về cách làm và về giống lúa như thế nào ?
Kinh nghiệmCó
kinh nghiệm mới
thực hiện được sự
suy nghĩ ấy bằng
việc làm. Do
việc làm mới đem lại cho
chúng ta nhiều bài học đượm nhuần màu sắc của thắng, bại, hay, dở, hư, thực.
Chúng ta đã
phát khởi ra
ý muốn cấy lúa, tất nhiên
ý muốn ấy phải được
đáp lại bằng cày bừa, cày bón và gặt hái.
Lựa chọnCó
lựa chọn,
chúng ta mới nhận chân được
giá trị của nó và
cố gắng thực hành giá trị ấy sau khi đã suy nghiệm xác đáng. Ruộng lúa khi đã được thu hoạch với một kết quả
khả quan do sự đúng thời và
thích hợp. Thế là
chúng ta đã nắm chắc được
thắng lợi.
Thắng lợi ấy lại sẽ là một kết quả hơn nữa cho
chúng ta trong những mùa sắp tới. Và, có thể đem
thắng lợi ấy
chỉ dẫn cho những bạn điền cùng suy nghiệm và đem lại
thắng lợi như mình.
Cho nên nhà
triết học Aristote cũng phải
công nhận : "
Cứu cánh là do
ý muốn mà ra. Nhưng
phương tiện để đi đến
cứu cánh đó lại do sự
suy xét,
kinh nghiệm và chọn lọc. Bởi vậy, những hành động tương quan với những
phương tiện kia phải được làm theo với sự chọn lọc có
suy nghĩ và hợp với
ý muốn riêng của mình ".
Tự nơi mình
Trên đây đã cho
chúng ta biết : trước khi
chúng ta tin tưởng một điều gì, một việc gì, phải
trải qua bao thứ lớp của
suy nghĩ và
kinh nghiệm. Nhưng, sự
suy nghĩ,
kinh nghiệm ấy, phải tự mình
định đoạt, vì " một sự
tin tưởng mà không phải tự mình
xác nhận, không phải là
tin tưởng ".
Nếu được thế,
chắc chắn chúng ta cũng
biểu đồng tình và
hăng hái thực hành như
tư tưởng của nhà
triết học Descartes đã
diễn tả : " Tôi cầm bằng như
giả dối hết thảy những điều gì chỉ có vẻ thực mà thôi. Tôi tập
cho không bao giờ tôi
quá tin vào những điều gì chỉ do
luân lý và tập quán dẫn dụ ".
" Chỉ có
ngọn đèn dẫn đường cho
chúng ta tới chỗ
thành tựu được đó là
ngọn đèn của
kinh nghiệm ".
5.- BIẾT
LẬP NGHIỆP " Trước phải tập nghề nghiệp sau mới được
của cải ".
Kinh Thiện SinhXây dựng đời sống chân chínhĐức Phật dạy : " Trước hết phải
học nghề nghiệp,
phương tiện để gom góp
của cải. Sau khi có của, nên chia làm bốn phần : một phần mình
tiêu dùng, hai phần để làm ăn, còn một phần cất đi để giúp đỡ mình và người khi nghèo thiếu ".
Có thân phải có sống. Có sống phải có vật giúp cho sự sống, tức là phải có nghề nghiệp để tạo ra vật ấy,
mặc dầu sự tạo ấy do
trí thức hay lao lực. Nói rõ hơn
chúng ta phải có một nghề nghiệp để
lập thân, để
bảo vệ sự sống và truyền tiếp sự sống trên cơ sở
chân chính.
Nhất nghệ tinh
nhất thân vinh
Thật thế nghề nghiệp không từ chối
chúng ta, chỉ sợ
chúng ta từ chối nghề nghiệp. Nghề nghiệp là một
công phu rèn luyện chạy dài từ
thời gian này đến
thời gian khác và phải dốc bao
tinh thần,
năng lực vào đó. Nghề nghiệp chỉ là một lẽ đương nhiên, không
phân biệt sang trọng hay
đê hèn, mà chỉ bao hàm trong
ý nghĩa " sống " tuỳ theo
sở thích của
chúng ta. Và, hẳn có một
hậu quả tương đương với
năng lực và
sở thích ấy.
Trước khi
lập thân,
điều kiện cần yếu của
chúng ta là phải có một hay nhiều nghề nghiệp tinh thạo trong các ngành như :
công chức, canh nông,
thương mại, công nghệ, kỹ nghệ v.v...
Do nghề nghiệp ấy,
chúng ta có những nguồn lợi tức
dồi dào và
chân chính để
gây dựng thành
gia nghiệp có tổ chức. Một
gia nghiệp biết
xử sự và phân
phối hợp lý. Nghĩa là nguồn lợi tức ấy được đặt để đúng chỗ, không quá
xa xỉ hay
tiết kiệm và thường biết hướng về sự
lợi ích cho mình, sự
lợi ích chung cho người khi
túng thiếu. "
Nếu có thể làm giàu được bằng cách
lương thiện, hợp đạo thì
chúng ta cũng nên làm giàu "
Như thế
vấn đề lập nghiệp đạo Phật dạy
chúng ta rất
tinh tế.
Đạo Phật dạy chúngta " Có thể buôn bán làm nghề nuôi sống, nhưng phải đong đầy, đo đủ, không được dối người ". Và, " Nếu làm Thầy thuốc phải làm có
hiệu nghiệm,
pháp thuật còn kém thì không nên đem ra dùng ". Được thế nó sẽ đem lại cho
chúng ta sống
một đời an vui
vĩnh viễn. Nó đem lại cho
chúng ta một
tinh thần tự chủ, một
tinh thần tổ chức, một
tinh thần thân ái với tất cả.
Nhưng trước khi bắt tay vào công việc, Kinh
Trường A Hàm cũng không quên nhắc nhở và
mong mỏi ở nơi
chúng ta: " Nuôi mạng mình bằng cách
chính đáng ".
6.-BIẾT VỤ THỰC,
THƯỜNG XUYÊN VÀ
TRUNG ĐẠO" Nếu làm được thì nói, không làm được thì đừng nói suông ".
" Làm việc chưa xong không nên nửa chừng thôi nghỉ "
Bột Kinh
" Có hai điều
thái quá cần xa lánh, một là đời
buông lung theo
ngũ dục, hai là ăn ở theo lối
khổ hạnh...
Như Lai tìm được
con đường đi giữa để
mở mắt mở trí cho người ".
Lời Phật dạyVụ thực
Vụ thực là một
chương trình có
giá trị khi nào " tri, hành hợp nhất ". Ông Flaubert nói : " Dù người ta muốn nói gì đi nữa cũng chỉ có một tiếng là làm sao điều đó hóa ra có
sinh khí ".
Đơn giản thay
lời nói ấy, nó bao hàm đầy đủ
ý nghĩa của một
lời nói phải
biến thành sự thật.
Kinh Đại Ai nói : "
Lời nói và
việc làm phải hợp
với nhau, không nên ôm lòng tự đại ".
Đạo Phật không bao giờ muốn
lời nói sẽ đem lại một kết quả trống không.
Đạo Phật rất chú trọng vào
việc làm, vì
đạo Phật là Đạo
hoạt động.
Hoạt động đúng theo sự
nhận xét và
tùy ý chọn lọc. Đã
tùy ý chọn lọc, nên không bao giờ muốn thu công về mình và chỉ có thể nói là : " Lẽ đương nhiên của sự vật như thế " (
Pháp nhĩ như thị ).
Việc đời cũng thế. Nói để làm, làm để
đáp lại lời nói. Một việc rất nhỏ có kết quả còn hơn một
chương trình vĩ
đại không đâu. Một người hi vọng thành người phải làm đúng như hi vọng ấy, tất nhiên nó sẽ đem lại một kết quả như kết quả của một nhà quân sự
Tây phương nói : " Tôi có một điều đáng mừng là không bao giờ tôi
thất vọng ".
Nhưng phải
cố gắng...
Từ
lời nói đến
việc làm, từ
việc làm trở lại lời nói, không phải là sự dễ dàng trong
thời gian ngắn ngủi, mà nó sẽ có nhiều sự khó khăn trong
thời gian lâu dài, mới đem lại cho sự
thành tựu, nếu
chúng ta có tính
kiên nhẫn theo đuổi nó. Vì thế,
đức Phật luôn luôn khuyên
chúng ta : " Có làm việc gì nửa chừng không nên bỏ dở ".
Và, cần biết theo lẽ trung bình...
Không nên nửa chừng bỏ dở,
dĩ nhiên đó là một
lý thuyết được đặt ra
một cách cụ thể. Nhưng chưa chắc đã được
cụ thể hóa trên
thực hành. Vì
thực hành khó
tránh khỏi những
trở lực sẽ đem đến thất bại do lười quá hay siêng quá, cương quá hay nhu quá...
Khế Kinh nói : " Người làm việc, phải như người gãy đàn. Nếu giây trùng tiếng, giây căng tiếng gắt. Chỉ làm sao sợi giây trung bình, tiếng mới hay và êm dịu ". Nghĩa là trên
con đường hoạt động muốn
bảo đảm cho công việc đạt tới kết quả phải
thực hành bằng cách
trung đạo. Tức là không bắt buộc
thân thể quá khắc khổ, không bổ
dưỡng thân thể quá
sung sướng, không
vội vàng, không
chậm trễ, không quá siêng năng, không quá
biếng nhác, không nghiêng nặng về
lý trí, không ngã nhẹ về tình cảm v. v....
Như thế
chúng ta nhận thấy bất cứ một công việc gì, một
sự nghiệp gì, muốn tới
thành công, nó đều đòi hỏi ở
chúng ta lời nói song song với
việc làm.
Việc làm căn cứ vào lòng bền bỉ, trí
sáng suốt, biết
áp dụng một cách trung bình và
chân chính.
Trên
sự thật sẽ cho
chúng ta bài học ấy, nếu
chúng ta muốn
thành công hay không muốn
thành công.
7.- BIẾT NHÂN QỦA
" Khi những
điều kiện giống nhau được
thực hiện ở hai khoảng
thời gian khác nhau, ở hai chổ khác nhau thì những
hiện tượng giống nhau lại tái phát, chỉ khác ở chỗ nó đã chuyển đi trong
không gian và
thời gian thôi ".
Painlevé
" Trồng dưa được dưa, trồng mận được mận ".
Đức Phật dạy : " Bất cứ
nghiệp lành hoặc nghiệp dử mà ta đã tạo, chính ta phải mang lấy trong ngày mai "
Đây là nói về định lý
nhân quả, một định lý làm cho
chúng ta quyết tâm theo đuổi sự nghiệp,
theo đuổi công việc, mà nó có thể
trả lời cho
chúng ta biết rằng : " Có làm thì có ăn, có
nguyên nhân thì có kết quả ".
Nhân quảNhân là
nguyên nhân, là
năng lực phát động. Quả là kết quả, là sự hình thành của
năng lực phát động.
Nhân quả là một
định luật tất nhiên, nêu rõ sự tương quan, tương duyên giữa nhân và quả. Phàm đã có
tác động tất nhiên phải có kết quả hình thành,
phản ứng nguyên nhân ấy. Như đi học thì biết chữ, cấy gió thì gặt bão v.v...
" Tất cả những
hiện tượng của
đời sống vật chất và
cả đời sống
tinh thần rất
hợp lý : Cái quả kết thành là do ở cái nhân. hễ ít nhân thì ít quả "
Như thế
chúng ta biết rằng tất cả sự vật
hiện tại đều là kết quả trực tiếp hay
gián tiếp của
nghiệp nhân, không phải ai sinh, không phải
tự nhiên sinh, chỉ do sự tương quan, tương duyên của nó mà thôi.
Mối tương quan...
Đứng về
phương diện tương quan của
nhân quả chúng ta thấy :
A/ Một
nhân không thể sinh ra quả, mà phải được sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Như cây lúa không những chỉ do hạt lúa tạo thành mà phải có các nhân khác giúp đỡ hạt lúa mới nẩy mầm thành cây mà phát triển
tồn tại.
B/ Nhân nào quả ấy, không bao giờ
nhân quả mâu thuẩn nhau. Người học
đàn chỉ biết đàn, chứ không thể biết vẽ. Người làm việc
lợi ích, thì bao giờ cũng được kết quả tốt, chứ không thể có kết quả xấu.
C/ Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Nghĩa là chính trong nhân
hiện tại chúng ta thấy
quả vị lai, và chính trong quả
hiện tại chúng ta đã tìm được nhân
quá khứ. Hạt nhãn hiện nay sẽ là cây nhãn, quả nhãn của ngày mai. Quả nhãn hiện nay là hạt nhãn của ngày đã qua.
Mối tương duyên...
Đứng về
phương diện tương duyên của
nhân quả,
chúng ta thấy
nhân quả chỉ là một chuỗi giây
liên lạc từ
vô thủy tới vô chung, nên có thể :
Tạo nhân được kết quả ngay
nhất thời, như đánh
tiếng chuông liền nghe thấy tiếng ngay.
Tạo nhân đời này kết quả ngay đời này. Như trồng lúa chừng 6 tháng đã có kết quả.
Tạo nhân đời trước đời này mới kết quả. tạo nhân đời này
đời sau mới kết quả
Tạo
nhân từ các đời trước đời này mới có kết quả. Tạo nhân đời này các
đời sau mới kết quả
.Do đó
chúng ta thấy
nhân quả là một định lý tất nhiên. Định lý ấy cho
chúng ta thấy rõ
sự thật về
lời nói,
ý nghĩ và
việc làm hàng ngày của
chúng ta không thể
tiêu tán theo
thời gian, mà nó sẽ
đáp lại một kết quả của ngày mai hoặc đau buồn hay
sung sướng, hoặc
đen tối hay xinh tươi,
tùy theo hành nghiệp của
chúng ta. Định lý ấy đã cho
chúng ta thấy sự hưởng thụ dù
tốt đẹp hay
xấu xa của
chúng ta hiện tại cũng là sự trình bày khách quan của
nghiệp nhân ở
quá khứ. Cho nên
con người là đấng Chúa tể.
Con người là tự
định đoạt, tự
tác thành đời sống của
con người chứ không ai có quyền thưởng phạt. Định lý
nhân quả cuả
đạo Phật đem lại cho
chúng ta một
tin tưởng mạnh mẽ vào nơi
chúng ta, khiến
chúng ta không
chán nãn lùi bước trước những
trở lực trong công
việc làm.
"
Chúng ta cố gắng tạo nhân lành để hưởng quả tốt và
mở rộng chân trời
giải thoát để
giác ngộ cho
chúng sinh ".
8.- BIẾT
TRI TÚC" Ta thà giữ đạo chịu nghèo hèn mà chết chứ không chịu
vô đạo được
giàu sang mà sống "
Kinh
Lục độ Tập
Người ta biết
an phận là
sung sướngKinh
Di Giáo nói : " Muốn khỏi
khổ não, nên
quán tưởng "
tri túc " ( biết đủ ). Phép "
tri túc " là chổ
an ổn của sự
giàu sang,
sung sướng. Người "
tri túc " nằm trên đất cũng thấy
sung sướng. Người không "
tri túc " ở cõi
Thiên Đường cũng không
vừa ý. Người "
tri túc " tuy nghèo mà giàu. Người không "
tri túc " tuy giàu mà nghèo. Người không "
tri túc " thường bị năm món
dục vọng sai xử, khiến người "tri túc ‘ thường
thương xót tới.
Ham muốn của
con ngườiLòng ham muốn của
con người không biết đâu là
cùng tận, không có một
quy phạm nào làm
ranh giới cho nó : " Nấc thang hoạn lộ chưa thể dừng nghỉ khi người
công chức chân còn bước, tay còn dài, tuy rằng họ biết là
năng lực không đủ hay nguy hiểm. tấm biển thương trường chưa thể nhạt màu khi người buôn bán thế còn to, mưu còn giỏi, mặc dù họ biết
tài sản quá thừa và
giả dối. đại điền chủ chưa nới tay
thu nhận văn tự, tính lợi hoa màu, bớt sén lương soạn, nhân công, khi mà
gia đình họ đã thừa
sung sướng, chung quanh bao kho thóc đã
mục nát. đại xí nghiệp chưa thôi đi
tìm tòi nguyên liệu, hùn vốn công ty,
bóc lột thặng dư giá trị khi mà
gia nghiệp họ
quá sức giàu sang,
ngổn ngang những hàng hóa sẽ đổ đi.
Ái tình, sắc đẹp chưa thể thoả mãn
dục vọng khi cặp mắt của
con người nhìn xa ngoài bản vị ..."
Nghĩa là
dục vọng của
con người không có một bờ bến nào đúng như lời Ngài
Mạnh Tử đã nói : " Nếu tính tới lợi trước mà xét tới nghĩa sau, thì lợi ấy chưa chiếm được hết chưa chán ".
Như thế muốn
cứu vãn lại
hoàn cảnh ấy chỉ còn một
giải pháp "
tri túc " là có thể dừng chân
dục vọng, đem lại sự thăng bằng cho
nhân loại Tri túcTri túc là
sẳn sàng thực hành theo với
địa vị và
hoàn cảnh của mình. Giàu và sang ai chả muốn, lẽ không nên được mà được, không ham. Nghèo và hèn ai chả chán, lẻ không đáng chịu mà phải chịu, cũng đành".
_ Với
phương pháp ấy, có phải làm ngừng trệ sự
tiến hóa của
con người không? Không, vẫn tiến, tiến mạnh và
tiến tới thành công. Vì muốn
tiến bộ,
con người phải cần có
sức lực và
tinh thần.
Sức lực và
tinh thần của
con người nếu đem
cung cấp cho
dục vọng trong
trường hợp lạc quan chỉ là
phá sản và
trụy lạc. Nếu đem
cung cấp cho
thất vọng trong
trường hợp bi quan chỉ là chán nản và tuyệt mệnh.
Trái lại con người tri túc biết theo
địa vị và
hoàn cảnh mình thì
không vui, không buồn, tất nhiên
sức lực,
tinh thần vẫn được mạnh mẽ.
Sức lực,
tinh thần mạnh mẽ, sự
tiến bộ sẽ tiệm phát và quyết tới kết quả mỹ mãn không thể nào chối cãi được.
Cho nên
tri túc là phương thế
tiến thủ chứ không phải để chờ đón lấy thất bại trong
im lặng. " Lùi để tiến "
phải chăng là chiến lược, chiến thuật của nhà quân sự vẫn
áp dụng theo
phương pháp ấy, mà
chúng ta thường được nghe nói.
Vậy
tri túc là một đường lối dạy cho
con người biết
phương pháp làm người và muốn
thành công rực rỡ trên
trường đời.
Tri túc đã biết, đã làm,
thân tâm sẽ được
bình tĩnh trước mọi
hoàn cảnh.
Tri túc không phải là mồi thơm ngon để cho
mọi vật cám dỗ. Người
tri túc không phải là người ngây ngô, để nhiều ngã đường làm
mù quáng,
trái lại là người rất mạnh mẽ, đủ làm chủ được mình, hướng dẫn được người trên
con đường về tươi sáng.
Tri túc đủ mãnh lực
bảo vệ một đời sống thanh cao và
an lạc.
9.- BIẾT SỬA CHỬA
" Ai biết
sửa đổi lỗi lầm thì người ấy được
tiến hóa trong
giáo Pháp của
Như Lai ".
Kinh
Trường A Hàm" Phải xét lỗi nơi mình chớ chê kẻ khác ".
Người ta ở đời cần biết
sửa đổi lỗi lầm, nếu khi nào
nhận thấy nó
phát khởi tại nơi mình. Vì " Người có lỗi không biết
sửa đổi,
diệt trừ tự nơi tâm, thì lỗi ấy sẽ đến thân, như nước chảy về biển,
dần dần thành
sâu rộng ".
Kinh Pháp Cú thí dụ nói : " Không nên trách người chỉ tự
xét mình. Nếu ai biết được cách này thì
vĩnh viễn không
tai hoạn ".
Đó là
phương pháp sửa đổi lỗi lầm ngay tự
bản thân con người do
ý nghĩ,
lời nói hay
việc làm tạo nên. Đã có thân tất có
đau khổ, có hình thể tất có
phiền lụy Người ta nếu chưa phải là bậc
Thánh triết khó có người
tránh khỏi lỗi lầm .
Trên đường
hoạt động để tìm lấy
lẽ sống cho cuộc sống,
chúng ta không thể phủ nhận là
lỗi lầm không có ở nơi
chúng ta : " Một bước vô tình đã làm hại
sinh mệnh con sâu, con kiến. Một
cử chỉ bất
lịch sự khi
bố thí cho đồng bào nghèo một đồng xu. Một sự
vô tâm đã
làm phật ý bao người
thân thích hay tôi tớ chung quanh. Một sự du đãng đã làm hại cho
thân thể mình và
thanh danh của
gia đình,
quốc gia,
xã hội. Một sự đảng trí, lười biếng đã khiến cho công việc không chu đáo, nhanh chóng và thiếu
trật tự. Một lòng ham chút vật của người khác để làm lợi cho mình, làm thiệt cho người v.v... đều có thể gọi là lỗi cả. Vì mình đã làm
thương tổn đến người hay không làm trọn nghĩa vụ là một người trong
xã hội loài người ".
Biết
sửa đổi sẽ
trong sạchChúng ta biết rằng không ai
tránh khỏi lỗi lầm, nhưng chỉ có hoặc nhiều hay ít mà thôi. Có
lỗi lầm chúng ta nên
quyết tâm sửa đổi, tất nhiên sẽ được
trong sạch.
Lỗi lầm không khác chi tấm gương bị bụi phủ, một khi
chúng ta biết lau chùi, nó sẽ
hoàn lại trong sáng như xưa.
Lỗi lầm cũng như căn nhà
đen tối, nếu một bó đuốc đem tới, bao nhiêu
đen tối sẽ
nhất thời tan biến.
Lỗi lầm cũng như
thân thể nhơ cáu, một khi tắm gội
thân thể sẽ sạch sẽ. Đó là một tỉ dụ để
chúng ta nhận rõ sự thực của
sửa đổi. Nhưng
chúng ta cần nhớ rằng
theo quan niệm đạo Phật thì sự
sửa đổi ấy phải được đặt trên tấm
lòng thành thực giải bày không
tái phạm và tự mình
sửa đổi lỗi của mình chứ không thể nhờ vào một quyền phép nào.
Như thế
chúng ta không còn
ngạc nhiên, thắc mắc về sự
lỗi lầm hay
sửa đổi. Đã không thắc mắc,
chúng ta nên
hăng hái xét nét lỗi lầm của
chúng ta và để
sửa đổi nó.
Chúng ta không nên dò xét
lỗi lầm của người, chỉ phí
thời giờ và sinh mâu thuẩn, nếu là người chưa
hiểu biết và không có lòng
giác tha.
Chúng ta không nhớ lời Ngài
Khổng Tử đã nói : " Khi bậc cửa nhà ta còn nhơ, thì ta đừng chê nóc nhà bên tại sao đầy tuyết ".
Chúng ta đã
nhận thấy sửa đổi là việc rất
cần thiết cho
chúng ta muốn nên người và
thành công thì
chúng ta nên
nghiền ngẫm thực hành nó trên tất cả
mọi việc, trong tất cả mọi thời, tất nhiên
chúng ta sẽ thấy nó
trở lại với
chúng ta một kết quả
khả quan:
a/ Công việc được chu đáo và
tăng tiến hơn
b/
Hành vi không bị sa vào
lầm lỡ.
c/ Phẩm giá
con người được
nâng cao.
d/
Tâm trí được
sáng suốt.
e/
Thân thể được nhẹ nhàng.
f/
Hậu quả được
tốt đẹp" Biết
sửa đổi là biết hướng về
tiến bộ ".
10.- BIẾT
TRONG SẠCH " Một người sống một
cuộc đời không
trong sạch, không thể nào phát triển
tinh thần được.
Đời sống hoàn toàn trong sạch, chỉ có thể có được sau khi đã
đạt được công năng của
tinh thần đưa đến chính
tri kiến ‘.
André Migot
" ... Cứ
trong sạch yên vui mới không
lỗi đạo ‘.
Đức Phật dạy : "
Chúng sinh thấy
sắc tướng Như Lai thì mắt
trong sạch, nghe
danh hiệu Như Lai thì tai
trong sạch, ngửi
giới hương Như Lai thì mũi
trong sạch, đầy đủ tướng lưỡi rộng dài,
hiểu rõ các
ngôn ngữ,
thấm nhuần hào quang Như Lai thì thân
trong sạch,
cứu cánh chứng pháp thân
vô thượng ".
Đây là kết quả của hạnh
trong sạch. Đã có kết quả
trong sạch , không
thể không có
nguyên nhân của
trong sạch. Vì, "
Như Lai " có nghĩa là noi theo đạo Như- Thật
chân lý, để đạt tới chổ
giác ngộ hoàn toàn. Đạt tới là
con đường chạy dài từ
thực hành tới
hiểu biết. Có
hiểu biết mới có thể thấy, nghe, ngửi, nếm,
thấm nhuần trong chân nghĩa của
Như Lai,
nếu không hiểu biết sẽ không được thế và sẽ được
đáp lại như trong
Kinh Pháp Cú thí dụ đã nói : " Ông thấy hình tôi mà ông không giữ lời răn thì tuy ông thấy tôi mà tôi không thấy ông. Ông kia tuy cách tôi muôn dặm mà biết giữ lời răn, thì ông ấy tất đứng
trước mặt tôi ".
Như thế,
chúng ta biết rằng muốn thành bậc
Giác Ngộ, muốn gần đạo
giác ngộ hay muốn thành một người
đủ tư cách làm " người ",
điều kiện cốt yếu là
chúng ta phải
trong sạch về
lời nói,
ý nghĩ và
việc làm.
Căn cứ vào giáo lý trên đây và còn nhiều ở trong Kinh sách
đạo Phật thì hạnh
trong sạch ấy ở ngay sự động tác của
thân thể, miệng lưỡi và tâm ý
chúng ta.
Thân
trong sạchThân
chúng ta không làm việc
sát hại,
trộm cắp,
dâm dục làm gì không được
trong sạch. Đã được
trong sạch tất nhiên được tắm ánh sáng
hiểu biết, trông thấy
hình sắc thanh tao trong sự
hiểu biết, nghe thấy những tiếng
vi diệu trong sự
hiểu biết, ngữi những hương vị
giải thoát trong
hiểu biết, tất là không bị xác thân
lôi cuốn vào
dục vọng, không bị con mắt
lôi cuốn vào
hình sắc trụy lạc, không bị tai
lôi cuốn vào những
âm thanh bỉ ổi, không bị mũi
lôi cuốn vào mùi tanh tao của sự
sát hại...
Miệng
trong sạchMiệng lưỡi
chúng ta không
nói dối, nói
thêu dệt, nói
độc ác, nói lật lường, tất nhiên miệng lưỡi được
trong sạch. Được
trong sạch là được nếm những hương vị
giải thoát của
lời nói chân thật, ngay thẳng, dịu hòa,
thành tín trong sự
hiểu biết.
Ý
trong sạchTâm ý
chúng ta không còn
ham muốn, oán giận, ngu mê tất nhiên tâm ý
chúng ta được
trong sạch. Được
trong sạch là được một tâm ý
hồn nhiên, nhịp nhàng với
bản thể vũ trụ trong sự
hiểu biết chân thật và hòa đồng cùng sự vật, làm những việc
ích lợi,
bình đẳng và
sáng suốt.
Trong đời sống, không ai là không phải nói, phải làm và phải nghĩ. Nhưng, nói, làm và nghĩ có sự rất lợi và cũng có sự rất hại. Hại ở mình, mà lợi cũng ở mình. Con dao là một vật giúp đỡ
chúng ta nhiều việc, nếu
chúng ta biết dùng,
trái lại nó là vật
sát hại.
Chúng ta muốn sống
đời sống hoàn toàn và
giá trị, tất cả
thân tâm chúng ta phải được
trong sạch trước đã !
11.- BIẾT
ĐẠO TỪ BI,
BÌNH ĐẲNG" Thật vậy,
chúng ta sống
an lạc mạnh khoẻ giữa đám người
đau khổ... Thật vậy,
chúng ta sống
an lạc, không
oán hận với những kẻ
oán hận... "
G.Lounsbery
Đạo Phật với
chúng sinhĐức Phật dạy : " Tôi thấy rõ
chúng sinh luân hồi trong sáu ngã, đều thay thế nhau làm
cha mẹ,
thân thích,
quyến thuộc, nỡ nào lại
sát hại lẫn nhau"
" Các
đức Như Lai đều thấy : " Hết thảy
chúng sanh trong
pháp giới đều đầy đủ
trí tuệ, đức tướng
Như Lai, chỉ vì
ngu si,
mê hoặc, nên không tự biết. Tôi nay sẽ chỉ cho
con đường chính, khiến
con người dứt sạch các món
vọng tưởng, chấp trược,
tự chứng được
trí tuệ rộng lớn của
Như Lai,
bình đẳng với chư Phật không sai khác ".
Đây là cả một
tôn chỉ mục đích của
đạo Phật, đây là cả một
chương trình làm người, hướng về
lễ nghĩa, tâm đức và
nhân đạo.
Dưới con mắt
giác ngộ của
đức Phật, Ngài
nhận thấy tất cả
chúng sinh,
loài người cũng là một trong đó đều
bình đẳng về
trí tuệ, đức tướng vàđều là người
thân thích với nhau. Đã là
bình đẳng, là
thân thích tất
nhiên không bao giờ
phân chia hay
sát hại nhau,
trái lại phải
thương yêu, giúp đỡ nhau nếu là người
hiểu biết. Người
hiểu biết, một
cử chỉ, một hành động đều hướng về
từ bi,
bình đẳng và không xa "
từ bi bình đẳng "
Từ bi" Từ " là
hiền lành, là cho vui. " Bi " là
thương xót, là
cứu khổ. Cho vui,
cứu khổ là một hành động
quả cảm, mong đem lại
lợi ích cho người, cho vật mà quên những
lợi ích nhỏ nhen riêng mình. Người vui cũng như mình vui, người khổ cũng như mình khổ. Thấy người khổ ta tìm đủ
phương tiện giúp đỡ họ bằng
của cải, bằng lời hay lẻ phải, bằng sự
an ủi hay sự
hy sinh trong
tinh thần vô tư và
vô úy. Thấy người vui ta
tán dương, khuyên
cố gắng và khuyên đem sự vui đó hướng về
lợi ích chung.
Bình đẳng" Bình " là
quân bình. " Đẳng " là tề đẳng. Tất cả đều ngang bằng như nhau không hơn không kém.
Loài người cũng như các sinh vật khác, cũng do
nhân duyên phát sinh, cũng đủ
cơ quan sinh hoạt, cũng ưa sống
sợ chết... có chi là khác nhau. Khác nhau ở học vấn,
địa vị,
giai cấp chăng ?
_ Học vấn, điạ vị,
giai cấp chỉ là
điều kiện,
hoàn cảnh hay
nhân quả tạo thành chứ không thể khác nhau ở
lẽ sống. Vì máu ai cũng đỏ và mặn. Nhất là
lẽ sống thì
sự kiện ấy chỉ là sự phân công rõ rệt
trong đời sống
xã hội.
Nếu không có người làm ruộng, lấy thóc đâu nuôi người
công chức.
Nếu không có người
công chức thì sự
an ninh đâu đem lại cho người làm ruộng. Nghĩa là " Tất cả đều
bình đẳng ". Đã
bình đẳng còn đâu là kẻ sang, người hèn, kẻ giàu, người nghèo, kẻ oán, người thân. Đã
bình đẳng còn đâu là
tranh chấp tương tàn, tương tặc, mà chỉ còn biết thương nhau, yêu nhau, giúp đỡ nhau.
_ Theo thuyết
từ bi,
bình đẳng, mất hết cả lễ, nghĩa, liêm, sĩ chăng ? Không ! Hiểu nghĩa vụ mình trong
xã hội và làm đúng với nghĩa vụ ấy là " Lễ " . Đối
với nhau tín- ái
chân thật là " Nghĩa ". Biết
tri túc theo
hoàn cảnh mình là " Liêm ". Biết thẹn hổ khi mình có lỗi,
biết mình không
tiến tới mục đích cứu cánh làm người là " Sĩ ". Cho nên chỉ bốn chữ "
từ bi,
bình đẳng " là đầy đủ hết cả .
Như trên
chúng ta đã
hiểu ý nghĩa của "
Từ bi,
Bình đẳng " giờ đây
chúng ta phải bắt tay vào việc
thực hiện nó, mà
chúng ta có thể
tóm tắt như sau theo
tôn chỉ đạo Phật :
Bố thí Có thể giúp đỡ bằng
tài sản, bằng
sự giáo dục hay bằng sự
che chở. Bất cứ ở vào
trường hợp nào,
hoàn cảnh nào,
chúng ta đều có thể làm việc
bố thí được.
Bố thí con kiến một hột cơm,
an ủi người bằng nụ cười, hay cho kẻ nghèo hèn vạn bạc. Nhưng nếu sự
bố thí ấy phát ra tự
đáy lòng từ bi chân thành và
rộng rãi, thì đều có
giá trị tương đương,
mặc dầu hành vi ấy có sự sai khác
bề ngoài.
Ái ngữGiữ
lời nói chân thật,
hòa nhã để
xử sự và
cảnh tỉnh người trong khi giao tế, trong lúc
mê lầm, hoặc để làm vui người trong khi buồn bã. Không muốn đem ra ánh sáng những điều
lỗi lầm, chỉ muốn thấy người dưới những
phương diện tốt đẹp nhất của họ. Emerson nói : " Bất cứ người nào tôi gặp, cũng hơn tôi cách này hay cách khác ".
Chúng ta muốn nên người cũng nên giữ một
thái độ khiêm tốn như thế đối với
nhân loại và bao trùm tới tất cả muôn loài.
Lợi hành
Mãnh liệt
thực hành hết thảy công việc
lợi lạc cho
quần chúng và
xã hội. Bên trong lúc nào
chúng ta cũng trao dồi
trí tuệ,
tâm hồn cho hết sạch những
tư tưởng vị kỷ. Bên ngoài lúc nào
chúng ta cũng
sẳn sàng giúp ích cho
mọi người,
mọi vật trong bất cứ
trường hợp nào.
" Tất cả các Pháp đều là
Phật Pháp ".
Đồng sự :
Cùng sống nhịp nhàng với hết thảy
mọi người trong hết thảy
hoàn cảnh, để
thiết thực làm
lợi ích cho hết thảy
mọi người và
dìu dắt họ tiến trên đường
chân chính.
Như
thế đạo lý "
từ bi bình đẳng " là
con đường đưa
chúng ta tới đích của
chân lý, của
xã hội an bình thiện hảo.
Đạo lý "
từ bi bình đẳng " đem lại cho
chúng ta biết
tôn trọng sự sống, quyền sống, biết làm theo
tiếng gọi của cõi lòng
hồn nhiên và
rộng rãi,
biết thân yêu, giúp đỡ nhau cùng vui sống trong đại
gia đình nhân loại. Và nó có thể đưa
chúng ta sống gần với muôn loài, nhịp nhàng với
lẽ sống chung cùng của
vũ trụ.
" Chỉ có lòng
thương yêu chân thật, đặt trên
tư tưởng bình đẳng mới đem lại một nghĩa sống
chân thật ".
12.- BIẾT TRAO DỒI
TRÍ TUỆ"
Bồ Tát nên
học rộng nghe nhiều,
tăng trưởng trí tuệ,
thành tựu biện tài để
giáo hóa hết thảy
chúng sanh được an vui,
sung sướng hoàn toàn ".
Kinh Bát Đại Nhân GiácĐức Phật dạy : "Có
trí tuệ thì không tham trược, thường tự
soi sáng,
tránh khỏi các
lỗi lầm...
Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền
kiên cố chở
chúng sinh khỏi biển sinh, lão, bệnh, tử, là
ngọn đèn lớn
soi sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy tật bệnh, là chiếc búa sắc chặt gãy cây
phiền não. Vậy các vị
cần phải lấy sự
học hỏi, sự
suy nghĩ, sự
tu tập mà tự
tăng ích cho
trí tuệ mình ".
Trí tuệ Trí tuệ là
nhận thức sáng suốt. Nghĩa là dùng
chính trí nhận hiểu,
phân biệt chân tướng của sự vật
rõ ràng xác đáng. Không nhận giả làm chân, nhận hư làm thực.
Không chấp chặt
thành kiến riêng của mình. Không theo
cổ tục di truyền vô nghĩa. Không mê theo những
tà thuyết dị đoan trái
chân lý.
Nói rõ hơn
trí tuệ là sự
hiểu biết,
phân biệt những cái giả cái thực,
lẽ phải, lẽ trái, không bị a dua hay
cảm tình riêng biệt của
cá nhân. Vì
trí tuệ phải là sự kết tinh của ba
yếu tố chính lý :
a/
Tìm hiểuTất cả công việc muốn đạt tới kết quả như sự mong muốn, đầu tiên phải có sự
tìm tòi tỷ mỷ và phải có sự
sáng suốt phân biệt công việc ấy trên cơ sở của lý lẽ
chân chính. Như chính phủ, chính phủ vì dân, muốn cho người lao động có
một đời sống
bảo đảm, Chính phủ phải có sự
sáng suốt tìm hiểu, xét thấy, nghe thấy những gì
cần thiết trong đời sống của họ, sau đó chính phủ mới đề cập đến
đạo luật lao động.
b/ Suy nghiệm
Tất cả công việc gì được
thực hiện cụ thể phải trải bao thứ lớp của sự
suy nghĩ và thể nghiệm ấy phải đúng
chính lý. Chính phủ đã đề cập tới
đạo luật lao động, phải suy đi xét lại mới có thể
ban hành được.
c/
Thực hànhQua bao sự
tìm hiểu suy nghiệm nhưng phải thu
công bằng sự
thực hành,
thực hành trên
chính lý.
Đạo luật của Chính phủ đã được đề cập, được suy nghiệm, tất nhiên phải được
thi hành trên toàn lãnh thổ. Nhưng chỉ khi nào nó được
thích hợp với tất cả
nhân dân mới là kết quả
tốt đẹp.
Cho nên với ba
yếu tố chính lý trên đây, phải được đặt để vào tất cả công việc, để
tăng trưởng cho
trí tuệ. Nếu thiếu một trong ba
yếu tố ấy tất nhiên sẽ được ít kết quả, như trong Kinh
Sa Di thập giới đã nói : "
Học hỏi, xét nghe mà không suy nghiệm thì như làm ruộng không gieo mạ. Suy nghiệm mà không
thực hành tu tập thì cũng
như không tát nước, bừa cỏ,
rốt cuộc không có kết quả.
Trái lại được đầy đủ thì được
chứng quả ".
Như thế
chúng ta biết rằng :
Trí tuệ không ở đâu xa, nó ở ngay nơi
học hỏi,
tìm hiểu, suy nghiệm và
thực hành của
chúng ta được đặt trên sự thực, trên
chân lý mà có. Nó có còn đâu là
lỗi lầm, còn đâu là ham đắm
phi lý, còn đâu là chấp trược
nhân ngã, còn đâu là
mê tín nhãm nhí, mà
nhất định là
tiến bộ và
thành công. Vì nó là ngọn đuốc soi tỏ cho tất cả
ý nghĩ,
lời nói và
việc làm của
chúng ta, để đem lại sự an vui và
hạnh phúc chân thật cho
chúng ta.
" Được
trí tuệ,
đoạn tuyệt được các sở nghi làm
sáng tỏ các điều lành. Được
trí tuệ, mới thoát ra khỏi
vòng sinh tử khổ não ".
Kinh
Na Tiên Tỳ Khưu.
13.- BIẾT
TINH TẤN"
Biếng nhác làm
hệ lụy các hạnh ".
Kinh
Bồ Tát Bổn Hạnh
" Nước chảy đá mòn ... "
Đức Phật dạy : " Ta hãy
tinh tấn nổ lực thêm lên để đạt
mục đích cao thượng nào mà ta chưa
đạt được, để làm chủ các Pháp nào mà ta chưa có, để
thực hành những đức tính nào mà ta chưa
thành tựu ".
" Siêng năng,
tinh tấn thì không việc gì khó. Các vị nên siêng năng
tinh tấn. Giọt nước thường chảy có thể xuyên thủng đá ".
Trước những công việc
phức tạp giữa đời, nếu
chúng ta không
tinh tấn không
thành tựu gì hết, như lời
Bác sĩ Durvill nói : " Không
cố gắng gì cả, tức là không có gì cả ".
Tinh Tấn Tinh tấn là một tiềm năng
linh động, quyết hướng cầu đến chổ tinh – thuần,
hiểu biết thành tựu và
giải thoát.
Tinh tấn là đem tâm
trong sáng,
tự tại hướng đến mọi công việc dựa theo
sự thật để đạt tới chổ Như – Thật.
Vì vậy, nên
tinh tấn có những
hình tướng rộng rãi, bao trùm mọi ngành
hoạt động, từ
lời nói,
ý nghĩ đến
việc làm : Nhà nghệ sĩ, nhà khoa học, nhà chính trị,
nhà tu hành ... muốn
thành tựu lý tưởng,
chí nguyện, muốn điêu luyện tài nghệ,
phụng sự nghệ thuật, muốn
thành đạo, cứu đời... không thể
vượt qua hạnh
tinh tấn. Hạnh
tinh tấn rất cần cho
đời sống con người, nếu biết
áp dụng nó .
a/
Đề phòngTất cả những
lỗi lầm, những việc không hay, những hạnh xấu
cần phải tinh tấn gìn giữ đừng cho nó
sinh khởi b/
Diệt trừNếu đã
sinh khởi,
cần phải tinh tấn, tìm mọi
phương tiện để
diệt trừ, không để nó
di truyền lại
c/ Phát sinh
Tất cả những điều hay, những
tính hạnh tốt, những công việc
ích lợi cho mình, cho người,
cần phải tinh tấn làm cho nó phát sinh
d/
Tăng trưởngĐiều thiện phát sinh, luôn luôn phải
tinh tấn làm cho mỗi ngày một
nảy nở hơn lên.
Chúng ta nhận thấy hạnh
tinh tấn là một
sức mạnh trong sáng và hướng thiện để
cải hóa tự thân, cải tạo
hoàn cảnh, hướng dẫn mình và người
tinh tấn trên
con đường sự nghiệp và
giải thoát.
Chúng ta không nên
thoái lui, không nên dừng bước, không nên
do dự, không nên
chậm trễ một phút nào, một giai đoạn nào trước những việc đáng làm của
chúng ta.
Chúng ta sinh ra để
hoạt động, đã
hoạt động,
chúng ta phải
hoạt động đúng với
mục đích cao cả của nghĩa sống.
Chúng ta thực hành hạnh
tinh tấn trên tất cả mọi
phương diện, trong tất cả mọi
trường hợp, nếu
chúng ta muốn
thành tựu về tất cả.
Vậy trước khi bắt tay vào công việc,
chúng ta hãy nhận thêm những lời
đanh thép của một
bác sĩ Tây phương nói : "
Chúng ta quyết chiến đấu, phầ?
may mắn sẽ thuộc về
chúng ta. Vì nó không phải là một
thực thể hay
dời đổi, nó chỉ
vâng lời những ai biết muốn. Khi nào
chúng ta có thể điều khiển nổi
tư tưởng của
chúng ta thì khi ấy
chúng ta hấp dẫn được nó,
chúng ta hấp dẫn nó cũng như đá nam châm hút kim chỉ nam vậy ".
B.-
RÈN LUYỆN VỀ
THÂN THỂ"
Sức khỏe là kết quả của
một đời sống biết
tuân theo luật
sinh lý ".
Paul Carton
Thân thể khoẻ mạnh là
yếu tố quan trọng trong sự
tìm hiểu và
thực hiện nghiã sống của
con ngườiChúng ta không ai là không có
thân thể. Có
thân thể chúng ta phải biết cách
giữ gìn thân thể, làm nẩy nở
thân thể, tất nhiên
chúng ta sẽ thấy : " Một
tinh thần minh mẫn, chứa đựng trong một
thân thể khỏe mạnh ".
Đức Phật dạy : " Phải làm thế nào cho ta trở nên
tinh tấn,
quả quyết,
sáng suốt..., thân ta trở nên
mạnh khỏe, nhưng
bình tĩnh... "
" Giữ thân
tiết độ,
ăn uống đúng giờ và sống một cách
trong sạch ".
Căn cứ vào giáo lý trên đây,
chúng ta nhận thấy vấn đề rèn luyện thân thể, đối với
đạo Phật cũng được
đặc biệt chú trọng. Nhưng sự chú trọng ấy, nó hướng về cả
hai mặt " động " và " tĩnh ".
" Tĩnh " tức là phải
rèn luyện tâm trí, không cho nó bôn xôn
xao động" Động " là những sự
vận động có
liên quan đến sức mạnh của cơ thể, làm cho cơ thể được
tăng tiến, nếu sự
vận động ấy được
tiết độ và
bình tĩnh.
Tọa Thiền Nghi nói : " Phóng xả các duyên, dứt nghĩ muôn việc,
thân tâm nhất như, động, tĩnh không
gián cách, lựa sức
ăn uống vừa đủ không nhiều không ít, điều hòa ngủ nghỉ, không bắt buộc, không
phóng túng ...".
đó là cả một
chương trình rèn luyện thân thể một cách đầy đủ. Nơi đây
chúng ta có thể dựa theo
chương trình ấy mà phân tích thành
bộ loại, để dễ dàng cho sự
thực hiện :
1.- CẦN BIẾT
VẬN ĐỘNG" Lo cho thể thao và
thể dục cũng
ích lợi như lo cho nhà cửa và trò chơi "
Victor Pauchet
Có
vận động cuộc sống mới hay !
Bắp thịt có nở nang, chất độc có bài tiết, tế bào mới được
tiến triển,
thân thể mới được khoẻ mạnh. Mà sự khỏe mạnh đều do
chúng ta biết
vận động điều hòa.
Hằng ngày phải biết
phân chia thì giờ để tập
thể dục, thể thao hay làm việc.
Chúng ta nhận thấy sự
vận động rất cần cho cơ thể cũng ngang với sự
ăn uống và ngủ nghỉ. Có
vận động máu chạy mới đều, gân, xương, mới mạnh,
tinh thần mới khỏi mỏi mệt. Những nhà
chiếm giải vô địch về
thể dục, thể thao của
thế giới, không phải là ít
vận động mà có, những người thợ, những bác nông phu được một
thân thể vạm vỡ cũng đều do sự
vận động cả.
Đạo Phật với sự
vận độngĐạo Phật với người
tu hành cũng không quên sự
vận động ấy được. Theo
phương pháp "
Thường hành Đạo " ( Pratyutpannasamàdhi ) và
phương pháp "
Kinh Hành " thì một ngày một đêm, người
tu hành thường thường hành đạo vào sáu thời : ban sáng, buổi trưa, ban chiều, chập tối, nửa, đêm và gần sáng. trong khi
hành đạo tất nhiên chân tay và mình mẩy,
hơi thở đều được
cử động, nhưng
cử động có khuôn khổ và
thì giờ quyết định. Thêm vào đấy mỗi ngày lại
thường thường đi
khất thực, đi hoằng đạo hay là đi nhàn tản
nhiễu Phật, nghiã là luôn luôn được
vận động,
vận động có phương thức và đúng thời.
Nhờ sự
vận động ấy, làm cho
tâm trí người
tu hành, được
bình tĩnh thân thể không
xao động,
kích thích đem lại sự
quân bình có
lợi ích cho mình và có
đủ sức làm những việc
lợi ích cho người.
" Sức khoẻ là
hạnh phúc "
2.- BIẾT CÁCH
HÔ HẤP" Người nào giữ
hơi thở điều hòa,
ý thức minh mẫn, lòng thương rộng lớn... người ấy đã
thanh tịnh vàtự tại ".
Paul Adam.
Sự
cần thiết của
hô hấpHô hấp là sự
cần thiết cho sự sống của
chúng ta.
Hô hấp được điều hòa và
hợp pháp, thì dòng máu trong
thân thể chúng ta được
trong sạch và
thân thể chúng ta sẽ nhờ sự
cung cấp của máu ấy mà được khỏe mạnh. Nếu
chúng ta không thở hết những thán khí ra, hít những dưỡng khí vào tất nhiên
thân thể chúng ta sẽ
dần dần suy yếu. cho nên
Bác sĩ Victor Pauchet cũng
công nhận : " Nếu dưỡng khí nhập vào được các cơ thể, thì làm
giảm bớt được nhiều bệnh ".
Phương pháp hô hấp theo
Đạo PhậtTrong
đạo Phật đối với sự
hô hấp rất
cần thiết và cũng có
phương pháp. mà
phương pháp ấy, thường gọi là
phương pháp đếm
hơi thở,
sổ tức quán, nghiã là mỗi một
hơi thở ra từ từ, phải niệm
ít nhất 10 câu
danh hiệu Phật và khi hít dưỡng khí vào cũng đều đều đếm đủ 10 niệm như thế. Tức là khi
thở ra chừng nào, khi
hít vào cũng chừng ấy, không sai khác, cứ đều đều và
liên tiếp mãi,
dần dần trở thành thói quen. Đã thành
thói quen thì không cứ là đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, nghỉ lúc nào
cũng thế, khiến
thân tâm người
tu hành được
bình tĩnh, điều hòa, không
xao động và được khỏe mạnh.
Muốn phải làm, làm sẽ được !
Chúng ta muốn
thành công trên đường đời,
chúng ta muốn
bình tĩnh,
cương quyết trước mọi công việc khó khăn và
phức tạp của đời,
chúng ta không
thể không cần sức khoẻ và không
thể không biết cách
hô hấp. Vì
hô hấp là một phần quan trọng trong sự muốn cho
thân thể khỏe mạnh của
chúng ta.
Chúng ta cần tập
phương pháp đếm
hơi thở này bằng cách đếm con số thay cho niệm
danh hiệu Phật, nếu
chúng ta không biết niệm.
Một vị
Đại đức phương Tây viết : " Nhờ phép này
ý thức và
sinh lực trở nên
trong sạch điều hòa, gây thành một
hoàn cảnh thuận tiện, để suy nghiệm kỹ trong bước đường
tu hành,
thực hành " .
Nơi đây,
chúng ta có thể nói rằng : " Thêm một lít dưỡng khí tức là bớt được một công Thầy thuốc ".
3.- CẦN BIẾT CÁCH
ĂN UỐNG"
Sức mạnh sinh hoạt của cơ thể là do sự
hấp thụ những
sinh lực tinh túy trong các chất
ăn uống mà ra ".
Paul Carton
Ăn để làm gì ?
" Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn ". Đó là câu người ta thường nói để nhắc nhở những ai ăn
quá độ. Ăn để sống, nghĩa là không ăn thì chết.
Chúng ta nên biết rằng
thân thể chúng ta tuy
bề ngoài thấy đầu, mình, tay, chân, mặt, mặt, mũi v.v... mỗi mỗi đều hình trạng khác nhau, nhưng các nhà khoa học phân chất ra biết là có những chất đạm, chất mỡ, chất bột, chất kim khí và nước
hợp lại thành thân con người. Nhưng các tế bào trong thân
chúng ta đây không phút nào giây nào là không
biến đổi, lớp sinh ra, lớp bị hủy hoại. Vậy
chúng ta muốn có tế bào mới luôn luôn để
bồi bổ những tế bào đã bị hủy hoại đó, tất nhiên
chúng ta phải cần
thức ăn uống cho
trong sạch, hợp vệ sinh nhưng phải có
điều độ.
"
Ăn uống vật chi nên coi như uống thuốc "
Theo quan niệm Phật Giáo thì ăn phải có chừng, ăn
vừa đủ để sống còn, ăn trongsạch, ăn cho người và vật khỏi
oán hận, vừa
lợi ích cho thần xác mình và khỏi hại cho
chúng sinh khác.
Nói đúng là
ăn chay.
Ăn chay tức là ăn những món gì thuộc về loại
thực vật, như gạo nếp, đậu, khoai, vừng, rau, dưav. v...Vì ăn những thứ này có nhiều chất sinh tố do trực tiếp ánh sáng của
thái dương. Nghĩa là
ăn chay cũng đủ các chất đạm, chất mỡ, chất bột, chất kim khí và nước, mà lại còn có
tâm từ bi và hợp vệ sinh là khác.
Đức Phật dạy : " Ăn các món gạo, nếp, bắp, đậu, rau, quả...
thân thể khoẻ mạnh, ít đau ốm, còn dùng những món huyết nhục hay sinh
bệnh hoạn ". Thật thế, 90% các bệnh đều do sự
ăn uống các món huyết nhục mà sinh ra, nó làm cho người ta bị no hơi , chướng bụng, chậm
tiêu hóa..., vì nó có chứa nhiều chất độc, nhất là nó ít chất bổ, do sự
gián tiếp hấp thụ ánh sáng của
mặt trời.
Uống sao cho hợp ?
Theo sự
quan sát của
Đức Phật, thì trong nước có rất nhiều
vi trùng. Mỗi bát nước có thể có tới 84.000 con. Và nó có thể
phá hoại cơ thể, một khi nó đã truyền vào cơ thể
chúng ta. Cho nên việc uống
chúng ta cũng phải
thận trọng lắm.
Chúng ta nên uống những thứ nước gì hợp với
chúng ta, giúp thêm cho sự
tiêu hóa được dễ dàng. Nhưng
chúng ta nên nhớ rằng trước khi uống
chúng ta cần phải gạn lọc kỹ lưỡng
theo như lời Phật đã dạy các vị
tu sĩ, nhất là
chúng ta không nên dùng các thứ rượu, vì rượu có chất mạnh hay
kích thích cơ thể, làm cho cơ thể tiêu hao,
tâm thần tán loạn, hay sinh ra các chứng bệnh và hay làm điều
phi pháp.
Chúng ta không nghe một
Bác sĩ Tây Phương thường nói : " Giữa lúc
chúng ta mơ tưởng là
cường tráng thì
tinh lực chúng ta đã thấy tiêu hao từ đấy rồi ". Như thế,
chúng ta thấy rằng sự
ăn uống rất quan hệ đến
thân thể và
tâm trí chúng ta.
Chúng ta muốn được
thân thể và
tâm trí mạnh khỏe, bình bĩnh,
chúng ta không nên dùng những món gì có hại cho
chúng ta và lây đến sự
đau khổ của muôn loài.
Chúng ta chỉ cần
ăn uống để
bảo vệ cho sự sống, để làm tròn nghiã vụ cho chính mình và cho
xã hội.
Chúng ta hãy nhận lấy lời sau đây cuả
Bác sĩ người Pháp :
"
Con người phải
y cứ vào
bản năng chân chính, phải dùng
trí tuệ sáng suốt mà
suy xét, để
cung dưỡng cho
thân thể những đồ
ăn uống cần dùng ".
4.- CẦN BIẾT NGỦ NGHỈ ĐIỀU HÒA
" Ngủ nghỉ là là một liều thuốc
an định, bổ
dưỡng thân thể và
tâm thần sau khi làm việc mỏi mệt ".
Biết điều hòa là
hạnh phúcChúng ta sống ở đời để
hoạt động, đã
hoạt động chúng ta không
thể không có mặt ở bao nhiêu công việc
vất vả suốt ngày hoặc về
tinh thần cũng như về lao lực nên
chúng ta cần phải có sự ngủ nghỉ. Nhưng
chúng ta cần
biết điều khiển cho sự ngủ nghỉ ấy có
điều độ. Nghĩa là
chúng ta không nên bắt buộc nó phải
chịu đựng một cách
quá đáng, nếu
quá đáng,
thân thể và
tâm thần chúng ta bị mỏi mệt,
suy giảm.
Suy giảm và mỏi mệt là một sự nguy hại cho công việc, cho
sự nghiệp của
chúng ta trên đường đời. Song, cũng đừng
phóng túng quá.
Phóng túng quá, sự
tai hại cũng
tương tự như sự bắt buộc.
" Chớ vì
nhân duyên ngủ nghỉ khiến cho lỡ cả
một đời không được ích chi ! " Bóng sáng có chờ ai, một ngày được mấy nỗi, một kiếp được bao lâu. Nếu
chúng ta chỉ đắm chìm trong ngủ nghỉ, không có
điều độ, thì còn đâu là
thân thể khỏe mạnh.
Thân thể,
sự nghiệp,
giá trị của
chúng ta có được là do ở sự siêng năng,
vận động,
điều độ và
hiểu biết nơi
chúng ta chứ không thể có được ở một
thân hình phì độn, xanh xao,
yếu ớt và
ngu muội.
Vậy chúng tacần
lưu ý : ngủ nghỉ là lẽ đương nhiên cần có ở nơi
chúng ta nhưng nó đòi hỏi
chúng ta phải có
điều độ.
" Biết giữ
điều độ,
thích nghi, không bao giờ nhu nhược, ủy mị " Kim Thi.
5.- CẦN TẮM GIẶT SẠCH SẼ.
"
Thân thể nhơ nhớp
tinh thần khó kiện toàn được ".
Paul Carton
Sạch sẽ thêm khỏe mạnh
Ngủ nghỉ,
ăn uống,
hô hấp và
vận động được liệt vào hạng
phụ tá cho
thân thể, thì
vấn đề tắm giặt sạch sẽ cũng không đến nỗi là không có
ích lợi cho
thân thể.
Hư không có ánh sáng và bóng tối, đường đời có ngã thiện và ngã ác, tất nhiên
thân thể chúng ta cũng có
hai mặt sạch và bẩn. Bẩn là do các
vi trần bên ngoài bám vào, do những chất độc bên trong tiết ra được sự
che đậy bởi quần áo, khiến cho
thân thể chúng ta phải
bứt rứt, khó chịu nặng nề, đôi khi lại do đó mà phát sinh nhiều tật bệnh.
Muốn
trút sạch những nỗi khó chịu ấy không gì bằng sau khi
vận động chúng ta cần tắm giặt sạch sẽ,
chúng ta sẽ có những
cảm giác như Kinh
Ôn Thất nói :
1/
Thân thể được nhẹ nhàng khoan khoái.
2/ Trừ được những bệnh phong khí.
3/ Trừ được những bệnh thương hàn.
4/ Trừ được những
cấu uế nơi mình.
5/ Trừ được khí nóng, không bị oi ngạt.
6/ Trừ được những bệnh tê thấp.
7/
Thân thể được sạch sẽ, mắt sáng và không bị người khinh bỉ.
Vậy hoặc tắm không khí, tắm nắng, tắm nước nóng, nước lạnh...
tùy ý chúng ta, nhưng vệ sinh bắt buộc
chúng ta phải luôn luôn tắm rửa
thân thể và giặt giũ quần áo cho sạch sẽ, để giúp thêm cho
thân thể chúng ta được khỏe mạnh,
tâm trí chúng ta thêm
sáng suốt và khỏi đem lại sự khó chịu cho những người sống bên cạnh
chúng ta.
6.- CẦN ĐƯỢC NƠI Ở
" Phải sửa sang nhà cửa cho sạch sẽ cao ráo ".
Bột Kinh
Sức mạnh sinh hoạt của cơ thể được
hấp thụ ở nơi
ăn uống, thì cũng phải được ở nơi
ngoại cảnh đem vào.
Ở sao cho hợp ?
Chúng ta không thể thiếu không khí mà sống được, không khí là môn thuốc bổ
thiên nhiên. Nhưng không khí
trong sạch phải là ở nơi khoáng đãng với những căn nhà cao rộng, sạch sẽ hợp vệ sinh.
Thật thế, nhà cửa cần làm tại những nơi cao ráo,
rộng rãi thoáng khí, tránh xa những ao đầm
tù hãm và luôn luôn phải được quét tước sạch sẽ. Vì có thế
chúng ta mới hít được những không khí
trong sạch, mới có những
điều kiện thuận tiện cho
chúng ta làm hợp vệ sinh, mới khỏi được những tật bệnh do
vi trùng gây nên và mới được
thân thể khỏe mạnh.
Nếu
hoàn cảnh xã hội không
cho phép chúng ta được như những người
giàu sang, thì
ít nhất chúng ta cũng phải
cố gắng tạo nên một căn nhà nhỏ bé có cửa rộng cao ráo, sạch sẽ và đúng phép vệ sinh thì quyết nhiên
hoàn cảnh ấy sẽ đem lại cho
chúng ta một kết quả
tương đối trong sự
mạnh khỏe và
sáng suốt. Nghĩa là
mặc dầu hoàn cảnh nào
chúng ta cũng vẫn phải có nhà để ở. Đã có nhà
chúng ta cần biết sửa sang nó cho
thích hợp với
điều kiện sức khỏe của
chúng ta, để
chúng ta nắm được sự
may mắn trong đời chúng ta.
Được thế, tất nhiên
chúng ta sẽ không phải cảm thụ lấy những lời khắc trách của Thánh Gandhi đã nói : " Họ
thông thuộc ngọn núi Hy Mã ( Himalaya ) cao bao nhiêu thước, con
sông Hằng ( Gange ) dài bao nhiêu cây số, mà những điều
cần thiết cho sự sống là ăn làm sao, thở làm sao đúng phép vệ sinh thì họ chưa từng
để ý đến bao giờ ".
7.- NÊN
SUY NGHĨ VÀ LÀM VIỆC
ĐIỀU ĐỘ" ... Như người khôn biết đo lường sức trâu nhiều hay ít mà cho làm đúng mức, chứ không bắt làm
quá độ,
kiệt sức ".
Kinh
Di GiáoHễ
quá sức là có hại,
mặc dầu về
tinh thần hay
thân thể.
Ở đời ai không muốn sống lâu và
mạnh khỏe. Nhưng sự muốn ấy phải hiểu đúng, phải làm đúng theo
tinh thần trung đạo mới có
thể đạt tới kết quả được.
Suy nghĩ và làm việc có
điều độ, cũng là một phần lớn giúp cho sự mong muốn ấy.
"
Suy nghĩ nhiều, khí huyết suy "
Trước những
sinh hoạt để
duy trì sự sống cho chính mình và làm trọn nghĩa vụ đối với
gia đình,
quốc gia,
xã hội,
chúng ta phải ném vào đấy không biết bao nhiêu hoạt lực về
tinh thần. Hoạt lực ấy sẽ làm
suy giảm bao nhiêu
sinh lực của cơ thể, nếu
chúng ta không biết
giữ gìn điều độ.
Chúng ta thường nghe,
xưa kia có một vị tướng trẻ tuổi
suy nghĩ về quân cơ một đêm, sáng mai thấy mái tóc trên đầu bạc trắng. Nhà thi sĩ Lý
Thái Bạch Trung Quốc cũng nói : "
Chiêu như thanh ty mộ như tuyết ". ( Mái tóc, sáng còn như tơ xanh, tối thành ra tuyết bạch ) đủ
chứng tỏ sự
suy nghĩ quá độ có hại lớn cho
thân thể con người.
Làm
quá sức thân sẽ mệt
Suy nghĩ đã thế, thì
việc làm cũng thế.
Chúng ta hãy
im lặng nghe lời Phật dạy các vị
tu sĩ : "
Cầu đạo thái quá, tất nhiên thân phải mệt, thân mệt thì ý phát
buồn bực, ý
buồn bực thì chán bỏ cả việc
tu hành, chán bỏ cả việc
tu hành, thì tội càng thêm nặng. Cứ
trong sạch, yên vui là không
lỗi đạo ".
Với
giá trị trên đây, đem
áp dụng vào công
việc làm,
chúng ta cũng có thể nói được rằng : "
Việc làm mà
quá sức thân sẽ mệt, thân mệt thì chán, chán tất nhiên công việc bỏ và
thân thể cũng do đó mà
suy yếu thêm dần. Giữ
điều độ là
tốt hơn cả ".
Vừa phải là hơn !
Vậy trong phép vệ sinh về
ăn uống cũng như trong phép vệ sinh về
tinh thần, đều không nên để cho
dục vọng lấn át mình. Nghĩa là tất cả đều phải giữ
điều độ không nên tham quá.
Tham vọng quá, hay tham ăn quá đều có hại. Vì
quá sức tiêu hóa của
trí tuệ hay của
thân thể việc làm không được chu tất, kết quả chỉ đem đến sự
kiệt lực và hư tổn
thân thể cùng
tinh thần mà thôi.
Chúng ta muốn
mạnh khỏe, sống lâu hay
thành công trên đường đời,
cần phải lượng sức mình.
Nói
tóm lạiThân thể con người do sự tổ hợp của các tế bào. Các tế bào
chuyển biến thân thể sẽ nẩy nở hay
suy giảm tùy theo sự dinh dưỡng của mình và do đó, nó sẽ
phản chiếu thành
đời sống vui tươi hay
đen tối.
Con người có thể
cải thiện được tất cả, một khi
con người biết sống
một đời sống
hợp lý,
biết điều hòa
thân thể,
tâm trí và
hoàn cảnh.
Con người biết cách
rèn luyện thân tâm thì sự đi, đứng, nằm, ngồi, ăn nói không gì chẳng phải là
hạnh phúc, là đạo sống
chính đáng.
" Muốn
thành công trên đường đời,
điều kiện trước nhất là biết làm một con vật tốt đã".