- Về Thăm Lại Đức Vua Seniya Bimbisāra
- Veḷuvana (Trúc Lâm Tịnh Xá)
- Hai Vị Đại Đệ Tử
- Thâu Nhiếp Mahā Kassapa
- MÙA AN CƯ THỨ HAI (Năm 586 trước TL)
- Bài Đồng Dao Biếm Nhẽ
- Về Thăm Quê Hương
- Hóa Độ Quyến Thuộc
- Các Ông Hoàng Quý Tộc Ra Đi
- MÙA AN CƯ THỨ BA (Năm 585 trước TL)
- Ôi! Hạnh Phúc Quá!
- Thần Y Jīvaka Komārabhacca
- Đức Tin Phát Sáng
- Lấy Vàng Đổi Đất
- Ngũ Minh(1) Cũng Chưa Đủ
- Viếng Thăm Kỳ Viên Đại Tịnh Xá
- Tại Rừng Mahāvana
- Dạy Dỗ Bậc Đại Trí Thức
- MÙA AN CƯ THỨ TƯ (Năm 584 trước TL)
- Tứ Đại Thiên Vương
- Chuyện Tình Của Chàng Nhạc Sĩ Càn-Thát-Bà
- Vesāli Thiên Tai, Dịch Hoạ
- Chậu Nước Bẩn, Thau Nước Sạch Và Cái Vòi Voi
- Máu Quý Hơn Nước
- Thăm Phụ Vương Lần Cuối
- Câu Chuyện Về Bộ Tam Y Quý Giá Và Đức Phật Metteyya (Di Lặc) Vị Lai
- Lúc Nào Thì Đức Phật Metteyya Xuất Hiện
- Những Bàn Tay Kỳ Diệu Và Lời Cuối Bên Những Người Thân
- Lễ Hỏa Táng Đức Vua
- Thành Lập Giáo Hội Bhikkhunī
- MÙA AN CƯ THỨ NĂM (Năm 583 trước TL)
- Ổn Định Ni Chúng
- Hóa Độ Kỹ Nữ Ambapālī
- Cảm Hóa Thủ Lãnh Tướng Quân Sīha
- MÙA AN CƯ THỨ SÁU (Năm 582 trước TL)
- Bát Gỗ Đàn Hương
- Tiếp Chuyện Đức Vua Seniya Bimbisāra
- Bà Quý Phi Xinh Đẹp
- Duyên Xưa, Lối Cũ
- Thần Thông Cảm Hóa Ngoại Đạo
- MÙA AN CƯ THỨ BẢY (Năm 581 trước TL)
- Đền Ơn Huyết Sữa
- Với Đức Vua Pāsenadi
- Cuộc Luận Chiến Về Chiêm Tinh
- Với Chàng Thanh Niên Nô Lệ
- Thêm Một Vị Đại Đệ Tử
- Về Sợi Dây Luyến Ái
MỘT CUỘC ĐỜI
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT
TẬP 2
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nhà xuất bản Văn Học 2014
Lúc Nào Thì Đức Phật Metteyya Xuất Hiện
Trời đã tối mà hai hàng cư sĩ áo trắng không muốn về; chư thánh tăng thì tự tại, thản nhiên, nhưng chư phàm tăng - nhất là tân tỳ-khưu Ajita lại muốn nghe về mình nên nóng lòng cứ nhìn đức Phật, chờ đợi...
Hai vị đại đệ tử có bổn phận xin đức Phật đi ra ngoài, một số tỳ-khưu trẻ và nam cư sĩ bước theo. Lát sau, đèn đuốc khắp nơi, trong ngoài đều quang rạng...
Đức Phật nghỉ ngơi, uống nước. Mọi người kinh hành, thư giãn...
- Hiện nay – ngài nói – giáo pháp của Như Lai đang từng hồi từng bước phát triển; và còn phát triển nữa, chừng bảy nước lớn quanh lưu vực sông Gaṅgā và chừng ba mươi tiểu quốc, bộ tộc rải rác đó đây. Sau khi Như Lai nhập diệt, giáo pháp sẽ được phát triển xa rộng hơn nữa; và tuổi thọ của giáo pháp chỉ tồn tại mười ngàn năm trên thế gian này. Bắt đầu từ thời điểm ấy, ác pháp phát triển, thiện tâm của con người ngày càng lu mờ; do vậy, cứ trăm năm thì tuổi thọ con người giảm một tuổi. Với cái đà suy giảm như vậy, lúc tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, thì năm sáu tuổi họ đã lấy vợ lấy chồng – lúc này thì con người không còn biết thiện pháp là gì, nhường cho ác pháp lên ngôi chúa tể: Người ta sống với nhau chỉ biết ác độc, bạo tàn, hung dữ, thù hận...; tìm cách chém giết nhau, đọa đày nhau. Ở đâu cũng bạo loạn, điên cuồng, lo sợ. Thành phố đổ nát, điêu tàn; làng mạc, ruộng đồng bị thiêu cháy. Toàn bộ trái đất chỉ còn một đống gạch vụn, âm ỉ lửa khói. Nhân loại trở lại thời kỳ đồ đá... Lúc sắp diệt vong thì có một số người do sợ hãi quá, tìm trốn trong rừng sâu, trong các hang động, sống đời ăn lông ở lỗ... Những kẻ sống sót tìm đến nhau, bảo với nhau rằng, ai cũng sợ hãi - vậy đừng chém giết nhau nữa! Vậy là một chút thiện pháp như mầm cải phát sanh, nó lớn dần dần. Vậy là cứ một trăm năm thì tuổi thọ con người được thêm một tuổi. Đến khi tuổi thọ của con người lên chừng năm sáu mươi tuổi là họ đã có lại làng mạc, thị thành, đời sống bắt đầu phát triển, thịnh vượng theo với thiện pháp và thiện tâm... Rồi từ đấy, thiện pháp cùng với sự phồn vinh tăng trưởng mãi, tăng trưởng mãi cho đến khi tuổi thọ con người lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi. Đến đây thì thiện pháp và thiện tâm đến hồi cực thịnh; đời sống vật chất, tiện nghi sinh hoạt đạt được sự toàn mãn như thế giới chư thiên. Vì sung sướng quá, muốn gì có nấy, biến mục đích đời người là để mà thỏa mãn dục lạc; thế rồi, do đời sống hưởng thụ vị kỷ, một vài tâm niệm giải đãi, xấu ác bắt đầu sinh mầm – vậy là cứ hễ một trăm năm là con người lại giảm mất một tuổi. Đến khi tuổi thọ giảm xuống chừng tám vạn tuổi – lúc ấy đức Phật Metteya mới xuất hiện...
Thuở đương lai ấy, có một quốc độ cường thịnh đệ nhất, tên là Ketumatī-mahānagara – nằm tại xứ Bārāṇasī bây giờ. Kinh đô của nước này dài mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần - tất cả đều tiện nghi, sạch đẹp, xa hoa, tráng lệ cùng cực. Tại cung điện có một tòa lầu bằng ngọc - là y báo của một vị thiên tử Jeṭṭhanāla vừa từ cung trời Đao-lợi hạ sanh làm thái tử con vua nước Ketumatī – tên là Sankha. Sau khi nối ngôi, đức vua Sankha có một đời sống nghiêm minh, mẫu mực; chính ngài thường thọ trì bát quan trai và giáo dục muôn dân sống theo thiện pháp.
Đức vua Sankha có một vị quốc sư hiền thiện, tài đức vẹn toàn, sở học thâm uyên – tên là Subrāhm – thường cố vấn, tham mưu trong trướng và là thầy phụ đạo, dạy dỗ đức vua. Đại bồ-tát lúc ấy từ cung trời Đẩu-xuất, giáng sanh vào lòng phu nhân vị quốc sư - bà Candramukhī – tên là Vaṭṭhana. Lớn lên, vì là kiếp cuối cùng, nên Vaṭṭhana xuất gia, ngồi dưới cội cây Nāgarukkha (Long hoa - chính là cây mù u) bảy ngày rồi đắc quả Chánh Đẳng Giác. Từ đó, ngài thuyết pháp độ đời, giúp chúng sanh giác ngộ, giải thoát nhiều không xiết kể. Đức Chánh Đẳng Giác Metteyya (Di Lặc) đương lai ấy, chính là vị tân tỳ-khưu Ajita trước mặt chư vị, vừa thọ nhận bộ tam y quý giá rồi phát lời đại nguyện vô thượng làm cho cái bát của Như Lai phải rơi vào tay của ông ta vậy.
Thời pháp vén mở bức màn bí mật tương lai của đức Phật đã xác định nhân, duyên và quả rất rõ ràng nên chẳng còn ai thắc mắc gì nữa. Còn lệnh bà Gotamī nghe đến đây thì tâm tư đã hỷ mãn trọn vẹn.