II.
Kinh ..
III. Hệ phái
I. Về
II. Về
III. Về
IV. Về
Tác phẩm “Phật giáo
Nam tông Kinh Việt Nam” của
tác giả Thiện Hậu (Kusalapacchā) là luận văn
Thạc sĩ năm 2015, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Cung, là
công trình nghiên cứu mang tính
học thuật,
cung cấp nhiều thông tin bổ ích về
Phật giáo Nam tông người Kinh tại
Việt Nam, giai đoạn 1938-1963.
“Phật giáo Nam tông” hay còn gọi “Phật giáo Nam truyền” (南傳佛教) là cách
mô tả địa dư của trường phái
Phật giáo xuất phát từ
Ấn Độ, truyền sang các nước trong khu vực qua miền Nam Ấn, gồm các nước
Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cambodia. Đó là
Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda,上座部). Truyền từ miền Bắc
Ấn Độ sang các nước được gọi là
Phật giáo Bắc truyền (北傳佛教) hay
Phật giáo Bắc tông, gồm các nước
Việt Nam,
Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc,
Tây Tạng, Mông Cổ… Cách dùng từ “Nam tông” và “Bắc tông” thay
thế cho khái niệm “Tiểu thừa” (hīnayāna) và “Đại thừa” (mahāyāna) nhằm xóa đi các
mặc cảm tông phái về cao và thấp, lớn và nhỏ,
vị tha và
ích kỷ,
hiệu quả lớn và
hiệu quả thường... đã
trở thành xu hướng tích cực của thập niên 50 từ thế kỷ trước (TK XX).
Tại
Việt Nam,
Phật giáo Nam tông có 2 trường phái: (i):
Phật giáo Nam tông Khmer, còn gọi là
Phật giáo Khmer, chỉ cho
cộng đồng Phật giáo người Khmer tại miền Nam
Việt Nam, (ii)
Phật giáo Nam tông Kinh, gọi đủ là
Phật giáo Nam tông người Kinh, chỉ cho
cộng đồng người Kinh
tu học theo
Phật giáo Nam tông tại
Việt Nam. Lấy giai đoạn
lịch sử 19381963,
tác giả Thiện Hậu (Kusalapacchā) dùng
phương pháp nghiên cứu lịch sử, trong đó có
phương pháp nghiên cứu lịch đại,
phương pháp nghiên cứu nhân vật, vẽ nên
bức tranh về bối cảnh, nguồn gốc và sự phát triển của hệ phái này tại miền Nam
Việt Nam trong ngôi nhà chung của
Phật giáo Việt Nam.
Năm 1930 được xem là bối cảnh
thuận lợi cho sự phát triển các trường phái
Phật giáo và
học thuật Phật giáo tại miền Nam
Việt Nam. Hội Nam kỳ
nghiên cứu Phật học được
thành lập vào năm 1930 tại Sài Gòn và Hội Lưỡng Xuyên
Phật học được
thành lập vào năm 1935 tại Trà Vinh. Trong giai đoạn này,
cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu và
cư sĩ Lê Văn Giảng
giác ngộ Phật pháp vào năm 1930,
phát tâm cải sửa chùa Sùng Phước tại Cambodia. Vào năm 1940,
cư sĩ Lê Văn Giảng
xuất gia với phó
Tăng Vương Chunat tại chùa Unalom, Phnom Penh và được đặt
pháp danh là Hộ Tông. Vào năm 1938,
cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu
xây dựng chùa
Bửu Quang, Gò Dưa, Sài Gòn làm trụ sở của
Phật giáo Nam tông người Việt. Từ đây,
Phật giáo Nam tông Kinh ngày càng phát triển.
Đóng góp chính của
tác giả, ngoài việc
giới thiệu bối cảnh
lịch sử ra đời của
Phật giáo Nam tông Kinh, còn
giới thiệu về sự
thành lập Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam tại miền Trung, sự hình thành và phát triển tu nữ hệ phái
Nam tông Kinh và khái quát các
Phật sự quan trọng của hệ phái
Nam tông Kinh trong 2 thập niên, 1938-1957.
Giai đoạn thứ 2 của
Phật giáo Nam tông Kinh tại
Việt Nam được
ghi nhận từ năm 1957-1963, được
tác giả giới hạn trong 5 năm đầu, tức đến năm Pháp nạn 1963. Giai đoạn
Phật giáo Nam tông Kinh 1963-1975 và giai đoạn 1975-2016 chưa được đề cập trong
tác phẩm này; có lẽ,
tác giả cần đến một
công trình nghiên cứu khác trong tương lai.
Dù
giới hạn lịch sử Phật giáo Nam tông Kinh trong 5 năm 1957-1963,
tác giả đề cập đến sự ra đời của các hệ phái
Phật giáo Nam tông Kinh tại miền Nam
Việt Nam cũng như các
hoạt động Phật sự của hệ phái này, nổi trội nhất là
tham gia phong trào đấu tranh
bất bạo động 1963, kêu gọi
chấm dứt sự
đàn áp Phật giáo của chính quyền
Việt Nam Cộng hòa (19541963) do Tổng thống Ngô Đình Diệm
đứng đầu.
Trong bối cảnh đó,
Tăng đoàn Phật giáo Nam tông người Kinh cùng với các
Giáo hội và hệ phái
Phật giáo cùng
thành lập Ủy ban liên phái
bảo vệ Phật giáo, trong đó
tham gia nổi bật gồm có Hòa thượng Bửu Chơn,
Hòa thượng Giới Nghiêm,
Hòa thượng Hộ Giác,
Thượng tọa Bửu Phương,
Thượng tọa Nhật Thiện và
Hòa thượng Pháp Tri. Khi
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN)
thành lập vào ngày 041-1964, ngoài các vị
Tôn túc nêu trên, trong
lãnh đạo của
Phật giáo Nguyên thủy còn có
Hòa thượng Tối Thắng,
Hòa thượng Thiện Luật
tham gia vào
Hội đồng Lưỡng viện.
Khi
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) được
thành lập vào ngày 07-11-1981,
Hòa thượng Bửu Chơn,
Hòa thượng Giới Nghiêm và
Thượng tọa Thiện Tâm tích cực tham gia Ban
Liên lạc Phật giáo yêu nước
cho đến lúc thống nhất
Phật giáo cả nước. Ngoài việc phát triển
Phật giáo Nam tông Kinh ở miền Nam và miền Trung,
lãnh đạo hệ phái này
gồm có Hòa thượng Bửu Chơn,
Hòa thượng Giới Nghiêm,
Hòa thượng Siêu Việt,
Thượng tọa Minh Châu,
Đại đức Thiện Tâm vào 19-9-1979 đã đóng góp
tích cực vào việc
phục hồi Phật giáo Nam tông tại Cambodia sau thảm họa
diệt chủng của Khmer Đỏ.
Trong sách này,
tác giả còn khái quát các
đặc điểm của
Phật giáo Nam tông Kinh
bao gồm nguồn gốc
du nhập từ Cambodia,
không gian và
thời gian hành đạo và
truyền đạo, tính bản sắc của hệ phái.
Tác giả so sánh những điểm tương đồng và dị biệt giữa
thiền Minh sát tuệ của
Nam tông và Thiền
Công án và
Thoại đầu của
Bắc tông. Nói cách khác, dù là
tác phẩm nghiên cứu lịch sử,
tác giả không chỉ dừng lại ở góc độ
lịch sử mà còn
giới thiệu phương pháp hành thiền cũng như
so sánh Phật giáo Nam tông với cách tu của
Tịnh Độ tông và
Thiên Thai tông.
Các
nghiên cứu về
bản chất cũng như
vai trò của
Phật giáo Nam tông Kinh
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại cho thấy
tinh thần nhập thế của
cộng đồng Phật giáo nói chung và
cộng đồng Phật giáo Nam tông Kinh nói riêng không chỉ là hướng đi đúng mà còn là sự
lựa chọn thích hợp với
thời đại.
Trải qua 8 thập niên
tồn tại và phát triển, hệ phái
Phật giáo Nam tông Kinh đã có những đóng góp
tích cực trong việc
bảo vệ và phát triển đất nước,
đặc biệt trong Pháp nạn
Phật giáo 1963 với sự hình thành GHPGVNTN và sau năm 1981 với sự ra đời của GHPGVN. Không chỉ
đồng hành cùng dân tộc,
Phật giáo Nam tông Kinh đã có những đóng góp
tích cực trong việc đa dạng hóa và
phong phú hóa
văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Hiện nay, trong số 18.446 ngôi chùa tại
Việt Nam có 106 chùa
Nam tông Kinh, bên cạnh 454 ngôi chùa
Nam tông Khmer. Trên
tổng số 53.941 Tăng, Ni tại
Việt Nam,
hiện có 1.754 Tăng sĩ thuộc
Nam tông Kinh (1.100 Tăng và 654 tu nữ), bên cạnh 8.574 vị
Nam tông Khmer.
Đọc
tác phẩm “Phật giáo
Nam tông Kinh” của Thiện Hậu (Kusalapacchā), người đọc thấy được
bức tranh toàn cảnh về sự
dung hòa của
Phật giáo Việt Nam với 2 trường phái lớn:
Phật giáo Bắc tông và
Phật giáo Nam tông. Không chỉ
dung hòa mà còn
đồng hành. Không chỉ
đồng hành mà còn đồng thuận. Vượt lên trên tất cả dị biệt,
Phật giáo Nam tông Kinh đã phát triển
vững vàng trong lòng đất mẹ
Việt Nam và trong ngôi nhà
Phật giáo Việt Nam.
Dù chỉ là luận văn
Thạc sĩ,
tác phẩm này được xem là
công trình nghiên cứu khá đầy đủ và
hệ thống về
vai trò lịch sử và những đóng góp
nhất định của
Phật giáo Nam tông Kinh tại
Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng.
Hoan hỷ với những đóng góp của
tác giả Thiện Hậu (Kusalapacchā), tôi
trân trọng giới thiệu tác phẩm này đến quý
độc giả và
trông đợi công trình nghiên cứu về
Phật giáo Nam tông Kinh
Việt Nam, giai đoạn 1963 – nay (2017).
Giác Ngộ, ngày 15-12-2017
TT. TS. Thích Nhật Từ
Tổng
biên tập Tủ sách
Đạo Phật Ngày Nay
Phó Viện trưởng Học viện
Phật giáo Việt Nam TP.HCM