- Lời Đầu Sách
- Lược Khảo Lịch Sử Kinh
- Phẩm 1: Phẩm Tự
- Phẩm 2 Phương Tiện
- Phẩm 3 Thí Dụ
- Phẩm 4 Tín Giải
- Phẩm 5 Dược Thảo Dụ
- Phẩm 6 Thọ Ký
- Phẩm 7 Hóa Thành Dụ
- Phẩm 8 Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký
- Phẩm 9 Phẩm Thọ Học Vô Học Nhơn Ký
- Phẩm 10 Pháp Sư
- Phẩm 11 Hiện Bảo Tháp
- Phẩm 12 Đề Bà Đạt Đa
- Phẩm 13 Trì
- Phẩm 14 An Lạc Hạnh
- Phẩm 15 Tùng Địa Dũng Xuất
- Phẩm 16 Như Lai Thọ Lượng
- Phẩm 17 Phân Biệt Công Đức
- Phẩm 18 Tùy Hỉ Công Đức
- Phẩm 19 Pháp Sư Công Đức
- Phẩm 20 Thường Bất Kinh Bồ Tát
- Phẩm 21 Như Lai Thần Lực
- Phẩm 22 Chúc Lụy
- Phẩm 23 Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
- Phẩm 24 Diệu Âm Bồ Tát
- Phẩm 25 Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn
- Phẩm 26 Đà La Ni
- Phẩm 27 Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự
- Phẩm 28 Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát
- Toát Yếu Toàn Bộ
KINH DIỆU PHÁP
LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI
Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không
Thọ Học Vô Học Nhân Ký nghĩa là thọ ký cho hàng đệ tử hữu học và vô học. Hàng hữu học là người tu chứng từ quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Tôn giả A-nan và La-hầu-la bấy giờ còn ở trong vòng hữu học. Hàng vô học là những người tu dứt sạch lậu hoặc, chứng A-la-hán.
CHÁNH VĂN:
1.- Bấy giờ ngài A-nan và ngài
La-hầu-la nghĩ như vầy: "Chúng ta tự suy nghĩ, nếu được thọ ký thời sung
sướng lắm." Liền từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân
Phật đồng bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Chúng con trong đây cũng đáng có phần,
chỉ có đức Như Lai là chỗ về nương của chúng con. Lại chúng con là người quen biết
của tất cả trời, người, a-tu-la trong đời. A-nan thường làm vị Thị giả hộ trì
tạng Pháp, La-hầu-la là con của Phật, nếu Phật thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác cho, thời lòng nguyện cầu của chúng con đã mãn, mà lòng trông của
chúng cũng được đủ."
Lúc đó, hàng đệ tử Thanh
văn, bậc hữu học cùng vô học, hai nghìn người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch
vai áo bên hữu đến trước Phật chấp tay, một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Thế
Tôn như chỗ nguyện cầu của A-nan và La-hầu-la rồi đứng qua một phía.
GIẢNG:
Tôn giả A-nan và La-hầu-la là
hai vị gần gũi với Phật nhất, lòng tha thiết muốn được thọ ký nên cùng đứng lên
một lượt trình bày sở nguyện của mình. Tôn giả A-nan đặc biệt là hộ trì tạng
Pháp, Tôn giả La-hầu-la là con của Phật, tất cả hội chúng ai cũng đều biết là
chưa được thọ ký, nay mong được Phật thọ ký để mọi người được mãn nguyện. Thấy
hai vị đứng dậy thưa thỉnh thì hàng đệ tử hữu học vô học đồng hưởng ứng cũng
mong được Phật thọ ký.
CHÁNH VĂN:
2.- Bấy giờ, đức Phật bảo A-nan:
- Ông ở đời sau sẽ được làm
Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn; ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức đức Phật, hộ trì
tạng Pháp vậy sau chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hóa hai
mươi nghìn muôn ức hằng hà sa các chúng Bồ-tát v.v... làm cho thành đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nước tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất
bằng chất lưu-ly. Kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn. Đức Phật đó thọ mạng vô lượng
nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp, nếu có người ở trong nghìn muôn ức vô lượng
a-tăng-kỳ kiếp, tính đếm số kể chẳng có thể biết được. Chánh pháp trụ đời gấp
bội thọ mạng, tượng pháp lại gấp bội chánh pháp.
A-nan! Đức Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô
lượng nghìn muôn ức hằng hà sa các đức Phật Như Lai ở muời phương đồng ngợi
khen công đức của Ngài.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
3.-Nay Ta nói trong Tăng
A-nan người trì pháp
Sẽ cúng dường các Phật
Vậy sau thành Chánh giác
Hiệu rằng: Sơn Hải Huệ
Tự Tại Thông Vương Phật
Cõi nước kia thanh tịnh
Tên Thường Lập Thắng Phan
Giáo hóa các Bồ-tát
Số đông như Hằng sa
Phật có oai đức lớn
Tiếng đồn khắp mười phương
Vì bởi thương chúng sanh
Nên sống lâu vô lượng
Chánh pháp bội thọ mạng
Tượng pháp lại bội chánh
Vô số hàng chúng sanh.
Đông như cát sông Hằng
Ở trong pháp Phật đó
Gieo nhân duyên Phật đạo.
GIẢNG:
Trước hết là Phật thọ ký cho
Tôn giả A-nan cúng dường sáu mươi hai ức đức Phật, hộ trì tạng Pháp sau sẽ
thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương, giáo hóa hai muơi ngàn muôn
ức hằng hà sa chúng Bồ-tát cũng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tên
nước là Thường Lập Thắng Phan, tức là thường dựng cây cờ thù thắng, kiếp tên
Diệu Âm Biến Mãn tức là kiếp đó có tiếng nhiệm mầu khắp cả. Thọ mạng vô lượng
ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Sở dĩ Ngài được thọ ký như thế là vì do công hạnh
tu tập của Ngài chứa nhóm mà được vậy.
CHÁNH VĂN:
4.- Bấy giờ, trong hội hàng
Bồ-tát mới phát tâm tám nghìn người đều nghĩ thế nầy: "Chúng ta còn chưa
nghe các vị Bồ-tát lớn được thọ ký như thế, có nhân duyên gì mà các Thanh văn
được thọ ký như thế?"
Lúc ấy, đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ-tát mà bảo rằng: "Các
thiện nam tử! Ta cùng bọn ông A-nan ở chỗ đức Phật Không Vương đồng thời phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A-nan thường ưa học rộng, còn ta thường
siêng năng tinh tấn, cho nên nay ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
mà A-nan hộ trì pháp của ta, ông cũng sẽ hộ trì pháp tạng của các đức Phật
tương lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ-tát. Bổn nguyện của ông như thế nên
được thọ ký dường ấy."
Ngài A-nan tận mặt ở trước Phật, tự
nghe Phật thọ ký cùng cõi nước trang nghiêm, chỗ mong cầu đã đủ lòng rất vui mừng
được điều chưa từng có. Tức thời nghĩ nhớ tạng Pháp của vô lượng nghìn muôn ức
các đức Phật thuở quá khứ, suốt thấu không ngại như hiện nay nghe và cũng biết bổn
nguyện.
Khi đó Ngài A-nan nói kệ rằng:
Thế Tôn rất ít có
Khiến con nhớ quá khứ
Vô lượng các Phật pháp
Như chỗ nghe ngày nay
Con nay không còn nghi
An trụ trong Phật đạo
Phương tiện làm Thị giả
Hộ trì các Phật pháp.
GIẢNG:
Tôn giả A-nan được thọ ký rồi
thì hàng Bồ-tát sơ phát tâm trong đại chúng khởi nghĩ: Tại sao mình tu hạnh
Bồ-tát chưa được thọ ký mà Phật thọ ký cho hàng Thanh văn, như vậy là lý do gì?
Nhân đó, Phật mới giải thích lý do: Hồi thời đức Phật Không Vương, Tôn giả
A-nan cùng với Phật Thích-ca đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Song Tôn giả A-nan thì ưa học rộng, Phật Thích-ca thì tinh tấn tu hành nên nay
Ngài đã thành Phật, Tôn giả A-nan thì còn hộ trì pháp Phật. Đó là nguyên nhân
mà Phật thọ ký cho Tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan phát tâm đồng thời với đức
Phật, nhưng vì Ngài nghiêng về học vấn nên thông thì có thông mà ngộ thì chưa,
nên phải hộ trì tạng Pháp Phật của sáu mươi hai ức đức Phật mới chứng thành
Phật đạo. Thế nên, người tinh tấn tu hành và người ham học rộng biết nhiều, kết
quả sai biệt như vậy. Tuy nhiên, không phải đặt nặng phần tu mà thiếu phần học,
nếu tu mà không học thì tu mù tu sai, kết quả cũng không tới đâu, tự mình không
lợi ích cũng không giáo hóa được người. Nếu lấy sự học hiểu làm trên, thì thời
gian học hiểu chiếm hết không có thì giờ tu và giáo hóa thì công hạnh tự giác
giác tha làm sao viên mãn thành Phật? Học tuy khó mà nhiều người ham, tu thấy
dễ mà ít người kham nổi, cần phải nỗ lực cả hai mặt.
CHÁNH VĂN:
5.-
Bấy giờ, Phật bảo ông La-hầu-la:
- Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu: Đạo Thất Bửu Hoa
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường
các đức Như Lai như số vi trần trong mười thế giới. Thường vì các đức Phật mà
làm trưởng tử cũng như hiện nay.
Đức Phật Đạo Thất Bửu Hoa đó, cõi nước
trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ tử, chánh pháp và tượng pháp cũng
đồng như đức Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ông cũng làm
trưởng tử cho Phật nầy, qua sau đây rồi sẽ được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn
tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Lúc ta làm Thái tử
La-hầu làm trưởng tử
Ta nay thành Phật đạo
Thọ pháp làm Pháp tử
Ở trong đời vị lai
Gặp vô lượng ức Phật
Làm trưởng tử cho kia
Một lòng cầu Phật đạo.
Hạnh kín của La-hầu
Chỉ ta biết được thôi
Hiện làm con cả ta
Để chỉ các chúng sanh
Vô lượng ức nghìn muôn
Công đức không thể đếm
An trụ trong Phật pháp
Để cầu đạo Vô thượng.
GIẢNG:
Kế đến Phật thọ ký cho Tôn giả
La-hầu-la cúng dường chư Phật nhiều như số vi trần trong mười thế giới và cũng thường
làm trưởng tử chư Phật, với tâm cầu Phật đạo tu mật hạnh sẽ thành Phật hiệu là
Đạo Thất Bửu Hoa, cõi nước, thọ mạng, giáo hóa cũng như đức Sơn Hải Tự Tại
Thông Vương Như Lai.
CHÁNH VĂN:
6.- Bấy
giờ, đức Thế Tôn thấy bậc hữu học cùng vô học hai nghìn người, chí ý hòa dịu
vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật. Phật bảo A-nan:
- Ông thấy
bậc hữu học vô học hai nghìn người đây chăng?
- Vâng con đã thấy.
- A-nan!
Các người này sẽ cúng dường các đức Như Lai như số vi trần trong năm mươi thế
giới, cung kính tôn trọng hộ trì pháp tạng. Rốt sau đồng thời ở cõi nước trong mười
phương đều được thành Phật, đều đồng một hiệu là Bửu Tướng Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn sống lâu một kiếp cõi nước trang
nghiêm, Thanh văn, Bồ-tát, chánh pháp, tượng pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại
nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Hai nghìn Thanh văn đây
Nay đứng ở trước ta
Thảy đều thọ ký cho
Đời sau sẽ thành Phật
Cúng dường các đức Phật
Như số trần nói trên
Hộ trì tạng pháp Phật
Sau sẽ thành Chánh giác
Đều ở nơi mười phương
Thảy đồng một danh hiệu
Đồng thời ngồi đạo tràng
Để chứng huệ Vô thượng
Đều hiệu là Bửu Tướng
Cõi nước cùng đệ tử
Chánh pháp và tượng pháp
Thảy đều không có khác.
Đều dùng các thần thông
Độ mười phương chúng sanh
Tiếng đồn vang khắp cùng
Lần nhập vào Niết-bàn.
Lúc đó, bậc hữu học cùng vô học hai nghìn người nghe đức Phật
thọ ký vui mừng hớn hở mà nói kệ rằng:
Thế Tôn đèn huệ sáng
Con nghe tiếng thọ ký
Lòng vui mừng đầy đủ
Như được rưới cam lồ.
GIẢNG:
Sau cùng, Phật thọ ký cho hàng
hữu học và vô học cả thảy hai ngàn người, về sau cúng dường chư Phật nhiều như
số vi trần trong năm mươi thế giới cũng hộ trì pháp tạng. Rốt sau thành Phật
đồng hiệu là Bửu Tướng, tuổi thọ, sự giáo hóa đồng giống nhau. Những vị này đều
nhân Phật chỉ dạy nên bấy giờ gặp lại và được Phật thọ ký. Khi được thọ ký các
ngài đồng phát tâm vui mừng thấy như được rưới cam lồ.
Tới đây tôi lặp lại lần nữa, hàng thượng thượng căn như ngài Xá-lợi-phất chỉ nghe qua một lần (phẩm Phương Tiện) là ngộ. Hàng thượng căn như ngài Ma-ha Ca-diếp, Tu-bồ-đề... Phật nói thêm một ví dụ nữa (phẩm Thí Dụ) các ngài mới ngộ. Còn hàng trung căn thì Phật phải giảng dạy thêm (Hóa Thành Dụ) rồi mới ngộ. Đến hàng hạ căn thì chưa ngộ nên Phật phải mấy phen nói đi nói lại để cho ngộ