Long Thọ BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ VÀ CON ĐƯỜNG TÁM PHƯƠNG DIỆN CAO QUÝ Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc. Bản dịch Anh: Master of Wisdom. Writings of the Buddhist Master Nagarjuna. Translations and Studies by Chr.Lindtner (p.317-318)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
Chân lý cao quý về khổ là gì? Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Sự cách biệt với cái gì yêu quý là khổ, sự tiếp xúc với cái gì không yêu quý là khổ, không có được bất kỳ cái gì cá nhân muốn là khổ. Nói vắn tắt, khổ là năm ngũ uẩn này chấp thủ thành sở hữu (upadanaskandhas duhkham; ngũ thủ uẩn khổ). Để lýhội thông hiểu trọn vẹn điều này cá nhân phải tăng trưởngCon đường tám phương diện cao quý.
Chân lý cao quý về nguyên nhân của khổ là gì? Tham luyến (Skt. trsna; desire; tham luyến; cái ước vọng không bao giờ nguôi vẫn nối gót dục tình khoái lạc) dẫn đến tái sinh, thế nên nhận lấy hoan hỷ, phiền nãođồng hành, và do vì tỏ ra quá dễ dãi với lạc thú nơi đây, nơi kia. Để buông bỏ nó, cá nhân phải tăng trưởngCon đường tám phương diện cao quý.
Chân lý cao quý về sự biến mất hoàn toàn của khổ là gì ? Nó là sự hoàn toànbuông bỏ, sự từ bỏ, sự đẩy lui, sự phá huỷ, sự lãnh đạm, sự chấm dứt, sự chặn đứng, sự biến mất hoàn toàn của tham luyến này đang dẫn đến tái sinh, nhận lấy hoan hỷ, phiền nãođồng hành, và do vì tỏ ra quá dễ dãi với lạc thú nơi đây, nơi kia. Để thật chứng điều này, cá nhân phải tăng trưởngCon đường tám phương diện cao quý.
Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt khổ là gì? Con đường tám phương diện cao quý: tri kiếnchân chính, giải quyếtchân chính, ngôn ngữchân chính, hành xử chân chính, sinh sống chân chính, cố gắngchân chính, tỉnh biết chân chính, tập trung tâm ý chân chính. Con đường này cũng phải được tăng trưởng.
Tám phương diện của con đường là chân chính trong tri kiến, sinh sống, cố gắng, tỉnh biết, tập trung tâm ý, ngôn ngữ, hành xử, và giải quyết. Các bạn phải tăng trưởng chúng để đạt tịch tĩnh. Sự sinh này (của tham luyến) là khổ; cái gọi là “thèm khát” (đam mê và tham luyến) (“thirst”) là nguyên nhânchính yếu của cái khổ này. Sự chấm dứt của nó thì tương đương với sự giải thoát. Con đường để đạt tới giải thoát là Con đường tám phương diện cao quý. Thế nên các bạn phải luôn luôn cố gắng thấy Bốn Chân Lí Cao Quý, bởi vì các bạn thấy kẻ thường dân sống trong cảnh giàu sangvẫn có thể vượt qua con sông của nhơ nhuốm bằng phương tiện hữu hiệu của trí tuệ này.
__________________
Chú thích:
1. Các bản dịch Việt thường ghi -- Bát chính đạo: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính hạnh, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định.
2. Các bạn phải tăng trưởng chúng để đạt tịch tĩnh: nghĩa là “sống trong căn nhà hữu danh, nhưng vẫn ở quê hương tịch lặng vô ngôn” (Tăng Triệu).
3. Skt. trsna : desire
Desire: attachment: tham luyến
Tham luyến tri nhận một hiện tượng bị nhơ nhuốm trên phương diện đối nội hoặc đối ngoại là lạc thú khi xem nó là một đơn vị hiện thể và do thế tìm kiếm nó. Nó có chức năng lưu xuất đau khổ.
Desire perceives an internal or external contaminated phenomenon to be pleasant from the point of view of its own entity and thereupon seeks it. It has the function of generating suffering (J. Hopkins. Meditation on Emptiness. p.255-256)
4. Skt. trsna , giải nghĩa theo Phan Văn Hùm . Triết họcPhật giáo (tái bản 1984)
Nguồn gốc của khổ là đâu? Ấy là “tập”, tức là cái ước vọng không bao giờ nguôi (trsna) vẫn nối gót dục tình khoái lạc. (p.29)
5. Phan Văn Hùm . Triết họcPhật Giáo (p.23-24)
Về sau đắc đạo rồi Sakya Muni thuật lại cho đệ tử rõ cách nào người giác ngộ:
‘’ Các đệ tử ơi !
Ta thuở bé giàu-sang như thế. Ta sống trong cảnh huy-hoàng như thế. Mà tư-tưởng ta lại nảy ra như thế này: người thường-tục, ngu-muội, mặc dầu biết phải có lúc già-nua, và không thoát được khỏi năng-lực của sự già-nua, lại ghét, lại gớm-nhờm, chán-ngán , khi trông thấy một kẻ khác già-nua. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.
Còn ta, ta cũng phải già, không thoát được già. Vậy, đã mà cũng phải già, không thoát được già, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác già hay không ? Không có lẽ ta như thế.
Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế riêng cho ta, thời, các đệ tử ơi !
Bao nhiêu những cái vui của tuổi thanh-niên, không lià tuổi thanh niên, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta.
Một người thường-tục, ngu-muội, mặc dầubiết mình phải có lúc chịu bệnh, lại gớm-nhờm, chán ngán, khi trông thấy một kẻ khác bị bệnh tật giày-vò. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.
Còn ta, ta cũng phải có lúc chịu bệnh và không thoát khỏinăng lực của tật-bệnh, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác bị tật-bệnh giày-vò hay không ? Không có lẽ ta như thế .
Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế riêng cho ta, thời, các đệ-tử ơi!
Bao nhiêu những cái vui của sự mạnh-khoẻ, không rời sự mạnh-khoẻ, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta .
Một người thường-tục, ngu-muội , mặc dầubiết mình phải có lúc chết và không thoát được năng-lực của sự chết , lại ghét, lại gớm-nhờm, chán-ngán, khi trông thấy một kẻ khác bị làm vật hy-sinh cho sự chết. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.
Còn ta, ta cũng phải có lúc chết, không thoát khỏinăng lực của sự chết. Vậy đã mà phải có lúc chết, không thoát được khỏi năng-lực của sự chết, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác bị làm vật hy-sinh cho sự chết hay không ? Không có lẽ ta như thế.
Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế, thời, các đệ-tử của ta ơi ! bao nhiêu những cái vui của đời sống, không lià đời sống, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta .”
[ Phan Văn Hùm- Triết họcPhật giáo trang 24-- dẫn từ kinh Anguttara nikaya -- dẫn bởi Oldenberg---dịch ra chữ pháp do Foucher ]
___________________
6. Chr. Lindtner viết :
Tôi trích dẫn ở đây Bản văn Long Thọ được biết đến nhiều nhất, đó là bản văn của các nhà Căn bảnnhất thiết hữu bộ (note 166). Bản Tạng ngữ và bản Anh ngữ do chính ngài viết lại với lời văn của ngài, có trong SL 113-115, như sau (note 167):
1. Bản Sanskrit
2. Bản dịch Anh ngữ của Chr. Lindtner
3. Bản dịch Tạng ngữ
*
I quote here the recension Nagarjuna is most likely to have known, that of the Mulasarvastivadins (note 166). The Tibetan and English for his own paraphrase, which occurs at SL 113-115, follows. (note 167)
____________________
Bản dịch Anh: Master of Wisdom. Writings of the Buddhist Master Nagarjuna. Translations and Studies by Chr.Lindtner (p.317-318)
*
Nagarjuna. The four Noble Truth. Translated by Chr. Lindtner
These are the four Noble Truths, O monks! What are the four? The Noble Truth of suffering, of the origin of suffering, of the cessation of suffering, and the Noble Truth of the method leading to the cessation of suffering. What is the Noble Truth of suffering? Birth is suffering, aging is suffering, disease is suffering, death is suffering. Separation from what is dear is suffering, contact with what is not dear is suffering, not to get whatever one wants is suffering. In short, suffering is these five skandhas of appropriation. In order fully to understand this one must develop the noble Eightfold Path.
What is the Noble Truth of the origin of suffering? Desire (trsna) leading to rebirth, accompanied by taking delight, passion, and indulging in pleasure here and there. In order to abandon it one must develop the noble Eightfold Path.
What is the Noble Truth of the extinction of suffering? It is the complete abandonment, relinquishing, ejection, destruction, indifference to, cessation, stopping, and extinction of this desire leading to rebirth, accompanied by taking delight and by passion, and by indulging in pleasure here and there. In order to realize this one must develop the noble Eightfold Path.
What is the Noble Truth of the method leading to the cessation of suffering ? The noble Eightfold Path: right view, right resolve, right speech, right conduct, right livelihood, right effort, right mindfulness, and right concentration. This must also be developed.
The eight members of the path are right view, livelihood, effort, mindfulness, concentration, speech, conduct, and resolve. You must develop them to attain tranquility. This birth is suffering; what is called “thirst” is the major cause of this [suffering]. It cessation is tantamount to liberation. The way to achieve it is the noble Eightfold Path. Therefore you must always strive to see the Four Noble Truth, for even laymen dwelling in the lap of prosperity may cross the river of impurity by means of this knowledge.
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Một hình chụp văn bản lan truyền qua mạng xã hội hôm 12 Tháng Tám được cho là thư thông báo rời bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (giáo hội quốc doanh) của Thượng Tọa Thích Minh Đạo, trụ trì tu viện Minh Đạo ở thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Từ chuyện xuất hiện của sư Minh Tuệ, nếu Phật giáo và một số cá nhân tu sỹ không có những sai lầm do chủ quan thiếu khiêm tốn trong quyền lực, phát ngôn ỷ thị và hành chánh thiếu cẩn trọng, vô tình đẩy sự kiện sư Minh Tuệ lên cao trào trong khi quần chúng dành sự ngưỡng mộ một tu sỹ khổ hạnh không thuộc Giáo hội Phật giáo, và lại thêm một hình ảnh như chiếc bóng thứ hai của sư Minh Tuệ là sư Minh Đạo tiếp nối lòng tôn kính của người dân có đủ mọi thành phần sau khi sư Minh Tuệ bị khiển trách rồi ẩn tu.
Còn
Chân Quang không thọ cụ túc chính thức một giới đàn nào, bằng cấp ba, bằng Tiến sỹ còn giả thì điệp đàn thọ giới chả là gì đối với người thiếu minh bạch. Hiện nay Chân Quang có hai bản lý lịch khác nhau và Điệp đàn thọ giới cũng không giống nhau đã bị cộng đồng mạng phanh phui.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.