Khởi nguyên của nhân minh

01/12/20164:18 SA(Xem: 1625)
Khởi nguyên của nhân minh
NHÂN MINH HỌC
HT. Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội 2006


KHỞI NGUYÊN CỦA NHÂN MINH

Về tinh thần Nhân minh thì đã có tại Ấn Độ từ rất sớm. Trước hết ta phải nói đến kinh Phật. Tuy đức Phật không đề cập đến luận lý nhưng trong cách thuyết giáo của Ngài rất có tính luận lý. Nếu Nhân minh có ba chi tác pháp là tôn, nhân, dụ; thì ta cũng tìm thấy ba chi đó trong cách thuyết pháp của đức Phật. Thường khi nói đến một pháp gì đức Phật đều có nói rõ nguyên nhânchứng minh bằng những ví dụ cụ thể qua các sự kiện cụ thể trước mắt, nên những lời của đức Phật dạy rất rõ ràng thực tế

Trong Kinh Bộ Tăng Chi (bản 1988, tập một, trang 223) đức Phật đã chỉ cách thảo luận như sau : “Với sự tranh luận, một người có thể biết được là có khả năng nói chuyện (kaccha) hay không có khả năng ? Nếu người nào khi được hỏi một câu, không trả lời một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát; không trả lời một cách phân tích một câu hỏi cần phải trả lời một cách phân tích; không trả lời một câu hỏi ngược lại một câu hỏi cần phải trả lời với một câu hỏi ngược lại; không có gạt qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua một bên; một người như vậy, không có khả năng để thảo luận. Nếu người nào trả lời một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời một cách dứt khoát; trả lời phân tích một câu hỏi cần phải trả lời một cách phân tích; trả lời một câu hỏi ngược lại một câu hỏi cần phải trả lời với một câu hỏi ngược lại; gạt qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua một bên; một người như vậy, có khả năng để thảo luận.

Nếu một người khi được hỏi một câu không xác nhận là đúng hay không đúng, không xác nhận là một giả thuyết, không xác nhậnquan điểm của một bậc trí, không xác nhận là sở hành thường làm; mà người ấy vẫn trả lời; người như vậy, không có khả năng thảo luận. Ngược lại là người có khả năng thảo luận.

Nếu một người khi được hỏi một câu, tránh câu hỏi ấy với một câu hỏi khác, hướng câu chuyện ra ngoài, bày tỏ sự phẫn nộ, sân hận, bất mãn, người như vậy, không có khả năng thảo luận. Ngược lại là người có khả năng thảo luận.

Nếu một người khi được hỏi một câu, lại mắng chưởi, đánh đập, nhạo báng, chụp lấy chỗ sơ hở; người như vậy, không có khả năng thảo luận. Ngược lại là người có khả năng thảo luận”.

Bốn cách trả lời trong Kinh Bộ Tăng Chi trên cũng được ghi lại trong kinh Trường A-hàm, Kinh Giải Thâm Mật, Luận Đại Trí Độ, Luận Du-già, Luận Tỳ-bà-sa, Luận Câu-xá.

Nói cách vắn tắt, bốn cách trả lời này là :

1.   Nhất hướng ký (hay quyết định đáp) tức trả lời một cách dứt khoát.

2.   Phân biệt ký (hay giải nghĩa đáp) tức trả lời một cách có phân tích rõ ràng.

3.   Phản vấn ký (hay phản chất đáp) tức trả lời bằng cách hỏi ngược lại người hỏi.

4.   Xả trí ký (hay trí đáp) tức trả lời bằng cách im lặng, gạt qua một bên những vấn đề trừu tượng vô bổ. Và như bài kệ trong Kinh Lăng Nghiêm dưới đây càng cho thấy rõ tính cách Nhân minh trong kinh Phật :

Chơn tánh hữu vi không,

Duyên sanh cố như huyễn.

Vô vikhởi diệt,

Bất thật như không hoa.

Phân tích bài kệ này, ta sẽ có được hai tỷ lượng với đầy đủ tam chi tác pháp.

1. Tôn :  Chơn tánh hữu vi không.

(Đúng theo thật tánh, các pháp
hữu vikhông thật có).

2. Nhân :        Duyên sanh cố. (Vì do duyên
sanh).

3. Dụ :   Như huyễn. (Ví như trò huyễn
thuật).

1.  Tôn : Chơn tánh, vô vi bất thật.

(Đúng theo thật tánh, các pháp vô vikhông thật)

2. Nhân:  khởi diệt cố. (Vì không
có tướng sanh và diệt).

3. Dụ :   Như không hoa. (Như hoa đốm giữa
hư không).

Còn nói đến khởi nguyên trực tiếp của luận lý học cổ Ấn Độ, trước hết phải kể đến phái Di-mạn-tác (Mimansa), phái Thắng Luận (Vaisesika), và nhất là phái Chánh Lý (Nyaya) thuộc trong sáu phái triết học của Ấn Độ. Phái Chánh Lý là phái chú trọng luận lý học, và đã chỉnh đốn môn luận lý thành hệ thống, nên có có thể làm đại biểu cho Cổ Nhân minh học.

Kế đó là Bồ-tát Mã Minh, Long Thọ, Di-Lặc, Vô Trước, Thế Thân đều có luận lý học, và cũng thuộc Cổ Nhân minh.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
01/06/2014(Xem: 39260)
03/09/2014(Xem: 26341)
24/11/2016(Xem: 15737)
29/05/2016(Xem: 7765)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.