HT. Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội 2006
CỔ NHÂN MINH VÀ TÂN NHÂN MINH
Nhân minh có một lịch sử lâu dài được nhiều người sử dụng và phát huy khác nhau, nên đại thể đã chia ra Cổ nhân minh và Tân nhân minh với những điểm bất đồng như dưới đây :
1. Bất đồng về ngũ chi tác pháp (luận thức năm phần), và tam chi tác pháp (luận thức ba phần).
Cổ nhân minh chủ trương ngũ chi tác pháp là Tôn, Nhân, Dụ, Hiệp, Kết.
– Tôn: Là tôn chỉ, chủ trương, lập trường, chủ đề của người lập. Tôn là tiêu đích tranh luận của hai bên lập luận và địch luận; là chủ trương của bên lập luận chưa được bên địch luận công nhận và tán đồng.
– Nhân : Bên lập luận muốn bên địch luận công nhận lập trường của mình thì bên lập luận phải nêu lý do (nhân) để giải thích, thuyết phục. Cho nên, nhân có nhiệm vụ rất trọng yếu là chứng minh và bênh vực cho tôn nghĩa, cho chủ trương của người lập. Nhân này giống tiểu tiền đề trong Tam đoạn luận của Tây phương.
– Dụ : Về lý do thì chỉ mới nêu lên lý lẻ mà chưa chứng minh nơi thực tế, nếu chỉ như vậy thì có thể làm cho bên địch luận còn do dự không tin chắc chủ trương với lý lẽ của bên lập luận đưa ra đã đúng hẳn hay chưa, nên bên lập tiến một bước nữa, đưa ví dụ cụ thể ở sự vật trước mắt mà đã được bên địch công nhận. Dụ này tương đương đại tiền đề ở Tam đoạn luận.
– Hiệp: Là hợp cả tôn, nhân, dụ lại với nhau.
– Kết: Sau khi đã hợp tôn, nhân, dụ lại với nhau thì sẽ có một kết luận về tôn. Như lập:
– Tôn: Kim cương có thể đốt cháy.
– Nhân: Vì là vật có chất thán tố.
– Dụ: Ví như củi, dầu v.v…
– Hiệp: Củi, dầu là vật có chất thán tố, củi dầu có thể đốt cháy; kim cương là vật có chất thán tố, kim cương cũng có thể đốt cháy.
– Kết: Vậy nên biết kim cương có thể đốt cháy.
Đến ngài Trần Na, ngài cho hai phần hiệp và kết nói trên là không cần thiết, nó chỉ là sự lặp lại ba phần: Tôn, nhân, dụ đã nêu, chứ không thêm được ý nghĩa gì hơn, nên ngài đã bỏ hai phần hiệp, kết, và sửa đổi nội dung phần nhân, và dụ để biến thành tam chi tác pháp, tức biến thành tôn, nhân, dụ. Như lập :
– Tôn : Kim cương có thể đốt cháy.
– Nhân : Vì là vật có chất thán tố.
– Đồng dụ : Những vật gì có chất thán tố thì đều có thể đốt cháy (đồng dụ thể), ví dụ như củi, dầu (đồng dụ y).
– Dị dụ : Những gì không thể đốt cháy thì không phải là vật có chất thán tố (dị dụ thể), ví dụ như băng, nước (dị dụ y).
2. Bất đồng ở sự phân định năng lập và sở lập
Năng lập và Sở lập là hai danh từ chuyên môn khó dịch. Ta nên hiểu : năng lập là động lực, nguyên liệu, lý lẽ để thành lập tôn chỉ (chủ trương, mệnh đề). Còn sở lập là tôn chỉ (chủ trương, mệnh đề) được thành lập, tức bị thành lập. Trong ba phần; tôn, nhân, dụ. Tôn là một mệnh đề gồm hai danh từ. Danh từ trước (tiền trần), vì chỉ cho vật thể, tự tánh nên được gọi là hữu pháp sở biệt. Danh từ sau (hậu trần), vì chỉ cho nghĩa lý, thuộc tính, phẩm chất sai biệt, nên được gọi là pháp, năng biệt. Như tôn “âm thanh là vô thường” thì “âm thanh” là tiền trần, hữu pháp, tự tánh (vật thể), sở biệt. Còn “vô thường” là hậu trần, pháp, sai biệt, năng biệt. Theo Nhân minh thì âm thanh hay vô thường là hai danh từ riêng biệt mà ai cũng biết thế nào là âm thanh, thế nào là vô thường, ở đó, không có gì phải tranh luận, chỉ khi nào âm thanh và vô thường được ghép chung lại với nhau bằng một hệ từ liên kết “là”, thành ra mệnh đề “âm thanh là vô thường”, bấy giờ mới trở thành điểm tranh luận. Vì có người cho âm thanh là vô thường nhưng cũng có người cho âm thanh là thường. Như phái Vệ-đà cho âm thanh trong kinh Vệ-đà, âm thanh cầu nguyện Phạm Thiên là thiêng liêng, là thường, nên mới tranh luận. Vậy phải kể chung cả tiền trần hữu pháp và hậu trần pháp thành một mệnh đề “âm thanh là vô thường” thì mới thành tôn sở lập, và là điểm tranh luận, chứ không phải chỉ riêng tiền trần hữu pháp hay hậu trần pháp mà cho là sở lập như Cổ nhân minh chủ trương. Và như vậy, khi tôn gồm cả tiền trần, hậu trần đã là sở lập, thì phần nhân và dụ trở thành năng lập, để chứng minh thành lập tôn sở lập. Ở đây, năng lập của Nhân minh giống với đại tiền đề, tiểu tiền đề của Tam đoạn luận, mà sở lập của Nhân minh thì giống với đoán án của Tam đoạn luận. Đây là một cải cách lớn của ngài Trần Na.
3. Bất đồng về sự phân biệt giữa tôn thể và tôn y.
Tôn thể là bản thể của tôn, tôn y là tài liệu, là y cứ để dựa vào đó tổ chức thành tôn thể. Như tôn “âm thanh là vô thường”, thì danh từ trước (tiền trần) “âm thanh” là tôn y, và danh từ sau (hậu trần) “vô thường” cũng là tôn y. Khi âm thanh và vô thường không đi liền nhau thì âm thanh là âm thanh, vô thường là vô thường, không có chi phải tranh cải. Nhưng khi âm thanh và vô thường ghép lại với nhau bằng một hệ từ liên kết “là”, hoặc “chẳng phải là”, v.v … thì nó trở thành một mệnh đề (một chủ trương) nghĩa là thành tôn thể, làm tiêu đích cho sự tranh luận giữa đôi bên. Bên này cho âm thanh là vô thường, bên kia cho âm thanh là thường. Nói cách khác, ở đây tôn y thì phải được cả hai bên lập luận và địch luận đồng công nhận, còn tôn thể thì phải được bên lập công nhận, mà bên địch không công nhận. Bên lập luận đã công nhận, lại muốn đưa ra lập luận để thuyết phục bên địch, dù lúc đầu bên địch không công nhận, nhưng sau khi nghe lý lẽ rõ ràng xác đáng của bên lập, ắt sẽ công nhận. Nếu một chủ trương (hay mệnh đề, tôn thể) mà đã được cả hai bên đồng công nhận trước rồi thì không cần lập lại làm gì, nếu lập thì dư, vô ích, và mắc lỗi “tương phù cực thành”. Đây là một phát hiện lớn của ngài Trần-Na. Nhưng Cổ nhân minh không rõ điều đó, không phân biệt tôn y và tôn thể, nên có người cho tiêu đích tranh luận là ở “tôn tiền trần”, có người cho tiêu đích tranh luận là ở “tôn hậu trần”, có người cho là ở cả “tôn tiền trần, hậu trần”, không rõ ràng nhất định.
4. Bất đồng về sự thay đổi chín cú nhân và ba tướng của nhân.
Nhân minh với tam chi tác pháp (luận thức gồm ba phần) là tôn, nhân, dụ. Trong đó, nhân giữ vai trò chủ yếu, đứng giữa làm môi giới, liên hệ với tôn và dụ. Cứ nhìn vào nhân đối với tôn, và đối với dụ có liên hệ hay không liên hệ toàn phần hay ít phần, mà biết rõ nhân ấy là đúng hay sai. Nếu nhân đúng thì mới có khả năng chứng minh thành lập được tôn, còn nếu nhân sai thì không đủ khả năng thành lập được tôn. Do đó, Cổ nhân minh đã xét đến sự liên hệ của nhân với tôn đồng phẩm và tôn dị phẩm qua chín trường hợp để biết nhân trong trường hợp nào là đúng, nhân trong trường hợp nào là sai. Chín trường hợp này gọi là chín cú nhân (chín cú nhân đã nói ở đoạn trước). Ngài Trần Na cho chín cú nhân này chưa đầy đủ chặt chẽ, vì chỉ mới đề cập nhân liên hệ hay không liên hệ toàn phần hay ít phần với tôn đồng phẩm và với tôn dị phẩm. Nghĩa là chỉ đề cập sự liên hệ với tôn hậu trần đồng phẩm dị phẩm, chứ chưa biết đến sự liên hệ của nhân với tôn tiền trần hữu pháp, cũng rất quan trọng, cho nên, ngài Trần Na biến đổi chín cú nhân thành “nhân ba tướng”, vừa gọn gàng, đầy đủ chặt chẽ hơn. (Xem mục nhân chơn năng lập ở đoạn sau).
5. Bất đồng về sự phân biệt giữa dụ thể và dụ y.
Ở Cổ nhân minh có luận thức năm phần là tôn, nhân, dụ, hiệp, kết. Ở phần dụ thì chỉ có đồng dụ chứ không có dị dụ, và cũng không phân biệt dụ thể và dụ y. Ở Tân nhân minh có luận thức ba phần, thì phần dụ có đầy đủ cả đồng dụ và dị dụ. Đồng dụ và dị dụ lại đều có cả dụ thể và dụ y. Dụ thể là thể tính, lý lẽ, ý nghĩa của dụ; dụ y là chỉ sự vật cụ thể làm chỗ y cứ của dụ thể, khi ta nêu nó ra làm ví dụ. Dụ thể và dụ y cũng gọi là lý dụ và sự dụ. Như lập :
– Tôn : Âm thanh là vô thường.
– Nhân : Vì do tạo tác mà có.
– Dụ : Những gì do tạo tác mà có đều vô thường (đồng dụ thể), ví như bình, bàn (đồng dụ y). Những gì thường đều không do tạo tác mà có ra (dị dụ thể), ví như vàng, hư không (dị dụ y).
Khi là đồng dụ y thì chính nó phải gồm đủ hai điều kiện là “nhân đồng phẩm” và “tôn đồng phẩm”, khi là dị dụ y thì chính nó phải có đủ hai điều kiện ngược lại là “tôn dị phẩm” và “nhân dị phẩm”. Đây cũng là một điểm phát hiện mới của ngài Trần Na.
TÂN NHÂN MINH
Như trên đã nói, ngài Trần Na đã đem hết tài năng cải tạo từ những pháp tác biện luận của Cổ nhân minh thành pháp tắc biện luận của Tân nhân minh.
Ngài Trần Na đã viết hơn 40 tác phẩm, trong đó có cuốn Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận (đã được dịch ra chữ Hán, 1 cuốn) là chủ yếu. Đệ tử ngài Trần Na là Thương-kiết-la-chủ (Trung Hoa dịch Thiên Chủ) thấy Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận của thầy mình quá thâm áo khó hiểu, mới tóm lược lại và thêm vào những sáng kiến của mình rồi viết thành Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận (đã được dịch ra Hoa văn, một cuốn năm 647 T.L). Từ khi Nhân minh của ngài Trần Na và Thiên Chủ ra đời, thì môn Nhân minh học được truyền bá rộng rãi trong Phật giáo và do chịu ảnh hưởng Nhân minh mà các bộ luận của Phật giáo ra đời vào giai đoạn này đều đã viết trên thể thức luận lý của Nhân minh, như thấy rõ trong Thành Duy Thức Luận của Hộ Pháp, Chưởng Trân Luận của Thanh Biện, Chánh Lý Nhất Trích Luận của Pháp Xứng. Vậy nếu không hiểu Nhân minh thì khó mà đọc nổi các bộ luận này và nhiều bộ khác.
Dưới đây, ta lần lượt tìm hiểu Nhân minh mà Thiên Chủ đã tóm tắt trong bộ Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận của ngài.
A. TÁM MÔN CỦA NHÂN MINH
Nhân minh là pháp tắc biện luận giữa bên lập và bên địch. Khi biện luận là muốn trao sự hiểu biết của mình đến cho người khác. Nhưng nếu không biết cách thức biện luận thì chẳng những đã không thể trao sự hiểu biết đúng đắn cho người, trái lại còn làm cho lòng người rối loạn, mù mờ. Nhưng làm thế nào để mình có sự hiểu biết đúng đắn hầu trao đến cho người ? Đây lại là một nhu cầu tiên quyết của người muốn biện luận. Nói cách khác, người muốn biện luận, trước hết phải hiểu rõ vấn đề mà mình định đem ra biện luận, tức là phải rõ trí tự ngộ, và hai là phải biết cách thức lập luận thì việc biện luận mới có hiệu quả là cho người chưa hiểu được hiểu, và người hiểu sai trở lại thành hiểu đúng, đấy là ngộ tha. Nhằm hai mục đích, hai phương diện đó, mở đầu Nhân minh nhập chánh lý luận đã phân biệt ra tám môn dưới đây :
– Về phương diện ngộ tha có 4 môn :
1. Chơn năng lập (lập luận đúng).
2. Tợ năng lập (lập luận sai).
3. Chơn năng phá (phá luận đúng).
4. Tợ năng phá (phá luận sai).
– Về phương diện tự ngộ có 4 môn :
1. Chơn hiện lượng (hiểu bằng trực giác một cách đúng).
2. Tợ hiện lượng (hiểu bằng trực giác một cách sai).
3. Chơn tỷ lượng (hiểu bằng suy luận một cách đúng).
4. Tợ tỷ lượng (hiểu bằng suy luận một cách sai).
- Chơn năng lập – (đúng)
Ngộ tha - Tợ năng lập – (sai)
- Chơn năng phá – (đúng)
- Tợ năng phá – (sai)
- Chơn hiện lượng – (đúng)
Tự ngộ - Tợ hiện lượng – (sai)
- Chơn tỷ lượng – (đúng)
- Tợ tỷ lượng – (sai)
Tám môn này thu tóm tắt hết yếu nghĩa của các luận Nhân minh và luận khác về phương diện luận lý, cũng như về phương diện tự ngộ và ngộ tha. Như văn luận Nhân minh ghi : “Năng lập dữ năng phá, cập tợ duy ngộ tha. Hiện lượng dữ tỷ lượng, cập tợ duy tự ngộ. Như thị tổng nhiếp chư luận yếu nghĩa”.
A1. CHƠN NĂNG LẬP
Năng lập là có khả năng thành lập. Khi ta muốn đưa ra một chủ trương thông qua ngôn luận mà phương thức lập luận của ta được đúng đắn thì có thể thành lập được chủ trương của ta trước đối phương, làm cho đối phương hiểu và công nhận. Như vậy gọi là chơn năng lập, năng lập đúng, đạt hiệu quả. Một luận thức chơn năng lập cần phải có đủ các điều kiện dưới đây :
a. Phải đủ ba phần : Tôn, nhân, dụ, theo đó tôn không mắc lỗi trong 9 lỗi; nhân không mắc lỗi trong 14 lỗi; dụ không mắc lỗi trong 10 lỗi; cọng 33 lỗi.
b. Nhân đủ ba tướng : Nên lưu ý : Chữ năng lập nói trên đây có nghĩa là đối với năng phá, chứ không phải năng lập đối với sở lập như đã nói ở phần Cổ nhân minh Tân nhân minh trên kia. Năng lập đối với sở lập là từ một luận thức phần tôn, nhân, dụ mà chia ra : Tôn là sở lập, chỉ bên người lập công nhận chứ bên người địch không công nhận. Còn nhân và dụ là năng lập, phải được hai bên công nhận, mới lấy đó để chứng minh thành lập tôn sở lập được.
A2. TỢ NĂNG LẬP
Trái với chơn năng lập ở trên là tợ năng lập. Đây là một luận thức sai lầm, không hội đủ hai điều kiện của một luận thức chơn năng lập như đã nêu trên. Cho nên, tuy có lập luận thức đủ cả ba phần: tôn, nhân, dụ, nhưng còn có phạm phải lỗi lầm trong phần tôn, phần nhân, hay phần dụ, nên dù có muốn thành lập cũng không thành lập được, đối phương không chấp nhận, lập không có hiệu quả, nên gọi là tợ năng lập.
A3. CHƠN NĂNG PHÁ
Năng phá là có khả năng phá ngôn luận chủ trương của đối phương. Khi đối trước một chủ trương của đối phương mà mình không công nhận, và muốn phá bỏ thì có hai cách phá: Một, lập lượng phá là lập một luận thức đúng đắn đủ cả ba phần tôn, nhân, dụ, không lỗi để phá. Hai hiển quá phá, là chỉ trích đúng vào các lỗi lầm nơi luận thức của đối phương, tự nhiên luận thức của họ bị phá vở, làm cho họ không còn đủ lý lẽ để chứng minh bênh vực chủ trương của họ nữa. Có khi vì thấy luận thức của đối phương sai lầm nhưng không lập lượng phá, mà chỉ hiển quá phá. Trong lập lượng phá đã bao gồm hiển quá phá, còn hiển quá phá là chỉ trích đúng chỗ sai lầm của họ làm phá, chứ không lập lượng, nên cách phá này nếu làm đúng thì phá được địch luận, và được gọi là chơn năng phá.
A4. TỢ NĂNG PHÁ
Cũng có hai cách là lập lượng phá và hiển quá phá như trên. Nhưng đây vì lập luận không đúng cách, phạm nhiều sai lầm, lý nghĩa kém hơn phía địch luận. Có chỉ trích lỗi lầm trong luận thức của địch luận thì lại chỉ trích không đúng, người ta sai ở tôn lại bảo sai ở nhân, hoặc sai ở nhân lại bảo sai ở dụ, bệnh một đường chữa một nẻo, hoặc người ta không bệnh mà nói bệnh, đem thuốc chữa, người không sai mà nói sai, đem lời phá. Như vậy, cả hai cách đều không phá được địch luận, nên đây gọi là tợ năng phá. Tuy có phá mà không phá được, nên gọi là tợ.
A5. CHƠN HIỆN LƯỢNG
Lượng (pramana) tức là nhận thức lượng biết đối tượng. Theo nhận thức luận Ấn Độ, gọi đây là lượng. Gồm có năng lượng hay lượng giả là chủ thể lượng biết, và sở lượng là đối tượng được lượng biết, và lượng quả là kết quả sự lượng biết, tức là trí. Ta có ba cách lượng biết đối tượng đó là : hiện lượng, tỷ lượng, phi lượng. Ở đây đang nói về hiện lượng là nói về số lượng biết một cách rõ ràng, trực tiếp đối tượng không qua suy đoán, so sánh, phân biệt danh tướng, chủng loại, không gắn thêm khái niệm chủ quan. Luận Nhân minh cắt nghĩa về hiện lượng có câu: “Hiện hiện biệt chuyển”, là năm căn minh hiện năm trần, năm thức nương đó hiện hành, gọi là hiện hiện. Lại tâm và cảnh hiện tại hiển hiện rõ ràng, tâm nào duyên theo cảnh ấy, như nhãn thức chỉ duyên sắc, nhĩ thức chỉ duyên tiếng v.v…, nên gọi là hiện hiện biệt chuyển. Nhưng nếu hiện lượng đúng với cảnh thì gọi là chơn hiện lượng, còn hiện lượng sai với cảnh thì gọi là tợ hiện lượng. Hiện lượng đúng là sự lượng biết xa lìa năm trường hợp sau :
1. Xa lìa ức tưởng, tức không phải suy ức quá khứ, tưởng tượng tương lai mà biết.
2. Xa lìa ảo giác, tức không phải cái biết như khi thuyền đi mà lại thấy bờ chạy, mây bay mà lại thấy trăng chạy …
3. Xa lìa thố giác, tức không phải cái biết lầm sợi dây là con rắn, đêm khuya nghe tiếng chó sủa xa xa mà cho là tiếng người cải lộn, thấy mây thành là khói …
4. Xa lìa loạn giác, như vì mắt nhặm mà thấy giữa hư không có hoa đốm, thấy mặt trăng thứ hai. Vì cuồng trí, say rượu mà thấy mọi vật đổi khác.
5. Xa lìa cái biết phân biệt, so đo danh tướng sự vật. Có bốn loại hiện lượng trí : Căn hiện lượng, tức năm căn nhận thức năm trần; ngũ câu ý thức hiện lượng, tức ý thức với năm căn cùng lúc nhận thức năm trần; tự chứng phần hiện lượng, tức sự nhận biết của thức tự chứng phần; định tâm hiện lượng, tức sự nhận biết cảnh tượng trong khi thiền định.
Hiện lượng nói trong Nhân minh là loại hiện lượng thứ nhất. Thấy hoa liền biết hoa, thấy người liền biết người, thấy rắn không chân liền biết rắn không chân… Không cần phải chờ có sự so sánh mới biết.
A6. TỢ HIỆN LƯỢNG
Tuy là hiện lượng, hiện thấy rõ ràng trước mắt nhưng không đúng với thực cảnh, vì còn mắc phải trong năm tướng như đã nói ở phần hiện lượng trên : Như thuyền đi mà lại thấy bờ chạy, thấy dây thành rắn v.v… Tuy cũng là hiện thấy nhưng không đúng với thực cảnh nên gọi là tợ hiện lượng.
A7. CHƠN TỶ LƯỢNG
Tỷ lượng là cái biết bằng so sánh, loại suy. Do sự kiện đã được biết, được thấy mà suy biết đến những sự kiện chưa biết, chưa thấy.
Hiện lượng chỉ mới là sự cảm nhận thấy, nghe, như thấy hoa biết là hoa, thấy người biết là người, còn tỷ lượng thì đi xa hơn, có tác dụng phân biệt so sánh của trí thức: “Hoa ấy là hoa gì ? Do đâu mà có ? Có mùi thơm không ? Có tồn tại lâu dài ? …”. Do sự so sánh cái này, cái kia rồi suy định ra một cái lý, một sự thật, một ý nghĩa, một lý giải. Ví như thấy hoa biết hoa ấy sớm nở chiều tàn, thấy người có đôi mắt sáng biết người ấy thông minh … Có năm cách tỷ lượng :
a. Tướng tỷ lượng : Là thấy tướng này mà suy biết tướng khác, như thấy tướng khói mà suy biết có lửa; thấy tướng mây đen kéo mà suy biết sắp có mưa … Đây là bằng vào sự tướng bên ngoài của sự vật mà suy đoán.
b. Thể tỷ lượng : Là lối suy đoán bằng vào sự thể của sự vật, từ một bộ phận mà suy biết toàn thể, như thấy cái vòi mà suy biết con voi, hoặc từ vật hiện tại mà suy biết vật quá khứ và tương lai, như thấy hiện tại mặt trời mọc phương Đông, lặn phương Tây mà suy biết mặt trời hôm qua và ngày mai cũng mọc phương Đông, lặn phương Tây, thấy ngoài vỏ cam mà suy biết cam ngọt hay chua.
c. Nghiệp tỷ lượng: Là suy đoán bằng vào hoạt động, động tác của sự vật. Như thấy dấu chân to của động vật mà suy biết đó là dấu chân voi, thấy cây cỏ lay động mà suy biết có gió, thấy có đi mà suy biết có đến, đi mau đến mau, đi chậm đến chậm.
d. Pháp tỷ lượng: Pháp là chỉ cho tính cách, phẩm tính của sự vật. Ta biết sự vật qua những tính cách, phẩm tính của nó. Trong những phẩm tính, tính cách có thứ tương quan nương tựa nhau. Hễ đã có phẩm tính này tức có phẩm tính khác; như nhìn vào sự vật thấy do tạo tác có ra mà suy biết nó sẽ hư hoại và biến đổi; thấy con người vô thường mà suy biết con người vô ngã. Đó gọi là pháp tỷ lượng.
đ. Nhân quả tỷ lượng: Tức là thấy nhân mà suy biết có quả. Như thấy hạt giống lúa tốt là suy biết sẽ mọc ra cây lúa to, hoặc thấy quả mà suy biết nhân, như thấy cái bàn trơn láng, sắc sảo mà suy biết do tay thợ khéo làm, thấy người có đạo đức mà suy biết người ấy đã có nhân tu v.v…
A8. TỢ TỶ LƯỢNG:
Là hiểu bằng cách loại suy sai lầm. Cũng theo 5 loại tỷ lượng trên, nhưng tỷ lượng sai lầm không đúng với thực cảnh. Như thấy kim cương bị đốt cháy mà suy vàng cũng bị đốt cháy, không biết rằng kim cương bị đốt cháy vì kim cương thuộc loại có chất thán tố mà vàng thì không, nên suy đoán vàng cũng bị đốt cháy như kim cương là suy đoán sai, là tợ tỷ lượng v.v…
Tóm lại, khi ta đưa ra sự so sánh mà nhờ đó sự hiểu biết đúng đắn phát sinh thì đó là chơn tỷ lượng, nếu do đó có sự hiểu biết ngược lại hoặc sai lầm, thì gọi là tỷ lượng.
B. NHỮNG PHÁP THỨC BIỆN LUẬN
Do sự phân biệt so sánh mà có lập luận, nên khi lập luận thức cũng gọi là lập tỷ lượng hay gọi là lập lượng; và lập lượng, cũng tức là tổ chức luận pháp. Cần phân biệt các loại dưới đây:
B1. PHÂN BIỆT VỀ CHỦ ĐÍCH (tức tam tỷ lượng, tam chi tỷ lượng).
Tổ chức luận thức để làm gì? Nếu để tự bảo vệ cho chủ trương của mình thì gọi là luận pháp tự thủ, hay tự tỷ lượng. Nếu để công phá người khác thì gọi là luận pháp tấn công, hay tha tỷ lượng. Nếu để tranh luận tìm ra lẽ phải khiến hai bên đồng công nhận thì gọi luận pháp đối tránh, cọng tránh, hay cọng tỷ lượng).
B1.1. Luận pháp tự chủ (tự tỷ lượng).
Đây là luận pháp cốt để giữ vững chủ trương của mình, chứ không phải luận pháp để tấn công hay tranh luận. Ở luận pháp này toàn dùng tài liệu ngôn từ của riêng mình công nhận, để tổ chức luận thức và phải thêm tiếng “đúng lý, chơn cố, tôi bảo, theo tôi” (tự hứa) ở trước tôn, và “tôi nhận, tôi cho” ở trước nhân và dụ để giản biệt cho người đối luận hiểu rằng dù ông không công nhận nhưng “tôi chủ trương như thế”. Có thêm lời giản biệt như vậy thì ở tôn mới khỏi bị lỗi “sở biệt bất cực thành”. Ở nhân khỏi bị lỗi “tùy nhất bất thành”. Và ở dụ mới khỏi bị lỗi “câu bất cực thành”. (Xem ở đoạn sau).
Như lập:
– Tôn: Tôi bảo A tức là B.
– Nhân: Vì tôi nhận A là C vậy.
– Dụ: Và tôi nhận ví như D, G, v.v…
Ngài Huyền Trang khi du học Ấn Độ, đã lập một “tự tỷ lượng” về Duy thức để giữ vững đạo lý Duy thức mà ngài sở trường, như sau:
– Tôn: Chơn cố, cực thành sắc bất ly ư nhãn thức.
– Nhân: Tự hứa, sơ tam nhiếp nhãn sở bất nhiếp cố.
– Dụ: Do như nhãn thức …
(Nghĩa là đúng lý, đúng chơn lý, sắc cực thành (sắc đã được hai bên công nhận) không tách lìa nhãn thức, vì tôi nhận rằng (tự hứa) nó nhiếp vào một trong ba cái đứng đầu của 6 trần, 6 căn, 6 thức chứ không nhiếp vào nhãn căn, ví dụ như nhãn thức).
B.1.2. Luận Phật pháp tấn công (tha tỷ lượng)
Luận pháp cốt để công kích đối phương cũng là để phá lập luận của đối phương, gọi tắt là phá luận. Ở mục năng phá nói trên, đã nêu hai cách phá lập luận của đối phương, là “lập lượng phá” và “hiển quá phá”. Ở lập lượng phá này thì các từ ngữ, sự kiện để lập tôn, nhân, dụ, đều phải được hai bên công nhận từ ngữ ấy, sự kiện ấy có nghĩa như vậy, như vậy. Còn ở luận pháp tấn công đây thì toàn dùng từ ngữ, sự kiện của hai bên công nhận, hoặc chỉ một bên đối phương công nhận, còn mình thì không công nhận. Mình không công nhận mà vẫn dùng để tấn công, đây là một cách “lấy gậy ông, đập lưng ông”. Vì vậy, khi lập luận thức tấn công, ở trước tôn, nhân, dụ phải có lời giản biệt như “ông bảo”, “theo ông” để biểu thị rằng điều này không phải của tôi, mà là của ông. Tôi chỉ lấy điều ông đã công nhận để tấn công ông thôi. Có lời giản biệt như vậy thì ở tôn sẽ không bị lỗi “tùy nhất bất thành”, và ở dụ không bị lỗi “câu bất cực thành”. Như lập:
– Tôn : Ông bảo A là B.
– Nhân: Vì ông nhận A và C vậy.
– Dụ: Ông nhận như D, Đ v.v…
B1.3. Luận pháp đối tránh (cọng tỷ lượng)
Luận pháp này không giống hai luận pháp trên về “tôi” hoặc “ông” công nhận, nhưng đây là trường hợp dùng ngôn từ hoặc điều kiện mà phải được cả hai bên đều đã công nhận để tổ chức luận thức, cốt tìm ra lời giải đáp mà hai bên đồng công nhận. Ở luận pháp này không dùng lời giản biệt ở đầu tôn, nhân, dụ như trên. Như lập:
– Tôn : Khổng Tử là một người thường.
– Nhân: Vì thân thể không khác người thường.
– Dụ: Ví như ông B.
Ở đây, “Khổng Tử” và “người thường” thì hai bên đều hiểu, đều công nhận, nên luận thức không cần thêm tiếng giản biệt: “Theo tôi, ông bảo” hay “Theo tôi, tôi nhận” ở trước tôn, nhân, dụ. Vì không ai tranh luận về Khổng Tử hay không Khổng Tử, là người thường hay không phải người thường, mà tranh luận khi ghép “là người thường” với “Khổng Tử”, để nói “Khổng Tử là người thường”. Nếu chỉ căn cứ vào thân thể của Khổng Tử để nói trọn cả các mặt khác của Khổng Tử là người thường, ví dụ như ông B thì có đúng không? Đó là điểm tranh luận để tìm ra sự thật cao nhất.
Nếu phân tích tỉ mỉ thì ba loại luận pháp trên, mỗi một loại có thể chia thành ba; cộng lại thành chia tỷ lượng, hay chín luận pháp như sau:
+ Về tự tỷ lượng có 3:
1. Luận pháp tự thủ của tự tỷ (gọi tắt là tự tự tỷ lượng): Tôn, nhân, dụ, đều tự mình công nhận.
2. Luận pháp tấn công của tự tỷ (gọi tắt là tự tha tỷ lượng): Tôn, mình công nhận; nhân và dụ được địch công nhận.
3. Luận pháp đối tranh của tự tỷ (gọi tắt là tự cọng tỷ lượng): tôn, được mình công nhận; nhân và dụ cả hai bên công nhận.
+ Về tha tỷ lượng có 3:
4. Luận pháp tấn công của tha tỷ (gọi tắt là tha tha tỷ lượng): tôn, nhân, dụ chỉ do bên địch công nhận.
5. Luận pháp tự thủ của tha tỷ (gọi tắt là tha tự tỷ lượng): Tôn, địch công nhận; nhân và dụ mình công nhận.
6. Luận pháp đối tranh của tha tỷ (gọi tắt là tha cọng tỷ lượng): Tôn, địch công nhận; nhân và dụ cả hai bên công nhận.
+ Về cọng tỷ lượng có 3:
7. Luận pháp đối tranh của cọng tỷ (gọi tắt là cọng cọng tỷ lượng): Tôn, nhân, dụ được cả hai bên công nhận.
8. Luận pháp tự thủ của cọng tỷ (gọi tắt là cọng tự tỷ lượng): Tôn, cả hai bên công nhận; nhân và dụ mình công nhận.
9. Luận pháp tấn công của cọng tỷ (gọi tắt là cọng tha tỷ lượng): Tôn, mình công nhận; nhân và dụ địch công nhận.
Tuy có 3 luận pháp tự tỷ, tha tỷ, cọng tỷ như trên, nhưng thường khi dùng luận pháp đối tranh cọng tỷ là chính, còn luận pháp tự chủ và tấn công, bất đắc dĩ mới dùng.
B2. PHÂN BIỆT VỀ MẶT HÌNH THỨC NGÔN NGỮ
Ngôn ngữ dùng trong Nhân minh có ngôn ngữ biểu thuyên và ngôn ngữ giá thuyên, giống Tam đoạn luận có khẳng định và phủ định. Biểu thuyên là khẳng định, là công nhận, phát biểu thẳng chính diện như thế là như thế. Giá thuyên là phủ định, phủ nhận, phát biểu theo cách phản diện không phải là như thế. Lập tôn theo mệnh đề khẳng định “là” thì đó là biểu thuyên. Như:
– Tôn : Việt Nam là một nước độc lập.
– Nhân: Vì chủ quyền quốc gia là ở cả trong nước.
– Dụ: Như nước Nhật.
Nếu tôn là mệnh danh đề phủ định “không phải là” thì đó là một luận pháp giá thuyên. Như:
– Tôn: Thảo mộc không phải là có nhận biết.
– Nhân: Vì không phải là loài động vật.
– Dụ: Như ngói, đá…
B3. PHÂN BIỆT VỀ MẶT PHÂN LƯỢNG NGÔN NGỮ
Tam đoạn luận có toàn xưng và đặc xưng thì Nhân minh có toàn phần và nhất phần.
Toàn phần là khi cái tôn mà phẩm tính (tức là danh từ sau, tôn hậu trần) đủ tính cách quán thông hoàn toàn với toàn thể tự tánh (tức là danh từ trước, tôn tiền trần) đó gọi là “tôn toàn phần”. Như nói: “Phàm A đều là B”, tức là tất cả A đều là B.
Nhất phần là khi cái tôn mà phẩm tính chỉ đủ tính cách quán thông với một phần tự tánh. Đó gọi là “tôn nhất phần”. Như nói: “Có khi A là B”, tức có khi A không là B.
Ở Tam đoạn luận, toàn xưng và đặc xưng không hạn chỉ ở đoán án, nhưng ở Nhân minh thì toàn phần, nhất phần chỉ hạn ở nơi tôn (đoán án). Vì nếu tôn đã định thì nhân và dụ sẽ định theo. Nếu là tôn toàn phần thì nhân, dụ quyết nhiên phải toàn phần. Nghĩa là nhân, dụ phải liên hệ với toàn bộ của tôn tiền trần. Nếu tôn là nhất phần thì nhân, dụ cũng phải nhất phần. Nghĩa là nhân, dụ chỉ liên hệ với một phần tôn tiền trần.
Ở Tam đoạn luận có chất, có lượng. Chất có khẳng định, phủ định, cũng như Nhân minh có biểu thuyên, giá thuyên. Lượng có toàn xưng, đặc xưng, cũng như Nhân minh có toàn phần, nhất phần. Vì thế Tam đoạn luận phân phối hợp lại có 4 thứ :
1. Mệnh đề khẳng định toàn xưng.
2. Mệnh đề phủ định toàn xưng.
3. Mệnh đề khẳng định đặc xưng.
4. Mệnh đề phủ định đặc xưng.
Nhân minh, về chất có biểu thuyên, giá thuyên. Về lượng có toàn phần, nhất phần. Nếu đem phối hợp lại thì cũng thành 4 thứ:
1. Mệnh đề biểu thuyên toàn phần.
2. Mệnh đề giá thuyên toàn phần.
3. Mệnh đề biểu thuyên nhất phần.
4. Mệnh đề giá thuyên nhất phần.
B4. PHÂN BIỆT TRÊN Ý NGHĨA NGÔN NGỮ
Ngôn ngữ có ý nghĩa khi nói về vật hữu thể (có thật thể, cụ thể) khi nói về vật vô thể (không có thật thể, trừu tượng). Nên Nhân minh còn phân biệt tôn hữu thể và tôn vô thể. Đây là một đặc điểm của Nhân minh mà ở Tam đoạn luận không có. Sự phân biệt này là căn cứ trên tôn. Như tôn (mệnh đề): “Ma quỷ là một huyễn ảnh tưởng tượng của con người”. đây là tôn vô thể và là biểu thuyên. Vì ma quỷ không có thật thể, nhưng là một huyễn ảnh tưởng tượng. Chữ “là” ở đây tức là biểu thuyên, khẳng định, ma quỷ chính là. Đây tuy hình thức ngôn ngữ là về mệnh đề khẳng định biểu thuyên (là) nhưng trong ý nghĩa nội dung vốn là mệnh đề phủ định ma quỷ là không có thật (hay giá thuyên). Vì thế đó là một mệnh đề vô thể (tôn vô thể). Nếu là mệnh đề (tôn): “Tiền của không phải là thứ đem lại hạnh phúc chơn thật”, thì tuy hình thức ngôn ngữ là một mệnh đề phủ định (hay giá thuyên – không phải là) nhưng trong ý nghĩa nội dung vốn là khẳng định. (Hay biểu thuyên – tiền của là vật có thật thể). Vì thế, đây là một mệnh đề hữu thể.
Tóm lại, không kể là biểu thuyên hay giá thuyên (phủ định hay khẳng định) mà nếu trên ý nghĩa nội dung công nhận có thật thì đó là hữu thể, nếu trên ý nghĩa không công nhận có thật, thì đó là vô thể.
Một mệnh đề biểu thuyên cũng có hữu thể và vô thể; một mệnh đề giá thuyên cũng có hữu thể và vô thể. Tổng hợp lại có 44 thứ:
1. Mệnh đề biểu thuyên hữu thể: Hình thức và ý nghĩa đều như mệnh đề A tức là B.
2. Mệnh để biểu thuyên vô thể: Hình thức thì như mệnh đề: A tức là B, mà ý nghĩa thì: A không phải là B.
3. Mệnh đề giá thuyên hữu thể: Hình thức thì như mệnh đề: A không là B, mà ý nghĩa thì: A tức là B.
4. Mệnh đề giá thuyên vô thể: Hình thức và ý nghĩa đều như mệnh đề: A không là B.
Và biểu thuyên, giá thuyên, hữu thể, vô thể như trên đều có sự phân biệt toàn phần, nhất phần, nên toàn số lượng mệnh đề của Tam chi Nhân minh có tất cả 8 thứ:
1. Mệnh đề biểu thuyên hữu thể toàn phần.
2. Mệnh đề biểu thuyên hữu thể nhất phần.
3. Mệnh đề biểu thuyên vô thể toàn phần.
4. Mệnh đề biểu thuyên vô thể nhất phần.
5. Mệnh đề giá thuyên hữu thể toàn phần.
6. Mệnh đề giá thuyên hữu thể nhất phần.
7. Mệnh đề giá thuyên vô thể toàn phần.
8. Mệnh đề giá thuyên vô thể nhất phần.
Tám mệnh đề này đem phối hợp với ba chi tỷ lượng là tự tỷ lượng (luận pháp tự thủ), tha tỷ lượng (luận pháp tấn công), và cọng tỷ lượng (luận pháp đối tránh hay cọng tránh) thì mỗi tỷ lượng đều có tám, nhân thành 24 mệnh đề như đồ biểu dưới đây:
C. LUẬN VỀ CHƠN NĂNG LẬP:
Tuy phân tách tỉ mỉ như trên, nhưng đại cương thì Nhân minh chỉ có 8 điều cốt yếu là chơn năng lập, tợ năng lập, chơn năng phá, tợ năng phá, chơn hiện lượng, tợ hiện lượng, chơn tỷ lượng, tợ tỷ lượng. Và 8 điều này nhằm vào hai mục đích là tự ngộ và ngộ tha. Trong hai mục đích tự ngộ và ngộ tha, Nhân minh nghiêng về ngộ tha. Và trong ngộ tha có 4 điều là: Chơn năng lập, tợ năng lập, chơn năng phá, tợ năng phá, trong đó chơn năng lập và tợ năng lập là chủ yếu nhất, như được trình bày tóm tắt trong cuốn Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận của Thiên Chủ, mà ta sẽ lần lượt tìm hiểu sau đây:
Chơn năng lập: (Gồm tôn đúng, nhân đúng, dụ đúng)
Trong Nhân minh có hai từ năng lập. Năng lập đối với năng phá, và năng lập đối với sở lập. Chữ năng lập ở đây là đối với năng phá mà nói, chứ không phải nói theo nghĩa năng lập đối với sở lập. Năng lập đối với sở lập là ở cùng một luận thức Nhân minh có ba chi gồm: tôn, nhân, dụ, trong đó tôn là sở lập; nhân, dụ là năng lập. Còn ở đây năng lập đối với năng phá thì năng lập gồm cả tôn, nhân, dụ. Tôn đúng đắn không phạm sai lầm, đủ khả năng thành lập: Nhân, dụ đúng đắn không phạm sai lầm, đủ khả năng thành lập. Chung lại cả ba chi tôn, nhân, dụ đều đúng đắn, không phạm sai lầm, đủ khả năng thành lập thì gọi là năng lập. Nhưng để phân biệt với năng lập sai (tợ năng lập) nên gọi là chơn năng lập. (Định nghĩa chữ năng lập của tôn ở đây khác với tất cả các nơi khác). Trong luận dùng câu: “Năng lập và năng phá”.
C1. CHƠN NĂNG LẬP TÔN (tôn đúng)
Tôn là Tôn chủ, Tôn chỉ, mệnh đề, chủ trương của người lập luận.
C1.1. Tôn có tôn y và tôn thể hay gọi là biệt tôn, tổng tôn. Mệnh đề tôn gồm có danh từ trước và danh từ sau.
Danh từ trước (tiền trần), và danh từ sau (hậu trần) của mệnh đề tôn đều gọi là tôn ý, vì nó mới chỉ là tài liệu, là yếu tố để y cứ vào đó mà tổ chức mệnh đề (tôn) chứ nó chưa phải là mệnh đề. khi nào hai danh từ trước và sau kết hợp lại với nhau thành mệnh đề thống nhất thì mới gọi là tôn thể. Như vậy, tôn y là chỉ cho danh từ trước và danh từ sau, phải được cả hai bên lập và địch đồng công nhận ý nghĩa của nó. (Nhân minh gọi là cực thành); nhưng tôn thể thì chỉ cần bên lập công nhận mà địch không công nhận mới được, và sự lập tôn mới có ý nghĩa. Ví như lập tôn: “Vàng là rắn độc”. Nếu nói vàng và rắn độc, thì đó chỉ là hai vật khác nhau, không có gì để tranh cãi. Vì hai bên đều biết vàng là thế nào, rắn độc là thế nào, không còn cãi nhau vàng hay không vàng, rắn độc hay không rắn độc. Nhưng khi kếp hợp tôn y là vàng và rắn độc lại với nhau bởi một hệ từ “là” thành ra tôn thể “vàng là rắn độc” thì bấy giờ mới có sự không đồng tình và cãi nhau. Vì có người không đồng tình vàng là rắn độc mà cho “vàng là vật quý đem lại vui thích”. Như vậy, tôn thể là tiêu đích tranh luận giữa đôi bên, còn tôn y thì không phải tiêu đích tranh luận, và phải được hai bên đồng công nhận hay ít nhất phải được bên địch công nhận, trong trường hợp lập luận thức tấn công (phá luận). Nếu tôn y là danh từ trước và danh từ sau không được công nhận mà cứ dùng nó để tổ chức luận thức thì phạm lỗi “năng biệt”, sở biệt và câu bất cực thành”.
Danh từ trước (tiền trần) chỉ về tự thể của sự vật. Danh từ sau (hậu trần) chỉ về ý nghĩa, tính cách của sự vật, nói tắt là thể và nghĩa của sự vật. Sự vật nào cũng có thể và nghĩa. Về thể có ba tên gọi là tự tánh, hữu pháp và sở biệt. Về nghĩa có ba tên gọi là sai biệt, pháp và năng biệt. Cả thể và nghĩa gọi chung thì có tự tánh, sai biệt; hữu pháp, pháp; sở biệt, năng biệt. Xem đồ biểu:
Tự tánh
Tôn y (tiền trần)thểcó 3 tên Hữu pháp
TÔN Sở biệt
Sai biệt
THỂ Tôn y (hậu trần)nghĩacó 3 tên Pháp
Năng biệt
Tự tánh đối sai biệt
Hữu pháp đối pháp.
Sở biệt đối năng biệt.
C1.2. Thế nào gọi là tự tánh và sai biệt?
Sự vật nào cũng có tánh cách riêng, cuộc hạn vào tự thân của sự vật ấy mà không chung cùng với sự vật khác, đó gọi là tự tánh, tức chính bản thân sự vật đó là tự tánh, cũng gọi là tự tướng. Trên tự tánh ấy có nhiều tánh cách hay thuộc tính khác nhau (sai biệt) như “trăng trong”, “gió mát”, “hoa đẹp” v.v… Trăng, gió, hoa là tự tánh; trong, mát, đẹp là thuộc tính, tính cách. Nhưng trăng không phải chỉ có tính cách trong mà còn có tính cách mát, vàng, bạc, sáng, thành trăng mát, trăng vàng, trăng bạc, trăng sáng. Trăng là một, là tự tánh, nhưng trăng mát, vàng, bạc, sáng là những tánh cách sai khác của nó. Đó gọi là sai biệt. Vả lại, tính cách trong, mát, vàng, bạc, sáng không phải chỉ là tính cách riêng của trăng mà các vật khác cũng có những tính cách ấy, nên những tính cách này ở sách khác gọi là cọng tướng, nghĩa là tướng chung cùng giữa các vật. Trăng trong như vậy, thì gió mát, hoa đẹp v.v… đều có nghĩa như vậy.
C1.3. Thế nào gọi là hữu pháp và pháp?
Hữu Pháp là chỉ cho tự tánh, hay chính tự thể sự vật như nói trên. Còn Pháp là chỉ những tính cách, thuộc tính của sự vật như nói trên. Như nói “trăng trong”, “gió mát”, “hoa đẹp” v.v… thì trăng, gió, hoa là Hữu Pháp vì nó có các tánh cách trong, mát, đẹp … còn các tính trong mát, đẹp là Pháp. Nhờ những tính cách trong, mát, đẹp mà ta biết trăng là trăng, gió là gió, hoa là hoa chứ không phải là vật gì khác. Như vậy, trong, mát, đẹp… gọi là Pháp. Hữu Pháp tương đương với Tự tánh và Pháp tương đương với Sai biệt.
C1.4. Thế nào gọi là sở biệt và năng biệt?
Trong khi hai bên lập và địch tranh luận nhau không phải tranh luận về tự tánh tiền trần mà là tranh luận về tánh sai biệt của hậu trần. Khi nói: “Vàng là rắn độc” hay nói “Vàng là vật qúy” thì không phải tranh luận về vàng hay rắn độc mà chính là tranh luận về vàng là rắn độc, hay vật quý. Từ nơi “là rắn độc” hay “là vật quý” để phân biệt biết đến tính cách của vàng. Như vậy, tiền trần (vàng) là Sở biệt (bị phân biệt) mà hậu trần (rắn độc hay là vật quý) là Năng biệt (năng lực phân biệt). Sở biệt tương đương với Tự tánh và Hữu pháp nói trên, còn Năng biệt thì tương đương với Sai biệt và Pháp nói trên.
C1.5. Hoán đổi vị thứ giữa tiền trần, hậu trần (tức giữa thể và nghĩa)
Theo môn tánh tướng trong Phật giáo thì Thể hay tự tánh là chỉ cho tự thể, tự thân của sự vật; còn Nghĩa hay sai biệt là chỉ cho thuộc tánh của sự vật. Thể luôn luôn là Thể, Nghĩa luôn luôn là Nghĩa, chứ không thể thay đổi Thể thành Nghĩa. Nghĩa thành Thể được. Nhưng ở Nhân minh lại khác. Thể không nhất định ở mãi vị trí thể, Nghĩa không nhất định ở mãi vị trí nghĩa, mà có thể thay đổi vị trí trước sau cho nhau. Có 4 trường hợp, như dưới đây:
1. Thể chủ nghĩa khách – như nói: “Người ta (thể, chủ) nên có tâm đạo nghĩa “nghĩa, khách).
2. Nghĩa chủ thể khách – như nói: “Tâm đạo nghĩa (nghĩa, chủ) là đặc tính của con người” (thể, khách) hoặc nói: “Thị, phi (nghĩa, chủ) do người” (thể, khách).
3. Chủ khách đều thể – như nói: “Ngựa trắng (thể, chủ) không phải ngựa” (thể, khách).
4. Chủ khách đều nghĩa – như nói: “vô thường (nghĩa, chủ) tức vô ngã” (nghĩa, khách).
C1.6. Tôn thể
Trước đã nói qua tôn y, tôn thể. Khi kết hợp hai tôn y lại thành tôn thể, thì phải đủ hai điều kiện; một là hữu pháp (tiền trần) và pháp (hậu trần) vốn sai biệt nhau, vì hữu pháp là thể, pháp là nghĩa. Nhưng thể và nghĩa phải không rời nhau (hỗ tương sai biệt, bất tương ly tánh) mơí thành tôn thể. Như nói: “Sắc ấm là vô ngã”, sắc ấm là hữu pháp, vô ngã là pháp. Giữa sắc ấm và vô ngã có khác nhau, vì có sắc ấm vô ngã, có thọ ấm vô ngã, có tưởng ấm vô ngã … Vô ngã là đồng, mà sắc và thọ, tưởng là khác, nên sắc ấm vô ngã khác thọ ấm vô ngã. Vả lại, đây là sắc ấm vô ngã chứ không phải sắc ấm ngã. Với hai cái Thể và Nghĩa khác nhau ấy kết hợp lại một chỗ không rời nhau mới thành tôn thể. Nếu sắc ấm riêng, vô ngã riêng, không kết hợp lại với nhau thì không thành tôn thể. Sắc ấm riêng và vô ngã riêng, thì sắc ấm chưa chắc vô ngã, và vô ngã cũng là vô ngã của cái gì chứ không phải vô ngã của sắc ấm. Đặc tính của tôn thể là ở chỗ “thuận ý mình mà trái ý người” (thuận tự vi tha). Vì có thế mới tranh luận, mới lập tôn. Nếu đã đồng ý nhau cả rồi thì lập tôn làm gì. Và càng trái ý người địch luận bao nhiêu, thì người lập luận càng đúng ý, càng cố nêu lên lý do và ví dụ để làm cho địch luận hiểu và chấp nhận. Giả sử đã thuận ý mình mà không trái ý người thì không cần lập tôn và cũng không cần đem nhân, dụ để lý giải, chứng minh. Như vậy, Nhân minh cũng không cần có. vậy muốn lập tôn phải chọn lựa trong bốn trường hợp lập tôn sau đây:
1. Tôn (chủ trương) mà ai cũng đã công nhận (biến sở hứa tôn) như nói: “Mắt dùng để thấy, tai dùng để nghe”, “Con người có tri thức cao hơn động vật”… là điều mà ai cũng hiểu cả, không cần phải lập tôn.
2. Tôn (chủ trương) mà lập theo chủ trương trong cùng một tông phái (tiên thừa bẩm tôn). Người cùng tông phái đã cùng tin, cùng nhận lý thuyết đồng như nhau, thì cần gì phải đem lý thuyết đã đồng công nhận đó mà lập tôn? Có ai cãi lại đâu mà lập. Như người Phật giáo đối với người Phật giáo mà lập tôn rằng: “Mọi vật do nhân duyên sanh”, hay như người Thiên chúa giáo nói với người Thiên chúa giáo rằng: “Chúa trời là Đấng tạo hóa sanh muôn vật”. Đó là những điều chủ trương chung của tông phái, chưa lập nó đã thành. Ai cãi mà lập?
3. Tôn mà lập ra chỉ nhằm đối chiếu đến một ý nghĩa khác (bàng bằng nghĩa tôn). Điều người lập luận muốn nói với người địch luận, nhưng lại không nói thẳng ra rõ ràng, mà chỉ nói một điều khác. Tuy nói ra điều khác nhưng trong ý lại muốn người địch luận bằng theo đó để hiểu đến điều mình không nói rõ ra kia. Như thế gọi là “bàng bằng nghĩa tôn”. Như nói: “Phật là đấng giác ngộ” nhưng trong ý lại muốn người địch luận bằng theo đó hiểu rằng: “Phật có đủ 32 tướng”. Hoặc như lập: “Âm thanh là vô thường” để bảo người địch luận bằng theo đó hiểu rằng: “Tất cả đều là vô ngã”. Người ta tranh luận ở điều được nói ra rõ ràng, chứ điều không nói ra rõ ràng thì biết đâu mà tranh luận. Vì vậy, cách lập tôn theo trường hợp này không có giá trị.
4. Tôn (chủ trương) lập theo ý mình muốn (bất cố luận tôn). Đây là trường hợp lập tôn theo ý mình muốn chứ không phải theo ba trường hợp trên. Ba trường hợp trên là nương theo điều mọi người đã công nhận mà lập, nương theo chủ trương chung của tông phái mà lập, và lập mù mờ không nói ra rõ ràng. Lập theo ba trường hợp này là không cần thiết.
Lập theo ý mình muốn, có 2 nghĩa: Một là không kể đến sự trái ý người địch luận, mà chỉ cần mình muốn chủ trương như thế nào thì cứ lập tôn như thế đó; nếu trái ý người địch luận thì lập tôn mới có ý nghĩa. Hai là, có khi không kể chủ trương của mình như thế nào, không cần đưa ra lý lẽ, mà chỉ thuận theo lý lẽ người địch luận, đưa ra lý do mà họ đã công nhận (dù mình không công nhận) để bác lại chủ trương của họ. Trường hợp lập tôn thứ 4 này đúng với chủ trương Nhân minh. Xem đồ biểu:
- Biến sở hứa tôn Hai cách này trái quy tắc
- Tiên thừa bẩm tôn “thuận ý mình, trái ý người”
- Bàng bằng nghĩa tôn - Trái với luận thể vì ở nơi ngôn ngữ không rõ ràng.
- Bất cố luận tôn. - Đúng, có giá trị.
Bản thể của nhân như trước đã nói là ngôn sanh nhân và trí liễu nhân. Ngôn sanh nhân là chủ yếu nhất. Ngôn luận rõ ràng của người lập làm nguyên nhân sanh ra trí liễu biết của người địch. Như vậy, ngôn luận là bản thể của luận lý Nhân minh. Nếu lập tôn như trường hợp thứ ba trên đây là trái ý nghĩa lấy ngôn luận làm thể của Nhân minh, nên dù có lập cũng không có giá trị.
C2. CHƠN NĂNG LẬP NHÂN (Nhân năng lập đúng)
Phần thứ hai của tam chi tác pháp là “Nhân”. Nhân đúng đắn không phạm sai lầm, đủ khả năng thành lập được tôn, gọi là nhân chơn năng lập. Nhân chơn năng lập ấy phải có đủ ba tướng, tức ba phương diện hướng tới quan hệ với tôn tiền trần hữu pháp, là một (biến thị tôn pháp tánh); quan hệ với một bộ phận những sự kiện đồng phẩm tính với tôn hậu trần pháp, là hai (đồng phẩm định hữu tánh); và không quan hệ với toàn bộ những sự kiện khác phẩm tính với tôn hậu trần pháp, là ba (dị phẩm biến vô tánh). Như trên đã nói, tôn là một mệnh đề gồm có hai ngôn từ ghép lại, ngôn từ phát biểu ra trước gọi là tiền trần, tự tánh, sở biệt, hữu pháp. Ngôn từ phát biểu ra sau gọi là hậu trần, sai biệt, năng biệt pháp.
Tướng thứ nhất của nhân là “biến thị tôn pháp tính”, tức Nhân phải quan hệ đầy đủ với tôn tiền trần hữu pháp. Nói cách khác, Nhân phải là một thuộc tính của tôn tiền trần hữu pháp. Như lập: “Âm thanh là vô thường” thì “âm thanh” là một vật thể, tiền trần hữu pháp, gồm có các thuộc tính như vô thường, vô hình, do tác động mà có ra, có thể nghe được v.v… chứ âm thanh không có các thuộc tính như có hình chất, có thể thấy được, có thể ngửi được, có cánh bay đi v.v… Như vậy, khi muốn lập tôn, người ta phải chọn lấy một thuộc tính của vật thể mà mình công nhận, nhưng bên địch không công nhận, đem làm tôn hậu trần, và chọn một thuộc tính khác của vật thể ấy được cả hai bên lập và địch đều công nhận, hay ít nhất bên địch công nhận để đem làm nhân. Như lập: “Âm thanh là vô thường”, vì “do tác động mà có ra”. “Vô thường” và “do tác động mà có ra” đều là thuộc tính của âm thanh, nhưng vì đối phương chỉ công nhận âm thanh có thuộc tính “do tác động mà có ra”, chứ không công nhận âm thanh có thuộc tính “vô thường”, nên bên lập lấy vô thường lập làm tôn “âm thanh là vô thường” và lấy tính cách “do tác động mà có ra” là một tính cách khác của âm thanh để lập làm nhân, nhân này chính là một tính cách liên hệ (có mặt) nơi âm thanh, là một thuộc tính của âm thanh. Đó là cái nhân có đủ tướng thứ nhất là “liên hệ đầy đủ với tôn tiền trần hữu pháp”, (biến thị tôn pháp tánh). Nếu ai ngớ ngẩn lập rằng: “Âm thanh là vô thường” và nhân là: “Vì có hình chất”, thì cái Nhân này phạm vào lỗi “hữu pháp tự tướng tương vi”, vì “có tính chất” không phải là một thuộc tính của âm thanh. Ở đây, tôn tiền trần hữu pháp là “âm thanh”, nhưng âm thanh là vô hình, âm thanh đâu có hình chất, hình chất đâu có liên hệ (có mặt) nơi âm thanh? Vậy nếu lấy lý do “có hình chất” để chứng minh, bênh vực cho tôn “âm thanh là vô thường” thì không thể nào chứng minh được, không ai chấp nhận. Vì sự vô lý quá rõ ràng.
Tướng thứ hai của nhân là: “Đồng phẩm định hữu tánh”; tức là nhân phải có sự quan hệ nơi một số vật thể có đồng phẩm tính với tôn hậu trần pháp. Như lập tôn: “Âm thanh là vô thường” thì âm thanh là tiền trần hữu pháp, mà vô thường là một phẩm tính của âm thanh, là hậu trần pháp. Ngoài âm thanh ra, những vật thể gì mà có phẩm tính vô thường như âm thanh thì gọi đó là tôn đồng phẩm hay tôn đồng pháp. Aâm thanh vô thường, bình, bàn, cũng vô thường, vậy bình, bàn có đồng phẩm tính vô thường với âm thanh, nên có thể lấy bình, bàn làm ví dụ cho cái tôn “âm thanh là vô thường”. Như trên kia đã giải rõ tướng thứ nhất của nhân là nó phải liên hệ đầy đủ với tôn tiền trần hữu pháp. Tiếp đây, tướng thứ hai của nhân là nó phải liên hệ với một số vật thể nào có cùng phẩm tính với tôn hậu trần pháp, nghĩa là liên hệ với tôn đồng phẩm. Nhưng sự liên hệ này không bắt buộc phải liên hệ toàn bộ những gì thuộc tôn đồng phẩm, mà chỉ cần liên hệ với một số vật thể nào đồng phẩm, mà chỉ cần liên hệ với một số vật thể nào đồng phẩm với tôn để có thể lấy đó làm đồng dụ mà thôi. Như lập tôn: “Âm thanh là vô thường”, nhân: Vì do tác động mà có ra”, ví dụ: “Như bình, bàn”. Bình, bàn là vô thường. Vậy bình, bàn là đồng phẩm tính với âm thanh. Bình, bàn cũng do tác động mà có ra như âm thanh. Thế là cái nhân “do tạo tác mà có” có đủ tướng thứ hai là “liên hệ với tôn đồng phẩm”. Tuy nhiên, không phải toàn bộ những gì vô thường đồng phẩm tính với âm thanh cũng đều do tạo tác mà có ra, như sấm sét, gió, mưa. Đó là ý nghĩa của câu: “Đồng phẩm định hữu tánh”. Cái nhân “do tạo tác mà có” không cần liên hệ toàn bộ những vật gì đồng phẩm tính vô thường với âm thanh, mà chỉ cần liên hệ một số vừa có tính vô thường, vừa có tính do tạo tác mà có ra, để lấy nó làm đồng phẩm dụ là được, chứ không bắt buộc tất cả những vật gì có tính vô thường với âm thanh là phải có tính do tạo tác mà có ra như âm thanh.
Tướng thứ ba của nhân là “dị phẩm biến vô tánh”. Tức là cái nhân phải hoàn toàn không liên hệ gì nơi toàn bộ sự vật khác phẩm tính với tôn. Như tôn: “Âm thanh là vô thường”, vậy tất cả những sự vật gì “thường còn” thì khác phẩm tính vô thường của tôn. Đó gọi là tôn dị phẩm. Như âm thanh do tạo tác mà có, âm thanh là vô thường, trái lại tất cả những gì “thường” thì đều không do tạo tác mà có. đây là cái tướng thứ ba của nhân “dị phẩm biến vô tánh”. Biến vô tức hoàn toàn không liên hệ. Nếu trong tất cả những gì thường còn khác với phẩm tính vô thường của âm thanh, mà lại có một thứ có tính “do tạo tác mà có ra” như âm thanh, thì cái nhân này thiếu mất tướng thứ ba. Nó là một thứ nhân sai lầm không dùng được. Xem đồ biểu nhân ba tướng ở dưới:
tướng N tướng thứ hai là đồng
T Thứ nhất là H dụ
Ô Biến thị Â tướng thứ ba là dị
N Tôn pháp N dị phẩm biến vô dụ
Nhân đủ ba tướng là tổng quát chín cú nhân nói trên, chẳng qua chín cú nhân mới nói đến sự quan hệ của nhân đối với tôn đồng phẩm và tôn dị phẩm, chứ chưa nói đến sự quan hệ của nhân đối với tôn tiền trần hữu pháp, tức là tướng cần có thứ nhất của nhân.
Ở đây cần nói thêm. Muốn thành lập cái lượng chơn chánh, phải chú ý hai điều:
1. Tôn là mục tiêu tranh luận, luôn luôn phải là bên lập công nhận mà bên địch không công nhận, tức là thuận ý bên lập mà trái ý bên địch.
2. Phạm vi của nhân phải lớn hơn hoặc ngang bằng phạm vi của tôn, chứ không thể hẹp hơn hoặc ra ngoài phạm vi của tôn,
Phạm vi của nhân lớn hơn phạm vi của tôn, tức nhân ấy vừa có tính cách quán thông với tôn hữu pháp (tiền trần) vừa có tính cách quán thông với toàn thể những gì đồng phẩm loại với tôn pháp (hậu trần). Như lập:
– Tôn: Con người sẽ phải chết.
– Nhân: Vì là sinh vật vậy.
Cái nhân “vì là sinh vật” không những bao quát “con người” là sinh vật phải chết, mà còn bao quát cả trâu, bò, heo, dê… Những thứ sinh vật ấy cũng đều sẽ phải chết cả. Như vậy, cái nhân “vì là sinh vật” chẳng những phải quan hệ với “con người” mà còn phải quan hệ với “sẽ phải chết”, nghĩa là phải quan hệ với cả thể và nghĩa của tôn, chứ không thể chỉ quan hệ với “con người” mà không quan hệ với “sẽ phải chết”. Nếu chỉ quan hệ với “con người” mà không quan hệ với “sẽ phải chết”, thì ngoài con người ra, chẳng có gì để lấy làm đồng dụ, để chứng minh “con người” sẽ phải chết hay sẽ không phải chết. Còn nếu chỉ quan hệ với “sẽ phải chết” mà không quan hệ với “con người” tức không phải là thuộc tánh của con người, không dính dáng đến con người, thì cái nhân “vì là sinh vật” đó chỉ là để giải thích cho cái gì “sẽ phải chết” chứ không phải để giải thích cho “con người sẽ phải chết”.
Phạm vi của nhân cần phải rộng hơn hoặc ngang bằng phạm vi của tôn tiền trần hữu pháp và hẹp hơn tôn hậu trần pháp mới được. Như lập:
– Tôn: Chỗ ấy đã từng có người ở.
– Nhân: Vì còn có dấu tích đồ gốm.
Ở đây phạm vi của nhân “còn có dấu tích đồ gốm” rộng hơn phạm vi tôn tiền trần hữu pháp “chỗ ấy”. Thế là nhân có đủ tướng thứ nhất “biến thị tôn pháp tánh”; nhân này lại hẹp hơn phạm vi tôn hậu trần pháp, “đã từng có loài người ở”. Vì chỗ đã từng có loài người ở, có chỗ để lại dấu tích đồ gốm, cũng có chỗ không để lại dấu tích đồ gốm. Thế là nhân này có đủ tướng thứ hai “đồng phẩm định hữu tánh”, như vậy là nhân đúng. Chỗ còn có dấu tích đồ gốm thì chắc chắn chỗ ấy đã từng có loài người ở. Trường hợp phạm vi nhân rộng hơn tôn hậu trần pháp thì sai. Như lập:
– Tôn : Chỗ ấy đã từng có người ở.
– Nhân: Vì có nhiều sỏi đá, sông ngòi…
Ở đây, phạm vi nhân “có nhiều sỏi đá, sông ngòi” quá rộng mà phạm vi tôn “chỗ ấy từng có loài người ở” quá hẹp, nên cái nhân này trở thành cái nhân phạm lỗi “cọng bất định”, không có khả năng chứng minh để thành lập tôn, như vậy là nhân sai.
C2.1. Ngôn ngữ ba phần, nghĩa lý ba tướng (Ngôn tam chi, nghĩa tam tướng)
Nhân minh luận, đứng về hình thức ngôn luận thì nói là ba chi (ba phần hay ba đoạn), đứng về lý nghĩa nội dung thì nói là ba tướng, tức là ba điều kiện hay ba mặt, ba đặc tính. Ba chi là tôn, nhân, dụ. Ba tướng là nhân có đủ ba phương diện.
Đứng về hình thức luận lý thì tôn không phải là nhân, nhân không phải là dụ. Tôn, nhân, dụ có hệ thống thứ tự nhất định trên phương diện ngôn ngữ. Nhưng đứng về nghĩa lý nội dung thì nhân là quan trọng hơn cả, nó phải có đủ tính cách bao hàm cả luận thức, tức là phải quán thông bao nhiếp cả tôn và dụ. Nghĩa là nó phải có đủ ba tướng: Một là có tính cách quan hệ đầy đủ với tôn tiền trần hữu pháp. Hai là phải có tính cách quan hệ ít nhất với một bộ phận đồng phẩm của tôn hậu trần pháp. Và ba là tuyệt đối không có quan hệ với toàn bộ dị phẩm của tôn hậu trần pháp. Ví dụ con người phải chết, vì là sinh vật. Vậy thứ gì “không chết” là dị phẩm của tôn hậu trần pháp. Và những gì không chết thì hoàn toàn tuyệt đối không phải là sinh vật. Còn đã là “sinh vật” thì “phải chết”. Sinh vật mà không chết là điều không thể có được.
C3. CHƠN NĂNG LẬP DỤ
Sao gọi là dụ? Dụ là ví dụ, tức lấy điều đã biết ví dụ khiến cho biết được điều chưa biết. Nhưng ví dụ theo thông thường là chỉ đủ để hiểu sự việc chứ không có gì sâu sắc, không phải là điều cần thiết khi nào cũng phải có như ở Nhân minh. Nhân minh dùng ví dụ để tạo thêm sức mạnh, để chứng minh cho chủ trương được rõ ràng xác đáng khiến đối phương phải thừa nhận. Như thông thường nói: “Người kia ngốc như cục đất”, thì ví dụ cục đất không thể chứng minh được gì thêm cho sự ngu ngốc của người kia. Nhưng khi Nhân minh nói: “Âm thanh là vô thường, vì do tác động mà có, ví dụ như bình”, thì cái ví dụ như bình này rất cần thiết để chứng minh cho âm thanh là vô thường. Bởi vì, “như bình” tự nó đã bao hàm hai tính cách “do tác động mà có” là điều đã được đôi bên công nhận, và “vô thường” là tính cách mà bên địch chưa biết công nhận. Như vậy, một ví dụ đúng theo Nhân minh bao giờ cũng bao hàm trong nó tính cách của Nhân, đã được đôi bên đồng công nhận và tính cách của tôn hậu trần mà chỉ bên lập công nhận chứ bên địch chưa biết, chưa công nhận. như vậy mới là ví dụ đúng, có khả năng để chứng minh thành lập tôn. Có đồng dụ và dị dụ. Đồng dụ, dị dụ đều có dụ y và dụ thể.
C3.1. Dụ y và dụ thể (sự dụ, lý dụ)
Không luận đồng dụ hay dị dụ, mỗi thứ đều có dụ y và dụ thể. Sự dụ là chỉ sự vật cụ thể được nêu làm ví dụ, nó là chỗ tựa của lý nghĩa, nên gọi là dụ y. dụ thể là lý chỉ lý nghĩa để so sánh về sự tương quan hay không tương quan giữa dụ y với tôn, nhân. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì do tác động mà có.
– Đồng dụ: Những gì do tác động mà có đều là vô thường (đồng dụ thể), như cái bình (đồng dụ y).
– Dị dụ: Những gì thường đều không do tác động mà có (dị dụ thể), như hư không (dị dụ y).
Về sự dụ, nếu được hai bên đồng công nhận càng tốt, nếu không thì ít nhất cũng phải được bên địch công nhận. Như trên, đồng dụ như cái bình và dị dụ như hư không. Nhưng nếu bên địch không công nhận cái bình có tính cách do tác động mà có ra, và là vô thường, và cũng không công nhận hư không có tính cách thường, và không do tác động mà có, thì bên lập không thể lấy bình làm đồng dụ và lấy hư không làm dị dụ. Lúc này phải lấy cái khác làm ví dụ. Có thể sự kiện được lấy làm ví dụ này, bên lập không công nhận mà bên địch công nhận vẫn được, vì bên lập chỉ cốt làm sao cho bên địch thừa nhận chủ trương của mình là được.
Lại nữa, đồng dụ thì cốt lấy sự đồng tính cách với nhân là chủ, còn đồng tính cách với tôn là phụ. Như luận thức trên, đồng dụ lấy sự đồng tính cách với nhân “do tác động mà có” là chủ, và lấy sự đồng tính cách với tôn “vô thường” là phụ. Ngược lại, dị dụ thì lấy sự khác tính cách với tôn là chủ, còn sự khác tính cách với nhân là phụ.
Lại nữa, nếu là tôn hữu thể (tức có thể chất cụ thể) thì sự dụ (dụ y) cũng phải là vật hữu thể. Nếu là tôn vô thể (tức không có thể chất, trừu tượng) thì sự dụ cũng phải vô thể, tức là không có thật chất. Về đồng dụ thì cần thiết phải nêu sự dụ, nhưng về dị dụ thì không nhất thiết lúc nào cũng phải nêu sự dụ.
+ Tôn hữu thể, như:
– Tôn: Kim cang có dẫn lực.
– Nhân: Vì thuộc vật chất.
– Dụ: Như sắt, thiết.
+ Tôn vô thể, như:
– Tôn: Ma quỷ không có thật.
– Nhân: Vì do trí tưởng tượng mà có.
– Dụ: Như cảnh chiêm bao.
Về lý dụ, bất kể luận thức nào, đồng dụ và dị dụ đều phải có đủ lý dụ, tức lý nghĩa phải phù hợp quy tắc luận lý, nhưng về sự dụ thì còn tùy theo tính chất của luận pháp mà có thể có, có thể không, như luận pháp vô thể thì ở đồng dụ y cũng phải vô thể, nhưng ở dị dụ y thì hữu thể hay vô thể đều được. Vì tính chất của đồng dụ là thuận hợp với nhân để thành lập tôn, cho nên tôn như thế nào thì đồng dụ phải như thế ấy, tôn hữu thể thì đồng dụ y phải hữu thể, tôn vô thể thì đồng dụ y cũng phải vô thể. Còn tính chất của dị dụ không phải là thuận hợp với nhân để thành lập tôn, mà chỉ có tác dụng ngăn chận sự xen lạm để làm cho tôn được rõ ràng xác quyết hơn mà thôi. Ví dụ như lập:
– Tôn: Tất cả A đều là B.
– Nhân: Vì là C vậy.
– Đồng dụ: Tất cả C đều là B, ví như D.
– Dị dụ: Tất cả những gì không phải B đều không phải C, ví như X.
Ở đây đồng dụ về mặt thuận thì nói tất cả C đều là B, ví như Đ, nhưng đồng thời cũng có thể là không B mà là H nữa, cũng được. Cho nên, muốn biết chắc hễ là C thì đều là B chứ không thể là H, nên cần có thêm dị dụ để chứng minh mặt nghịch rằng: “Hễ không phải C thì đều không phải B”.
C3.2. Hợp tác pháp, ly tác pháp.
Đồng dụ, dị dụ như đã nói, có khi còn gọi là hợp tác pháp, ly tác pháp. Vì đồng dụ tức phải có đủ nhân đồng phẩm và tôn đồng phẩm. Nghĩa là đồng dụ phải có đủ phẩm tính hợp với phẩm tính của nhân và phẩm tính của tôn, thì đồng dụ mới đúng đắn. Ngược lại, dị dụ phải có đủ tôn dị phẩm và nhân dị phẩm. Nghĩa là dị dụ phải có phẩm tính xa lìa phẩm tính của tôn và của nhân mới thành dị dụ. Như lập:
– Tôn : Con người phải chết.
– Nhân : Vì là sinh vật.
– Hợp tác pháp: Tất cả sinh vật đều phải chết, như con trâu bò.
– Ly tác pháp : Những gì không phải chết thì đều không phải là sinh vật, như ngói, đất.
Một đồng dụ tự nó bao hàm hai tính cách là tính cách của nhân và tính cách của tôn. Nên khi nêu đồng dụ, trước phải hợp với tính cách của nhân là chủ yếu, sau mới hợp với tính cách của tôn là thứ yếu. Như trên, cái nhân “là sinh vật”, có một phạm vi bao quát cả người và loài vật. Khi nêu một vật nào làm đồng dụ thì phải nêu “là sinh vật” trước, rồi tiếp sau mới nêu “đều phải chết” thì mới đúng nếu nói: “Đều phải chết là sinh vật” thì mắc lỗi, “đảo hợp”, nghĩa là hợp lộn ngược, không đúng quy tắc.
Trái lại, một dị dụ tự nó bao hàm hai tính cách khác hẳn với tính cách của tôn và của nhân. Nên ở dị dụ phải dùng ly tác pháp, nghĩa là khi nêu dị dụ, trước phải xa lìa với tính cách của tôn, sau mới tiếp xa lìa với tính cách của nhân. Như trên, những gì “không phải chết” thì đều “không phải sinh vật” mới đúng. Nếu nói: “Những gì không phải sinh vật đều không phải chết”, thì mắc lỗi “đảo ly”, không đúng quy tắc.
D. TỔNG KẾT VỀ CHƠN NĂNG LẬP
Một luận thức năng lập đúng đắn như sau:
– Tôn: Tiếng là vô thường.
– Nhân: Vì do nhân duyên tác động mà có.
– Đồng dụ: Những gì do nhân duyên tác động mà có, đều vô thường (lý dụ), như cái bình (sự dụ, hợp tác pháp).
– Dị dụ: Những gì chẳng phải vô thường đều không do nhân duyên tác động mà có ra, (lý dụ) như hư không (sự dụ, ly tác pháp).
Ở đây tôn y “tiếng”, “vô thường” đều được hai bên công nhận. nhưng kết hợp tiếng và vô thường lại với nhau bằng một hệ từ “là”, thành tôn thể “tiếng là vô thường” thì chỉ bên lập công nhận, chứ bên địch không công nhận (bên địch ở đây chỉ cho phái Thanh thường luận chủ trương tiếng là thiêng liêng từ Thiên Thần phát ra, thường hằng bất biến). Nhưng lý do vì sao nói tiếng là vô thường? Vì tiếng không tự có, tiếng phải có nhân duyên tác động mà có. Điều này phải được cả hai bên đều công nhận, hoặc ít ra phải được bên địch công nhận, khi ta lập luận dựa theo ý kiến của đối phương để phá họ. Như vậy cái nhân “do nhân duyên tác động mà có” đối với tôn “tiếng là vô thường” có đủ tướng thứ nhất “biến thị tôn pháp tánh”.
Vậy tất cả những gì do nhân duyên tác động mà có, cũng đều vô thường cả hay sao? Đúng vậy! Tất cả những gì do nhân duyên tác động mà có đều vô thường cả, vì như cái bình v.v… Đây là cái nhân có đủ tướng thứ hai “đồng phẩm định hữu tánh”. Nhưng những gì thường còn, có phải cùng có nhân duyên tác động mà có ra hay không? Không! Những gì thường còn thì hoàn toàn tuyệt đối không do nhân duyên tác động mà có ra, ví như hư không. Đây là cái nhân có đủ tướng thứ ba “dị phẩm biến vô tánh”.
E. LUẬN VỀ TỢ NĂNG LẬP (Tôn sai, nhân sai, dụ sai).
Lập luận sai lầm gọi là tợ năng lập. Một lập luận gần như đúng, nhưng kỳ thật trong ấy có những lỗi lầm. Sự lỗi lầm ấy Tam đoạn luận gọi là “mậu ngộ”.
Theo Nhân minh, lỗi lầm này gồm hai thứ, là lỗi về thiếu chi (khuyết chi) và lỗi về chi có sai lầm (chi quá). Một luận thức đúng là phải đầy đủ cả ba chi tôn, nhân, dụ, nhưng nếu thiếu nhân, hoặc thiếu dụ thì bị lỗi về thiếu chi. Hoặc tuy lập đủ ba chi tôn, nhân, dụ nhưng trong các chi ấy có chỗ sai lầm, thì gọi là lỗi về chi. Nhân minh chú ý nêu các lỗi về các chi này. Lỗi ở tôn chi có 9. Ở nhân chi có 14; và ở dụ chi có 10, cộng thành 33 lỗi. Luận thức nào mà bị phạm trong 33 lỗi đó thì luận thức ấy là sai lầm, là tợ năng lập, vì luận thức này chỉ có thể làm phát sinh trí hiểu biết sai lầm nơi đối phương mà thôi.
E1. CHÍN LỖI VỀ TÔN LÀ
Hiện lượng tương vi, tỷ lượng tương vi, tự giáo tương vi, thế gian tương vi, tự ngữ tương vi, năng biệt bất cực thành, sở biệt bất cực thành, câu bất cực thành, và tương phù cực thành. Trong 9 lỗi này, 5 lỗi đầu là tương vi, 4 lỗi sau là lỗi bất cực thành.
E1.1. Năm lỗi tương vi của tôn:
+ Lỗi tương vi thứ nhất: Hiện lượng tương vi (trái với hiện lượng)
Đây là lỗi lập tôn tương phản với sự thật hiện kiến. Hiện lượng tức là hiện kiến, là sự nhận biết ngay hiện tại không do dự, không điên đảo, không trùng duyên. Không do dự là sự vật hiện ra trước mắt như thế nào, trực tiếp nhận biết ngay nó, tức hiện kiến nó, không phân vân, do dự. Không điên đảo tức là không đảo lộn thực tại. Như vì mắt nhậm mà thấy mặt trăng thứ hai, trong đêm mờ thấy khúc cây trụi là hình người, thấy lầm dây là rắn, thuyền đi thầy bờ chạy, mây bay thấy trăng chạy … Thấy mặt trăng thứ hai, hình người, con rắn, bờ chạy, trăng chạy ở đây đều là hiện thấy không do dự, song lại không phù hợp với sự thật mà là đã đảo lộn sự thật, không phải hiện lượng đúng. Không trùng duyên là không phải nhận thức trùng lặp, như thấy A liền biết A, chứ không phải chờ nhớ tới B mà biết A. hoặc khi thấy thỏ, biết ngay thỏ không sừng, chứ không đợi so sánh với trâu có sừng mới biết thỏ không sừng. Đó là hiện lượng. Nếu đợi so sánh với trâu có sừng mới biết thỏ không sừng, đó là trùng duyên, không phải hiện lượng. Không trùng duyên mới là hiện lượng.
Tôn trái với hiện lượng, như:
– Tôn: Rắn có chân.
– Nhân: Vì đi, chạy được.
– Dụ: Như người.
Hoặc:
– Tôn: Loài thú có hai chân.
– Nhân: Vì đi, chạy được.
– Dụ: Như người.
Không đợi phải có nhân, dụ mà cứ xem ngay tôn đã thấy sai. Rắn có chân, loài thú có hai chân là trái với sự hiện thấy rắn không chân, loài thú có 4 chân, nên gọi tôn này trái với hiện lượng.
+ Lỗi tương vi thứ hai: Tỷ lượng tương vi (trái với tỷ lượng).
Tỷ lượng là sự nhận biết theo loại suy, so sánh giữa vật hiện thấy, hiện biết với vật chưa thấy, chưa biết. Hiện lượng tuy là hiện thấy, hiện nghe, hiện ngửi của giác quan, hình như có thể tin cậy được. Nhưng lắm lúc dễ sai lầm, như khi ngồi trên thuyền đi thấy bờ chạy, thấy sợi dây thành con rắn. Nếu sự hiểu biết của con người chỉ có ngang đó thì bờ cứ bị thấy chạy, sợi dây cứ bị nhận lầm là con rắn mãi, chứ không khi nào thấy được chân tướng của bờ cứ đứng yên; và chính sợi dây chứ không phải rắn. Vì vậy cần phải có tác dụng tri thức để so sánh suy tầm chân tướng của sự vật, đó tức là tỉ lượng. Tỷ là so sánh, loại suy; lượng là nhận biết. Khi nhận biết bằng cách suy tầm so sánh gọi là tỷ lượng. Hiện lượng tuy hiện kiến sự vật nhưng phạm vi nó rất hẹp, không thể thấy biết hết được phạm vi rộng lớn của các tướng và tính tương quan về mặt không gian, thời gian của sự vật, phải nhờ tỷ lượng mới biết hết phạm vi này.
Tỷ lượng ở đây là trí của người đối luận và người làm chứng dựa vào lập ngôn của người lập luận mà biết đúng sự vật của người lập nêu lên. Nếu lập ngôn sai thì nó sẽ làm cho trí tỷ lượng của người đối luận và người làm chứng cũng bị sai. Đó gọi là tỷ lượng tương vi. Lập ngôn mà phạm phải lỗi tỷ lượng tương vi, tức là mâu thuẫn trên mặt luận lý. Như lập:
– Tôn: Ông A không phải chết.
– Nhân: Vì là sinh vật vậy.
Ở đây, ông A không phải chết, ông A đang còn sống; rõ ràng là không trái với hiện lượng. Nhưng vì ông A là một sinh vật, mà sinh vật nào cũng phải chết, thế thì làm sao riêng ông A không phải chết? Vậy ai nói ông A không phải chết là trái với tỷ lượng. Hoặc như lập:
– Tôn: Mặt trời thường đi vòng quả đất.
– Nhân: Vì hàng ngày mọc ở phương Đông, lặn về phương Tây.
Mặt trời đi vòng quả đất, vì hàng ngày mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây, tuy không trái với hiện lượng vì ai cũng thấy như vậy, song nó trái với tỷ lượng, tức trái với sự so sánh chứng minh của khoa học. Khoa học chứng minh rằng: mặt trời là một định tinh luôn đứng yên một chỗ, còn quả đất là một khối hành tinh quay chung quanh mặt trời.
+ Lỗi tương vi thứ ba: Tự giáo tương vi (trái với giáo nghĩa của mình).
Khi một người theo học phái hay tôn giáo nào, dĩ nhiên người ấy đã thừa nhận giáo nghĩa của học phái, tôn giáo ấy đúng và là giáo nghĩa của mình. Nếu người ấy đem giáo nghĩa của mình ra tổ chức thành luận thức, mà trong lập luận đó có chỗ không hoàn toàn, không đúng hẳn, thậm chí còn trái ngược với giáo nghĩa của mình, thì đó là bị lỗi “trái với tự giáo”. Lập luận như vậy, bên địch luận cứ việc chỉ ngay vào chỗ trái đó mà công kích cũng đủ, không cần phải xét đến nhân, dụ của người lập đúng hay không đúng. Như giáo đồ nhà Phật lập luận:
– Tôn: Luật Nhân quả không phải là xác thực.
Hoặc giáo đồ Gia Tô lập luận:
– Tôn: Thượng đế không phải là toàn trí, toàn năng.
Lập luận như thế đều bị tương phản với giáo nghĩa của mình, và bị lỗi “tự giáo tương vi”. Thế nên, không luận ở học phải hay tôn giáo nào, khi lập luận đều phải lấy sự “không trái với tự giáo” làm nguyên tắc.
+ Lỗi tương vi thứ tư. Thế gian tương vi (trái với thế gian).
Do trình độ tin tưởng và hiểu biết khác nhau, nên thế gian có thể chia ra hai thành phần. Một thành phần ít học, lạc hậu và một thành phần có học, văn minh. Hoặc một thành phần phàm phu và một thành phần thánh giả. Tuy đối với cùng một vấn đề mà thành phần này tin hiểu như thế này, thành phần khác tin hiểu như thế khác. Nếu khi đưa ra một chủ trương mà trái với chỗ tin hiểu của thành phần thế gian đang đối luận với mình, thì chủ trương ấy phạm lỗi “thế gian tương vi”.
Như đối với thành phần thế gian tin hiểu rằng: “Rồng làm ra mưa” mà đưa ra chủ trương: “Mưa do hơi nước đọng lại và trút xuống” là bị lỗi “thế gian tương vi”.
Hoặc như đối với thành phần thế gian tin hiểu rằng: “Trong mỗi người có một bản ngã thường tại”, mà đưa ra chủ trương “không có một bản ngã thường tại trong mỗi người” thì cũng bị lỗi “thế gian tương vi”.
Song như trước đã nói, một tôn thể có giá trị là phải “thuận ý mình, trái ý người”. nay trái với thế gian, như vậy thì càng làm cho tôn thêm giá trị, chứ sao lại bảo là bị lỗi tương vi?
Vả lại, nếu luận thức tương phản với sự thật thì mắc lỗi trái với hiện lượng, tương phản với nghĩa lý thì mắc lỗi trái với tỷ lượng, vì hai lối luận thức này sẽ làm phát sinh trí hiểu biết không đúng với sự thật và nghĩa lý nơi hai người đối luận nên mắc lỗi là phải. Còn luận thức trái với thế gian thì lắm lúc lại làm cho thế gian thay đổi sự tin hiểu nông cạn và sai lầm của họ thành ra sự tin hiểu đúng đắn và sâu sắc, thì làm sao lại bị lỗi? Nếu cứ sợ trái với thế gian thì sẽ không bao giờ thay đổi được sự tin hiểu bất hợp lý của thế gian, để đưa thế gian tiến theo con đường Chân, Thiện, Mỹ?
Để tránh khỏi những thắc mắc trên, nên hiểu rằng: “Thuận ý mình, trái ý người” là đối với địch luận mà nói. Còn “trái với thế gian” là đối với thành phần quần chúng đông đảo mà nói. Và “thuận ý mình, trái ý người” không phải nhất định là “trái với thế gian”. Hai điều coi như giống nhau mà kỳ thật khác nhau, vì khi tranh luận giữa đôi bên thì có người làm chứng, còn khi nói với thế gian thì không ai làm chứng cả. Tuy nhiên, vì để tôn trọng chỗ tin hiểu đã có sẵn trong thế gian, và không làm cho thế gian phải ngạc nhiên đến nỗi phản đối khi ta đưa ra một chủ trương đúng nhưng trái với họ, thì trước mệnh đề (chủ trương) ta thêm lời “giản biệt” với ý nghĩa cho họ biết rằng chủ trương này là có chỗ căn cứ vào kết quả của sự nghiên cứu chứ không phải ức đoán. Như đối với thế gian còn tin “trời làm động đất” mà muốn nói rõ đất tự chuyển động chứ không phải do trời làm, thì phải nói:
– Tôn: Cứ theo kết quả của sự nghiên cứu khoa học, thì quả đất tự nó chuyển động.
Hoặc:
– Tôn: Cứ theo nghĩa rốt ráo, thì trong mỗi người không có bản ngã thường tại.
Thêm những lời như trên ở trước mệnh đề (tôn) để giản biệt. Hoặc thêm nhóm từ: “Theo chỗ tôi hiểu” hoặc: “Cứ theo lời ông ấy”, “vị ấy” (ông ấy, vị ấy đây là người có uy tín với thành phần thế gian đang nghe mình nói) ở trước mệnh đề thì tôn khỏi bị lỗi “trái với thế gian”.
Hỏi: Thế gian tương vi và tỷ lượng tương vi khác nhau thế nào?
Đáp: Thế gian tương vi là nhìn ngay tôn đã thấy rõ, còn tỷ lượng tương vi thì phải lấy nhân và dụ ra so sánh mới thấy rõ.
+ Lỗi tương vi thứ năm: Tự ngữ tương vi (lời sau trái lời trước).
Tôn thể gồm phần tự tánh và sai biệt. Từ ngữ về tự tánh được trần bày ra trước gọi là tiền trần; từ ngữ về sai biệt được trần bày ra sau, gọi là hậu trần. Hậu trần sai biệt phải là thuộc tánh của tiền trần tự tánh, tuy khác nhau nhưng phải tương quan phụ thuộc vào nhau. Trong một tôn thể, hậu trần phải làm rõ tính cách của tiền trần mới đúng, nếu hậu trần đã không làm rõ được tính cách của tiền trần mà còn phủ nhận tiền trần, thì bị lỗi “tự ngữ tương vi”, tức mâu thuẫn ngay nơi tự ngữ của một tôn thể. Nhìn vào là địch nhân có thể chỉ trích ngay, không cần xét đến nhân dụ. Như lập:
– Tôn: Cha tôi rất Thánh thiện, không bao giờ dâm dục.
Từ ngữ “không bao giờ dâm dục” nó trái ngược, phủ nhận từ ngữ “cha tôi rất thánh thiện”. Vì nếu không bao giờ dâm dục thì làm sao thành cha tôi? Đây quả là từ ngữ sau trái với từ ngữ trước của tự mình, phạm lỗi “tự ngữ tương vi” nên tôn này không thể thành lập được. Hoặc lập:
– Tôn: Loài động vật là không có tri giác.
Không có tri giác thì làm sao thành động vật? Như vậy, từ ngữ “không có tri giác” nó phủ nhận từ ngữ “động vật”, nên gọi là lỗi “tự ngữ tương vi”.
E1.2. Bốn lỗi bất cực thành của tôn
+ Lỗi bất cực thành thứ nhất: Năng biệt bất cực thành (danh từ sau không được công nhận). danh từ sau (hậu trần) có chức năng để biện biệt danh từ trước (tiền trần). Như nói: “Hoa đẹp”. Đẹp có chức năng để biện biệt hoa như thế nào. Khi lập tôn, nếu là Lập Lượng, thì ý nghĩa của tiền trần và hậu trần phải được cả hai bên công nhận, nếu là Phá Lượng thì ý nghĩa của tiền trần và hậu trần, nếu không được hai bên công nhận, thì ít nhất cũng phải được bên địch công nhận. Nếu ý nghĩa hậu trần năng biệt không được công nhận thì tôn ấy phạm lỗi “năng biệt bất cực thành” (cực thành có ý nghĩa được công nhận từ ngữ ấy nói gì).
Như giáo đồ Gia tô lập luận với giáo đồ nhà Phật:
– Tôn: Vạn vật duy một Thần linh sáng tạo.
“Vạn vật” là danh từ trước, không những giáo đồ nhà Phật, mà mọi người ai cũng hiểu và công nhận. Nhưng “Vị Thần sáng tạo” là danh từ sau (năng biệt) thì giáo đồ nhà Phật không công nhận. như vậy, cái tôn trên mắc vào lỗi “năng biệt bất cực thành”.
Hoặc như giáo đồ nhà Phật lập luận với giáo đồ Gia tô rằng:
– Tôn: Vạn vật đề do nhân duyên tạo thành.
Thì giáo đồ Gia tô cũng không công nhận nhân duyên tạo thành. Đối với giáo đồ Gia tô thì chỉ có độc nhất vị Thần tạo ra vạn vật, chứ làm sao có cái gì khác có thể tạo ra vạn vật? Nhân duyên là cái gì mà có thể tạo ra vạn vật? Như vậy, tôn trên cũng phạm lỗi “năng biệt bất cực thành”. Chỉ có hai trường hợp có thể lập được. Một là trường hợp lập tự tỷ lượng (xem rõ ở trước) thì phải thêm lời giản biệt ở trước tôn, như:
– Tôn: Theo chúng tôi, vạn vật đều do nhân duyên tạo thành.
Hai, trường hợp muốn lập “Vạn vật đều do nhân duyên tạo thành”, thì trước tiên phải giải nghĩa cho đối phương hiểu và công nhận như thế nào gọi là nhân duyên? Và do nhân duyên tạo thành?
+ Lỗi bất cực thành thức hai: Sở biệt bất cực thành (danh từ trước không được công nhận). Trường hợp trên là danh từ sau trong tôn không được công nhận.
Như giáo đồ Gia tô lập luận với giáo đồ Phật giáo:
– Tôn: Đấng tạo hóa sanh ra muôn loài.
Giáo đồ Phật giáo không công nhận có đấng Tạo hóa ở riêng ra ngoài muôn loài, như vậy thì không còn lý do để tranh luận có tạo sinh hay không tạo sinh ra muôn loài, nên tôn này bị lỗi “sở biệt bất cực thành”.
Hoặc như giáo đồ Phật giáo lập luận với người chưa biết đến lý Duy thức nhà Phật, rằng:
– Tôn: A-lại-da thức biến hiện ra tất cả tướng sự vật.
Khi nghe, người kia sẽ ngơ ngác, không hiểu A-lại-da thức là gì, nên không công nhận là có A-lại-da thức. Chủ thể A-lại-da thức đã bị phủ nhận, thì có hay không có tác dụng biến hiện ra tất cả tướng sự vật, không thành vấn đề, tức cũng không cần phải tranh cãi.
Như vậy, hai trường hợp lập tôn ở trên đều bị lỗi “sở biệt bất cực thành”.
+ Lỗi bất cực thành thứ ba: Câu bất cực thành (cả hai danh từ trước và danh từ sau trong tôn đều không được công nhận).
Hai danh từ trước và sau là hai tôn y để kết hợp lại với nhau thành tôn thể. Khi hai danh từ trước và sau là hai tôn y đã không được công nhận thì làm sao có thể kết hợp lại với nhau để thành tôn thể. Như nói: “Lông rùa có thể buộc sừng thỏ”. Cả lông rùa và sừng thỏ đều bị phủ nhận, thì kết hợp lại thành một mệnh đề tôn thể: “Lông rùa có thể buộc sừng thỏ” sao được? Hoặc như:
– Tôn: A-lại-da thức là chỗ nhiếp chứa tất cả chủng tử thiện ác.
Người chưa biết gì lý Duy thức của Phật giáo thì đâu có hiểu A-lại-da thức là gì, chủng tử là gì; đã không hiểu tất không công nhận. Như vậy, lập tôn như trên đối với những người này sẽ bị lỗi “câu bất cực thành”. Nghĩa là cả tiền trần và hậu trần đều không được địch nhân công nhận.
+ Lỗi cực thành thứ tư: Tương phù cực thành (phù hợp thành). Đây là lỗi ở tôn thể. Tôn thể, theo quy tắc là thuận ý mình, trái ý người, thì mới có chỗ tranh biện, nếu lập một tôn thể mà sự lý đều đã được cả hai bên công nhận, thì lập vô ích, nên bị lỗi “tương phù cực thành”. Như lập:
– Tôn: Người ta trông thấy được là nhờ có hai mắt.
Hoặc Phật giáo đồ lập luận với nhau:
– Tôn: Đức Phật là đấng Đại từ bi.
Đây đều là sự hiển nhiên, cả hai bên đều đã công nhận trước, cần gì phải lập tôn, nên hễ lập là bị lỗi “tương phù cực thành”.
E2. MƯỜI BỐN LỖI VỀ NHÂN
Gồm 4 lỗi bất thành, 6 lỗi bất định, 4 lỗi tương vi, cộng thành 14 lỗi.
+ Bốn lỗi bất thành của nhân là:
1. Lưỡng câu bất thành.
2. Tùy nhất bất thành.
3. Do dự bất thành.
4. Sở y bất thành.
+ Sáu lỗi bất định của nhân:
5. Cọng bất định.
6. Bất cọng bất định.
7. Đồng phần, dị toàn bất định.
8. Dị phần, đồng toàn bất định.
9. Câu phần bất định.
10. Tương vi quyết định.
+ Bốn lỗi tương vi của Nhân:
11. Pháp tự tướng tương vi.
12. Pháp sai biệt tương vi.
13. Hữu pháp tự tướng tương vi.
14. Hữu pháp sai biệt tương vi.
E2.1 Bốn lỗi bất thành của nhân
Nhân phải có tính cách hoàn toàn quan hệ với tiền trần của tôn, nói cách khác, nhân phải hoàn toàn là một thuộc tánh của tiền trần tôn. Nếu nhân thiếu tính quan hệ, hay không phải là một thuộc tính hoàn toàn của tiền trần tôn, thì nhân ấy mắc phải 1 trong 4 lỗi bất thành. Như lập:
– Tôn: A là B.
– Nhân: Vì là C vậy.
Nếu nhân C không quan hệ với A là danh từ trước (tiền trần) của tôn, tức không phải là một thuộc tánh của tôn (A), hoặc chỉ quan hệ một phần, thì nhân (C) bị lỗi bất thành, vì nhân (C) ấy thiếu mất một điều kiện quan yếu thứ nhất là “biến thị tôn pháp tánh”, như đã nói trước kia.
Ta có thể đem sự quan hệ giữa nhân và tôn tiền trần hữu pháp chia ra 5 trường hợp:
1. Nhân C chỉ quan hệ với một phần tiền trần tôn A, như:
2. Tiền trần tôn A chỉ là một bộ phận trong Nhân C, như:
3. Nhân C và tiền trần tôn A quan hệ đồng nhau, như:
4. Nhân C và tiền trần tôn A chỉ quan hệ một phần với nhau, như:
5. Nhân C và tiền trần tôn A hoàn toàn không quan hệ nhau, như:
Trong 5 trường hợp trên, chỉ có trường hợp thứ hai và thứ ba là đủ điều kiện làm nhân. Còn 3 trường hợp kia thì nhân thiếu tính cách quan hệ với tiền trần tôn, nên phạm lỗi “bất thành”.
+ Lỗi bất thành thứ nhất: Lưỡng câu bất thành (hai bên lập và địch đều không công nhận).
Một cái nhân mà hoàn toàn không có quan hệ, không phải là một thuộc tánh của tôn tiền trần hữu pháp, khiến hai bên lập và địch vừa trông vào đã thấy sai, không công nhận. Cái nhân ấy bị lỗi “lưỡng câu bất thành”. Như nói:
– Tôn: Mây có thể bay đi.
– Nhân: Vì có hai cánh.
Ai cũng hiểu, hễ có hai cánh là có thể bay đi, nhưng ai cũng biết mây không có hai cánh. Như vậy, “có hai cánh” không phải là một thuộc tính của mây, hoàn toàn không quan hệ với mây. Đã hoàn toàn không quan hệ với mây, mà lấy “hai cánh” để thành lập tôn “Mây có thể bay đi” sao được?
+ Lỗi bất thành thứ hai: Tùy nhất bất thành (một bên không công nhận).
Một cái nhân mà một bên công nhận nó có tính cách quan hệ với tôn tiền trần hữu pháp, còn một bên không công nhận nó có tính cách quan hệ với tôn tiền trần hữu pháp. Như vậy gọi là tùy nhất bất thành. Nếu bên lập không công nhận thì gọi là “tự tùy nhất bất thành”, nếu bên địch không công nhận, thì gọi là “tha tùy nhất bất thành”.
Như Phật giáo đồ lập luận với Gia tô giáo đồ:
– Tôn: Người ác sẽ bị khổ ở vị lai.
– Nhân: Vì bị Thần quở phạt vậy.
Cái nhân “bị Thần quở phạt” là tính cách bên người đối biện là Gia tô giáo sẵn sàng công nhận, nhưng bên người lập là Phật giáo đồ thì không công nhận, thế mà nếu Phật giáo đồ dùng nó làm nhân cho cái tôn: “Người ác sẽ bị khổ ở vị lai”, thì bị lỗi “tự tùy nhất bất thành”. Đây là trường hợp ít xảy ra, chỉ trừ người Phật giáo kém hiểu biết hoặc ngớ ngẩn mới chạm phải lỗi này.
Nếu Gia tô giáo đồ dùng tôn và nhân trên mà lập luận với Phật giáo đồ:
– Tôn: Người ác sẽ bị khổ ở vị lai.
– Nhân: Vì bị Thần quở phạt vậy.
Cái nhân này phía người lập là Gia tô giáo đồ hẳn đã công nhận, nhưng ở phía người đối luận là Phật giáo đồ thì không công nhận. Cho nên, nhân này đối với Phật giáo đồ bị lỗi: “tha tùy nhất bất thành”.
Trường hợp nếu ở trước cái nhân mà chỉ bên lập công nhận còn bên địch không công nhận, mà có thêm vào tiếng giản biệt như “tôi nhận”, “theo tôi hiểu” thì không lỗi. Nếu trước cái nhân chỉ bên địch công nhận chứ bên lập không công nhận, mà có thêm tiếng giản biệt như: “Ông bảo”, “theo như ông” thì cũng không lỗi. Tuy nhiên trường hợp trước chỉ có áp dụng cho luận thức tự thủ (tự tỷ lượng), còn trường hợp sau chỉ áp dụng cho luận thức tấn công (tha tỷ lượng) mà thôi.
+ Lỗi bất thành thứ ba: Do dự bất thành (do dự không rõ rệt). Nhiệm vụ của Nhân là để thành lập tôn. Nếu nhân còn mù mờ do dự không rõ ràng thì không thể thành lập được tôn rõ ràng chắc chắn. Nếu nhân do dự thì cũng chỉ đưa đến sự hiểu biết do dự về tôn mà thôi.
Ví dụ như thấy ở xa xa có một đám gì đang bay lên, như là mây, như là khói, bụi, mù v.v… chưa rõ ràng mà đã vội lập luận:
– Tôn: Đằng kia có lửa.
– Nhân: Vì thấy như có khói bay.
“Thấy như có khói bay” tức chưa biết chắc đó là mù hay là khói, mà nếu lấy nó làm nhân để nói đằng kia có lửa, thì cũng chưa hẳn là đằng kia có lửa thật. Nhân do dự nên tôn thành do dự.
Hoặc như, đang đêm nghe ở xa có tiếng vang dội như là tiếng người cãi lộn, như là tiếng chó sủa, đã vội lập luận:
– Tôn: Đằng kia người ta đang cãi lộn.
– Nhân: Vì nghe như có tiếng gì la lối.
Nhân này cũng phạm lỗi do dự bất thành.
+ Lỗi bất thành thứ tư: Sở y bất thành. Nhân là một thuộc tánh của tôn tiền trần hữu pháp. Như vậy tôn tiền trần hữu pháp là chỗ nương của nhân. Nếu tôn tiền trần hữu pháp (tức tôn sở lập) không được bên đối luận chấp nhận thì tôn ấy bị lỗi “sở biệt bất cực thành”. Tôn đã bị lỗi sở biệt bất cực thành tức là chỗ nương của nhân không được đứng vững mà cứ lập luận, thì nhân ấy bị lỗi “sở y bất thành”. Như ngoại đạo đối với Phật giáo đồ lập luận rằng:
– Tôn: Ngã thể biến khắp mọi nơi.
– Nhân: Vì sanh ra khổ, vui, tri giác.
Nhân trên bị lỗi sở y bất thành. Vì ngã thể đứng vào vị trí tôn tiền trần hữu pháp là chỗ nương của nhân, nhưng Phật giáo đồ không công nhận có ngã thể, thế là chỗ nương của nhân không thành, nên nhân ấy nương vào tôn ấy sẽ bị lỗi “sở y bất thành”. Hoặc như nói:
– Tôn: Người không có con nối dòng là người bất hiếu nhất (bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại).
– Nhân: Vì đạo Khổng nói như vậy.
Nhân này đối với người không theo đạo Khổng sẽ phạm lỗi ở y bất thành. Lấy lời đạo Khổng làm chỗ nương cho nhân, song người đối luận không công nhận lời đạo Không, thì nhân ấy bị mất chỗ nương, nên bị lỗi.
E2.2. Sáu lỗi bất định của nhân
Ở đoạn trên kia, “nhân” bị bốn lỗi bất thành, vì nhân thiếu tướng thứ nhất là:
“Biến thị tôn pháp tánh”. Ở đây “nhân” bị sáu lỗi bất định, vì nhân thiếu tướng thứ hai là: “đồng phẩm định hữu” và tướng thứ ba là: “dị phẩm biến vô”.
Nhân là môi giới giữa tôn và dụ, nên nhân phải có quan hệ với đồng phẩm của tôn và tuyệt đối không quan hệ với tất cả dị phẩm của tôn mới được. Nếu nhân không quan hệ với đồng phẩm cũng không quan hệ với dị phẩm, hoặc quan hệ với các đồng phẩm dị phẩm, hoặc quan hệ với đồng phẩm một phần, dị phẩm toàn phần, hoặc quan hệ với đồng phẩm toàn phần dị phẩm một phần, hoặc quan hệ với đồng phẩm một phần dị phẩm một phần, thì đều bị lỗi “bất định”.
+ Lỗi bất định thứ nhất: Cọng bất định (nhân quan hệ với cả đồng phẩm dị phẩm). Đây là trường hợp mà phạm vi của nhân quá rộng, quan hệ luôn cả đồng phẩm và dị phẩm của tôn. Như lập:
– Tôn: Tiếng là vô thường.
– Nhân: Vì vô hình.
– Đồng dụ: Như tâm niệm buồn vui.
– Dị dụ: Như hư không.
Cái nhân “vô hình” trên có tính cách quá rộng, liên hệ với cả đồng dụ như tâm niệm buồn vui vô thường, và dị dụ như hư không thường. Vì tâm niệm buồn vui và hư không đều là vô hình, nhưng một bên thì vô thường, một bên thì thường. Hoặc như lập:
– Tôn: Cá voi là loài có vú.
– Nhân: Vì là loài động vật vậy.
– Đồng dụ: Như chó, mèo.
– Dị dụ: Như gà, vịt.
Cái nhân “là loại động vật” quá rộng, liên hệ chung cả đồng dụ như chó, mèo có vú, và dị dụ như gà, vịt không có vú, tuy cùng là loài động vật như nhau. Như đồ biểu:
Hai nhân nêu trên đều bị lỗi cọng bất định, vì nó thiếu cái tướng “dị phẩm biến vô”, nên nó không thể chứng minh cho tôn một cách xác định tiếng vô thường hay thường, loài cá voi có vú hay không có vú? Hoặc như lập:
– Tôn: Tiếng là vô thường.
– Nhân: Vì là cái ta nhận biết được vậy.
– Đồng dụ: Như bình, bàn v.v…
– Dị dụ: Như hư không.
Cái nhân “ta nhận biết được” cũng có tính cách thông cả đồng dụ như bình, bàn, vô thường, và thông với dị dụ như hư không thường, nên nhân này cũng bị lỗi “cọng bất định”, vì không thể dùng nó để chứng minh cho tôn một cách xác định được. Đây cũng giống như trường hợp thứ nhất trong 9 cú nhân của Cổ nhân minh “đồng phẩm có, dị phẩm có”.
+ Lỗi bất định thứ hai: Bất cọng bất định (nhân không có tính cách quan hệ với cả đồng phẩm, dị phẩm).
Ngược với trên, nhân này có phạm vi quá hẹp, không dính gì với đồng phẩm cũng không dính gì với dị phẩm. Đây cũng giống như trường hợp 5 trong 9 cú nhân của Cổ nhân minh “đồng phẩm không, dị phẩm không”.
Như lập:
– Tôn: Âm thành là thường còn.
– Nhân: Vì là cái nghe được.
Cái có tính “nghe được” chỉ là âm thanh. Ngoài âm thanh, trong vũ trụ không một vật gì dù thường hay vô thường mà có tính cách nghe được, để lấy làm đồng dụ chứng minh cho tôn “âm thanh là thường còn”. Như vậy, nhân này đã thiếu mất tướng cần thiết thứ hai là “đồng phẩm định hữu” nên bị lỗi “bất cọng bất định”. Như đồ biểu:
+ Lỗi bất định thứ ba: Đồng phần, dị toàn bất định. Cũng gọi là đồng phẩm nhất phần chuyển, dị phẩm biến chuyển (nhân có tính cách quan hệ với đồng phẩm một phần, và với dị phẩm toàn phần). Nhân phải tuyệt đối không quan hệ với toàn phần dị phẩm, nhưng ở đây nói lại quan hệ với toàn phần dị phẩm, thế là nhân này thiếu mất tướng cần thiết thứ ba là “dị phẩm biến vô” nên phạm lỗi “đồng phần, dị toàn bất định”. Đây cũng giống như trường hợp thứ 7 trong 9 cú nhân của Cổ nhân minh: “Đồng phẩm có chẳng có, dị phẩm có”. Như lập:
– Tôn: Tiếng không phải do sự tác động mà có.
– Nhân: Vì là vô thường.
– Đồng dụ: Như điển chớp, như hư không.
– Dị dụ: Như bình, bàn.
Điển chớp không phải là do sự tác động của con người mà có, nhưng điển chớp vô thường, còn hư không, tuy cũng không do sự tác động của con người mà có, song lại là thường. Như vậy, cái nhân “vì vô thường” chỉ liên hệ với một phần tôn đồng phẩm là điển chớp, còn một phần tôn đồng phẩm khác như hư không thì lại không có cái nhân “vì vô thường”. Trong khi đó tất cả những gì dị phẩm với tôn như bình, bàn, thì đều có tính cách của nhân “vì vô thường”. Do đó, nhân này bị lỗi “đồng phần, dị toàn bất định”. Xem đồ biểu:
+ Lỗi bất định thứ tư: Dị phần, đồng toàn bất định. Cũng gọi dị phẩm nhất phần chuyển, đồng phẩm biến chuyển (nhân có đủ tính cách đồng phẩm, lại xen vào một ít tính cách dị phẩm). Nhân phải có đủ tướng cần thiết thứ ba là “dị phẩm biến vô” tức là Nhân phải tuyệt đối không quan hệ với toàn bộ dị phẩm, thế mà ở đây lại có quan hệ với một bộ phận dị phẩm, nên bị lỗi bất định. Cũng giống như trường hợp thứ ba trong 9 cú nhân của Cổ nhân minh “đồng phẩm có, dị phẩm có chẳng có”. Như lập:
– Tôn: Người ấy không phải là đàn bà.
– Nhân: Vì không sinh con.
– Đồng dụ: Như ông kia.
– Dị dụ: Như bà nọ.
Tất cả người không phải đàn bà thì đều không sinh con, nhưng trong tất cả đàn bà có người sinh con, cũng có người không sinh con. Như vậy, cái nhân “không sinh con” tuy có mặt ở toàn bộ đồng phẩm của tôn, nhưng lại còn có mặt ở một bộ phận dị phẩm của tôn, nên bị lỗi bất định. Vì cái nhân “không sinh con” ấy nếu thành lập được cái tôn “người ấy không phải là đàn bà” thì cũng có thể thành lập được cái tôn: “Người ấy là đàn bà”. Xem đồ biểu:
+ Lỗi bất định thứ năm: Câu phẩm bất định; cũng gọi là câu phẩm nhất phần chuyển (nhân liên hệ với một phần đồng phẩm và một phần dị phẩm). Nhân phải có tướng cần thiết thứ ba là “dị phẩm biến vô” tức là nhân phải tuyệt đối không liên hệ với toàn bộ dị phẩm, nhưng ở đây nó đã liên hệ một phần đồng phẩm, lại còn liên hệ một phần dị phẩm, nên bị lỗi bất định. Cũng giống như trường hợp thứ 9 trong 9 cú nhân của Cổ nhân minh “đồng phẩm có chẳng có, dị phẩm có chẳng có”. Như lập:
– Tôn: Tiếng là thường.
– Nhân : Vì không chất ngại.
– Đồng dụ: Như hư không, như cực vi.
– Dị dụ: Như bình, bàn, như buồn vui.
Cái nhân trên vì thiếu tướng cần thiết thứ ba là “dị phẩm biến vô”, nên bị lỗi bất định. Vì ở dị phẩm như bình, bàn và sự buồn vui thì bình bàn là vật có chất ngại còn sự buồn vui thì không có chất ngại. Như vậy, vì không chất ngại như hư không mà tiếng là thường hay vì không chất ngại như sự buồn vui mà tiếng là vô thường? Không nhất định như thế. Hoặc như lập:
– Tôn: Khái Hưng là đàn ông.
– Nhân: Vì là văn sĩ.
– Đồng dụ: Như ông Tản Đà.
– Dị dụ: Như bà Hồ Xuân Hương.
Văn sĩ là đàn ông hay đàn bà? Không nhất định. Như vậy, nếu lấy lý do “vì là văn sĩ” để chứng minh Khái Hưng là đàn ông thì không chắc chắn, vì đàn bà như Hồ Xuân Hương cũng là văn sĩ. Nên nhân này bị lỗi bất định. Vì cái nhân này ở đồng phẩm và dị phẩm đều có liên hệ một phần. Xem đồ biểu:
+ Lỗi bất định thứ sáu: Tương vi quyết định (hai cái nhân khác nhau mà đều quyết định thành lập được hai tôn pháp trái ngược nhau). Ở đây người lập luận chủ trương là A là B. Kẻ địch luận chủ trương A không phải là B. tôn nghĩa của hai bên trái nhau và cái “nhân” của hai bên đưa ra đều có đủ tính cách quyết định (nghĩa là nhân có đủ ba tướng) để thành lập được tôn trái ngược nhau, không thể đoán định là ai phải ai trái, bên nào cũng thành lập được, nên bên nào cũng không thành lập được, nên bị lỗi này.
Như ở Cổ Ấn Độ, phái Thanh sanh luận chủ trương thuyết “âm thanh là vô thường”, còn phái Thanh hiển luận chủ trương “âm thanh là thường”. Phái Thanh sanh luận lập luận:
– Tôn: Âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì là do tác động mà có.
– Đồng dụ: Như cái bình.
Lập luận trên rất vững chắc, vì cái “nhân” trong lập luận này có đủ ba tướng, nên quyết định có thể thành lập tôn. Song phái Thanh hiển luận vì chủ trương “âm thanh là thường còn”, không chấp nhận lập luận trên, nên bác lại rằng:
– Tôn: Âm thanh là thường còn.
– Nhân: Vì là cái bị nghe.
– Dụ: Như tính chất của âm thanh.
Phái Thanh sanh luận tuy không nhận “âm thanh thường còn” song vẫn phải nhận “tính chất của âm thanh là cái bị nghe và có thể thường còn”, nên cái nhân trong lập luận này đối với cả hai bên là một cái nhân có đủ ba tướng, tức cái nhân có tính cách quyết định thành lập được tôn pháp, khiến phái Thanh sanh luận tuy không chấp nhận nhưng không thể bác lại được. Như vậy, hai bên không chấp nhận chủ trương của nhau nhưng không thể bác nhau được. Nên cái nhân này bị lỗi “tương vi quyết định”, tức là cái nhân do dự không quyết định tôn pháp kia một cách rõ ràng dứt khoát “âm thanh là thường hay vô thường”.
Nhưng nếu hai bên giữ chặt lý lẽ của mình, không ai chịu ai như thế, thì đành phải bế tắc sao? Không! Theo Phật giáo, khi lấy cái nhân “do tác động mà có” để thành lập cái tôn “âm thanh là vô thường” thì cái nhân này là một cái nhân đúng, không rơi vào do dự, vì Phật giáo không thừa nhận ngoài âm thanh vô thường lại có một thứ “tính chất của âm thanh thường còn” nào khác, cho nên đối với Phật giáo đồ, phái chủ trương “âm thanh thường còn”, không thể lấy “tính chất của âm thanh” để làm đồng dụ cho cái tôn “âm thanh là thường còn” của họ được.
Nếu gặp trường hợp này, trước tiên phải phá “tính chất của âm thanh là thường còn của họ, rồi sau đó tiếp phá lập luận “âm thanh thường còn”. Như dưới đây:
– Tôn: Tính chất của âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì do tác động mà có (hoặc vì là cái bị nghe).
– Dụ: Như tiếng vang.
Tiếp lập:
– Tôn: Âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì do tác động mà có (hoặc vì là cái bị nghe).
– Dụ: Như tính chất của âm thanh.
Đây là phá chủ trương “Âm thanh thường còn” mà thành lập chủ trương “âm thanh vô thường”.
So với Tam đoạn luận chỉ có A là A, thì đây là một đặc điểm khác của nhân minh: A là A mà A cũng là phi A … Suy luận theo Tam đoạn luận là một suy luận trong vòng luẩn quẩn; kết luận chỉ là nói lại những gì đã có sẵn trong đại tiền đề. Hễ đại tiền đề đúng thì kết luận đúng. Đại tiền đề sai thì kết luận sai. Ngược lại, Nhân minh khi đưa ra chủ trương, còn tùy ở nhân và dụ như thế nào thì mới biết rõ chủ trương ấy là đúng hay sai.
E2.3. Bốn lỗi tương vi của nhân
Bốn lỗi nhân tương vi là pháp tự tướng tương vi nhân, pháp sai biệt tương vi nhân, hữu pháp tự tướng tương vi nhân và hữu pháp sai biệt tương vi nhân.
- Sao gọi là tương vi nhân? Đó là cái nhân năng lập trái ngược với tôn sở lập. Nhiệm vụ của nhân là phải thuận theo ý nghĩa của tôn để thành lập tôn, nếu nhân mà trái ngược với tôn thì nhân ấy chỉ làm hại tôn, đối phương có thể dùng nhân ấy để thành lập một tôn ngược lại, nên gọi là tương vi. Như nói: A là B, vì là C. Đối phương có thể nói ngược lại: A không phải là B, vì là C. Đây là trường hợp lấy gậy ông đập lưng ông.
- Sao gọi là pháp tự tướng, pháp sai biệt, hữu pháp tự tướng, hữu pháp sai biệt?
Như trước đã nói, mệnh đề “tôn” gồm có hai phần là tiền trần và hậu trần. Tiền trần là danh từ trước, là hữu pháp, tức vật thể; hậu trần là danh từ sau, là pháp, tức thuộc tính, hay là nghĩa. Tiền trần hữu pháp nếu được phát biểu trực tiếp rõ ràng trên ngôn từ thì gọi là hữu pháp tự tướng, còn nếu muốn chủ trương một điều gì song không nói ra trực tiếp minh bạch mà chỉ gián tiếp ẩn ý trong ngôn từ, như kiểu dương đông kích tây, thì gọi là hữu pháp sai biệt. Như muốn chê bà A có tính ăn nói hồ đồ, lại không nói thẳng bà ấy ra mà chỉ nói mơ hồ bóng bẩy rằng: “đàn bà rộng miệng thì tan hoang cửa nhà”. Trên ngôn từ nói “đàn bà” mà ẩn ý chỉ bà A. Như thế gọi là hữu pháp sai biệt. Pháp tự tướng và pháp sai biệt cũng nghĩa tương tự như thế. Xem đồ biểu:
Tiền trần hữu pháp tự tướng (nói rõ)
sai biệt (nói ẩn)
TÔN
Hậu trần pháp tự tướng (nói rõ)
sai biệt (nói ẩn)
+ Lỗi nhân tương vi thứ nhất: Pháp tự tướng tương vi nhân (nhân trái ngược với danh từ sau của tôn). Như lập:
– Tôn: Âm thành là thường còn.
– Nhân: Vì là do tác động mà có.
Cái gì thường còn thì không do tác động mà có. Cái do tác động mà có thì không thể thường còn, hai bên không tương quan nhau, và chỉ phủ nhận nhau. Vậy nếu lấy lý do “vì do tác động mà có ra” để chứng minh cho chủ trương tôn “âm thanh là thường còn” đã không thể chứng minh được, lại còn bị đối phương dùng nó để bác lại, như:
– Tôn: Âm thành là vô thường.
– Nhân: Vì là do tác động mà có.
– Đồng dụ: Như bàn, bình.
– Dị dụ: Như hư không.
Hoặc như lập:
– Tôn: Ông A sẽ không phải chết.
– Nhân: Vì là một sinh vật.
Đã là sinh vật thì chắc chắn phải chết, chứ sinh vật làm sao lại không phải chết? Vì thế, cái nhân này bị lỗi pháp tự tướng tương vi, như trên. Do vì nhân này đã thiếu hai tướng cần thiết là tướng thứ hai và thứ ba là “đồng phẩm định hữu và dị phẩm biến vô”. Cũng giống trường hợp thứ tư trong 9 cú nhân của Cổ nhân minh là “đồng phẩm chẳng có, dị phẩm có”.
+ Lỗi Nhân tương vi thứ hai: Pháp sai biệt tương vi (nhân trái ngược với hàm ý trong danh từ sau của tôn). Như trên đã nói, pháp sai biệt là ý nghĩa của hậu trần pháp không được trực tiếp nói ra rõ ràng mà chỉ ngầm ý nói gián tiếp, rồi đưa ra cái nhân để thành lập tôn theo ngầm ý đó. Nhân mà lập sai, thì không những không thể thành lập được tôn theo ngầm ý mà còn bị đối phương dùng nó để thành lập một tôn ngược lại với ngầm ý của mình. Như thế, gọi là nhân tương vi với tôn pháp sai biệt. Như lập:
– Tôn: Nhãn căn quyết để cho cái khác sử dụng.
– Nhân: Vì nó có tính cách tích tụ bởi nhiều thứ mà thành.
– Dụ: Như bàn, ghế, ngọa cụ.
Đây là lập luận của phái triết học Số luận Cổ Ấn Độ. Lập luận này đối với Phật giáo đồ thì bị phạm vào lỗi “pháp sai biệt tương vi nhân”.
Phái Số luận do Kapila làm Tổ sáng lập khoảng 600 năm trước Tây lịch. Phái này chủ trương trong mọi người có một bản ngã thực tại, không có tính cách tích tụ bởi cái khác. Nhưng Phật giáo lại không chấp nhận bản ngã thực tại mà chỉ công nhận có giả ngã bất thực dựa trên 5 nhóm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Người của phái Số luận nếu đem chủ trương bản ngã thực tại của mình nói rõ ra với Phật giáo đồ, sợ bị Phật giáo đồ không công nhận, thì theo Nhân minh, lập luận của họ sẽ phạm lỗi “năng biệt bất cực thành” (tức hậu trần pháp không được đối phương công nhận) nên họ tránh dùng tiếng bản ngã mà dùng một tiếng có tính chung chung không rõ ràng là “cái khác”. Trên ngôn từ họ nói “cái khác” nhưng trong ngầm ý họ muốn chỉ cái khác ấy là bản ngã. Vậy bản ngã tức là một tính sai biệt của cái khác (hậu trần pháp), nên gọi là pháp sai biệt. Vì “cái khác” có nghĩa chung chung mơ hồ, nên có thể chỉ đó là bản ngã thực tại cũng được, mà chỉ đó là giả ngã cũng được. Và nhãn căn là cái có tính cách do tích tụ bởi thứ khác mà thành. Vậy thì nhãn căn để cho cái khác, mà cái khác, đó là “bản ngã thực tại” sử dụng, thì nó cũng có thể để cho cái khác, mà cái khác đó là “giả ngã” sử dụng, như sử dụng bàn ghế cũng được. Vậy, phái Số luận lấy cái nhân “vì có tính cách tích tụ bởi nhiều thứ mà thành”, để thành lập cái tôn “nhãn căn hẳn là bị cái khác (ngầm ý thần ngã) sử dụng, thì Phật giáo đồ cũng có thể dùng cái nhân này để thành lập chủ trương ngược lại rằng: “Nhãn căn không phải để thần ngã sử dụng mà là để giả ngã sử dụng” cũng được. Một cái nhân có tính ngược lại với ý nghĩa sai biệt ngầm của hậu trần pháp như vậy, nên bị lỗi “pháp sai biệt tương vi”. Phật giáo đồ lập luận bác lại như sau:
– Tôn: Nhãn căn hẳn chỉ để cái khác có tính cách tích tụ sử dụng (ý chỉ cho giả ngã do năm uẩn hòa hợp tích tụ chứ quyết không để cho cái khác không có tính cách tích tụ sử dụng).
– Nhân: Vì nó có tính cách tích tụ bởi cái khác mà thành.
– Dụ: Như bàn, ghế, ngọa cụ.
Đây là một lập luận có lý lẽ vững chắc hơn lập luận của phái Số luận. Vì trong thực tế, rõ ràng nhãn căn là thứ có tính cách tích tụ bởi nhiều thứ mà thành để cho thân thể người ta cũng là thứ có tính cách tích tụ bởi năm uẩn tạo thành sử dụng, chứ không phải để cho cái khác không có tính cách tích tụ như thần ngã sử dụng đâu. Thế nên, đối Phật giáo đồ, phái Số luận lập luận như trên phải bị lỗi. Hoặc dễ hiểu hơn như lập:
– Tôn: Vạn vật phải là do cái gì khác tạo ra.
– Nhân: Vì tự mình không thể tạo ra mình được.
– Dụ: Như đồ vật.
“Cái gì khác” ở đây, có tính chung chung không rõ ràng. Theo nguyên tắc Nhân minh thì đây không có gì sai trái trên mặt ngôn từ. Song nếu đằng sau một ngôn từ “cái gì khác” ấy có hàm ý chỉ cho “đấng tạo hóa”, thì cái nhân “tự mình không thể tạo ra mình” đã phạm phải lỗi “pháp sai biệt tương vi”. Vì sao? Vì nếu tự mình không thể tạo ra mình, thì “đấng tạo hóa” ấy ai tạo ra? Và đấng tạo hóa ấy ở trong vạn vật hay ở ngoài vạn vật? Nếu ở trong vạn vật, mà vạn vật không thể tự mình tạo ra mình, thì sao đấng tạo hóa lại tự mình tạo ra mình mà không phải do cái khác tạo ra? Còn nếu đấng tạo hóa ở ngoài vạn vật và tạo ra vạn vật, thì trên đời này ta không tìm thấy có cái gì ở ngoài vạn vật lại có thể tạo ra vạn vật được?
+ Lỗi nhân tương vi thứ ba: Hữu pháp tự tướng tương vi nhân (nhân trái ngược với danh từ trước của tôn. Danh từ trước của tôn còn gọi là hữu pháp). Nhiệm vụ của nhân là thuận theo tính cách tôn pháp và tôn hữu pháp để thành lập nó. Nếu nhân mà trái ngược với tôn pháp như trên kia thì nhân ấy bị lỗi “pháp tự tướng tương vi và pháp sai biệt tương vi”.
Hữu pháp và vật thể, là danh từ trước của tôn được nói ra rõ ràng chứ không phải úp mở hàm ý gián tiếp, nên gọi là hữu pháp tự tướng. Nhiệm vụ của nhân là thuận theo với hữu pháp tự tướng để thành lập nó. Nếu nhân là một tính cách ngược lại với hữu pháp tự tướng thì nhân ấy bị lỗi “hữu pháp tự tướng tương vi”, vì đã không thành lập được hữu pháp tự tướng mà còn bị đối phương dùng chính cái nhân đó để bác lại hữu pháp tự tướng ấy. Như lập:
– Tôn: Tánh có, không phải là Thật, Đức, Nghiệp.
– Nhân: Vì có một Thật, vì có Đức, Nghiệp.
– Dụ: Như tánh đồng dị.
Trên đây là lập luận của pháp Thắng luận. Phái Thắng luận (Vaisesika), là một học phái lớn trong giới triết học tự nhiên của cổ Ấn Độ, xuất hiện khoảng 300 năm trước Tây lịch, do Ulùka (Hưu-lưu, Hưu-lâu-ca) chủ xướng và được viết thành kinh Vaisesika Sutra (Vệ-thế-sử-ca, Thắng luận). Họ chủ trương sáu cú nghĩa (sáu phạm trù) để thuyết minh yếu tố thành lập tồn tại của tất cả sự vật. Sáu cú nghĩa là: Một là Thật, hai là Đức, ba là Nghiệp, bốn là Đại hữu tánh, năm là Đồng dị tánh, sáu là Hòa hợp tánh. (Sáu cú nghĩa ở đây ghi theo Nhân Minh Luận Sớ Minh Đăng Sao).
Quan sát vạn hữu, trước tiên họ có được “khái niệm về thực thể”, do đó mà lập ra cú nghĩa thứ nhất “Thật”. Tiếp đến quán sát thấy vật thể ấy có những trạng thái phụ thuộc, họ có được “khái niệm về thực tính”, do đó mà lập ra cú nghĩa thứ hai: “Đức”. Tiếp quán sát thấy vật thể có sự tác dụng vận động, do đó mà lập cú nghĩa thứ ba: “Nghiệp”. Nhưng từ đâu mà có Thật, Đức, Nghiệp ấy? Tức phải có một cái gì thật có lớn hơn làm xuất phát điểm cho Thật, Đức Nghiệp? Do đó, mà lập ra cú nghĩa thứ tư: “Đại hữu tánh”. Nhưng các hiện tượng cụ thể không thể thiếu một tác dụng quan hệ hoặc đồng nhau hoặc khác nhau giữa ba cú nghĩa Thật, Đức, Nghiệp, do đó mà lập ra cú nghĩa thứ năm: “Đồng dị tánh”. Sự quan hệ “đồng” giữa vạn hữu tương tợ như khái niệm về “loại”, sự quan hệ “dị” tức là sự quan hệ sai biệt giữa vạn hữu, tương tự khái niệm về “chủng”. Động vật như con ngựa, động vật là loại, con ngựa là chủng. Nhưng các cú nghĩa trên không phải tách riêng nhau mà trái lại luôn luôn hòa hiệp nhau trong mỗi sự vật, do đó mà lập ra cú nghĩa thứ sáu: “Hòa hợp tánh”. Tất cả sự vật đều thật hữu, mọi hiện tượng đều chỉ có thể phân tích và thu vào sáu cú nghĩa đó (sáu phạm trù).
Ông Hưu-lưu sáng lập tổ phái thắng luận đem sáu cú nghĩa trên giảng cho đệ tử tên Ngũ Đỉnh (cũng gọi là Nho Đồng). Khi giảng ba cú nghĩa Thật, Đức, Nghiệp thì ông Ngũ Đỉnh hiểu và chấp nhận dễ dàng, nhưng khi giảng đến cú nghĩa thứ tư là Đại hữu tánh (tánh thật có lớn) thì Ngũ Đỉnh hồ nghi, không chấp nhận, nghĩ rằng chính Thật, Đức, Nghiệp đã là thực có rồi, chứ sao lại ngoài Thật, Đức, Nghiệp còn có cái Tánh thật có” khác nữa? Ngũ Đỉnh không tin. Hưu-lưu bèn gác cú nghĩa Đại hữu tánh lại để giảng tiếp cú nghĩa thứ năm là Động dị tánh, cú nghĩa thứ sáu là Hòa hiệp tánh, Ngũ Đỉnh nghe qua chấp nhận liền. Khi ấy Hưu-lưu trở lại đem cú nghĩa Đại hữu tánh giảng cho Ngũ Đỉnh với cái lập luận nêu trên: “Tánh có không phải là Thật, Đức, Nghiệp…”
Thâm ý của Ông Hưu-lưu là muốn lập Đại hữu tánh là một tánh thực hữu ngoài Thật, Đức, Nghiệp, chứ không phải muốn lập Đại hữu tánh là như thế nào thế nào. Song nếu nói thẳng Đại hữu tánh là “tánh thực hữu” thì Ngũ Đỉnh không chấp nhận mà lập luận của ông phải mắc cái lỗi “sở biệt bất cực thành” (tiền trần không được công nhận), nên ông mới lập:
– Tôn: Tánh Có chẳng phải là Thật, Đức, Nghiệp…
– Nhân: Vì có một Thật, Đức, Nghiệp vậy…
– Dụ: Như Đồng dị tánh.
Không ngờ ông muốn tránh mà tránh không được. Vì với “nhân” ông đưa ra đây chỉ có thể thành lập “tánh có không phải là Thật, Đức, Nghiệp”, chứ không thể thành lập “tánh có” là một thực hữu có khả năng làm duyên có ra Thật, Đức, Nghiệp như ý ông muốn, vả lại ông lấy ví dụ như “đồng dị tánh”, song “đồng dị tánh” tuy có trong nó cả Thật, Đức, Nghiệp, nhưng nó không phải là tánh có, như vậy tánh có đủ có một Thật v.v… cũng không phải là tánh có, nên cái nhân trên bị lỗi “hữu pháp tự tướng tương vi”. Đối phương sẽ lấy cái nhân ấy mà lập luận bác lại như sau:
– Tôn: Tánh Có, lẽ ra không phải tánh có.
– Nhân: Vì có một Thật, Đức, Nghiệp vậy.
– Dụ: Như Đồng dị tánh.
Hoặc lập:
– Tôn: Ông chấp Đại hữu tánh đã không phải Thật, Đức, Nghiệp, thì lẽ ra cũng không phải Đại hữu tánh.
– Nhân: Vì có một Thật, Đức, Nghiệp vậy.
– Dụ: Như Đồng dị tánh.
Nay ta có thể dùng một ví dụ khác dễ hiểu hơn. Như lập:
– Tôn: Trời không phải là một vật.
– Nhân: Vì không thể sinh cảm giác nơi ngũ quan của ta.
– Dụ: Như tâm.
Cái “nhân” trên bị lỗi “hữu pháp tự tướng tương vi”. Đối phương sẽ dùng ngay cái nhân ấy mà lập luận bác lại như sau:
– Tôn: Trời của ông không phải là một vật, nhưng cũng không phải là trời.
– Nhân: Vì không thể sinh cảm giác nơi ngũ quan của ta.
– Dụ: Như tâm.
Hoặc lập:
– Tôn: Trời không phải là tâm.
– Nhân: Vì không thể do kinh nghiệm giáo dục làm cho phát đạt được.
– Dụ: Như vật.
Cái “nhân” này cũng bị lỗi “hữu pháp tự tướng tương vi” vì đối phương sẽ dùng cái nhân ấy để lập luận bác lại như sau:
– Tôn: Trời của ông không phải là tâm, nhưng cũng không phải là trời.
– Nhân: Vì không thể do kinh nghiệm giáo dục mà làm cho phát đạt được.
– Dụ: Như vật.
+ Lỗi nhân tương vi thứ tư: Hữu pháp sai biệt tương vi (nhân trái ngược với hàm ý của tiền trần hữu pháp). Tiền trần của tôn gọi là hữu pháp. Một thuộc tính của hữu pháp mà người lập muốn chủ trương nhưng không nói thẳng ra, chỉ ngầm ý nói lờ mờ, thì gọi là hữu pháp sai biệt. Nếu dùng cái “nhân” ngược lại với ngầm ý ấy, thì gọi là nhân tương vi với hữu pháp sai biệt. Như lập:
– Tôn: Tánh Có không phải Thật, không phải Đức, không phải Nghiệp.
– Nhân: Vì có một Thật, Đức, Nghiệp vậy.
– Dụ: Như Đồng dị tánh.
Ở đây, ông Hưu-lưu không phải muốn thành lập có một tánh thật có như trên, mà còn đi xa hơn, muốn lập cái tính thực hữu đó là tính cách làm duyên cho tâm, tâm sở duyên tới nó để biết Thật, Đức, Nghiệp… Nhưng ý muốn này ông không nói thẳng ra rõ ràng vì sợ phạm lỗi “sở biệt bất cực thành” nên ông chỉ ngầm ý khi đưa luận thức. Tuy ông muốn thế nhưng không được, vì cái nhân ông đưa ra đã phạm lỗi “hữu pháp sai biệt tương vi”. Vì đối phương sẽ dùng cái nhân ấy mà lập luận bác lại như sau:
– Tôn: Ông chấp Tánh Có không phải Thật, Đức, Nghiệp; nhưng cũng không phải tánh có tính cách làm duyên cho tâm tâm sở duyên tới nó.
– Nhân: Vì có một, Thật, Đức, Nghiệp vậy.
– Dụ: Như Đồng dị tánh.
Đồng dị tánh không phải Thật, Đức, Nghiệp nhưng nó có Thật, Đức, Nghiệp, và nó cũng không phải là Tánh Có có tính cách làm duyên, như vậy “tánh có” của ông không phải Thật, Đức, Nghiệp, nhưng có Thật, Đức, Nghiệp thì cũng giống như thế, không phải là tính có có tính cách làm duyên. Thế là bên lập bị thua. Hoặc như lập:
– Tôn: Có một đấng thường còn.
– Nhân: Vì không có hình tướng.
– Dụ: Như hư không.
Ý muốn thành lập một tạo hóa tạo vật, nhưng không nói thẳng ra vì nếu nói thẳng ra đối với người không tin tạo hóa ắt phạm lỗi, nên chỉ nói là đấng thường còn chung chung. Tuy bên ngoài nói đấng thường còn nhưng ngầm ý là chủ trương đấng tạo hóa. Nếu gặp người không tin đấng tạo hóa, họ sẽ dùng ngay cái nhân này mà bác lại rằng:
– Tôn: Đấng ấy của ông là thường còn nhưng không tạo ra được vật gì hết.
– Nhân: Vì không có hình tướng.
– Dụ: Như hư không.
Hư không không có hình tướng, hư không không tạo ra được vật gì cả, vậy tạo hóa không có hình tướng, tạo hóa cũng không tạo ra được vật gì cả.
E3. MƯỜI LỖI VỀ DỤ
Những ví dụ sai lầm gọi là tợ dụ, tức là ví dụ phạm lỗi; có 10 thứ, chia làm hai loại: Năm lỗi quan hệ với đồng dụ, năm lỗi quan hệ với dị dụ.
Mười lỗi của dụ không giống tính chất với mười bốn lỗi của nhân. Mười bốn lỗi của nhân đều do ba tướng không đầy đủ mà có ra. Nhân thiếu tướng thứ nhất thì thành ra bốn lỗi “bất thành”, thiếu tướng thứ hai hoặc tướng thứ ba thì thành ra sáu lỗi “bất định”, nếu thiếu cả hai tướng hai và ba thì thành ra bốn lỗi “tương vi”. Ở đây đồng dụ vì trái với nhân, và trái với tôn, hay vì trái với cả nhân và tôn, hoặc vì tuy đúng nhưng không có kết hợp, hay kết hợp lộn ngược, nên thành ra năm lỗi về đồng dụ. 1. Năng lập bất thành. 2. Sở lập bất thành. 3. Câu bất thành. 4. Vô hợp. 5. Đảo hợp.
Dị dụ, vì không chỉ rõ mặt trái với tôn và nhân một cách rõ ràng, nên cũng bị năm lỗi: 1. Sở lập bất khiển. 2. Năng lập bất khiển. 3. Câu bất khiển. 4. Bất ly. 5. Đảo ly.
E3.1. Năm lỗi của đồng dụ
+ Lỗi thứ nhất: Năng lập bất thành: (đồng dụ không có cùng tính cách với nhân năng lập). Nhân có khả năng thành lập tôn, nên gọi nhân là năng lập, tôn là sở lập. Đồng dụ là cốt hỗ trợ nhân để thành lập tôn. Như vậy, đồng dụ phải có cùng tính cách với nhân thì mới hỗ trợ nhân có hiệu quả. Nếu đồng dụ mà có tính cách trái ngược với nhân thì chỉ làm cho nhân kém mất khả năng thành lập tôn, nên bị lỗi. Như lập:
– Tôn: Người ta là phải chết.
– Nhân: Vì là động vật.
– Đồng dụ: Như cây cỏ.
Cỏ cây cũng phải chết như người ta, nhưng cỏ cây không phải là động vật. Như vậy, đồng dụ cỏ cây ở đây không có dùng tính cách với nhân là động vật, thì làm sao hỗ trợ cho cái nhân là động vật để thành lập tôn được?
+ Lỗi thứ hai: Sở lập bất thành (đồng dụ không có cùng tính cách với tôn sở lập). Đồng dụ là hỗ trợ nhân để thành lập tôn, nó phải có cùng tính cách với tôn mới có hiệu quả. Nếu đồng dụ có tính cách ngược với tôn thì chỉ làm hại tôn mà thôi, cho nên bị lỗi. Như lập:
– Tôn: Âm thành là thường còn.
– Nhân: Vì không chất ngại.
– Đồng dụ: Như sự hiểu biết.
Sự hiểu biết là một hiện tượng tinh thần không phải vật chất, nên không có chất ngại như tính cách của nhân, song nó vốn là vô thường khác tính cách thường của âm thanh, thì làm sao lấy sự hiểu biết vô thường làm đồng dụ cho tôn âm thanh thường còn? Nếu lấy làm đồng dụ thì bị lỗi.
+ Lỗi thứ ba: Câu bất thành (đồng dụ không có cùng tính cách với cả nhân năng lập và tôn sở lập).
Câu bất thành có hai: Hữu câu bất thành và vô câu bất thành. Khi đồng dụ là một sự vật cụ thể được hai bên lập và địch công nhận, thì gọi là hữu thể. Nếu đồng dụ là sự vật trừu tượng hoặc sự vật chỉ bên lập công nhận, bên địch không công nhận thì gọi là vô thể. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là thường còn.
– Nhân: Vì không chất ngại.
– Đồng dụ: Như cái bình.
Cái bình là vô thường không có cùng tính cách thường còn với tôn âm thanh sở lập, đồng thời lại là vật có chất ngại, không có cùng tính cách không chất ngại với nhân năng lập, nên bị lỗi “câu bất thành”, nghĩa là đối với nhân năng lập và tôn sở lập đều bất thành. Nhưng bình là vật cụ thể được cả hai bên đều công nhận, nên gọi là “hữu câu bất thành”. Nếu không lấy bình làm đồng dụ mà lại lấy hư không làm đồng dụ, thì đối với phái Vô không luận tức là phái không công nhận thực có hư không. Hư không đã không thực có thì nó chẳng liên quan gì với nhân năng lập và tôn sở lập nói trên cả, nên bị lỗi “cấu bất thành”. Và đối với phái Vô không luận không chấp nhận có hư không, nên gọi là “vô cấu bất thành”.
+ Lỗi thứ tư: Vô hợp (không có lời kết hợp). Khi nêu một vật gì làm đồng dụ, trước phải có lời kết hợp rõ ràng tính cách của nhân và tôn ở nơi đó lại với nhau. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì do sự tác động mà có.
- Đồng dụ: Những gì do tác động mà có (hợp với tính cách nhân) ta thấy nó vô thường, (hợp với tính cách tôn) như cái bình. Nếu lập:
– Tôn: Âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì do sự tác động mà có.
– Đồng dụ: Như cái bình, là do sự tác động mà có ra và có tính cách vô thường.
Nói như trên, thì ở đồng dụ phạm lỗi vô hợp, vì không có lời kết hợp rõ ràng với tính cách “nhân” là do tác động mà có ra, với tính cách “tôn” là vô thường lại với nhau, mà chỉ nói rời rạc mơ hồ rằng “do tác động mà có” và “có tính cách vô thường” như trên, nên phạm lỗi. Bởi từ “và” ở đây không liên kết được hai tính cách “do tác động mà có ra” và “có tính cách vô thường” lại với nhau, nên cũng không hẳn hễ do tác động mà có ra thì chắc chắn có tính cách vô thường!
+ Lỗi thứ năm: Đảo hợp (kết hợp đảo ngược). Khi nêu vật gì làm đồng dụ, trước phải có lời kết hợp rõ ràng và trong lời kết hợp phải nêu tính cách “nhân” trước và tính cách của “tôn”sau. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là vô thường.
– Nhân: Vì do sự tác động mà có.
– Đồng dụ: Những sự gì do sự tác động mà có (tính cách nhân) đều thấy nó vô thường (tính cách tôn), như bình.
Nếu nêu tính cách tôn trước và nhân sau thì mắc lỗi đảo hợp. Đồng dụ có nhiệm vụ giúp nhân để thành lập tôn nên khi hợp phải hợp với nhân trước và hợp với tôn sau, nếu đồng dụ phạm lỗi đảo hợp thì mất hiệu lực giúp cho nhân để thành lập tôn. Như nói: “Những gì vô thường (tính cách tôn) đều do sự tác động mà có (tính cách của nhân), như bình”; thế là đảo hợp.
Hai lỗi vô hợp và đảo hợp trên là đứng về dụ thể của đồng dụ mà nói.
E.3.2. Năm lỗi của dị dụ
Đồng dụ là chứng minh thuận; dị dụ là chứng minh nghịch. Chứng minh thuận thì phải thuận hợp với nhân và tôn, nên cũng gọi là “hợp tác pháp”; chứng minh nghịch thì phải trái ngược, xa lìa với tôn và nhân, nên cũng gọi là “ly tác pháp”. Nếu chứng minh nghịch mà lại có tính cách liên hệ với tôn và nhân thì bị lỗi.
+ Lỗi thứ nhất: Sở lập bất khiển (sở lập là chỉ cho tôn, dị dụ không trái với tôn, thì gọi là sở lập bất khiển). Nếu tôn “thường” thì dị dụ phải là cái “có tính vô thường”, nếu tôn “thường” mà dị dụ cũng “thường” thì không thành dị dụ nữa, nên phạm lỗi “sở lập bất khiển”, nghĩa là ở dị dụ không khiển trừ hết tính cách của tôn sở lập. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là thường.
– Nhân: Vì không chất ngại.
– Đồng dụ: Những gì không chất ngại đều là thường, như hư không.
– Dị dụ: Những gì vô thường đều có chất ngại, như cực vi.
Cực vi là vật chất cực vi tế, nó có chất ngại nên nghịch lại với nhân “không chất ngại” trên, nhưng cực vi theo quan niệm phổ thông Ấn Độ đều cho là thường, mà thường thì lại là đồng phẩm tính “thường” với tôn nói trên. Thế là tính cách của tôn sở lập vẫn có mặt ở dị dụ cực vi, dị dụ cực vi không khiển trừ hết tính cách “thường” của tôn nơi nó, nên bị lỗi “sở lập bất khiển”.
Hoặc lập:
– Tôn: Anh Ba là người Việt Nam.
– Nhân: Vì là người Huế.
– Dị dụ: Những ai không phải người Việt Nam đều không phải là người Huế, ví như người Hà Nội.
Theo trên, ai không phải là người Việt Nam thì không phải là người Huế, vậy là đúng. Nhưng dù không phải người Huế mà là người Hà Nội thì cũng vẫn là người Việt Nam. Như thế tính cách tôn sở lập là người Việt Nam vẫn có mặt ở dị dụ như người Hà Nội. Thế là ở dị dụ không khiển trừ hết tính cách của tôn sở lập, nên dị dụ bị lỗi “sở lập bất khiển”.
+ Lỗi thứ hai: Năng lập bất khiển (ở dị dụ không khiển trừ hết tính cách của nhân năng lập). Tính cách của dị dụ là phải xa lìa, phải nghịch lại với nhân năng lập. Nếu ở dị dụ mà có tính cách của nhân năng lập thì bị lỗi “năng lập bất khiển”. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là thường còn.
– Nhân: Vì không chất ngại.
– Dị dụ: Những gì vô thường thì đều là không chất ngại, như nghiệp lực.
Nghiệp lực là vô thường là không chất ngại. Nghiệp lực vô thường tức là xa lìa tính cách thường của tôn sở lập, như vậy là đúng. Những nghiệp lực là không chất ngại, thì lại không xa lìa phẩm tính không chất ngại của nhân năng lập, như vậy là sai. Tính cách của nhân năng lập không bị khiển trừ, không xa lìa hết ở nơi dị dụ, nên bị lỗi “năng lập bất khiển”.
+ Lỗi thứ ba: Câu bất khiển (dị dụ không trái hẳn với cả tôn và nhân). Dị dụ là phải xa lìa, phải khiển trừ hết phẩm tính của tôn sở lập và nhân năng lập nơi nó. Nghĩa là phẩm tính của tôn và nhân không được có mặt ở dị dụ. Nếu ở dị dụ mà có đủ phẩm tính đồng với tôn sở lập và nhân năng lập, thì bị lỗi “câu bất khiển”. Nghĩa là cả hai phẩm tính của tôn và nhân đều không bị khiển trừ hết khỏi dị dụ. Như lập:
– Tôn: Ông Ba là người Việt Nam.
– Nhân: Vì là người Hà Nội.
– Dị dụ: Như người ở Quận Ba Đình.
Nếu dị dụ là người Pháp thì đúng, vì người Pháp không phải là người Hà Nội cũng không phải là người Việt Nam. Còn dị dụ như người Quận Ba Đình, thì người Quận Ba Đình vẫn mang trong nó tính cách người Hà Nội và người Việt Nam nên sai và bị lỗi.
+ Lỗi thứ tư: Bất ly (không có lời chỉ rõ sự xa lìa). Ở đồng dụ phải có lời kết hợp, ở dị dụ phải có lời chỉ rõ sự cách ly, thì lý lẽ mới rõ ràng chắc chắn làm cho người dễ hiểu. Như trên kia, đồng dụ nếu không có lời kết hợp thì bị lỗi vô hợp. Ở dị dụ này nếu không có lời chỉ rõ sự cách ly của dị dụ đối với tôn sở lập và nhân năng lập thì bị lỗi bất ly. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là thường còn.
– Nhân: Vì không chất ngại.
– Đồng dụ: Những gì không chất ngại thì thấy nó thường còn, như hư không.
– Dị dụ: Những gì vô thường thì đều có chất ngại, như cái bình.
Đây là cách nêu dị dụ có lời chỉ rõ sự cách ly, tức là có “ly tác pháp”, đúng. Nếu nêu dị dụ mà không có ly tác pháp như nói: “Như bình, thấy nó vô thường, có chất ngại” là bị lỗi “bất ly”.
+ Lỗi thứ năm: Đảo ly (ly một cách lộn ngược). Dị dụ trước phải cách ly phẩm tính của tôn, rồi sau cách ly phẩm tính của nhân mới đúng. Nếu trước cách ly phẩm tính của nhân rồi sau mới cách ly phẩm tính của tôn là sai, là đảo ly. Như lập:
– Tôn: Âm thanh là thường còn.
– Nhân: Vì không chất ngại.
– Dị dụ: Những gì vô thường đều có chất ngại, như bình. Dị dụ như thế là đúng.
Nhưng nếu dị dụ là: “Những gì có chất ngại đều là vô thường, như bình “thì dị dụ này sai, và bị lỗi đảo ly.
Tóm lại, trong 10 lỗi của dụ, 4 lỗi vô hợp, đảo hợp, bất ly, đảo ly là cách tránh lối nói không mạch lạc rõ ràng, lý lẽ mù mờ không chặt chẽ, làm mất hiệu lực của ví dụ, nên cần nêu ra cho đủ vậy thôi, chứ thông thường chỉ nói vắn tắt. Như nói: Ví như hư không, ví như cái bình v.v… cũng được.
KẾT
Tuy nhiên khi trình bày luận thức có hai cách. Một là Cụ trần, tức trình bày đầy đủ cả ba chi là tôn, nhân, dụ. Và ở đồng dụ có hợp tác pháp, ở dị dụ có ly tác pháp, như luận thức đã nêu trên. Hai là Lược trần, tức trình bày luận thức một cách tóm lược, tuy cũng đủ ba chi tôn, nhân, dụ, song ở đồng dụ không có hợp tác pháp, ở dị dụ không có ly tác pháp. Như luận thức dưới đây:
– Tôn: Tiếng là vô thường.
– Nhân: Vì do tác động mà có.
– Dụ: Như bình.
Cũng có trường hợp lược bớt cả đồng dụ và dị dụ. Vì mục đích của Nhân minh không giống với mục đích nghiên cứu của luận lý học hình thức. Mục đích của Nhân minh hoàn toàn ở chỗ thực dụng, chủ yếu làm cho người khác hiểu rõ tôn chỉ của mình, nên khi vừa nêu tôn chỉ và lý do mà bên đối phương liền công nhận hiểu rõ rồi thì không cần nêu thêm đồng dụ và dị dụ. Nếu nêu lý do rồi mà bên đối phương vẫn chưa công nhận thì mới nêu thêm đồng dụ, đã nêu đồng dụ mà họ vẫn cứ phân vân thì mới nêu tiếp dị dụ. Đây là lý do lập luận thức có khi cụ trần, có khi lược trần, không nhất định.