Saigon trước năm 1973, có khoảng chừng ba hay bốn “dàn máy tính”. Con số quá khiêm tốn.
có. Tất nhiên, trong một
một cách vô hình.
Stcherbasky: “Direct knowledge means here neither construction (judgment) nor illusion”
Lê Mạnh Thát: “perception is a cognition free from verbal construction and without illusion”
(
Tri giác là sự
nhận thức mà không qua cấu trúc
ngôn ngữ và không có
ảo giác).
Nhưng Stcherbasky vẫn không
thoát khỏi cách hiểu
truyền thống rằng “phân biệt vọng tưởng”. Ông nói: “kalpanā meaning primarily “arangement” (yojanā) and vikalpa meaning choice, dichotomy (dvaidhī-karaṇa) are both used in the sense of imagination, but pure imagination (utrpekṣaṇa-vyāpāra) is distinguished from the constructive imagination (lingaja-vikalpa).” (Kalpanā, trước hết có nghĩa là “sự phối trí” (yojanā) và vikalpa có nghĩa là sự
lựa chọn, phân kỳ (dvaidhī-karaṇa); cả hai được dùng theo nghĩa là sự tưởng tượng, nhưng là sự tưởng tượng
thuần túy (utprekṣaṇa) được
phân biệt khác với sự tưởng tượng có tính cấu trúc)
Thật ra, nguyên ủy, trong cách dùng
phổ thông, từ vikalpa không hàm nghĩa
phân biệt theo kiểu
phân biệt vọng tưởng.
Thí dụ, nhà Luật học
Phật giáo Nghĩa Tịnh dịch nó là “phân biệt” khi chỉ
trường hợp các
Tỳ kheo nhận y mới cần làm
thủ tục xác nhận sở hữu chủ
hợp pháp, mà các
nơi khác nó được dịch là “tác tịnh.” Đó là nghĩa mà Stcherbatsky nói nguyên ủy nó là “sự phối trí”.
Từ này như vậy là một bẫy sập
cần tháo gở. Cho nên
tác giả đã bỏ công tìm lại
trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ ai đầu tiên
sử dụng nó, và dùng theo nghĩa nào.
Tác giả nói:
“Và cách dùng này
rõ ràng đã
xuất phát từ
thuật ngữ tế lễ của Mīmāṃsaka, trong đó từ này được dùng để chỉ cho tất
các các trường hợp trong đó một
buổi lễ nào đó đã có trên một
nghi thức hoặc hai dạng khác nhau của cùng một
nghi thức, và chúng đều có
thẩm quyền như nhau cũng như mang lại kết quả giống nhau. Những
trường hợp này được gọi là ‘cấu trúc ngôn ngữ’ mà
ý nghĩa của nó đã quá
hiển nhiên: thật ra chỉ có một
nghi thức, nhưng do các cấu trúc
ngôn ngữ khác nhau cho nên đã có hai hoặc nhiều hơn, mà những
nghi thức này, trong sự phân tích
cuối cùng, đều có cùng nghĩa. Vì thế, xét theo sự phát triển
lịch sử này, định nghĩa trên của Yogasūtra được minh chứng đầy đủ và làm
sáng tỏ thêm một số điều
bí ẩn chung quanh
từ ngữ này, những
bí ẩn đã khiến cho nhiều nhà
nghiên cứu thuộc
lãnh vực này
phiên dịch sai lạc từ ngữ trên là ‘sự tưởng tượng’.”
Điều đó có nghĩa là
thế giới mà ta thấy
đang tồn tại đó chỉ là một cấu trúc đã được xử lý. Môt cấu trúc được lập trình
tuân thủ các
quy tắc ngữ pháp. Nói cách khác, đối tượng được đưa vào thức là dữ liệu được đưa vào bộ vi xử lý của thức sau khi đã được mã hóa theo một
ngôn ngữ lập trình nào đó. Các thứ được đưa vào để
lưu trữ và xử lý, đó là những
ấn tượng (impressions), hay những dấu ấn của hành động. Giống như ta đưa dữ liệu vào bộ vi xử lý bằng những xung điện hoặc có (1) hoặc không (0).
Tác giả nói:
“Thật vậy,
toàn bộ tiến trình
chuyển biến là sự xử lý một
ấn tượng thành một
mô tả về một vật, không hơn không kém. Vì thế, cái ta biết về
ngoại cảnh hoàn toàn tùy thuộc sự xử lý đó. Qua nó, một
ấn tượng do một đối tượng để lại có thể kích khởi thức của
chúng ta thành một sự
nhận biết về chính
chúng ta và về
ấn tượng mà đối tượng để lại.
Như vậy, điều
Thế Thân muốn nói trong tiếng Phạn: idaṃ sarvaṃ vijñaptimātrakam, mà Hán dịch nói là “nhất thiết duy thức” tất cả duy chỉ có thức; bấy giờ, qua cách dịch lại của Lê Mạnh Thát, nó được hiểu là therefore, whatever there is, is all merely what causes “one to know”: Tất cả những gì
đang tồn tại đó đều chỉ là cái làm cho ta biết. Nói cách khác, tất cả chỉ là dữ liệu thông tin.
Bởi vì, trong đó, từ vijñapti, mà trong các Hán dịch thường
xem như đồng nghĩa với vijññāna, hay là thức. Mặc dù, đôi khi cần
phân biệt,
Huyền Trang dịch nó là “liễu biệt”, Trong
trường hợp khác,
liên hệ đến nghiệp,
Huyền Trang dịch nó biểu, mà sang tiếng Pháp (hay tiếng Anh cũng vậy) nó được dịch là “information” (thông tin) bởi Louis de la Vallee Poussin (L’Abhidharma de Vasubandhu, chap. iv).
Trong cách dịch của
Huyền Trang, hai nội hàm này không quan hệ gì
với nhau nhiều lắm. Nhưng trong từ dịch của La Vallee de Poussin,
chúng ta liền
liên tưởng đến tin học
hiện đại. Mặc dù
thời đại của La Vallee de Poussin chưa
xuất hiện vi tính để có thể dùng từ information theo nghĩa như là tin học ngày nay. Đối với
chúng ta, qua những gì vừa nói, dùng khái niệm “xử lý thông tin” của tin học ngày nay để
mô tả thức và
hoạt động của thức không phải là điều hoang tưởng, lệch lạc, hay
xuyên tạc vấn đề. Tất nhiên đó không phải là sự
nhất trí hoàn toàn giữa những gì thuộc về tin học
hiện đại và những điều mà
Thế Thân bận tâm
giải quyết. Ở đây
chúng ta chỉ
sử dụng liên tưởng để
mô tả mà thôi.
Chúng ta tìm thấy một định nghĩa thức như vậy trong
Triết học Thế Thân:
“Trước đây,
chúng tôi đã chỉ ra rằng từ những gì biết được trong
lãnh vực nghiên cứu não bộ và
thông minh nhân tạo ngày nay, bộ não và các phần
phụ thuộc được
xem như một loại máy tính có độ
phức tạp và khả tính cao nhất để tiến hành mọi
chức năng thường được giao khoán cho thức. Vì thế, thức có thể được định nghĩa như một cơ cấu xử lý thông tin với mọi
thành phần phụ thuộc quan yếu được biết đến của nó,
bao gồm mọi
vận hành có thể được biết đến và có
đủ khả năng thực hiện”.
Những dữ liệu thông tin được
lưu trữ này,
Thế Thân gọi là vāsanā, Hán dịch là
tập khí, mà dịch ngữ Anh của Lê Mạnh Thát dẫn trên là impession. Tức là
ấn tượng, nhưng nên hiểu nó theo nghĩa
vật chất. Nó là sự hay kết quả của sự ghi dấu ấn. Nội hàm của nó như vậy
phù hợp với gốc động từ của nó là √VAS: vasati, lưu trú. Mặc dù cả
Vô Trước và
Thế Thân, như
chúng ta đọc thấy trong Nhiếp
Đại thừa, có khi
liên hệ nó với động từ căn √VĀS: vāsayati, xông hương,
ướp hương.
Khi
chúng ta bị
thúc đẩy bởi
ý chí thực hiện một
hành vi nào đó;
ý chí ấy
biến thái hay
chuyển biến thành công năng (śaktiviśeṣa), một dạng
năng lượng, vận chuyển các
cử động thân thể. Khi
công năng ấy
xuất hiện, nó ghi ngay dấu ấn vào một nơi
lưu trữ đặc biệt, đó là thức-kho-chứa (ālaya-vijñāna), hay thức
lưu trữ, mà ta có thể
liên tưởng đến bộ vi xử lý nơi
lưu trữ dữ liệu nhập. Dấu ấn đó,
Thế Thân gọi là karma vāsanā, tức impression of action, như được thấy trong đoạn dẫn tiếng Anh ở trên. Trong Hán dịch, nó là nghiệp
tập khí.
Công năng hay
năng lượng được nhập như là dấu ấn được ghi ấy khi được đưa vào quá trình xử lý, nó cho ra lượng thông tin khác, và bấy giờ nó được gọi là bīja: seed, vì nó
hoạt động như
hạt giống nảy mầm và phát triển để cho ra quả. Đó là điều mà
Thế Thân nói: sarvabījam hi vijñānam parināmas tathā tathā// yāty anyonyavasād yena vikalpaḥ sa sa jāyate//
Thức như là
hạt giống của tất cả. Khi chúng
ảnh hưởng lẫn nhau, mà
chúng ta cứ
giả thiết là chúng
tác động lẫn nhau trong một trường tương tác nào đó, bấy giờ chúng cấu trúc
thành hình ảnh của
một thế giới. Đó là
thế giới mà trong đó chúng
tồn tại. Pariṇāma: transformations,
biến thái, hay
chuyển biến,
hay nói theo tập quán:
thức biến (vijñāna-pariṇāma), đó là những gì xảy ra trong quá trình xử lý. Chính những
biến thái này
tác động lẫn nhau,
hỗ tương ảnh hưởng (anyonyavasād). Bởi vì không có một
ấn tượng,
tập khí hay
chủng tử nào
tồn tại nguyên dạng từ khởi đầu
cho đến khi quá trình xử lý
hoàn tất.
Khi một quá trình xử lý
hoàn tất (kṣīne pūrvavipāke), kết quả của nó lại
trở thành dữ liệu để bắt đầu quá trình xử lý khác (anyad vipākam janayanti tat). Đó là điều mà trong Hán dịch nó được nói là “tiền
dị thục ký tận,
phục sinh dư dị thục”:
dị thục trước đã hết,
dị thục khác lại phát sinh. Nếu
dị thục ở đây được hiểu là
quả báo, tức kết
quả báo ứng của nghiệp, thì đoạn
phát biểu này về cơ bản có thể hiểu rằng, dị tục là thân và tâm của
chúng ta đây như là kết
quả báo ứng của nghiệp đã làm trong
quá khứ.
Khi
sự báo ứng nay đã
hoàn tất, món nợ đã
thanh toán,
dị thục thân này được rủ xả để cho
dị thục khác
tức thân khác
xuất hiện,
tái sinh sang
một đời sống khác. Tức hết món nợ này rồi, bắt đầu trả những món nợ còn lại,
cho đến khi nào sạch nợ, nếu trong lúc trả không vay thêm nợ mới. Từ
nhận thức căn bản đó,
chúng ta đọc lại đoạn dịch tiếng Anh của Lê Mạnh Thát: When a previous processing is completed, the impressions of action together with the impressions of the double-form cognition produce another processing different from it. (Khi quá trình xử lý
đi trước đã
hoàn tất, bấy giờ những
ấn tượng của hành động tạo thành một quá trình xử lý mới. Tức là những
hành vi mà
chúng ta đã làm là những
công năng hay
năng lượng được
lưu trữ dưới dạng dấu ấn, là những dữ liệu được nhập để xử lý. Khi quá trình này
hoàn tất, quá trình khác bắt đầu).
Tuy vậy,
thoạt tiên khi đọc đoạn dịch Anh ngữ này
chúng ta thấy hình như nó không
liên hệ gì đến
vấn đề luân hồi nghiệp báo gì cả, mà
điều chắc chắn dù dịch hay giải dưới
hình thức nào,
cú pháp nào, hay ngữ vựng gì, đoạn
phát biểu của
Thế Thân đang được dẫn bàn ở đây nói đến nghiệp,
dị thục của nghiệp, và quá trình
biến thái của chúng để
xuất hiện thành ta và
thế giới của ta. Tức là, khi một quá trình xử lý được
hoàn tất, có hai
trường hợp xảy ra. Hoặc những
ấn tượng đang còn
lưu trữ chưa được xử lý sẽ theo thứ tự
ưu tiên đợi để được xử lý tiếp. Hoặc chính thông tin mới nhận được
trở thành dữ liệu được tái nhập để
thành hình một quá trình xử lý mới.
Giống như khi gạo được nấu thành cơm, tức gạo đã qua một quá trình xử lý với củi, với lửa, với nước các thứ. Khi đã thành cơm, gạo không còn
tồn tại. Những dữ liệu, tức những
ấn tượng của hành động, hay
tập khí của nghiệp, đã được xử lý
hoàn tất, tức đã
thọ báo xong, bấy giờ chính cơm lại bắt đầu một hay nhiều quá trình xử lý khác: quá trình
tiêu hóa, quá trình dinh dưỡng và bài tiết. Sau quá trình bài tiết lại qua quá trình xử lý khác để
trở thành phân bón các thứ, rồi
trở thành cây, trái các thứ.
Và đây là
lý do để từ vipāka được dịch là processing: xử lý, thay vì dịch là retribution:
báo ứng hay
quả báo như thường biết từ trước.
Tác giả nói:
(…)
chúng tôi đã dịch từ “vipāka (
dị thục)” là “xử lý” (processing) thay cho những gì thường được
chuyển ngữ là “hoàn báo” (retributory), như một điều rất
hiển nhiên từ những gì đã nói. Cách dịch sau, đối với
chúng tôi, hình
như không bảo đảm mặc dù
chính xác về mặt
ngữ nguyên học, bởi vì nếu
chuyển biến của thức là một cấu trúc
ngôn ngữ thì không có gì trong
chuyển biến đó được xem là “hoàn báo” hay “tích chứa” (store). Hơn nữa, vipāka có nghĩa là “chín” (ripening),
hiển thị một tiến trình qua đó một sự vật tự chuyển từ một
trạng thái này sang một
trạng thái khác. Và vì
chuyển biến của thức là một cấu trúc
ngôn ngữ cho nên sự “chín” của một
ấn tượng ngôn ngữ không thể được
chuyển ngữ thành từ nào hay hơn từ “xử lý”, nhất là khi từ này được hiểu theo cách dùng hiện nay trong khoa học thông tin.
Như vậy,
liên hệ giữa
mô tả qua những từ khóa
nhất định gợi
ấn tượng liên hệ tin học
hiện đại, với
chân lý mà
Thế Thân phát biểu liên hệ đến
tính cách tồn tại của nghiệp và những quá trình
biến thái của nó,
chúng ta sẽ thấy dịch giả sang tiếng Việt
Triết học Thế Thân đã làm thêm nhiều điều hơn một dịch giả cần làm.
Một mặt cần
phiên dịch gần như từ đối từ - mot à mot, nói theo kiểu Pháp, để
độc giả biết mình đang đọc cái gì đó
đặc biệt của Lê Mạnh Thát viết; nhưng
đồng thời cũng cần thêm những từ khóa
quen thuộc với
độc giả Việt qua các từ Hán dịch.
Thí dụ,
độc giả biết Lê Mạnh Thát đang nói về “cấu trúc ngôn ngữ” nhưng cũng biết là
tác giả đang nói đến điều mà
xưa nay chúng ta gọi là “phân biệt” gồm cả “năng phân biệt” và “sở
phân biệt.” Cũng vậy, khi đọc trong bản dịch Việt của
Triết học Thế Thân những đoạn nói về xử lý, thức xử lý hay quá trình xử lý, thì cũng biết đó là đang nói về điều mà
xưa nay chúng ta quen biết qua từ là
dị thục.
Và thêm nữa, với cụm từ impression of action, nói
ấn tượng của hành động,
chúng ta dễ
liên tưởng đến
ấn tượng tri giác gì đó về
ấn tượng. Làm thế nào để
liên hệ nó với
tập khí của nghiệp, để có thể biết rằng đó là nói về dấu ấn được
huân tập bởi nghiệp, hay một
năng lượng nào đó do nghiệp để lại được lữu trữ trong thức kho chứa. Rất nhiều từ khóa
cần phải có nhiều mối
liên tưởng như vậy.
Trong các bộ từ khóa cần
thận trọng liên tưởng ấy, còn một từ khóa không
thể không nhắc đến. Trên một
phạm vi rộng hơn, chính từ khóa này, khi được
nhận thức trong tính phổ quát của nó, sẽ cho
chúng ta thấy chiều hướng tiếp cận khác nhau giữa các
truyền thống tư tưởng. Trước hết,
chúng ta đề cập đến từ Anh ngữ mà
tác giả sử dụng như là hòn đá thử vàng để
đánh giá các
quan điểm khác về
ý nghĩa tồn tại của
thế giới. Đó là từ description. Để làm công việc đó,
tác giả dựng nó thành một
lý thuyết của
Thế Thân: the theory of descriptions,
lý thuyết mô tả, và khẳng định: in the present study the theory of descriptions is still held to be one of the cornerstone of Vasubandhu's philosophy. (Trong
luận án Triết học Thế Thân này, thuyết
mô tả được xem là hòn đá tảng của
triết học Thế Thân).
Thuyết này được
tác giả tóm tắt như sau:
“Thuyết này chủ trương đối với bất kỳ hằng số đơn hay danh từ riêng n nào ta luôn luôn có thể thay nó bằng một thuộc từ N; thuộc từ này chỉ đúng đối với vật mà n có
liên quan, và trong đó n không xảy ra hoặc không được cần đến.
Thí dụ, đối với bất kỳ n nào, ta cũng có (ix)N(x), trong đó ký hiệu (i...) cho thấy bất kỳ biểu thức nào
theo sau thuộc dạng N(...) sẽ tạo thành cùng với nó một
mô tả có thể hủy. Và vì bất kỳ biểu thức nào có dạng N(x) đều có thể luôn luôn được thay thế, theo các
quy tắc được biết, bởi một hàm f như f(x) chẳng hạn, thuyết này còn chủ trương đối với bất kỳ hằng số đơn hoặc danh từ riêng hoặc ngay cả
phát biểu nào trong đó chúng xảy ra đều luôn luôn có một hàm như f(x).
Về cơ bản, thuyết này nói, bất
cứ sự vật gì mà ta
nhận thức được
hay nói đến, nó chỉ
tồn tại như một
mô tả. Vì
mô tả là một quá trình xử lý các dữ liệu thông tin, cho nên luôn luôn
chúng ta cần một phần mềm để xử lý. Phần mềm đó được lập trình với một
ngôn ngữ rất
đơn giản mà có thể xử lý bất cứ dữ liệu thông tin nào được đưa vào.
Chúng ta cần thông tin về một sự vật nào đó, gọi nó là cỗ xe. Nhưng dữ liệu được đưa vào để xử lý cho
xuất hiện cỗ xe là các thứ càng, gọng, bánh v.v… Như vậy, cỗ xe là một cái gì đó không bao giờ
tồn tại, mà nó chỉ là
mô tả thông tin về sự
kết hợp của nhiều
dữ kiện trong một
công thức của lập trình.
Công thức đó có thể là n = (ix)N(x). Trong đó, n, mà ở đây ta nói là cỗ xe, không thực sự
tồn tại, nó chỉ
xuất hiện qua một vị ngữ N nào đó với biến số x khi được cho những
giá trị thích hợp.
Điều này dẫn
chúng ta đến một
phát biểu lừng danh của
Long Thọ trong
Trung luận: Yaḥ pratīya-samutpādaḥ śūnyatāṃ tāṃ pracakṣmahe/ sā prajñaptir upādāya pratipat saiva madhyamā.
Độc giả Việt Nam rất
quen thuộc trích dẫn này qua bản Hán dịch của Cưu-ma-la-thập: “Chúng
nhân duyên sanh pháp, ngã thuyết tức thị vô, diệc vi
thị giả danh, diệc thị
trung đạo nghĩa. 眾因緣生法 我說即是無 亦為是假名 亦是中道義”.
Điểm cũng nên
lưu ý là trong bản dịch này, được in trong Đại chánh, nói là “tức thị vô” nhưng trong các trích dẫn thường gặp lại là “tức thị không.” Tất nhiên,
từ không này mới tương đương với từ śūnyatā trong tiếng Phạn. Nguyên văn trong Đại chánh có thể là do chính La-thập, nhưng vì sao dịch giả
cố tình thay đổi từ mà hai chúng không chung một nội hàm. Dù sao, y trên bản dịch này
chúng ta có những từ khóa lập nên nền tảng cho các
tông phái Phật giáo Trung Quốc: Không,
Giả danh và
Trung đạo.
Tác giả Triết học Thế Thân cho
chúng ta biết chính bài tụng này là cơ sở thuyết
mô tả của
Long Thọ. Về từ mà Hán dịch gọi là
giả danh, nguyên gốc Phạn nó là prajñapti, được dịch sang tiếng Anh là description, dịch lại tiếng Việt lần nữa, thành ra là
mô tả. Như vậy, nếu
chúng ta nói:
con người, sinh vật,
thế giới, v.v., chỉ là
giả danh,
chúng ta sẽ dễ dàng đi đến
kết luận: tất cả chỉ là giả. Nhưng nếu nói, những thứ đó
tồn tại, và
chúng ta biết chúng
tồn tại, đó là y trên
mô tả: prajñaptir upādāya. Những thứ đó, theo thuyết mệnh danh là
mô tả ở đây, là thật hay giả?
Trong bản Hán của La-thập, từ upādāya bị lược bỏ. Nhưng upādāya, trong nghĩa cơ bản nó có thể được hiểu là “sau khi dựa trên”, là từ khóa chỉ ra mối quan hệ cho sẵn nào đó (a given relation). Nếu trong một mệnh đề sơ cấp hay cơ bản, nó định mối quan hệ cho sẵn giữa chủ ngữ và vị ngữ. Điều này được thấy trong biểu thức
mô tả đã dẫn trên.
Chúng ta nói quan hệ cho sẵn, ý nói là mối quan hệ ấy diễn ra theo một
quy luật nào đó: quan hệ đồng nhất hay
đối xứng, quan hệ bắc cầu hay quan hệ tự phản, v.v…
Thí dụ, cho x một
giá trị nào đó,
chúng ta có thể thay n bằng vị ngữ N(x), thì quan hệ ở đây có thể là quan hệ đồng nhất. Nhưng
chúng ta phải nói rằng, cho x một
giá trị nào đó sao cho (such that)… Biến số x như vậy có thể được thay bắng từ Sanskrit pratyaya (duyên: condition,
điều kiện).
Nếu
chúng ta nói “x là sắc uẩn” , trong một hàm mệnh đề (propositional function), vậy để cho x là
sắc uẩn, nó
cần thiết phải nằm trong một lớp (class) nào đó của
sắc pháp. Mặt khác,
chúng ta nhận ra rằng “đây là một sắc pháp” và chỉ có thể
phát biểu chính xác về
sắc pháp này là cái gì nếu
chúng ta thiết lập được quan hệ giữa nó với
bốn đại chủng. Vậy, thay vì nói: “đây là mắt” hay “đây là sắc”,
chúng ta có
công thức của quan hệ: mahābhūtam upādāya rūpam.
Trên đây
chúng ta đề cập đến một từ khóa được nói là dẫn đến thuyết
mô tả: prajñapti, như được dùng bởi
Long Thọ. Ngoài
Long Thọ,
chúng ta còn gặp rất nhiều
trường hợp dùng từ prajñapti tương tợ.
Thế Thân đưa ra một từ
đặc biệt, và chính từ này là khái niệm cơ bản để hiểu nội dung thuyết
mô tả của
Thế Thân. Từ đó được
tìm thấy ngay trong bài tụng đầu tiên của Tam thập tụng: ātmadharmopacāro hi vividho yaḥ pravartate, mà Hán dịch của
Huyền Trang là: “do
giả thuyết ngã pháp/ Hữu
chủng chủng tướng chuyển由假說我法/有種種相轉…”
Nếu theo cấu trúc ngữ pháp Hán,
mọi người sẽ hiểu câu này rằng “do giả mà nói ngã và pháp, có nhiều hình thái sai khác
chuyển biến.” Theo đó, ngã và pháp là cái gì
không thật, chúng chỉ được nói đến theo
tính chất giả, không thực. Hoặc hiểu cách khác: “Do
giả thuyết mà có ngã pháp”. Tức
ngã pháp là những điều được
giả thuyết.
Giả thuyết này có nghĩa là gì?
Vấn đề không
đơn giản. Dù vậy, cách hiểu đó dễ dàng đi đến
nhận định: chúng là giả, không thực.
Và đây là cách hiểu để Wei Wat dịch nó sang tiếng Anh, trong bản dịch Anh ngữ về
luận Thành duy thức: Concepts of Atman and Dharma do not imply the existence of a real Atman and real Dharma, but are merely fictitiuos construsctions [produced by numerous causes]. “Những khái niệm về Ngã và
pháp không hàm ngụ sự
tồn tại của một
thực Ngã, thực pháp nào, mà chỉ là những cấu trúc hư cấu (được tạo ra bởi nhiều
nguyên nhân).”
Trong
Triết học Thế Thân, nó được dịch sang tiếng Anh như sau: “the description of self and things which functions in several ways is upon the transformation of consciousness” Sự
mô tả về ngã và pháp
hoạt động trong nhiều cách là y trên sự
chuyển biến của thức.”
Trong đó, từ upacāra, mà Hán dịch là
giả thuyết, đây dịch là
mô tả. Từ nguyên của từ này là tiếp đầu upa - với động từ căn CAR (upa-carati),
nghĩa đen là đi
đến gần. Do đó, nghĩa cơ bản của nó là sự tiếp cận, nhưng trong nghĩa rộng hơn, nó được hiểu là một
ẩn dụ (metaphor), hay dùng theo một nghĩa tượng hình (figurative application).
Giải thích ý nghĩa của từ này bởi
An Huệ, được dẫn trong
Thành duy thức luận, đặt ra những điểm
căn bản để có
nhận thức về thuyết
mô tả của
Thế Thân.
Sau khi dịch nguyên cả đoạn sớ giải của
An Huệ (Sthimarati, Triṃśikāvijñaptibhāṣya), và
đề ra những phân tích từ sớ giải đó, Lê Mạnh Thát
nhận xét: “Tuy nhiên, cần
lưu ý rằng khi
thuyết minh như thế về
vấn đề trên,
An Huệ đã không vào được phần
trọng tâm của nó.”
Trở lại câu hỏi thật giả. Dù nói là thuyết
mô tả của
Long Thọ, hay của
Thế Thân,
chúng ta biết rằng với cả hai vị này,
theo như chúng ta được biết từ trước,
thế giới chúng ta thấy đó là bất thực, Hoặc nó như lông rùa,
sừng thỏ, hoặc nói theo
thí dụ của
Thế Thân mà
Huyền Trang dịch “như do huyễn ế 眩瞖 mà thấy sợi tóc, con rắn các thứ. Các dịch giả Việt
xưa nay vẫn hiễu đó là do bệnh “nhặm mắt” mà thấy có sợi tóc, hay đêm tối trông sợi dây mà thấy là con rắn.
Trong tiếng Phạn, nguyên đó là do một chứng bịnh gọi là timira.
Cần phải hiểu rõ đó là thứ bịnh gì, mới có thể
xác nhận cái nó thấy là
ảo giác hay không. Để làm điều này,
tác giả Triết học Thế Thân đã dành khá nhiều
công phu đọc các bản văn cổ của
Ấn Độ về y học,
đồng thời xác minh xem
Thế Thân có biết đến những thứ bệnh này hay không; nghĩa là,
kiến thức y học của
Thế Thân như thế nào đó để có thể
sử dụng từ này theo đúng điều mà ông muốn
mô tả. Và rồi
tác giả phát biểu kết qua thu hoạch được:
Với tất cả các
mô tả trên về
trường hợp bệnh timira,
chúng ta có thể nói gì về
thí dụ người mắc bệnh này “nhìn thấy những sợi lông,
mặt trăng, v.v. không có thật” mà
Thế Thân đã dùng để
mô tả tình trạng nhận thức của
chúng ta về
thế giới ngoại tại?
Rõ ràng, ta không thể nói theo kiểu nhiều
tác giả từ trước
đến nay từng nói, những người
chúng ta đã có dịp nhắc đến nhiều lần trước đây. Họ nghĩ rằng
thí dụ trên của
Thế Thân nhằm bày tỏ
quan điểm hay
học thuyết của ông cho rằng không có gì
hiện hữu trên
thế giới này ngoại trừ những gì do trí tưởng tượng của ta tạo ra,
giống hệt như
mọi vật mà người mắc bệnh timira nhìn thấy đều chỉ là sản phẩm của cặp mắt
bệnh hoạn của người đó. Những vật này đều không thực như bất cứ cái gì ta có thể nghĩ đến.
Vì thế, theo các
tác giả này, cái nhìn của
Thế Thân cũng
giống hệt như cái nhìn của người bệnh timira, nhìn thấy được mọi thứ nhưng tất cả đều không thực, tất cả chỉ là các biểu hiện của căn bệnh riêng của ông và đều do căn bệnh này
quy định. Nếu đó thật sự là cái nhìn của
Thế Thân về
thế giới thì chắc hẳn ông đã mắc phải bệnh timira quá
trầm trọng và nên được
điều trị bằng y dược hơn là bằng những
suy luận triết học mà các
tác giả nói trên đã bắt ông phải chịu. Và nếu đó thật sự là cái nhìn của
Thế Thân về
thế giới thì điều kỳ dị là một người bệnh timira lẽ ra phải nhìn thấy theo cách khác để có thể chỉ ra
một thế giới khác với
thế giới của chính mình. Và lúc đó
ý nghĩa của
thí dụ trên sẽ là gì?
Qua các từ khó mà
chúng ta nêu lên một cách
đại khái như trên để có thế thấy rằng
ngôn ngữ Hán có một
giới hạn nào đó để khó mà chuyển tải hết nội dung
tư tưởng Phật học có nguồn gốc
Ấn Độ, trong cả hai trường phái lớn của
Đại thừa là
Trung quán và
Duy thức.
Thật sự, khi nói đến thuyết
mô tả,
tác giả không thể bỏ qua các khái niệm như vị ngữ (pradicate), số hạng (term), hàm mệnh đề (prepositional function), mối quan hệ (relation xRy), v.v.; những điều mà Russell đã
luận giải chi li để lập nên thuyết
mô tả của ông được xem là “mô phạm của triết học” (a paradigm of philosophy, Frank P. Ramsey).
Thêm nữa, khi
cần thiết hỗ trợ cho biểu thức
mô tả mà
tác giả lập nên như là điển hình tuyết
mô tả của
Thế Thân, trong
trường hợp biểu thức này
trở thành phát biểu định lượng, với những ký hiệu "x: với bất kỳ, hay $x:
tồn tại một x sao cho…; khi ấy
chúng ta cũng cần đến phép tính vị ngữ sơ cấp (first-order predicate calculus), nhưng
tác giả đã không làm điều này. Tất nhiên,
chúng ta không thể
xem như tương đồng giữa thuyết
mô tả của
Long Thọ và
Thế Thân trong
một thế giới phương Đông huyền bí cổ xưa, với thuyết
mô tả vốn là sự
kế thừa tư duy toán học phương Tây
hiện đại, do đó những gì mà thuyết
mô tả của Russell cần thì không
nhất thiết phải là tất yếu với thuyết của
Thế Thân.
Vậy, khi
phiên dịch một
tác phẩm chứa đựng khá nhiều
thuật ngữ toán học
hiện đại, lại đề cập những
vấn đề Phật học mà những người học Phật thường gặp, thì người dịch phải làm một công viêc khá quan trọng: bắc cầu giữa hai loại hình
ngôn ngữ có cấu trúc khác nhau để chuyển tải cùng
mô tả một
thực tại, cùng chuyển tải một nội dung
tư tưởng.
Quả thật, nếu khi
tác giả nói đến thuyết
mô tả của
Long Thọ, mà
độc giả không
tìm thấy trong đó từ
giả danh, prajñapti, chắc sẽ khó mà biết
Long Thọ đã nói đến điều đó ở chỗ nào vậy!
Cũng vậy,
nếu không liên hệ được các từ upacāra, description, cùng với từ
giả thuyết, thật khó mà biết thực sự
Thế Thân đã đặt nền tảng
mô tả ở chỗ nào. Và thêm nữa, khi không
liên hệ được giữa từ
dị thục, và từ xử lý,
chúng ta thấy hình như
Thế Thân nói những
vấn đề không
liên hệ gì đến
Phật học, những
vấn đề không tìm trong
Kinh Luận nào cả, vậy:
Thế Thân là
ngoại đạo chăng?
May mắn tôi được dịch giả gửi cho đọc bản dịch này
trước tiên, nên rất
vui vẻ viết một vài
ghi nhận bất chợt, chứ không có
ý định giới thiệu tác phẩm hay bản dịch. Vì chính
tác phẩm sẽ nói những điều cần nói, người khác không thể thay thế được. Tôi nghĩ, sau khi đọc xong
tác phẩm này,
độc giả sẽ thấy có nhiều
vấn đề cần đặt lại trong sự
hiểu biết về
Phật học của
chúng ta từ trước.
Cuối cùng, xin có mấy lời
cảm ơn dịch giả, đã
cống hiến cho một bản dịch đòi hỏi quá nhiều
cân nhắc thận trọng, trong
thuật ngữ cũng như trong
cú pháp.
Thích Tuệ Sỹ