. Tức thể, tướng và dụng của nó đã hiện đầy đủ.
Không phải
pháp thân của chư Phật khác
pháp thân của
chúng sinh. Khác hay không chỉ ở mặt hiện hay ẩn, tướng và dụng. Còn về mặt tánh thể thì “Tướng tự thể
chân như của tất cả
phàm phu,
Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không có tăng giảm, không có mé trước sinh, không có mé sau diệt,
rốt ráo thường hằng”
1.
Nói Pháp vì thân được
trang nghiêm bởi
vô lượng vô biên đại công đức như
mười lực, bốn
vô úy v.v… Nói Thân vì đó là
nơi nương tựa, là chỗ tích tụ… Nói
Pháp thân của chư Phật là muốn nói đến loại thân
tích tụ vô lượng vô biên các thứ
công đức không thể nghĩ bàn, với vô vàn
diệu dụng không thể nói.
Pháp thân ấy thế nào?
1- Không phải là đối tượng nhận biết của nghiệp thức
Luận
Đại thừa khởi tín nói: “
Pháp thân của chư Phật không có sắc tướng đây kia đắp đổi qua lại cùng thấy”.
Sắc tướng nói đây chỉ cho những gì có thể
nhận biết bằng mắt. Đó là phần
sở kiến của một cái năng kiến. Do còn
trong vòng đối đãi năng sở nên nói “đắp đổi qua lại cùng thấy”.
Pháp thân không phải là
sắc tướng, không phải là phần
không sắc (như
hư không hay những chỗ
không sắc), cũng không phải là chính cái thấy hay sự
nhận biết. Kinh
Lăng nghiêm nói: “
Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến”. Khi thấy được
thực tướng của cái thấy (thấy tánh) thì cái thấy ấy không có thấy. Ngài Hám Sơn nói: “
Chân thể pháp thân là nhất tâm chân nguyên, chẳng thuộc mê ngộ, chẳng mượn duyên sinh. Chính cái thiên chân này là chánh nhân Phật tánh, nên ý tóm kết đây là chuẩn mực để hiểu về chỗ rốt ráo”
2. Nói đến
pháp thân là nói đến cội nguồn của tất cả pháp. Đó là
bản thể của mọi
hiện tượng mà ta đang thấy đây và cả những gì ta chưa
đủ khả năng thấy. Cũng là cội nguồn từ đó có
nghiệp thức của
chúng sinh.
Pháp thân này không do
duyên sinh. Thứ gì do
duyên sinh thì không phải là
pháp thân. Song nó
vẫn có mối
liên hệ chặt chẽ giữa cái gọi là pháp do
duyên sinh và
pháp thân.
Nói lìa
sắc tướng là nói
pháp thân không phải là chính các
sắc tướng ấy, nhưng cũng không ngoài các
sắc tướng ấy, nên nói hay hiện
sắc tướng. Vì
pháp thân ấy chính là thể của sắc
3. Như vàng làm đồ trang sức. Vàng không phải là vòng, là nhẫn, là dây chuyền v.v…, nhưng vàng không lìa những thứ đó. Nói cách khác,
pháp thân chính là
bản thể của mọi
sắc pháp, như vàng là
bản thể của đồ trang sức. Nhìn đồ trang sức mà
trực nhận được vàng thì biết
bản thể không
lệ thuộc vào các
sắc tướng như vòng, nhẫn v.v… Song ví dụ đó vẫn còn
hạn chế để hiểu về
pháp thân, vì vàng cũng như đồ trang sức đều là đối tượng được thấy (sở thấy) bởi một cái năng thấy, đều là
pháp duyên sinh, trong khi
pháp thân không thuộc
duyên sinh, vượt ngoài
năng sở,
trùm khắp pháp giới. Vì thế, hiện nay
bản chất này vẫn là một dấu hỏi rất lớn đối với một số người,
đa số khác thì vẫn nhầm lẫn giữa cái gọi là tướng và tánh,
hiện tượng với
bản thể.
“Vì từ xưa
đến nay, sắc và tâm chẳng phải hai. Bởi sắc tánh chính là trí, nên thể của
sắc không hình, gọi là
trí thân. Bởi trí tánh tức là sắc nên gọi là
pháp thân cùng khắp tất cả chỗ. Sắc sở hiện ấy không có phần hạn,
tùy tâm hay hiện
mười phương thế giới.
Vô lượng Bồ-tát,
vô lượng báo thân,
vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi
sai biệt, đều không có phần hạn mà chẳng ngăn ngại lẫn nhau. Đó chẳng phải là chỗ
thức tâm phân biệt có thể biết, vì nó là dụng của
chân như tự tại”. Đây là nói về phần
sắc tướng ứng với tâm
vô phân biệt của chư Phật. Do
chân tâm trùm khắp vô ngại nên sắc nó
hiện ra cũng
viên dung,
tự tại,
vô ngại. Còn phần
sắc tướng chúng ta thấy hiện nay là ứng với
thức tâm phân biệt của
chúng sinh, là
sở kiến của cái thấy, tùy nghiệp của từng loài mà có
cảnh giới sắc, thanh, hương, vị… khác nhau.
Phần
sắc tướng mà
chúng sinh nhận biết thì có phần hạn, có ngăn ngại. Còn phần
sắc tướng ứng với
tâm thanh tịnh của chư Phật thì không có phần hạn, cũng chẳng ngăn ngại lẫn nhau, vì mỗi căn của Phật đều
trùm khắp pháp giới. Đây là báo và
hóa thân nói trong
tam thân. Báo và
hóa thân này không lìa
pháp thân, như sóng và nước
xưa nay không hai. Nói “sắc tánh tức là trí” là nói sắc tức là tâm, là muốn hiển cái không hai đó. Nói “trí tánh tức là sắc” là nói tâm tức là sắc, cũng muốn hiển cái không hai đó, như nước có khắp trong tất cả sóng. Tánh sắc, tánh trí là chỉ cho
bản giác trí tâm.
Vô lượng Bồ-tát… là muốn nói đến
tác dụng của
báo thân. Đó là đại dụng
cơ cảm của
báo thân, đều có thể
tùy duyên mà ứng tức khắc. Đây là dụng của
chân như, nên không phải là chỗ thấy của
thức tâm phân biệt, là
vọng tâm chúng ta đang dùng hiện nay.
Các tướng sai khác của pháp thân Theo luận
Thành duy thức,
pháp thân có
ba tướng sai khác:
Tự tánh thân,
Thọ dụng thân và
Biến hóa thân.
1-
Tự tánh thân là
pháp giới chân tịnh mà
Như Lai đã
chứng đắc, là chỗ nương
bình đẳng của
Thọ dụng thân và
Biến hóa thân. Thân này
vắng lặng, không có
biên tế, lìa tất cả tướng, bặt mọi
hý luận, là thực tánh
bình đẳng của tất cả pháp. Phân theo
tam thân, đó chính là
pháp thân, chỉ cho
thể tánh không của
vạn pháp, cũng chính là
tướng không nói trong
Tâm kinh Bát-nhã, là
Phật tánh nói trong kinh Đại bát Niết-bàn, là cái “không”
chân như nói trong luận
Đại thừa khởi tín.
2-
Thọ dụng thân có hai, là Tự
thọ dụng thân và
Tha thọ dụng thân.
- Tự
thọ dụng thân là thân tự
thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các
Đức Như Lai trải qua vô số kiếp
tu tập vô lượng tư lương,
vô lượng phước đức,
trí tuệ, giúp làm phát sinh bốn trí Bồ-đề và
vô biên công đức chân thật,
thành tựu sắc thân rất
viên mãn,
thanh tịnh,
thường hằng biến khắp,
tương tục lặng lẽ, cùng tột đời
vị lai, thường tự
thọ dụng pháp lạc rộng lớn.
-
Tha thọ dụng thân là thân giúp người
thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các
Đức Như Lai do
năng lực của
Bình đẳng tánh trí, ở cõi thuần tịnh,
thị hiện công đức thanh tịnh vi diệu, vì hàng Bồ-tát
Thập địa mà
hiện đại thần thông,
chuyển bánh xe pháp, dứt trừ lưới nghi, khiến họ
thọ dụng pháp lạc Đại thừa.
Đây chính là
báo thân nói trong
tam thân.
3-
Biến hóa thân là thân
biến hóa ở các cõi. Chư
Như Lai, do
năng lực của
Thành sở tác trí, có thể biến
hiện ra vô lượng hóa thân theo loài
hữu tình, tịnh có, uế có. Cũng
tùy theo cơ nghi của chúng Bồ-tát chưa
đăng địa, cùng hàng
Nhị thừa và một loại
Dị sinh mà hiện
thần thông nói pháp, khiến họ đều được
lợi lạc. Đây là
hóa thân nói trong
tam thân.
Tóm lại,
ba thân sai biệt của
pháp thân đều có đầy đủ
vô lượng vô biên công đức, nhưng mỗi thân có khác.
Tự tánh thân thì chỉ có
công đức vô vi chân thật, lìa mọi
tạp nhiễm, làm chỗ nương cho các thiện, nhưng không có tướng dụng sai khác của
sắc tâm.
Tự tánh thân này chính là phần tánh
thể không tăng không giảm khi nói đến tánh thể của
vạn pháp.
Tự
thọ dụng thân thì có đủ
vô lượng các thứ
công đức chân thật của
sắc tâm thù diệu.
Tuy thân này của chư Phật không giống nhau nhưng đều
vô biên và không
chướng ngại lẫn nhau.
Tha thọ dụng thân và
Biến hóa thân thì chỉ có
vô biên công đức hóa tướng của
sắc thân tương tợ, với
tác dụng lợi lạc cho loài
hữu tình. Hai thân này
tùy theo các loài chư
Như Lai hóa độ mà sự
biến hóa có chung và không chung.
Nếu loài
hữu tình được
hóa độ là chung, đồng chỗ, đồng thời… thì chư
Như Lai đều biến ra thân và độ có tướng trạng tương tợ, không
chướng ngại nhau,
triển chuyển xen nhau làm
tăng thượng duyên, khiến trên tự thức của các loài được
hóa độ đó biến
hiện ra Phật
hóa thân cùng Phật
hóa độ.
Chúng sinh đó nghĩ
Phật thân của chư Phật chỉ là một, kỳ thật là do nhiều Phật biến ra.
Nếu loài
hữu tình được
hóa độ là không chung thì dù
chúng sinh ấy có thấy
mười phương chư Phật hiện ra,
thực tế cũng chỉ là sự
hóa hiện của một Phật.
Sở kiến của chúng sinh với Tha thọ dụng và Biến hóa thân của chư Phật
Sở kiến là những gì mà loài
hữu tình nhận biết được qua các căn, đó là đối tượng của các căn. Song dùng
sở kiến mà không dùng các từ khác như sở nghe v.v… là có
lý do sâu xa ở mặt
tu chứng, ở đây không bàn tới,
chỉ y các bậc
cổ đức mà lấy nghĩa chính là đối tượng của cái thấy.
Sở kiến này, tùy
nghiệp thức của từng loài mà có sự không đồng. Như
loài người thấy nước là nước nhưng
ngạ quỷ lại thấy là lửa hoặc máu. Đó là do
nghiệp thức của từng loài mà
sở kiến thành khác nhau. Đối với việc thấy Phật cũng vậy, tùy
nghiệp thức từng loài mà việc thấy Phật này cũng không đồng. Luận
Đại thừa khởi tín phân phần
sở kiến thấy Phật này ra làm hai. Một, là
sở kiến của
phàm phu và
Nhị thừa. Hai, là
sở kiến của Bồ-tát.
1- Sở kiến của phàm phu và Nhị thừa
Luận nói: “
Y nơi phân biệt sự thức, gọi là ứng thân. Vì không biết do chuyển thức hiện nên thấy từ ngoài đến. Nhận lấy phần hạn của sắc nên không thể biết hết”.
Phàm phu là chỉ cho người đời.
Nhị thừa là chỉ cho
Thanh văn và
Duyên giác.
Phàm phu thì gần
như không ai biết gì về các thức.
Nhị thừa thì chỉ mới biết đến thức thứ sáu, chưa biết có thức thứ bảy và thứ tám, chưa thấu nghĩa
duy tâm sở hiện, không biết các trần chỉ là thức, nên chấp ngoài tâm thật có
cảnh giới, thấy thật có Phật
Thích Ca với
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
chấp có sinh tử đáng chán, có Niết-bàn đáng vui, không rõ
đạo lý duy tâm. Nói
Y phân biệt sự thức mà thấy là vậy.
Phân biệt sự thức là chỉ cho thức thứ sáu.
Chuyển thức là do
tự tánh chân như không tánh,
bất giác tâm động mà thành
chuyển thức. Thức này,
chân vọng hòa hợp. Từ
chuyển thức có
hiện thức, hiện các
cảnh giới (như ngủ rồi mộng). Do chưa thấu được phần
chuyển thức này, không biết mọi
cảnh giới đều do
thức biến, nên thấy mọi thứ thật từ ngoài đến. Đây là cái thấy của đa phần
chúng ta hiện nay. Thấy ta, thấy người và thấy mọi thứ đều có phần hạn
như thật, rồi chấp vào những phần hạn ấy mà hành tác, nên “càng không thể biết hết”, là không thể tường tận được
thực chất của
vạn pháp.
Hỏi: Nếu đó là dụng của
chân như trong
tự tâm của
chúng sinh,
vậy thì liên quan gì đến
báo thân và
hóa thân Phật?
Đáp:
Chân tâm của
chúng sinh và thể của chư Phật
hoàn toàn không có sai khác.
Chúng sinh mê chân khởi vọng, nên
chân như chỉ hiện
nhiễm tướng, chẳng hiện được chân dụng. Cần có
bản giác nội huân vọng tâm, mới có thể có chán và cầu, là chán cái khổ
sinh tử, cầu cái vui Niết-bàn. Nhờ chán và cầu này mà dụng của
chân như được hiển. Chán cầu kém thì tướng dụng thô. Chán cầu dần tăng thì dụng cũng dần tế.
Dần dần như
thế cho đến nguồn tâm,
vô minh hết, chán cầu đều mất,
thủy giác đồng với
bản giác, dụng lại về thể,
bình đẳng bình đẳng.
Trong giai đoạn dụng
chân như của
chúng sinh chưa thể hiển thì đó là lúc cần có dụng
chân như của chư Phật
trợ duyên, là lúc
Tha thọ dụng thân (
báo thân) và
Biến hóa thân (
hóa thân) của Phật khởi
tác dụng. Luận
Đại thừa khởi tín nói: “
Dụng chân như là chư Phật Như Lai khi còn tại nhân địa, phát đại từ bi, tu các ba-la-mật, nhiếp hóa chúng sinh, lập đại thệ nguyện muốn độ thoát hết tất cả chúng sinh trong các cõi, không giới hạn kiếp số, đến cùng tận vị lai. Vì coi tất cả chúng sinh như thân mình mà không nắm giữ tướng chúng sinh. Do đâu như thế? Vì như thật biết tất cả chúng sinh cùng với thân mình chân như bình đẳng, không có sai khác. Vì có trí đại phương tiện như vậy nên trừ diệt được vô minh, thấy pháp thân mình. Tự nhiên có mọi thứ nghiệp dụng4 không thể nghĩ bàn. Liền cùng chân như đồng khắp tất cả chỗ. Cũng không có tướng dụng có thể được. Vì sao? Vì thân của chư Phật Như Lai chỉ là thân trí tướng pháp thân đệ nhất nghĩa đế, không có cảnh giới thế đế, lìa hành tác, chỉ tùy chúng sinh thấy nghe mà được lợi ích, nên nói là dụng”
5.
Đoạn luận này có vài điểm cần
lưu ý:
Tự nhiên có mọi thứ
nghiệp dụng không thể nghĩ bàn là dụng này không do Phật
tác ý mà có, chỉ như
trống trời ma-ni
vô tư mà
thành sự, nên nói lìa hành tác. Cũng không có tướng dụng có thể được, là dụng tuy có mà thể
thường tịch diệt. Chỉ
tùy duyên khởi dụng, nên dụng mà không dụng, như nước
tùy duyên thành sóng mà thể
hằng tịch diệt. Nếu
phế bỏ cơ cảm thì
Như Lai chỉ là
diệu lý bản trí,
hoàn toàn không có tướng
thế đế sinh diệt mà có
ứng hóa thân. Nhưng vì có
cơ cảm là do khi chư
Như Lai còn tại
nhân địa, đã tu các ba-la-mật, phát
đại thệ nguyện độ thoát
chúng sinh trong các cõi, mà khi đủ
cơ cảm thì dụng
chân như này liền hiện, khiến
chúng sinh thấy được báo
hóa thân mà nhận sự
hộ trì cùng
giáo hóa của chư Phật.
Cho nên, tuy là
sở kiến của
phàm phu và
Nhị thừa nhưng lại chính là
ứng hóa thân của chư Phật. Bi và trí của chư Phật làm
tăng thượng duyên,
chủng tử cơ cảm của
chúng sinh làm
nhân duyên, nương vào
bản chất Phật trên,
tự tâm biến ra
hình tượng. Chỗ “không một không khác” này là thứ khó nghĩ bàn đối với
tâm thức của người đời.
Luận nói tiếp: “
Lại, sở kiến của phàm phu là sắc thô, tùy lục đạo mà thấy các thứ dị loại không đồng, không phải là tướng thọ lạc, nên nói ứng thân”. Tuy đều là
ứng hóa thân của Phật, nhưng tùy
nghiệp lực trói buộc của từng loài, từng người, chưa
giác ngộ, hoặc đã
giác ngộ v.v… mà
ứng hóa thân thành có khác. Tổ
Hiền Thủ nói: “
Như tập khí ở ba ác đạo, thấy thân Phật dài ba thước như chân voi đen. Như Đề-vi v.v… ở địa vị trời người thấy Phật là thần cây và thân thiên thần vv… Y theo đó thì biết chúng sinh ở lục đạo thấy Phật không đồng, đều không phải là tướng xuất thế, nên không phải là tướng thọ lạc. Hàng Nhị thừa thấy Phật là thân thánh nhân A-la-hán xuất thế, nên nói ứng thân”
6.
Tướng
thọ lạc là chỉ cho
báo thân. Chẳng phải là
báo thân, nên nói
ứng thân.
2-
Sở kiến của tâm Bồ-tát từ
Sơ phát tâm đến
Cứu cánh địa
Luận nói: “
Sở kiến của tâm Bồ-tát từ Sơ phát tâm đến Cứu cánh địa, y nơi nghiệp thức, gọi là báo thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng hảo. Chỗ trụ y nơi quả cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy chỗ mà thị hiện, không có bờ mé, chẳng thể cùng tận, lìa tướng phần hạn, tùy chỗ cảm ứng, thường hay giữ gìn chẳng hủy, chẳng mất. Công đức như thế đều nhân nơi các hạnh vô lậu ba-la-mật huân tập và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu, đầy đủ vô lượng tướng lạc, nên nói báo thân”
7.
Chư vị Bồ-tát này từ khi mới
phát tâm Bồ-đề
cho đến khi
thành tựu quả vị Phật đều y nơi
nghiệp thức mà quán thấy mọi
hiện tượng. Y
nghiệp thức thì biết các trần không ngoài
duy thức, thảy đều
duy tâm sở hiện, cũng quán thấy phần hạn là không phần hạn, mỗi một
sắc tướng đều
trùm khắp pháp giới, dung nhau
vô ngại,
tự tại khó nghĩ bàn. Do phần quán thấy đó mà tâm có chỗ
tương ưng, cảm được
báo thân của chư Phật.
Báo thân đó, thân có
vô lượng sắc, sắc có
vô lượng tướng v.v… là nói về
chánh báo. Do thân không có phần hạn nên nói
vô lượng sắc. Chỗ trụ y nơi quả là nói về
y báo.
Y báo cũng không có phần hạn, nên nói
vô biên. Tùy chỗ
thị hiện không có bờ mé… là nói đến phần hạn sắc của
báo thân, không phải có phần hạn
như hóa thân, mỗi
sắc tướng thị hiện đều
trùm khắp pháp giới. Tùy chỗ
cảm ứng chẳng hủy, chẳng mất… là tùy nghiệp hạnh của người cảm mà
ứng ra, đều
thường trụ, vì chỗ này
tam tai không thể
phá hoại. Tất cả những
công đức có được đó đều nhờ sự
huân tập không thể nghĩ bàn mà được
thành tựu. Chư Phật đã
huân tập vô lượng hạnh
vô lậu ba-la-mật như thế trong
quá khứ mới được phần
Thọ dụng thân này. Chư Bồ-tát do
cảm ứng tương ưng, có thể nhận được phần
giáo hóa từ thân Tha
thọ dụng này.