Hỏi: Phần trên có nói nếu A-la-hán thuộc loại bất động thì sau Tận trí sẽ sinh khởi Vô sinh trí, có phải nói như vậy là hàm ý vẫn có sự khác nhau giữa các A-la-hán thuộc hàng Dự lưu v.v…?
(Đáp) Vẫn có sự khác nhau.
(Hỏi) Khác nhau như thế nào?
Tụng đáp: (Âm Hán)
A-la-hán hữu lục
Vị thoái chí bất động
Tiền ngũ tín giải sinh
Tổng danh thời giải thoát
Hậu bất thời giải thoát
Tòng tiền kiến chí sinh.
Dịch nghĩa :
Sáu hạng A-la-hán
Thoái pháp đến Bất động
Năm đầu tín giải sinh
Đều gọi Thời giải thoát
Hạng sau Bất thời giải (thoát)
Sinh từ kiến chí trước.
[A-la-hán có sáu hạng là Thoái pháp cho đến Bất động. Năm hạng đầu sinh từ Tín giải đều gọi là Thời giải thoát. Hạng cuối là Bất thời giải thoát sinh từ Kiến chí trước].
Luận: Kinh nói có sáu loại A-la-hán là Thoái pháp, Tư pháp, Hộ pháp, An trụ, Kham đạt pháp, Bất động pháp. Năm loại đầu sinh từ loại tín giải. Sự giải thoát về tâm của năm loại A-la-hán này mang tính chất thời cơ và đáng ưa vì họ luôn luôn gìn giữ sự giải thoát này. Vì thế các A-la-hán này được gọi là Thời giải thoát. Phải tùy thuộc vào thời cơ thì các hạng A-la-hán này mới được giải thoát, vì thế tên gọi trên đây đã được lập thành bằng cách lược bỏ một từ ở giữa (sơ ngôn) là (đãi), cũng giống như khi nói “bình bơ” là để chỉ cho cái bình đựng bơ.
Đối với hàng A-la-hán này, sự tu định phải tùy thuộc vào thời cơ, tức phải đợi đến khi có được các vật dụng cần thiết (tư cụ), khi không mang bệnh, và có được nơi tu tập.
Sự giải thoát của các A-la-hán bất động không thể bị lay động vì họ không thể thoái thất sự giải thoát này, vì thế họ có tên là bất động. Họ còn được gọi là Bất thời giải thoát. Họ nhập định tùy theo ý muốn của mình nên được giải thoát mà không phải tùy thuộc vào thời cơ.
A-la- hán đầu tiên còn bị thoái đọa từ sự giải thoát này vì thế họ thuộc loại “được giải thoát trong một thời gian” (tạm thời giải thoát) trong khi loại thứ sáu không còn bị thoái đọa và đã được giải thoát vĩnh viễn (tất cánh giải thoát) vì thế gọi là Bất thời giải thoát.
Các A-la-hán này sinh khởi từ loại kiến chí.
(Hỏi) Sáu loại A-la-hán nói trên có các chủng tánh này ngay từ đầu hay chỉ mới được sau này?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Hữu thị tiên chủng tánh
Hữu hậu luyện căn đắc.
Dịch nghĩa :
Được từ chủng tánh trước
Được lúc sau luyện căn.
[Có trường hợp đắc từ chủng tánh trước, có trường hợp đắc sau khi luyện căn].
Luận: Có trường hợp ngay từ đầu đã là A-la-hán Tư pháp, có trường hợp sau khi đã là A-la-hán Thoái pháp thì phải làm cho các căn thanh tịnh hoặc viên mãn căn mới trở thành Tư pháp. Và cứ tiếp tục như thế.
Hai loại đầu tiên, khi còn thuộc hàng Hữu học, đã thiếu sự nỗ lực liên tục và mãnh liệt, loại thứ ba chỉ có sự nỗ lực liên tục, loại thứ tư chỉ có sự nỗ lực mãnh liệt, loại thứ năm có cả hai loại nỗ lực nhưng căn lại muội độn, chỉ có loại thứ sáu có cả hai loại nỗ lực và lợi căn.
A-la-hán Thoái pháp không nhất định phải bị thoái đọa, và các loại sau đó cũng như vậy: A-la-hán Kham đạt không nhất định phải “đạt đến” (quả vị A-la-hán Bất động ). Sở dĩ các Thánh giả này có tên gọi khác nhau vì có thể có trường hợp họ còn bị thoái đọa v.v… Vì nguyên tắc này đã được thừa nhận cho nên có thể kết luận cả sáu loại A-la-hán đều có thể hiện hữu ở ba cõi.
Tuy nhiên nếu theo giả thiết A-la-hán Thoái pháp là A-la-hán nhất định bị thoái đọa …, và A-la-hán Kham đạt là A-la-hán nhất định phải đạt đến thì kết luận trên sẽ bị thay đổi: (1) Sáu loại A-la-hán đều có ở Dục giới, (2) Chỉ có hai loại A-la-hán An trụ và Bất động ở các giới trên (thượng giới) vì ở đó không có (a) Sự thoái đọa vì thế không có A-la-hán Thoái pháp và A-la-hán Hộ pháp vì sẽ không có việc phòng hộ thoái thất, (b) Cũng không có tư vì thế không có A-la-hán Tư pháp, (c) Cũng không có sự làm viên mãn các căn vì thế không có A-la-hán Kham đạt vì hàng A-la-hán này phải rèn luyện các căn thật mẫn lợi mới có thể “đạt đến”, mới có thể trở thành A-la-hán Bất động .
(Hỏi) Trong năm loại, loại nào thoái đọa từ chủng tánh và loại nào thoái đọa từ quả?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Tứ tòng chủng tánh thoái
Ngũ tòng quả phi tiên.
Dịch nghĩa :
Bốn loại đọa chủng tánh
Năm theo quả, không trước.
[Bốn loại thoái đọa từ chủng tánh. Năm loại từ quả, không thoái đọa từ (chủng tánh và quả) đầu tiên].
Luận: Bốn loại A-la-hán [từ Tư pháp cho đến Kham đạt] bị thoái đọa từ chủng tánh. Năm loại A-la-hán [từ Thoái đọa cho đến Kham đạt] cũng bị thoái đọa từ quả.
Tuy nhiên không có trường hợp thoái đọa từ chủng tánh và quả đầu tiên:
(1) Thánh giả A-la-hán không bị thoái đọa từ chủng tánh trước đó, tức chủng tánh đã đạt được trước khi trở thành A-la-hán vì chủng tánh này đã được làm cho kiên cố do đạo Hữu học và đạo Vô học. Thánh giả Hữu học không thoái đọa từ chủng tánh trước đó vì chủng tánh này đã được đạo thế tục và đạo xuất thế làm cho kiên cố. Không thể có trường hợp bị thoái đọa từ loại chủng tánh đã được nhờ luyện căn.
(2) Thánh giả không thoái đọa từ quả trước đó đã đạt được, nhưng có thể thoái đọa từ các quả đạt được sau. Như vậy họ sẽ không bị thoái đọa từ quả Dự lưu.
Theo hai nguyên tắc trên sẽ có (1) Ba trường hợp có thể xảy ra đối với hàng A-la-hán Thoái pháp : Họ có thể được Niết-bàn mà vẫn còn giữ nguyên chủng tánh của mình (trụ tự vị nhi bát Niết-bàn), hoặc có thể làm viên mãn các căn, hoặc có thể thoái đọa và trở lại hàng Hữu học; (2) Bốn trường hợp có thể xảy ra đối với hàng A-la-hán Tư pháp: ba trường hợp giống như ở trên, cộng thêm trường hợp có thể bị thoái đọa và trở lại hàng A-la-hán Thoái pháp; (3) Và tiếp theo là năm, sáu và bảy trường hợp có thể xảy ra đối với các hàng A-la-hán Hộ pháp, An trụ và Kham đạt (tức cộng thêm các trường hợp: hoặc trở lại hàng A-la-hán Tư pháp v.v…).
Khi một A-la-hán trở lại hàng Hữu học sẽ trụ ở chủng tánh giống như chủng tánh đầu tiên của mình. Nếu không phải như vậy thì khi được một chủng tánh cao hơn, lẽ ra Thánh giả chỉ có thăng tiến chứ không thể thoái đọa.
(Hỏi) Tại sao không thể thoái đọa từ quả trước đó?
(Đáp) Vì các phiền não thuộc kiến đoạn không có chỗ dựa: Thật vậy, khi có căn là hữu thân kiến thì các phiền não mới hiện hữu với ngã làm chỗ dựa cho ngã xứ chuyển, nhưng ở trường hợp này thì không có ngã.
(Hỏi) Như vậy có phải các phiền não này có đối tượng duyên là một sự vật không hiện hữu?
(Đáp) Không phải. Chúng vẫn có cảnh là các đế, (chúng vẫn quán sát các thủ uẩn là vô thường v.v…), vì thế không phải đối tượng duyên của chúng là một sự vật không hiện hữu, tuy nhiên chúng không thể duyên các cảnh này một cách chính xác.
(Hỏi) Các phiền não thuộc tu đoạn khác nhau ở điểm nào khi mà chúng cũng duyên cảnh không chính xác giống như các phiền não thuộc kiến đoạn?
(Đáp) Chúng vẫn khác với các phiền não thuộc kiến đoạn. Người ta thấy rõ ý tưởng về ngã (ngã kiến) mê chấp các thật pháp như sắc v.v… vốn không phải là “ngã”, không phải là “ngã tướng”, có các hành tướng của một thật thể có tạo tác, có cảm thọ, có các hành tướng của một đấng Đại tự tại. Và các loại kiến khác như biên chấp kiến v.v…, cũng hiện hữu được nhờ lấy chính ngã tướng này làm chỗ dựa, như vậy chỗ dựa của chúng là không thật hữu, có nghĩa là chúng không có chỗ dựa. Trái lại, các phiền não khác với các phiền não thuộc kiến đoạn, tức các phiền não được đoạn trừ do tu đạo như tham, sân, mạn, nghi lại có tính chất nhiễm trước, chán ghét, thỏa mãn, mê mờ đối với sắc pháp v.v…, vì thế nếu nói một cách tuyệt đối thì chúng vẫn có chỗ dựa. Vì các cảnh đáng ưa (khả ý), không đáng ưa v.v… của chúng vẫn thật hữu, trong khi đó lại không hề có dấu vết của ngã, ngã sở, đại tự tại v.v…
Một giải thích khác cho các phiền não thuộc tu đoạn có một chỗ dựa nhất định, mang một tính chất rõ ràng như đáng ưa, không đáng ưa v.v…. Trong khi đối với các phiền não thuộc kiến đoạn thì không có một chỗ dựa nhất định nào mang các tính chất của ngã hoặc ngã sở, vì thế chúng không có chỗ dựa.
Một điểm khác nữa là đối với hàng Thánh giả không suy nghĩ (thẩm lự) thì các phiền não thuộc tu đoạn có thể khởi dậy do bị thất niệm, nhưng các phiền não này không thể khởi dậy ở hàng Thánh giả có thẩm lự. Cũng giống như trường hợp tưởng lầm sợi dây là con rắn nếu không quán sát kỹ, [cũng giống như khi thiếu sự chú ý thì người ta sẽ quên mất tính chất siêu hình của các sự vật khả ý là vô thường, khổ, v.v…]. Trái lại, sự sai lầm của ngã kiến không thể khởi dậy ở các Thánh giả không thẩm lự vì loại tà kiến này chỉ là một sản phẩm của sự suy lường.
Như vậy Thánh giả không thể thoái đọa từ sự đoạn trừ các phiền não mà họ đã đoạn được nhờ vào kiến đạo (thánh kiến đoạn).
Các luận sư Kinh bộ nói Thánh giả không còn bị thoái đọa từ quả vị A-la-hán. Và ý kiến của họ thì chính xác về cả giáo chứng cũng như lý chứng.
Kinh nói: “Này các Bí-sô, “hoặc” được đoạn trừ chính là “hoặc” được đoạn trừ do Thánh tuệ”.
Kinh nói: “Ta tuyên bố hàng Hữu học cần phải tu bất phóng dật”. Đức Thế Tôn không nói điều này đối với hàng A-la-hán.
Chắc chắn là Đức Thế Tôn có nói: “Này A-nan, Ta tuyên bố ngay cả đối với A-la-hán thì các thứ tư hữu và danh vọng cũng là nguyên nhân của chướng ngại”. Trong khi đó kinh lại nói rõ nếu A-la-hán bị thoái đọa thì đó chỉ là thoái đọa từ hiện pháp lạc trụ: “Về sự giải thoát của tâm thuộc loại bất động, một sự giải thoát được làm hiện khởi qua thân, thì ta tuyên bố nhất định không còn sự thoái đọa từ nó”.
Nhưng Tỳ-bà-sa trả lời Đức Thế Tôn chỉ nói không bị thoái đọa từ tâm giải thoát thuộc loại bất động, do đó vẫn có trường hợp thoái đọa khi sự giải thoát này có tính chất tạm thời. Chúng tôi đồng ý vẫn có sự thoái đọa từ loại tâm giải thoát tạm thời. Tuy nhiên, sự giải thoát này là gì? Có phải đó là quả A-la-hán (Ứng quả tánh) như các ông nghĩ? Và chẳng lẽ không thể tin khi nói “tạm thời giải thoát” là Đức Thế Tôn có ý chỉ cho các tầng thiền thuộc thế tục sao?
Loại thiền định (đẳng trì) bao hàm các tầng thiền căn bản, khi được tu chứng trong một số trường hợp nào đó – chẳng hạn như ở một nơi không có tiếng ồn v.v… vẫn được gọi tên là “sự giải thoát tạm thời” (thời giải thoát), và nó còn có tên là “sự giải thoát đáng ưa” (ái giải thoát) vì mỗi lần bị thoái thất thì người ta vẫn mong cầu có lại để thọ hưởng các pháp lạc. Có luận sư khác nói loại thiền định này có tên là “sự giải thoát tạm thời” vì vốn là hữu lậu nên nó thuộc về nhóm các pháp “còn được ham muốn”.
Trái lại loại giải thoát tạo thành phẩm tánh A-la-hán không có tính chất tạm thời vì được hoạch đắc thường xuyên, nó cũng không còn là loại “đáng ưa” vì người ta không thể tìm kiếm trở lại loại giải thoát này. Nếu như còn có trường hợp bị thoái đọa từ phẩm tánh A-la-hán thì tại sao Đức Thế Tôn lại nói A-la-hán chỉ có thể thoái đọa từ hiện pháp lạc trụ? Vì thế loại tâm giải thoát bất động thuộc về tất cả các A-la-hán.
Một vị A-la-hán thoái thất hiện pháp lạc trụ khi vị này đánh mất sự tự tại đối với thiền định vì bị lợi dưỡng làm cho tán tâm, và đây là trường hợp của các hàng A-la-hán độn căn. Nếu thuộc hàng lợi căn thì một A-la-hán không thể thoái thất hiện pháp lạc trụ. A-la-hán thoái thất pháp lạc được gọi là thoái pháp, và không thoái thất pháp lạc thì gọi là bất thoái pháp. Các trường hợp của Tư pháp v.v… cũng được giải thích giống như vậy.
(Hỏi) Bất thoái pháp, An trụ và Bất động pháp khác nhau như thế nào?
(Đáp) Loại thứ nhất chưa làm cho các căn trở nên viên mãn: các căn này vốn đã mẫn lợi ngay từ đầu, loại thứ ba đã làm cho các căn trở nên viên mãn: cả hai loại này không còn thoái đọa từ các loại thiền định (đẳng chí thù thắng) đã đạt được. Loại thứ hai không còn bị thoái đọa từ các phẩm tánh mà họ đang an trụ, nhưng họ không thể khởi các phẩm tánh khác (thắng đức) hoặc nếu đã khởi thì vẫn có thể bị lay động. Đó là sự khác nhau của ba loại Thánh giả này.
(Hỏi) Tuy nhiên trong trường hợp của Kiều-để-ca, tại sao không bị thoái thất quả A-la-hán?
(Đáp) Khi còn thuộc hàng Hữu học, vì còn quá nhiều mong cầu và độn căn nên Kiều-để-ca đã nhiều lần bị thoái thất loại giải thoát tạm thời: vì lòng chán ghét (yếm trách) nên Kiều-để-ca đã tự hại mình bằng dao. Do không luyến tiếc thân mạng nên đã đạt được quả A-la-hán ngay khi mạng chung và đã nhập được Niết-bàn. Vì thế Kiều-để-ca không bị thoái thất quả vị A la-hán.
Kinh Tăng Thập nói: “Có một pháp nên khởi là thời ái tâm giải thoát. Có một pháp nên chứng là bất động tâm giải thoát”.
Nếu thời ái tâm giải thoát là phẩm tánh A-la-hán và vì thế phẩm tánh này sẽ có hai loại thì tại sao trong các kinh điển chỉ có kinh Tăng Thập đề cập đến hai lần loại phẩm tánh này dưới hai tên gọi khác nhau? Hơn nữa, không có kinh nào nói “nên khởi phẩm tánh A-la-hán” mà chỉ nói là “nên chứng phẩm tánh A-la-hán”.
Có phải các ông sẽ nói phẩm tánh A-la-hán khi kết hợp với các căn muội độn tất sẽ sinh khởi? Các ông muốn ám chỉ điều gì khi nói như vậy? Có thể “khởi” được phẩm tánh A-la-hán không? Nếu được thì loại phẩm tánh A-la-hán kết hợp với các căn mẫn lợi cũng sẽ phải được sinh khởi. Loại phẩm tánh A-la-hán thứ nhất còn được sinh khởi huống hồ là loại phẩm tánh A-la-hán thứ hai.
Vì thế sự giải thoát tạm thời không phải là phẩm tánh A-la-hán.
(Hỏi) Nếu vậy, tại sao kinh lại nói đến loại A-la-hán thuộc “Thời giải thoát”?
(Đáp) Đó là trường hợp A-la-hán vì độn căn nên phải tùy thuộc vào các thời cơ có liên quan đến sự hiện khởi của định. Trái với trường hợp này là loại A-la-hán thuộc “bất thời giải thoát”.
Theo A-tỳ-đạt-ma, có ba nguyên nhân (xứ) phát sinh dục tham: (1) Tùy miên dục tham chưa được hoàn toàn liễu tri (biến tri), chưa được đoạn trừ; (2) Các pháp hiện khởi thuận lợi cho sự bộc phát của dục tham; (3) Có sự phán đoán sai lạc (tác ý phi lý). [Nhưng trong trường hợp của A-la-hán thì không thể có tất cả các nguyên nhân này].
Có phải người ta sẽ nói A-tỳ-đạt-ma chỉ nói đến loại dục tham do toàn bộ các nhân này sinh khởi trong lúc vẫn có trường hợp dục tham sinh khởi mà không cần phải có đủ các nhân, tức chỉ nhờ vào lực của ngoại duyên? Tuy nhiên, có loại pháp nào có thể sinh khởi mà không cần phải đủ tất cả các nhân?
Ở A-la-hán có sinh khởi các pháp đối trị lại các phiền não và do thể tánh của các pháp này mà các phiền não bị đưa vào “tình trạng tuyệt đối không còn khả năng sinh khởi” mà trở thành loại pháp vô sinh. Như vậy A-la-hán làm sao có thể bị thoái đọa được?
Có phải các ông sẽ nói các pháp như thế không thể sinh khởi ở A-la-hán, rằng các phiền não vẫn tồn tại ở A-la-hán dưới dạng chủng tử và chúng sẽ tạo thành chủng tử của các phiền não chưa được vĩnh viễn nhổ bật tận gốc? Nếu đúng như vậy thì làm sao có thể nói A-la-hán là người đã tận trừ tất cả các lậu hoặc? Và nếu không phải là lậu tận thì làm sao có thể nói đó là A-la-hán?
Tuy nhiên Tỳ-bà-sa cho rằng chủ trương về sự không thoái đọa của A-la-hán trái ngược với kinh Thán Dụ.
Kinh này nói: “Đối với một Thánh giả đa văn y theo một nguyên tắc sống như thế, trải qua thời giờ của mình như thế, thỉnh thoảng vì thất niệm vẫn có thể khởi các tâm xấu”. Và vị Thánh giả đa văn này không phải là hàng Hữu học mà là một A-la-hán vì kinh còn nói thêm: “Trong một thời gian dài tâm của vị này hướng đến sự viễn ly phiền não… tâm của vị này hướng đến Niết-bàn.” Và qua các kinh khác chúng ta cũng biết được các phẩm tánh như “hướng tâm đến sự xa lìa” v.v… là một trong các sức mạnh của A-la-hán, sức mạnh này còn được khẳng định qua câu kinh: “Tâm của vị này trở nên mát mẻ, được tẩy sạch đối với tất cả các pháp vốn là nơi ẩn náu của các lậu hoặc”.
Chúng tôi xin trả lời: Đúng là các kinh có nói như vậy. Tuy nhiên kinh Thán Dụ lại có ý chỉ cho hàng Hữu học chứ không phải A-la-hán. Thật vậy, chỉ đối với hàng Hữu học kinh mới nói: “Chừng nào những bước đi của một Bí-sô còn chưa được thì phiền não thỉnh thoảng vẫn sinh khởi ở vị này ngay cả khi đang có những bước đi như thế.”
Các luận sư Tỳ-bà-sa chủ trương vẫn có sự thoái đọa từ quả vị A- la-hán.
(Hỏi) Chỉ có hạng A-la-hán có sáu loại chủng tánh này hay các hạng Thánh giả khác cũng có như vậy? Nếu có thì có thể tu luyện căn không?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Học dị sanh diệc lục
Luyện căn phi kiến đạo.
Dịch nghĩa :
Học, phàm phu sáu loại
Luyện căn không kiến đạo.
[Hữu học, dị sinh cũng có sáu loại. Luyện căn không có ở kiến đạo].
Luận: Hữu học và phàm phu cũng có sáu chủng tánh như vậy. Các chủng tánh của A-la-hán cũng bắt đầu từ các chủng tánh này.
Các căn có thể được hoàn thiện (luyện căn) ở ngoài kiến đạo chứ không phải trong khi đang đi trên Thánh đạo này. Kiến đạo là con đường vận hành rất nhanh chóng (trong toàn bộ mười lăm sát-na), và hành giả không thể thực hiện được loại gia hạnh cần thiết cho việc hoàn thiện các căn trong suốt thời gian này.
Có trường hợp hoàn thiện các căn là loại dị sinh, nhưng cũng có trường hợp hoàn thiện các căn là loại tín giải.
Một bản kinh được trích dẫn ở trên có nói: “Ta tuyên bố trong bốn loại hiện pháp lạc trụ mà một Thánh giả đã đạt được thì Thánh giả này có thể bị thoái đọa từ bất kỳ loại nào trong bốn loại này, nhưng đối với tâm giải thoát bất động mà một Thánh giả đã chứng đắc thì ta tuyên bố tuyệt đối không thể thoái đọa từ loại tâm giải thoát này.”
Hỏi: A-la-hán thoái đọa từ các pháp hiện lạc trụ như thế nào?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Ưng tri thoái hữu tam
Dĩ vị đắc thụ dụng
Phật duy hữu tối hậu
Lợi trung hậu, độn tam.
Dịch nghĩa :
Thoái đọa có ba loại
Đắc, chưa đắc, thọ dụng
Phật chỉ có loại cuối
Lợi giữa, cuối, độn ba.
[Thoái đọa có ba loại: đã đắc, chưa đắc, thọ dụng. Phật chỉ có loại cuối, lợi căn có loại giữa và cuối, độn căn cả ba loại].
Luận: Có ba trường hợp thoái đọa:
Thoái đọa từ sự hoạch đắc một công đức thù thắng tức là sự thoái đọa từ những gì đã đạt được.
Chưa được một công đức thù thắng tức là sự thoái đọa từ những gì chưa được.
Chưa làm hiện khởi một công đức thù thắng đã đạt được tức là sự thoái đọa từ sự thọ dụng.
Trong số các sự thoái đọa này, (1) Đức Phật chỉ thoái đọa từ sự thọ dụng: Vì nghĩ đến sự an lạc của chúng sinh nên Phật đã ngưng thọ dụng các pháp lạc; (2) Hàng bất động pháp thoái đọa từ sự thọ dụng và từ những gì chưa được: vì không nhất định đã đạt được các pháp thuộc về các thù thắng cá nhân; (3) Các A-la-hán không thuộc Bất động pháp cũng bị thoái đọa từ những gì đã được.
Như vậy sự kiện hàng bất động pháp bị thoái đọa từ sự thọ dụng không trái với bản kinh nói trên.
Các luận sư không thừa nhận có sự thoái đọa nói: “Sự giải thoát vô lậu của tất cả A-la-hán đều là bất động: nhưng hàng bất động pháp đã được định nghĩa giống như chúng tôi đã nói ở trên vì thế không thể đưa ra vấn nạn: hàng bất động pháp bị thoái đọa từ các pháp lạc như thế nào?”
(Hỏi) Thánh giả khi bị thoái đọa quả A-la-hán có phải tái sinh không? Khi bị thoái đọa vị này có làm những việc đã không làm khi còn trụ quả không?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Nhất thiết tòng quả thoái
Tất đắc bất mệnh chung
Trụ quả sở bất vi
Tàm tăng cố bất tác.
Dịch nghĩa :
Nếu khi đang thoái quả
Thì không thể mạng chung
Chỗ không làm trụ quả
Tàm tăng nên không làm.
[Chắc chắn khi đang thoái quả thì không thể mạng chung, những gì không làm khi còn trụ quả vì tàm tăng trưởng nên cũng không làm].
Luận: Thánh giả không bao giờ chết ở giai đoạn thoái quả. Kinh nói: “Này các Bí-sô! Thánh giả đa văn có thể đánh mất chánh niệm, chánh niệm của vị này có thể bị chậm lại. Tuy nhiên vị này có thể nhanh chóng vứt bỏ, làm cho biến mất, hủy diệt, loại trừ sự thất niệm này”.
Nếu không phải như vậy thì khi một người đã trở thành A-la-hán nhưng bị thoái thất quả mà vẫn có thể bị luân chuyển trong vòng sinh tử thì đời sống tu hành sẽ không còn có thể làm cho chúng sinh tin tưởng.
Một người bị thoái quả không làm những việc mà một người trụ quả đã không thể làm. Ngay cả khi bị thoái đọa, người này sẽ không làm những điều đi ngược lại với quả, tức những việc làm thuộc phi phạm hạnh. Cũng giống như một tráng sĩ có thể bị lay động nhưng không thể té ngã.
(Hỏi) Sự hoàn thiện các căn có bao nhiêu đạo vô gián, bao nhiêu đạo giải thoát ?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Luyện căn Vô học vị
Cửu Vô gián giải thoát
Cửu tập cố học nhất
Vô lậu y nhân tam
Vô học y cửu địa
Hữu học đãn y lục
Xả quả thắng quả đạo
Duy đắc quả đạo cố.
Dịch nghĩa:
Vị luyện căn, Vô học
Chín vô gián, giải thoát
Do nghiệp nên học một
Vô lậu nương ba cõi
Vô học nương chín địa
Hữu học nương sáu địa
Quả xả và quả thắng
Chỉ đạt được quả đạo.
[Ở Vô học vị, luyện căn có chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, do tập quán lâu ngày, Hữu học chỉ có một; tất cả đều vô lậu, nương vào con người ở ba châu, Vô học nương chín địa, Hữu học chỉ nương sáu địa vì xả quả, thắng quả đạo, chỉ đắc quả đạo].
Luận: Hàng Kham đạt pháp khi hoàn thiện các căn và bước vào chủng tánh của hàng Bất động pháp phải phát khởi chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, hoàn toàn giống như hàng Hữu học đắc quả A-la-hán phải lìa bỏ Hữu đảnh.
(Hỏi) Tại sao như vậy?
(Đáp) Vì hàng Kham đạt pháp đã quá quen với chủng tánh của hàng độn căn nên không thể chuyển đổi chủng tánh này nếu không có sự nỗ lực mạnh mẽ: thật vậy chủng tánh này đã được làm cho kiên cố do đạo Hữu học và đạo Vô học.
Một vị thuộc loại tín giải khi chuyển căn để trở thành loại kiến chí thì phải cần đến một đạo vô gián và một đạo giải thoát .
Trong cả hai trường hợp đều có một đạo gia hạnh.
Các đạo vô gián và đạo giải thoát này đều thuộc tánh vô lậu vì các căn của A-la-hán không thể được chuyển bằng các đạo hữu lậu.
(Hỏi) Các căn có thể được chuyển ở đâu?
(Đáp) Chỉ có con người mới có sự chuyển căn, ở các nơi khác đều không có chuyển căn vì ở đó không thể có sự thoái đọa.
(Hỏi) Hàng Hữu học và vô học nương vào các địa nào để chuyển căn?
(Đáp) Hàng vô học nương vào chín địa là vị chí, trung gian, bốn tầng thiền và ba định Vô sắc, vì có thể được cùng một quả A-la-hán khi nương vào các địa này.
Hàng Hữu học nương vào sáu địa, tức trừ ba định Vô sắc.
(Hỏi) Tại sao?
(Đáp) Khi hàng Hữu học hoàn thiện các căn thì lại xả bỏ một quả, tức loại quả đã được nhờ con đường của các căn muội độn: họ xả bỏ đạo thắng tiến, tức là sự tiến bộ mà họ đã được – đạo gia hạnh, đạo vô gián, đạo giải thoát, đạo thắng tiến – trong khi lìa bỏ các tầng thiền, là sự tiến bộ đã chứng đắc nhờ các căn muội độn. Họ chỉ đắc một quả duy nhất thuộc về chủng tánh lợi căn, loại quả tạo thành một phần của sự lìa bỏ Dục giới chứ không phải là quả Bất hoàn vốn thuộc về Vô sắc giới.
Hạng A-la-hán vì có các căn hoàn toàn khác nên có đến chín địa.
(Hỏi) Có bao nhiêu loại vô học?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Thất Thanh văn nhị Phật
Sai biệt do cửu căn.
Dịch nghĩa:
Bảy Thanh văn, hai Phật
Sai biệt do chín căn.
[Bảy loại Thanh văn, hai Phật khác nhau do chín căn].
Luận: Có bảy loại Thanh văn, trong đó năm loại bắt đầu từ Thoái pháp, cộng thêm loại Bất động pháp, loại này được chia thành hai loại tùy theo trường hợp đó là A-la-hán vốn đã thuộc chủng tánh Bất động hay là A-la-hán đạt được chủng tánh này nhờ hoàn thiện các căn.
Hai Phật là Bích chi Phật (Độc giác) và Phật (Đại giác), đều thuộc hàng Bất động.
Như vậy có tất cả chín loại khác nhau vì có các căn hợp v.v… khác nhau.
Nói chung tất cả Thánh giả đều thuộc một trong bảy loại: (1) Tùy tín hành; (2) Tùy pháp hành; (3) Tín giải; (4) Kiến chí; (5) Thân chứng; (6) Tuệ giải thoát; (7) Câu giải thoát.
(Hỏi) Tại sao lập thành bảy loại? Có bao nhiêu sự khác nhau?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Gia hạnh căn diệt định
Giải thoát cố thành thất
Thử sự biệt duy lục
Tam đạo các nhị cố.
Dịch nghĩa:
Gia hạnh căn diệt định
Giải thoát thành bảy loại
Về sự chỉ có sáu
Ba đường mỗi hai loại.
[Do gia hạnh, căn, định diệt giải thoát nên thành bảy loại. Nếu xét về sự thì chỉ có sáu vì mỗi đạo đều có hai loại].
Luận:
(1) Do gia hạnh, như trường hợp của Tùy tín hành và Tùy pháp hành. Lúc đầu, khi căn ở giai đoạn của dị sinh, nhờ có tín nên loại thứ nhất khi có sự thôi thúc của người khác, có nghĩa là nghe được nghĩa v.v… của người khác mà đã chú tâm đến các “sự”, có nghĩa là đã chú tâm đến tư và tu. Loại thứ hai cũng có sự chuyên tâm như vậy nhưng lại dựa theo pháp, tức giáo pháp về mười hai chi, bằng cách tự mình nương theo các pháp, tức là các giác phần.
(2) Do căn, như trường hợp của Tín giải và Kiến chí. Các căn của hai loại này có tính chất muội độn và mẫn lợi khác nhau do tính chất ưu việt của ý chí phát xuất từ tín trong trường hợp thứ nhất, và của tuệ trong trường hợp thứ hai.
(3) Do định, như trường hợp của Thân chứng vì loại này đã chứng đắc được định diệt .
(4) Do giải thoát, như trường hợp của Tuệ giải thoát.
(5) Do định và giải thoát, như trường hợp của Câu giải thoát.
Như vậy nếu xét về danh thì có tất cả bảy loại, nhưng nếu xét về sự thì chỉ có sáu loại.
Ở kiến đạo có hai loại là Tùy tín hành và Tùy pháp hành, hai loại này trở thành Tín giải và Kiến chí ở tu đạo, Thời giải thoát và Bất thời giải thoát ở đạo Vô học .
Đối với Tùy tín hành: (1) Vì dựa vào căn nên chia làm ba loại: Mặc dù các căn của loại này vốn muội độn nhưng lại thuộc về ba phẩm hạ hạ, hạ trung và hạ thượng khác nhau; (2) Vì dựa vào chủng tánh nên chia làm năm loại là Thoái pháp v.v…; (3) Vì dựa vào đạo nên chia làm mười lăm loại, tức đang ở vào một trong tám nhẫn hoặc bảy trí; (4) Vì dựa vào lìa bỏ nên chia làm bảy mươi ba loại: loại thứ nhất còn bị trói buộc với tất cả các loại trói buộc của Dục giới, chín loại tiếp theo đã lìa bỏ một cho đến chín nhóm trói buộc của Dục giới, chín loại tiếp theo đã lìa bỏ một cho đến chín nhóm trói buộc của tầng thiền thứ nhất, và cứ tiếp tục như vậy cho đến vô sở hữu xứ. Tám lần chín – gồm sự lìa bỏ thuộc Dục giới, thuộc bốn tầng thiền, thuộc ba định Vô sắc giới – tạo thành bảy mươi hai loại, cộng thêm loại “cụ phược” tức thành bảy mươi ba loại; (5) Vì dựa vào thân chỗ dựa nên chia làm chín loại: sinh ở một trong ba châu tức loại trừ Bắc châu, sinh ở một trong sáu cõi trời thuộc Dục giới. Ở các cõi trên không có kiến đạo.
Kinh còn nói: “Này các Bí-sô, khi nói „hãy nói lời chân thật‟ tức nhằm chỉ cho bốn đế, này các Bí-sô, khi nói „hãy tiến bước trên con đường đã thông hiểu‟ tức nhằm chỉ cho tám chi Thánh đạo.”
Như vậy, cả kiến đạo và tu đạo đều có tám chi Thánh đạo, và điều này cho thấy thứ tự các giác chi nằm trước các đạo chi là thứ tự đúng.
(Hỏi) Trong số “các pháp phụ trợ cho Bồ-đề” (Bồ-đề phần pháp), có bao nhiêu pháp thuộc hữu lậu và bao nhiêu pháp thuộc vô lậu?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Thất giác bát đạo chi
Nhất hướng thị vô lậu
Tam tứ ngũ căn lực
Giai thông ư nhị chủng.
Dịch nghĩa:
Bảy giác và tám đạo
Đều nhất hướng về vô lậu
Ba, bốn, năm căn lực
Đều thông cả hai loại.
[Bảy giác chi, tám đạo chi đều là vô lậu. Ba, bốn, năm căn lực đều có cả hai loại].
Luận: Các giác chi và đạo chi đều thuộc tánh vô lậu vì chúng đều nằm ở kiến đạo và tu đạo. Chắc chắn cũng có các loại chánh kiến v.v… mang tính chất thế tục tuy nhiên chúng không được gọi là đạo chi.
Các Bồ-đề phần khác có thể hữu lậu hoặc vô lậu.
(Hỏi) Có bao nhiêu Bồ-đề phần pháp ở các địa khác nhau?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Sơ tĩnh lự nhất thiết
Vị chí trừ hỉ căn
Nhị tĩnh lự trừ tầm
Tam tứ trung trừ nhị
Tiền tam Vô sắc địa
Trừ giới tiền nhị chủng
Ư Dục giới Hữu đỉnh
Trừ giác cập đạo chi.
Dịch nghĩa:
Sơ tĩnh có tất cả
Vị chí trừ căn hỷ
Nhị tĩnh lự trừ tầm
Tam, tứ trung trừ hai
Ba địa ở Vô sắc
Trừ giới hai loại trước
Ở cõi Dục, Hữu Đảnh
Trừ giác chi, đạo chi.
[Ở sơ tĩnh lự đều có tất cả. Ở vị chí, trừ hỷ căn. Ở đệ nhị tĩnh lự trừ tầm. Ở đệ tam, đệ tứ, trung gian trừ cả hai. Ở ba địa Vô sắc giới đầu tiên trừ các giới chi và hai loại ở trên. Ở Dục giới, Hữu đảnh trừ giác chi và đạo chi].
Luận: Ở tầng thiền thứ nhất có đủ tất cả ba mươi bảy pháp.
Ở vị chí loại trừ hỷ.
(Hỏi) Tại sao không có giác chi hỷ ở vị chí?
(Đáp) Vì tĩnh lự cận phần chỉ được chứng đắc nhờ vào lực và hành giả vẫn còn lo sợ bị thoái đọa trở lại địa dưới.
Ở tầng thiền thứ hai không có đạo chi chánh tư duy mà chỉ còn ba mươi sáu giác phần. Không có chánh tư duy vì ở đây không có tầm.
Ở tầng thiền thứ ba và thứ tư không có hỷ và chánh tư duy mà chỉ còn ba mươi lăm giác phần.
Ở tĩnh lự trung gian cũng chỉ có ba mươi lăm giác phần, tức cũng loại trừ hỷ và chánh tư duy.
Ở ba định Vô sắc đầu tiên không có ba giới chi là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và cũng không có hỷ và chánh tư duy, như vậy ở mỗi định chỉ có ba mươi hai giác phần.
Ở Dục giới và Hữu đảnh không có các giác chi và đạo chi vì hai nơi này không có đạo vô lậu. Như vậy mỗi địa chỉ còn hai mươi hai giác phần.
(Hỏi) Hành giả tu tập các giác phần sẽ được sự chứng tịnh – tức bốn loại tín và thanh tịnh đi kèm theo tuệ – vào lúc nào?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Chứng tịnh hữu tứ chủng
Vị Phật, Pháp, Tăng, Giới
Kiến tam đắc Pháp, Giới
Kiến đạo kiêm Phật Tăng
Pháp vị tam đế toàn
Bồ tát, Đôc giác đạo
Tín giới nhị vi thể.
Tứ giai duy vô lậu.
Dịch nghĩa:
Chủng tịnh có bốn loại
Là Phật, Pháp, Tăng, Giới
Kiến ba đế được Pháp, Giới
Kiến đạo gồm Phật, Tăng
Pháp: toàn bộ ba đế
Đạo Bồ-tát, Độc-giác
Tín và giới làm thể
Bốn loại đều vô lậu.
[Chứng tịnh có bốn loại là Phật, Pháp, Tăng và giới. Kiến ba đế đắc chứng tịnh đối với pháp và giới. Kiến đạo đắc thêm chứng tịnh đối với Phật, và Tăng. Pháp là toàn bộ ba đế và đạo của Bồ-tát và Độc giác. Tín và giới làm thể. Bốn loại đều vô lậu].
Luận: Khi quán chiếu ba đế đầu tiên tức được loại chứng tịnh liên quan đến pháp, và các giới luật thanh tịnh, đáng quý đối với Thánh giả.
Khi quán chiếu đạo đế tức được loại chứng tịnh liên quan đến Phật và Tăng. Chữ “thêm” ở trên hàm ý hành giả cũng được sự chứng tịnh đối với pháp và các giới.
Sự thanh tịnh liên quan đến Phật cũng chính là sự thanh tịnh liên quan đến các pháp của bậc Vô học, tức các pháp tạo thành một vị Phật. Cũng như vậy, khi nói Tăng là nhằm chỉ cho các pháp của bậc Hữu học và Vô học, tức các pháp lập thành chúng Tăng.
(Hỏi) Trong nhóm từ “sự chứng tịnh liên quan đến pháp” thì chữ pháp phải được hiểu như thế nào?
(Đáp) Pháp chính là ba đế và đạo của Độc giác cũng như Bồ-tát. Vì thế khi quán sát bốn đế thì sẽ được chứng tịnh liên quan đến pháp.
Như vậy nếu xét về danh sẽ có bốn loại “tịnh” khác nhau do tính chất đa dạng của các cảnh nơi đối tượng duyên của “tịnh”.
Nếu xét về sự, cả bốn loại tịnh nói trên chỉ là hai sự, tức tín và giới.
Loại chứng tịnh liên quan đến Phật, Pháp và Tăng có thể tánh là tín. Các giới đáng quý của Thánh giả có thể tánh là giới. Vì thế chỉ có hai sự.
(Hỏi) Hai sự này là vô lậu hay hữu lậu ?
(Đáp) Cả bốn loại chứng tịnh đều thuộc vô lậu.
(Hỏi) Chứng tịnh có nghĩa là gì?
(Đáp) Đó là tín đi liền theo sau sự quán sát đúng đắn các đế.
Các loại chứng tịnh được sắp xếp theo thứ tự hiện khởi của chúng khi xuất quán.
(Hỏi) Làm thế nào để cho chúng có thể hiện khởi khi xuất quán?
(Đáp) Bằng cách nói: “Ồ! Đức Thế Tôn là bậc giác ngộ hoàn toàn! Chánh pháp Tỳ-nại-da được thuyết giảng thật rõ rãng ! Thánh chúng hành trì thật đúng đắn!”. Khi nói như vậy tức đã làm cho các loại chứng tịnh hiện khởi vì Phật, Pháp, Tăng chính là người thầy thuốc, là thuốc chữa bệnh, là người trông bệnh.
Vì sự thanh tịnh của giới xuất phát từ sự thanh tịnh của tâm nên loại tịnh này được gọi là loại thứ tư, tức loại cuối cùng: chính khi tâm có sự tin tưởng như thế thì hành giả mới được các giới luật đáng quý của hàng Thánh giả. Hoặc sự thanh tịnh của giới được nói đến cuối cùng vì Phật, Pháp, Tăng nếu đã được xem như là người thầy thuốc, thuốc men và người nuôi bệnh thì sự thanh tịnh của giới phải được xem như là sức khỏe. Hoặc Phật là người dẫn đường, Pháp là đường đi, Tăng là khách thương, và giới của Thánh giả là chiếc xe.
Kinh có nói bậc Hữu học thành tựu tám chi tức là tám chi của Thánh đạo thuộc hàng Hữu học, và bậc Vô học thành tựu mười chi, tức tám chi của Thánh đạo thuộc hàng Vô học cộng thêm hai chi chánh giải thoát vô học tức sự giải thoát viên mãn của A-la-hán và chánh trí Vô học tức trí tuệ về sự hoạch đắc giải thoát này.
(Hỏi) Tại sao kinh không nói đến chánh giải thoát và chánh trí đối với hàng Hữu học?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Học hữu dư phược cố
Vô chánh thoát trí chi
Giải thoát vị vô vi
Vị thắng giải hoặc diệt
Hữu vi Vô học chi
Tức nhị giải thoát uẩn
Chánh trí như giác thuyết
Vị tận vô sanh trí.
Dịch nghĩa:
Hữu học có trói buộc
Không chánh trí giải thoát
Giải thoát hữu vô vi
Gọi thắng giải, trạch diệt
Hữu vi, Vô học chi
Tức hai giải thoát uẩn
Chánh trí như nói giác
Tận và Vô sinh trí.
[Vì Hữu học vẫn còn trói buộc nên không có các chi chánh giải thoát, chánh trí. Giải thoát hữu vi và vô vi là thắng giải và trạch diệt. Giải thoát hữu vi và Vô học chi gồm hai loại, là giải thoát uẩn. Chánh trí giống như phần nói về giác. Tức Tận trí và vô sinh trí].
Luận: Hàng Hữu học còn bị trói buộc vì vẫn còn các trói buộc của phiền não. Như vậy làm sao có thể xem bậc Hữu học là đã giải thoát được? Một người chỉ mới xả bỏ một phần trói buộc thì không thể gọi là đã giải thoát. Khi sự giải thoát chưa có ở người này thì vẫn không thể thành tựu cái trí về sự đạt được giải thoát.
Trái lại, hàng Vô học đã hoàn toàn giải thoát tất cả các trói buộc: vì thế họ có đủ các tính chất, các biểu hiện của sự giải thoát các phiền não cũng như cái biết tức thời về sự giải thoát này. Vì thế chỉ có hàng Vô học mới có đủ hai chi chánh giải thoát và giải thoát trí.
(Hỏi) Giải thoát nghĩa là gì?
(Đáp) Giải thoát vừa là hữu vi vừa là vô vi. Sự đoạn trừ các phiền não là giải thoát vô vi, thắng giải của hàng Vô học là giải thoát hữu vi. Chính sự giải thoát hữu vi mới được gọi là Vô học chi, vì các chi chánh kiến v.v… đều là hữu vi.
Kinh chia giải thoát hữu vi ra làm hai loại là tâm giải thoát và tuệ giải thoát [Thoát khỏi tham là tâm giải thoát, thoát khỏi vô minh là tuệ giải thoát]: Giải thoát hữu vi cũng tạo thành cái được gọi là giải thoát uẩn.
Tuy nhiên có thuyết cho nếu giải thoát uẩn chỉ là thắng giải thì làm thế nào để giải thích kinh? Kinh nói: “Này, Yếu tố then chốt của sự thanh tịnh giải thoát là gì? Đó là tâm của một Bí-sô đã lìa bỏ, đã thoát khỏi tham, tâm của Bí-sô này đã lìa bỏ, đã thoát khỏi sân và si. Từ đó, hoặc vì sự viên mãn của giải thoát uẩn chưa được đầy đủ, hoặc vì trì giữ giải thoát uẩn vốn đã viên mãn mà có sự quyết tâm (dục), sự tinh tấn (cần)… Đó chính là yếu tố then chốt nhất”.
Đoạn kinh trên cho thấy thắng giải không tạo thành giải thoát. Sự giải thoát này phải là sự thanh tịnh của tâm xuất phát từ sự đoạn trừ các phiền não tham v.v… tức các phiền não được loại trừ một loại trí đúng đắn (chân trí).
Trên đây đã giải thích xong chánh giải thoát.
(Hỏi) Chánh trí khác với chánh giải thoát như thế nào?
(Đáp) Sự giác ngộ (giác), bao gồm Tận trí và Vô sinh trí như đã nói ở trên, chính là chánh trí, tức chi thứ mười của hàng Vô học.
(Hỏi) Loại tâm nào – quá khứ vị lai hay hiện tại – được giải thoát?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Vô học tâm sinh thời
Chánh tòng chướng giải thoát.
Dịch nghĩa:
Tâm Vô học khi sinh
Chính giải thoát chướng ngại.
[Tâm Vô học khi sinh được giải thoát khỏi chướng ngại].
Luận: Bản luận nói: “Tâm vị lai của bậc Vô học được giải thoát khỏi chướng ngại”.
(Hỏi) Chướng ngại này là gì?
(Đáp) Đó là sự đạt được các phiền não (thuộc nhóm thứ chín của Hữu đảnh). Sự hoạch đắc này tạo thành một chướng ngại cho sự sinh khởi của tâm vô học. Vào sát-na của định Kim cang dụ, sự hoạch đắc này được đoạn trừ, và tâm vô học sinh khởi và được giải thoát. Khi sự hoạch đắc này được đoạn trừ xong thì tâm Vô học đã sinh và đã được giải thoát.
(Hỏi) Đối với tâm Vô học chưa sinh vào sát-na của định Kim cang dụ hoặc đối với tâm thế tục đã khởi ở hàng Vô học thì như thế nào?
(Đáp) Hai loại tâm này cũng được giải thoát, tuy nhiên loại tâm giải thoát mà Bản luận nói đến chính là tâm Vô học sẽ sinh ở vị lai.
(Hỏi) Tâm thế tục của bậc Vô học được giải thoát từ cái gì?
(Đáp) Cũng được giải thoát từ sự hoạch đắc các phiền não vốn làm chướng ngại sự sinh khởi của tâm này.
(Hỏi) Loại tâm thế tục này không khởi ở hàng Hữu học, tại sao không nói tâm này cũng được giải thoát?
(Đáp) Tâm thế tục của hàng Hữu học không giống như tâm thế tục của hàng Vô học vì ở hàng Vô học không có kèm theo sự hoạch đắc phiền não.
(Hỏi) Chướng ngại cho sự sinh khởi tâm Vô học được đoạn trừ ở loại đạo nào – quá khứ, vị lai hay hiện tại?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Đạo duy chánh diệt vị
Năng linh bỉ chướng đoạn.
Dịch nghĩa:
Đạo lúc ở đang diệt
Mới đoạn chướng ngại này.
[Đạo lúc ở giai đoạn đang diệt mới có thể đoạn trừ chướng ngại này].
Luận: Nói “đang diệt” là có ý chỉ cho hiện tại.
Bản luận và cuốn luận này có nói về loại giải thoát vô vi. Mặt khác, kinh và Bản luận cũng nói về ba giới là Đoạn giới, Ly giới, và Diệt giới.
(Hỏi) Giải thoát vô vi quan hệ với ba giới này như thế nào?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Vô vi thuyết tam giới
Li giới duy li tham
Đoạn giới đoạn dư kết
Diệt giới diệt bỉ sự.
Dịch nghĩa:
Ba giới thoát vô vi
Lìa giới chỉ lìa tham
Đoạn giới diệt kết khác
Diệt giới đoạn sự kia.
(Giải thoát vô vi là ba giới: Ly giới chính là lìa bỏ tham. Đoạn giới là đoạn trừ các kết sử khác. Diệt giới là diệt trừ sự).
Luận: Giải thoát vô vi là ba giới. Sự đoạn trừ tham chính là Ly giới. Sự đoạn trừ các phiền não còn lại là Đoạn giới. Sự đoạn trừ các sự như sắc hữu lậu v.v… tức không phải sự đoạn trừ phiền não, chính là Diệt giới.
(Hỏi) Hành giả có được sự chán ghét nhờ vào chính các pháp mà hành giả đã nương vào đó để được sự lìa bỏ không?
Tụng đáp: (Âm Hán)
Yếm duyên khổ tập tuệ
Li duyên tứ năng đoạn
Tương đối hỗ quảng hiệp
Cố ưng thành tứ cú.
Dịch nghĩa:
Xa tuệ duyên khổ tập
Lìa duyên đế đoạn phiền
Tương đối có khác nhau.
Nên lập thành “tứ cú”.
[Có chán lìa khi tuệ duyên khổ tập. Có lìa bỏ khi tuệ duyên bốn đế và đoạn được phiền não. Hỗ tương đối đãi có rộng hẹp khác nhau nên lập thành tứ cú].
Luận: Chỉ nhờ vào các loại nhẫn và các loại trí về khổ đế và tập đế thì hành giả mới đạt được sự chán ghét, chứ không phải các loại nhẫn và trí khác.
Các nhẫn (tức kiến đạo) và các trí (tức tu đạo) về khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế mà hành giả đã dựa vào đó để đoạn trừ phiền não cũng chính là các nhẫn và trí mà hành giả nương theo để được sự lìa bỏ.
Như vậy có tất cả bốn trường hợp:
Trong trường hợp thứ nhất và thứ tư, một hành giả đã lìa dục khi nhập vào kiến đạo sẽ không đoạn trừ các phiền não nhờ vào pháp trí nhẫn và pháp trí. Hành giả cũng không đoạn trừ phiền não nhờ vào các trí vốn là một phần của các đạo gia hạnh, giải thoát và thắng tiến. ■