Trí Tuệ Theo Quan Điểm Đạo Phật - Sách Ebook Song Ngữ Vietnamese-English PDF

18/01/20226:02 SA(Xem: 12510)
Trí Tuệ Theo Quan Điểm Đạo Phật - Sách Ebook Song Ngữ Vietnamese-English PDF

THIỆN PHÚC
TRÍ TUỆ THEO QUAN ĐIỂM ĐẠO PHẬT
WISDOM IN BUDDHIST POINT OF VIEW
Trí Tuệ Theo Quan Điểm Đạo Phật
PDF icon (4)TRÍ TUỆ THEO QUAN ĐIỂM ĐẠO PHẬT
 

Copyright © 2022 by Ngoc Tran. All rights reserved.

No part of this work may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying and recording, or by any information storage or retrieval system without the prior written permission of the author, except for the inclusion of brief quotations. However, staff members of Vietnamese temples who want to reprint this work for the benefit of teaching of the Buddhadharma, please contact Ngoc Tran at (714) 778-2832.

 

Mục Lục
Table of Content

 

Mục Lục—Table of Content     

Lời Đầu Sách—Preface   

Phần Một—Part One: Trí Tuệ Theo Quan Điểm Phật Giáo—Wisdom In Buddhist Point of View   

Chương Một—Chapter One: Tổng Quan Và Ý Nghĩa Của Trí Tuệ Theo Quan Điểm Phật Giáo—An Overview and Meanings of Prajna In Buddhist Point of View   

Chương Hai—Chapter Two: Đặc Điểm Và Khả Năng Của Trí Tuệ—Main Characteristics and Powers of Wisdom    

Chương Ba—Chapter Three: Các Loại Trí Tuệ—Different Kinds of Wisdom    

Chương Bốn—Chapter Four: Phương Tiện Trí—Skillful Knowledge  

Chương Năm—Chapter Five: Phân Biệt Trí—Knowledge of Differentiation  

Chương Sáu—Chapter Six: Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn—Prajna-Paramita  

Chương Bảy—Chapter Seven: Trí Tuyệt Đối & Trí Bát Nhã—Absolute Knowledge & Prajna-Paramita 

Chương Tám—Chapter Eight: Ba Hình Thức Của Trí—Three Forms of Wisdom 

Chương Chín—Chapter Nine: Bốn Cửa Đi Vào Tri Kiến Phật—Four Doors of the Enlightened Knowledge   

Chương Mười—Chapter Ten: Bốn Trí—Four Wisdoms  

Chương Mười Một—Chapter Eleven: Bốn Trí Lực Vô Ngại—Four Unobstructed Powers of Wisdom   

Chương Mười Hai—Chapter Twelve: Tuệ Giác Xua Tan Ảo Giác—Insight Will Dispe Illusions   

Chương Mười Ba—Chapter Thirteen: Trí Tuệ Trong Tâm Kinh—Wisdom in the Prajna-Paramita-Sutra   

Chương Mười Bốn—Chapter Fourteen: Trí Huệ Của Chư Phật &Chư Bồ Tát Trong Kinh Điển Phật Giáo—Buddhas' and Bodhisattvas' Wisdoms in Buddhist Scriptures  

Chương Mười Lăm—Chapter Fifteen: Trí Bát Nhã Theo Kinh Pháp Bảo Đàn—Prajna Wisdom According to the Platform Sutra of the Sixth Patriarch’s Dharma Treasure 

Chương Mười Sáu—Chapter Sixteen:  Người Trí Theo Quan Điểm Phật Giáo—Wise Man In Buddhist Point of View 

Chương Mười Bảy—Chapter Seventeen: Trí Tuệ Siêu Việt—Transcendental Wisdom   

Chương Mười Tám—Chapter Eighteen: Trí Tuệ Giải Thoát Qua Bờ Bên Kia—Wisdom of Emancipation of Reaching the Other Shore   

Phần Hai—Part Two: Tu Tập Trí Tuệ Theo Quan Điểm Phật Giáo—Cultivation of Wisdom In Buddhist Point of View 

Chương Mười Chín—Chapter Nineteen: Vai Trò Của Trí Tuệ Trong Tu Tập Thiền Phật Giáo—Roles of  Wisdom In Cultivation In Zen Buddhism   

Chương Hai Mươi—Chapter Twenty: Vai Trò Của Trí Huệ Trong Tu Tập Tịnh Độ—Roles of Wisdom in Cultivation in the Pure Land Buddhism  

Chương Hai Mươi Mốt—Chapter Twenty-One: Tu Tập Trí & Hạnh Bất Thối Chuyển—Cultivation of Avaivartika & Non-Backsliding Practice  

Chương Hai Mươi Hai—Chapter Twenty-Two: Từ Huệ Căn & Huệ Nhãn Dẫn Đến Huệ Độ—From Sense of Wisdom & Eyes of Wisdom Leading to Supreme Wisdom 

Chương Hai Mươi Ba—Chapter Twenty-Three: Tu Tập Trí Tuệ—Cultivation on Wisdom   

Chương Hai Mươi Bốn—Chapter Twenty-Four: Mười Tám Pháp Quán Trí Tuệ—Eighteen Kinds of Insight Contemplation for Ultimate Reality 

Chương Hai Mươi Lăm—Chapter Twenty-Five: Tu Tập Trong Phật Giáo Và Tuệ Học—Buddhist Cultivation and the Branches of Wisdom   

Chương Hai Mươi Sáu—Chapter Twenty-Six: Hành Giả Tu Tập Trì Giới-Nhẫn Nhục-Tinh Tấn-Thiền Định Là Đang Đi Vào Cửa Trí Huệ—Practitioners Who Cultivate Observation of Precepts-Patience-Right Efforts-Right Concentration Are Entering the Door of Wisdom   

Chương Hai Mươi Bảy—Chapter Twenty-Seven: Vai Trò Của Chánh KiếnChánh Tư Duy Trong Tu Tập Trí Tuệ—Roles of Right Understanding and Right Thought in the Cultivation of Wisdom   

Chương Hai Mươi Tám—Chapter Twenty-Eight: Vai Trò Của Chánh NiệmChánh Định Trong Tu Tập Trí Tuệ—Roles of Right Mindfulness and Right Concentration in the Cultivation of the Wisdom 

Chương Hai Mươi Chín—Chapter Twenty-Nine: Sự Cần Thiết Của Thiền Quán Trong Tu Tập Trí Tuệ—The Necessity of Meditation in the Cultivation of the Wisdom  

Chương Ba Mươi—Chapter Thirty: Tu Tập Trí Tuệ Bằng Thiền Chỉ—Cultivations of the Wisdom Through Practicing Samatha Meditation 

Chương Ba Mươi Mốt—Chapter Thirty-One: Tu Tập Trí Tuệ Bằng Thiền Minh Sát—To Cultivate the Wisdom in Practicing Meditation on Insight 

Chương Ba Mươi Hai—Chapter Thirty-Two: Thân TâmGiới Đức Thanh Tịnh Là Đang Đi Vào Đường Trí Tuệ—Purification of Body, Mind, and Morality Means Entering the Path of Wisdom 

Chương Ba Mươi Ba—Chapter Thirty-Three: Chưa Đoạn Trừ Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Tà Kiến-Sát-Đạo-Dâm-Vọng, Khó Lòng Có Được Trí Tuệ—Not Yet Eliminate Desires-Anger-Ignorance-Arrogance-Doubt-Wrong Views-Killing-Stealing-Lying, It Is Difficult to Attain Wisdom 

Chương Ba Mươi Bốn—Chapter Thirty-Four: Người Tu Tuệ Trước Tiên Nên Thông Suốt Tánh Không Của Vạn Hữu—Those Who Cultivate Wisdom Should First See Through the Emptiness of All Things   

Chương Ba Mươi Lăm—Chapter Thirty-Five: Tu Tuệ Là Chuyển Cái  Trí Phân Biệt Ra Thánh Trí—Cultivation of Wisdom Means to Transform A Knowledge of Differentiation Into A Supreme Wisdom 

Chương Ba Mươi Sáu—Chapter Thirty-Six: Nhẫn Nhục Giúp Đưa Đến Thành Tựu Trí Tuệ—Patience Helps Leading to the Achievement of Wisdom    
Chương Ba Mươi Bảy—Chapter Thirty-Seven: Phát Huệ Bằng Cách Tu Tập Ba Mươi Bảy Phẩm Dẫn Tới Bồ Đề—To Generate Wisdom in Cultivating of  the Thirty-Seven Conditions Leading to Bodhi 

Chương Ba Mươi Tám—Chapter Thirty-Eight: Tu Tập Định-Huệ Và Luật Nhân Quả—Cultivation of Concentration & Wisdom and the Law of Cause and Effect   

Chương Ba Mươi Chín—Chapter Thirty-Nine: Tu Tập Định Huệ & Nghiệp Báo—Cultivation of Concentration and Wisdom & Karmas and Result   

Chương Bốn Mươi—Chapter Forty: Tu Tập Kỷ Luật Tâm LinhCon Đường Dẫn Tới Trí Tuệ—Cultivation on Spiritual Discipline Is the Path leading to Wisdom   

Chương Bốn Mươi Mốt—Chapter Forty-One: Tu Tập Buông Bỏ Vọng Tưởng Và Dính Mắc Là Con Đường Dẫn Tới Trí Tuệ—Cultivation on Letting Go of Deluded Thoughts & Attachments Is the Path leading to Wisdom 

Chương Bốn Mươi Hai—Chapter Forty-Two: Trí Huệ Chân Chánh Giúp Hành Giả Giảm Thiểu Hắc Nghiệp—A Real Wisdom Helps Practitioners Reducing Evil Karmas  

Chương Bốn Mươi Ba—Chapter Forty-Three: Vai Trò Của Giới-Định-Huệ Trong Tu Tập Phước Huệ Song Hành—Roles of Discipline-Meditation-Wisdom in Cultivation of Merits Alongside Wisdom 

Chương Bốn Mươi Bốn—Chapter Forty-Four: Tu Tập Chánh Niệm Nơi Thân Là Đang Tu Tập Trí Huệ Giác Ngộ Và Giải Thoát—Cultivating Mindfulness on the Body Is Cultivating The Wisdom  of Enlightenment and Emancipation  

Chương Bốn Mươi Lăm—Chapter Forty-Five: Tu Tập Chánh Niệm Nơi Cảm Thọ Là Đang Tu Tập Trí Huệ Giác Ngộ Và Giải Thoát—Cultivating Mindfulness on the Sensations Is Cultivating The Wisdom of Enlightenment and Emancipation 

Chương Bốn Mươi Sáu—Chapter Forty-Six: Tu Tập Chánh Niệm Nơi Ý Là Đang Tu Tập Là Đang Tu Tập Trí Huệ Giác Ngộ Và Giải ThoátCultivating Mindfulness on the Mind Is Cultivating  The Wisdom of Enlightenment and Emancipation 

Chương Bốn Mươi Bảy—Chapter Forty-Seven: Tu Tập Chánh Niệm Nơi Pháp Là Đang Tu Tập Trí Huệ Giác Ngộ Và Giải Thoát—Cultivating Mindfulness on the Mind-Object Is Cultivating  The Wisdom of Enlightenment and Emancipation

Chương Bốn Mươi Tám—Chapter Forty-Eight: Hành Giả Tu Phật Phải Biết  Sám Hối Tam Nghiệp Để Tiêu Trừ Nghiệp Chướng Và Phát Triển Trí Huệ—Buddhist Practitioners Must Repent on Three Karmas to Eradicate the Karmaic Hindrances and Develop Wisdom

Chương Bốn Mươi Chín—Chapter Forty-Nine: Tu Tập Trí Tuệ Là Đang Trở Về Với Cái Biết Của Chính Mình—Cultivating Wisdom Is Returning to Our Self Knowledge  

Chương Năm Mươi—Chapter Fifty: Tu Tập Trí Tuệ Cho Đến Khi Thành Tựu Trí Huệ Của Bờ Bên Kia—To Cultivate Wisdom Until Achieving the Wisdom of the Other Shore  

Phần Ba—Part Three: Phụ Lục—Appendices  

Phụ Lục A—Appendix A: Ba Loại Kiến Thức—Three Degrees of Knowledge  

Phụ Lục B—Appendix B: Kiến Thức Tuyệt Đối—Absolute Knowledge  

Phụ Lục C—Appendix C: Trí TuệTam Học Trong Phật Giáo—Wisdom and the Three Studies in Buddhism

Phụ Lục D—Appendix D: Sự Liên Hệ Giữa Định Và Trí Tuệ Trong Tu Tập—The Relationship Between Concentration and Insight in Cultivation  

Phụ Lục E—Appendix E: Trí Tuệ Theo Lục Tổ Huệ Năng—Wisdom According to the Sixth Patriarch  

Phụ Lục F—Appendix F: Trí Tuệ Theo Thiền Sư Trần Thái Tông—Wisdom According to the Zen Master Tran Thai Tong  

Phụ Lục G—Appendix G: Trí Tuệ Theo Phật Giáo Nguyên Thủy—Precepts, Concentration, and Wisdom According to the Theravada Buddhism  

Phụ Lục H—Appendix H: Trí Tuệ Theo Các Thiền Sư Khác—Wisdom According to Other ZenMasters  

Phụ Lục I—Appendix I:Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa—Maha-Prajna-Paramita

Phụ Lục J—Appendix J: Các Loại Trí Tuệ Bát Nhã Khác Nhau—Different Kinds of Prajna Wisdoms  

Phụ Lục K—Appendix K: Giải Thoát Bát Nhã Ba La Mật—Prajna-Paramita Emancipation

Phụ Lục L—Appendix L: Trí Tuệ Bát Nhã Theo Quan Điểm Đại Thừa Và Thiền Tông—Prajna Wisdom According to the Point of View of the Mahayana and the Zen Sect  

Phụ Lục M—Appendix M: Những Đoá Hoa Tuệ Giác và Bi Mẫn—Flowers of Insight Compassion   

Phụ Lục N—Appendix N: Sự Mâu Thuẫn Giữa Trí Tuệ Và Từ Bi—A Contradictory Between Wisdom and Compassion 

Phụ Lục O—Appendix O: Vô Minh & Trí Tuệ—Ignorance & Wisdom 

Phụ Lục P—Appendix P: Trí Bất Thị Đạo—Wisdom Is Not the Way 

Phụ Lục Q—Appendix Q: Trí Nhân Ngu Nhân—Wise Men and the Foolish   

Phụ Lục R—Appendix R: Trí Tuệ Là Kết Quả Của Tu Tập Giới Và Định—Wisdom Is the Result From Cultivating in Precepts and Concentration 
Phụ Lục S—Appendix S: Phát Huệ Bằng Cách Tu Tập Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm—To Generate Wisdom in Cultivating of the Anapanasatisuttam
Phụ Lục T—Appendix T: Tu Tập Tứ Niệm Trú Là Đang Tu Tập Trí Huệ Giác Ngộ Và Giải Thoát—Cultivating Four Basic Subjects of Buddhist Meditation Is Cultivating the Wisdom of Enlightenment and Emancipation   

Tài Liệu Tham Khảo—References 

 

Lời Mở Đầu

 

Theo Phật giáotrí tuệ là sự hiểu biết về vạn hữuthực chứng chân lý, là trí tuệ khởi lên từ sự hiểu biết đúng về vạn hữu, là trí tuệ dựa vào chánh kiếnchánh tư duy. Trí tuệ nhận thức những hiện tượng và những qui luật của chúng. Trí là tri giác trong sánghoàn hảo của tâm, nơi không nắm giữ bất cứ khái niệm nào. Trí là một từ rất linh động vì đôi khi nó có nghĩa là cái trí thế gian tầm thường, cái trí của tương đối không thâm nhập được vào chân lý của hiện hữu, nhưng đôi khi nó cũng có nghĩa là cái trí siêu việt, trong trường hợp nầy nó đồng nghĩa với Bát Nhã (Prajna). Trong Phật giáo Ấn Độ người ta thường cho rằng trí tuệ này có được là do đạt được thiền định, nhưng Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng cả hai thứ Trí và Tuệ này giống nhau và cả hai đều cùng có trong tư tưởng của chúng ta trong từng giây từng phút. Khái niệm này về sau được hầu hết các truyền thống Thiền chấp nhận. Theo Phật giáo, nếu chúng ta không trì giới thì chúng ta có thể tiếp tục gây tội tạo nghiệp; thiếu định lực chúng ta không có khả năng tu đạo; và kết quả chẳng những chúng ta không có trí huệ, mà chúng ta còn trở nên ngu độn hơn. Vì vậy người tu Phật phải có tam vô lậu học này. Giới là những qui tắc căn bản trong đạo Phật; giới còn giúp loại bỏ những ác nghiệp. Định giúp làm yên tĩnh những nhiễu loạn tinh thần. Và huệ giúp loại trừ ảo vọng để đạt được chân lý. Nói cách khác, trí tuệcăn bản về thực chứng chân lý của hết thảy sự vật, trí tuệ có khả năng đoán định phải trái chánh tà. Trí và tuệ thường có chung nghĩa; tuy nhiên thông đạt sự tướng hữu vi thì gọi là “trí”, trong khi thông đạt không lý vô vi thì gọi là “tuệ.” Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa diễn tả “Prajna là Trí Tuệ Bát Nhã hay cái biết siêu việt (Transcendental knowledge) hay ý thức hay trí năng. Theo Phật giáo Đại thừa, do trí năng trực giác và trực tiếp, chứ không phải là trí năng trừu tượng và phục tùng trí tuệ phàm phucon ngườithể đạt đến đại giác. Việc thực hiện trí năng cũng đồng nghĩa với thực hiện đại giác. Chính trí năng siêu việt nầy giúp chúng ta chuyển hóa mọi hệ phượcgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứ không ở lòng thương xót hay thương hại của bất cứ ai.

Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Phật giáogiáo pháp của Đức Phật thuyết giảng, một nền giáo lý hoàn toàn xây dựng trên trí tuệ của con người. Đạo Phật rất tôn trọng lý trí. Nhắm mắt tin suông là trái với giáo lý nhà Phật. Chính Đức Phật đã dạy: “Không nên tin một cách mù quáng những lời ta dạy, mà trước tiên hãy thử nó như đem lửa thử vàng để biết vàng thật vàng giả.” Ngài còn nói thêm rằng giáo lý tùy thuộc vào vào sự thấu hiểu chân lý của con người. Chính vì thế mà giáo thuyết nhà Phật có thể thích nghi với các nền văn minh qua bao thời đại khác nhau trên thế giới. Ngay cả với nền văn minh hiện đại, Phật giáo vẫn luôn thích hợp trong mọi trường hợp. Thật vậy, nếu bạn có cơ hội tiếp cận với bất cứ khía cạnh nào của đạo Phật, bạn sẽ thấy ngay rằng đó là điều thích hợp, bổ ích và có thể áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của bạn. Như vậy, trong đạo Phật, trí tuệ là quan trọng tối thượng, vì sự thanh tịnh có được là nhờ trí tuệ, do trí tuệ, và trí tuệ là chìa khóa dẫn đến giác ngộgiải thoát cuối cùng. Nhưng Đức Phật không bao giờ tán thán tri thức suông. Theo Ngài, trí phải luôn đi đôi với thanh tịnh nơi tâm, với sự hoàn hảo về giới: Minh Hạnh Túc. Trí tuệ đạt được do sự hiểu biết và phát triển các phẩm chất của tâm là trí, là trí tuệ siêu việt, hay trí tuệ do tu tập mà thành. Đó là trí tuệ giải thoát chứ không phải là sự lý luận hay suy luận suông. Như vậy Đạo Phật không chỉ là yêu mến trí tuệ, không xúi dục đi tìm trí tuệ, không có sự sùng bái trí tuệ, mặc dù những điều này có ý nghĩa của nó và liên quan đến sự sống còn của nhân loại, mà đạo Phật chỉ khích lệ việc áp dụng thực tiễn những lời dạy của Đức Phật nhằm dẫn người theo đi đến sự xả ly, giác ngộ, và giải thoát cuối cùng. Trí tuệ trong Phật giáotrí tuệ nhận thức được tánh không. Đây là phương tiện duy nhất được dùng để loại trừ vô minh và những tâm thái nhiễu loạn của chúng ta. Loại trí tuệ nầy cũng là phương tiện giúp hóa giải những dấu ấn nghiệp thức u ám. Nhiều người cho rằng trí tuệ có được từ thông tin hay kiến thức bên ngoài. Đức Phật lại nói ngược lại. Ngài dạy rằng trí tuệ đã sẵn có ngay trong tự tánh của chúng ta, chứ nó không đến từ bên ngoài. Trên thế giới có rất nhiều người thông minh và khôn ngoan như những nhà khoa học hay những triết gia, vân vân. Tuy nhiên, Đức Phật không công nhận những kiến thức phàm tục nầy là sự giác ngộ đúng nghĩa theo đạo Phật, vì những người nầy chưa dứt trừ được phiền não của chính mình. Họ vẫn còn còn trụ vào thị phi của người khác, họ vẫn còn tham, sân, si và sự kiêu ngạo. Họ vẫn còn chứa chấp những vọng tưởng phân biệt cũng như những chấp trước. Nói cách khác, tâm của họ không thanh tịnh. Không có tâm thanh tịnh, dù có chứng đắc đến tầng cao nào đi nữa, cũng không phải là sự giác ngộ đúng nghĩa theo Phật giáo. Như vậy, chướng ngại đầu tiên trong sự giác ngộ của chúng ta chính là tự ngã, sự chấp trước, và những vọng tưởng của chính mình. Chỉ có trí tuệ dựa vào khả năng định tĩnh mới có khả năng loại trừ được những chấp trướcvô minh. Nghĩa là loại trí tuệ khởi lên từ bản tâm thanh tịnh, chứ không phải là loại trí tuệ đạt được do học hỏi từ sách vở, vì loại trí tuệ nầy chỉ là phàm trí chứ không phải là chân trí tuệ. Chính vì thế mà Đức Phật đã nói: “Ai có định sẽ biết và thấy đúng như thật.” Theo Kinh Hoa Nghiêm, tất cả chúng sanh đều có cùng trí tuệđức hạnh của một vị Phật, nhưng họ không thể thể hiện những phẩm chất nầy vì những vọng tưởngchấp trước. Tu tập Phật pháp sẽ giúp chúng ta loại bỏ được những vọng tưởng phân biệt và dong ruỗi cũng như những chấp trước. Từ đó chúng ta sẽ tìm lại được bản tâm thanh tịnh sẵn có, và cũng từ đó trí tuệ chân thực sẽ khởi sanh. Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng chân trí và khả năng thật sự của chúng ta chỉ tạm thời bị che mờ vì đám mâyvô minh, chấp trướcvọng tưởng phân biệt, chứ không phải thật sự mất đi vĩnh viễn. Mục đích tu tập theo Phật pháp của chúng ta là phá tan đám mây mù nầy để đạt được giác ngộ.

Nói cách khác, sự thành tựu của tuệ giác có nghĩa là sự viên mãn của tri thứctrí tuệ, tức giác ngộ trọn vẹn. Đó là kết quả của chuỗi tự tạo và lý tưởng của đời sống tự tác chủ. Trí tuệ giúp chúng ta xác định ý chí cương quyết hành thiện, sự quyết tâm có những hành động tốt đẹp, một con đường toàn hảo được đắp xây bằng thiện ý nhằm tạo an lànhhạnh phúc cho chúng sanh nhằm tạo dựng một xã hội châu toàn bằng cách đem lại tình trạng hòa hợp, nhất trí, điều hòa, thuận thảo và sự hiểu biết lẫn nhau giữa người với người. Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng đạo Phậtcon đường tìm trở về với chính mình (hướng nội) nên giáo dục trong nhà Phật cũng là nên giáo dục hướng nội chứ không phải là hướng ngoại cầu hình cầu tướng. Như trên đã nói, nguyên nhân căn bản gây ra khổ đau phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng... và mục đích tối hậu của đạo Phật là nhằm giúp chúng sanh, nhất là những chúng sanh con người, tu tập trí huệ nhằm có thể giúp loại trừ những thứ ấy để nếu chưa thành Phật thì ít nhất chúng ta cũng trở thành một chân Phật tử có một cuộc sống an lạc, tỉnh thứchạnh phúc.

Quyển sách nhỏ có tựa đề “Trí Tuệ Theo Quan Điểm Phật Giáo” này không phải là một nghiên cứu thâm sâu về giáo lý nhà Phật, mà nó chỉ đơn thuần nói về trí tuệ và những lời Phật dạy về những lợi lạc của việc tu tập trí tuệ. Phật tử thuần thành nên luôn nhớ rằng mục đích của người tu Phậtđạt được trí tuệ giác ngộ giúp chúng ta đạt được cứu cánh thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, đó chính là Niết Bàn đạt được ngay trong kiếp này. Cuộc hành trình từ người lên Phật còn đòi hỏi nhiều cố gắng hiểu biết chính đángtu tập liên tục. Chính vì thế mà mặc dù hiện tại đã có quá nhiều sách viết về Phật giáo, tôi cũng mạo muội biên soạn tập sách “Trí Tuệ Theo Quan Điểm Phật Giáo” song ngữ Việt Anh nhằm phổ biến giáo lý nhà Phật cho Phật tử ở mọi trình độ, đặc biệt là những người sơ cơ. Những mong sự đóng góp nhoi nầy sẽ mang lại lợi lạc cho những ai mong cầu có được cuộc sống an bình, tỉnh thứchạnh phúc.

Thiện Phúc

 

Preface

 

According to Buddhism, wisdom means knowledge of things and realization of truth; the wisdom that is arosen from right perception or knowing of all things; the wisdom that is based on right understanding and right thought. Higher intellect or spiritual wisdom; knowledge of the ultimate truth (reality). Wisdom is the essential clarity and unerring sensibility of a mind that no longer clings to concepts of any kind. Wisdom is a very flexible term, as it means sometimes ordinary worldly knowledge, knowledge of relativity, which does not penetrate into the truth of existence, but also sometimes transcendental knowledge, in which case being synonymous with Prajna or Arya-jnana. In Indian Buddhism it is commonly held that this results from the attainment of meditative concentration (samadhi), but Hui-Neng  taught that the two (wisdom & prajna) are identical and that both are inherent in every moment of thought. This notion has subsequently been accepted by most Zen traditions. Accordingt to Buddhism, if we do not hold the precepts, we can continue to commit offenses and create more karma; lacking trance power, we will not be able to accomplish cultivation of the Way; and as a result, we will not only have no wisdom, but we also may become duller. Thus, wisdom is arosen from perception or knowing of things and realization of truth. In other words, wisdom is decision or judgment as to phenomena or affairs and their principles, of things and their fundamental laws. Prajna is often interchanged with wisdom; however, wisdom means knowledge, the science of the phenomenal, while prajna more generally to principles or morals. The Prajna-paramita-sutra describes “prajna” as supreme, highest, incomparable, unequalled, unsurpassed. Wisdom or real wisdom. According to the Mahayana Buddhism, only an immediate experienced intuitive wisdom, not intelligence can help man reach enlightenment. Therefore, to achieve prajna is synonymous with to reach enlightenment. One of the two perfections required for Buddhahood. The wisdom which enables us to transcend disire, attachment and anger so that we will be emancipated (not throught the mercy of any body, but rather through our own power of will and wisdom) and so that we will not be reborn again and again in “samsara” or transmigration. 

It should be reminded that Buddhism is what the Buddha taught. His teaching was based on human inner wisdom. Buddhism always values reason. Blindly believing in everything is contrary to Buddha’s teaching. The Buddha taught: “Do not believe blindly in my teachings. Always test them like using fire to test gold to determine whether it is authentic or counterfeit.” The Buddha also added that His doctrine was consistent with how people understood the Truth. Thus, Buddhism is able to adjust to different civilizations in different times in the world. Even in modern world, Buddhism is always appropriate in all circumstances. In fact, if you approach any apsect of Buddhism, you will immediately find out that it is something relevant, beneficial and applicable to your daily life. Thus, in Buddhism, wisdom is of the highest importance; for purification comes through wisdom, through understanding; and wisdom in Buddhism is the key to enlightenment and final liberation. But the Buddha never praised mere intellect. According to him, knowledge should go hand in hand with purity of heart, with moral excellence (vijja-caranasampanna-p). Wisdom gained by understanding and development of the qualities of mind and heart is wisdom par excellence (bhavanamaya panna-p). It is knowledge of liberation, and not mere speculation, logic or specious reasoning. Thus, it is clear that Buddhism is neither mere love of, nor inducing the search after wisdom, nor devotion, though they have their significance and bearing on mankind, but an encouragement of a practical application of the teaching that leads the follower to dispassion, enlightenment and final deliverance. Wisdom in Buddhism is the wisdom that understands emptiness. It is also a sole means to eliminate our ignorance and other disturbing attitudes. It is also a tool for purifying negative karmic imprints. Many people say that wisdom is gained from information or knowledge. The Buddha told us the opposite! He taught us that wisdom is already within our self-nature; it does not come from the outside. In the world, there are some very intelligent and wise people, such as scientists and philosophers, etc. However, the Buddha would not recognize their knowledge as the proper Buddhist enlightenment, because they have not severed their afflictions. They still dwell on the rights and wrongs of others, on greed, anger, ignorance and arrogance. They still harbor wandering discrimatory thoughts and attachments. In other words, their minds are not pure. Without the pure mind, no matter how high the level of realization one reaches, it is still not the proper Buddhist enlightenment. Thus, our first hindrance to enlightenment and liberation is ego, our self-attachment, our own wandering thoughts. Only the wisdom that is based on concentration has the ability to eliminate attachments and ignorance. That is to say the wisdom that arises from a pure mind, not the wisdom that is attained from reading and studying books, for this wisdom is only worldly knowledge, not true wisdom. Thus, the Buddha said: “He who is concentrated knows and sees what really is.”  According to the Flower Adornment Sutra, all sentient beings possess the same wisdom and virtuous capabilities as the Buddha, but these qualities are unattainable due to wandering thoughts and attachments. Practicing Buddhism will help us rid of wandering, discriminating thoughts and attachments. Thus, we uncover our pure mind, in turn giving rise to true wisdom. Sincere Buddhists should always remember that our innate wisdom and abilities are temporarily lost due to the cloud of ignorance, attachments and wandering discriminatory thoughts, but ar enot truly or permanently lost. Our goal in Practicing Buddhism is to break through this cloud and achieve enlightenment.

In other words, the completion of insight (prajna) means the perfection of intellect and wisdom, i.e., perfect enlightenment. It is the result of self-creation and the ideal of the self-creating life. The cultivation of wisdom helps cultivators an affirmation of doing good, a career paved with good intentions for the welfae of happiness of mankind. It also helps making society secure by promoting unity, harmony and mutual understanding among people. Devout Buddhists should always remember that Buddhist religion is the path of returning to self (looking inward), the goal of its education must be inward and not outward for appearances and matters. As mentioned above, the main causes of sufferings and afflictions are greed, anger, hatred, ignorance, pride, doubt, wrong views, killing, stealing, sexual misconduct, lying, and so on... and the ultimate goal of Buddhism is to help sentient beings, especially human beings, to observe and practice discipline, meditation, and wisdom so that we can eliminate these troubles so that if we are not able to become a Buddha, at least we can become a real Buddhist who has a peaceful, mindful and happy life.

This little book titled “Wisdom In Buddhist Point of View” is not a profound philosiphical study of Buddhist teachings, but a book that simply points out the wisdom and the Buddha's teachings on the benefits of cultivations of Wisdom. Devout Buddhists should always remember the goal of any Buddhist cultivator is to achieve the wisdom of liberation that helps us achieve the final accomplishment, to go beyond the cycle of births and deaths that is to reach the state of mind of a Nirvana right in this very life. The journey from man to Buddha still demands continuous efforts with right understanding and practice. Presently even with so many books available on Buddhism, I venture to compose this booklet titled “Wisdom In Buddhist Point of View” in Vietnamese and English to spread basic things in Buddhism to all Vietnamese Buddhist followers, especially Buddhist beginners, hoping this little contribution will help Buddhists in different levels to understand on how to achieve and lead a life of peace, mindfulness and happiness. 
Thien Phuc

   





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 190951)
01/04/2012(Xem: 36550)
08/11/2018(Xem: 15212)
08/02/2015(Xem: 54433)
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Mới đây, 250 nhà hàng và quán ăn ở phố cổ Hà Nội đã ủng hộ việc không tiêu thụ thịt chó, mèo bằng cách dán các poster tại nhà hàng với thông điệp “Chó mèo là bạn, không phải là thức ăn. Chúng tôi không phục vụ thịt chó mèo tại đây”.
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.