Nhà xuất bản Hồng Đức

“Bản Chất của Niết-bàn” hay “Tìm Hiểu Về Niết-Bàn” là một cuốn sách Pháp nói về những gì liên quan đến Niết-bàn. Nó bao gồm phương pháp căn bản thực hành minh sát thực tiễn cũng như cách làm thế nào để thành tựu sự bình yên của Niết-bàn trong khi hành thiền minh sát. Những chỗ Pāḷi và Chú Giải khó hiểu đã được Tôn giả Mahāsi Sayadaw, tác giả của cuốn sách, làm cho rõ ràng và chính xác hơn. Có thể nói cuốn sách cung cấp những chỉ dẫn trong sáng, dễ hiểu cho những hành giả nào đang hành theo tà đạo với những quan niệm lầm lạc giúp họ đặt chân lên Chánh Đạo. Có thể dẫn ra đây một ví dụ, Sayadaw đã chỉ dẫn rõ ràng rằng nếu ngay lúc ban đầu hành thiền các hiện tượng xảy ra tại sáu cửa giác quan không thể ghi nhận được, thời một trong những thân hành rõ rệt nhất phải được ghi nhận trước, nghĩa là trong khi đang đi, hành động đi và sự chuyển động của tứ chi phải được quán sát và ghi nhận trước; đối với các thân hành (hoạt động của thân) khác cũng làm như vậy. Do đó, hiện tượng rõ rệt nhất của sắc , đó là sự phồng lên và xẹp xuống của bụng, được xem như nổi bật nhất để hành giả ghi nhận. Chỉ khi định có được đà hay lực đẩy tới thì tất cả mọi hiện tượng khác xuất hiện tại sáu cửa giác quan mới có thể được ghi nhận.
Trong cuốn sách Pháp này, khái niệm Niết-bàn đã được giải thích một cách đầy đủ bắt đầu từ giai đoạn chứng đắc hữu-dư y Niết-bàn cho đến đích cuối cùng — vô-dư y Niết-bàn (. Khi vị A-la-hán nhập Niết Bàn vào lúc chết gọi là ‘Bát-Niết-bàn’ Sự giải thích thêm được đưa ra là “Đức Phật thuyết rằng với sự thành tựu giai đoạn A-la-hán khi các phiền não không còn hiện hữu, nhưng tàn dư của sắc uẩn vẫn còn và rằng trạng thái này được gọi là hữu-dư y Niết Bàn. Sau sự diệt độ hay ‘vô-dư-y Niết Bàn’ của một vị A-la-hán, cả tàn dư của sắc uẩn lẫn phiền não đều chấm dứt hiện hữu và các hành danh – sắc hoàn toàn tuyệt diệt. Sự chấm dứt và tuyệt diệt hoàn toàn này được gọi là vô-dư-y Niết Bàn.
Trong cuốn sách này cũng như trong các bài pháp hay các bài viết về pháp của mình, Tôn giả Mahāsī Sayadaw đã giải thích cả hai phương diện — phương diện lý thuyết của pháp dựa trên kinh điển, đó là pháp học và phương diện thực tiễn của việc thực hành thiền minh sát, tức pháp hành nhờ đó cung cấp cho hành giả một kiến thức toàn diện về pháp. Ngài cũng nói về gánh nặng của Năm Thủ Uẩn và về gánh nặng của bất thiện pháp của thắng hành (abhisankhāra-行作, 為作 hành tác hay vi tác), và phương pháp quăng bỏ gánh nặng để thoát khỏi mọi khổ đau phát sanh từ phiền não , tham ái và tái sanh sau đó.
Tôn giả Mahāsī Sayadaw đã giải thích nó một cách rõ ràng và thuyết phục bằng thứ ngôn ngữ giản dị rằng sự hiện hữu mới (tái sanh) là kết quả của thiện pháp và bất thiện pháp, hay của phước và phi phước; những kết quả của chúng được gọi là Dị Thục Quả trong Đạo Phật. Sự hiện hữu mới này khiến cho các hành danh và sắc uẩn có mặt và tạo ra những phiền não. Phiền não, tham ái thuộc mọi hình thức, tạo ra nghiệp Nghiệp quá khứ đã tạo các duyên cho hiện tại, trong khi nghiệp hiện tại tạo ra các duyên (điều kiện) cho sự hiện hữu trong tương lai. Bao lâu nghiệp lực này còn tồn tại, chừng đó còn có tái sanh. Để loại trừ phiền não, nghiệp và quả của nghiệp, người ta cần phải nỗ lực để thực hành bố thí , trì giới và hành thiềnđặc biệt chú trọng đến thiền minh sát , loại thiền nếu thực hành cuối cùng sẽ đạt đến Đạo Quả Trí và Niết-bàn. Vào lúc đắc đạo quả A-la-hán, tất cả nghiệp và quả của của nghiệp sẽ chấm dứt.
Liên quan đến giáo lý về Niết-bàn, Đức Phật dạy rằng: Niết-bàn là một pháp vốn là kết quả tự nhiên và chắc chắn của sự diệt tận tham ái. Và hữu ái hay sự khát khao được hiện hữu trong đời này và đời sau là một trong số những hình thức của tham ái phải được bứng gốc.
Có một số những quan niệm hiện hành về Niết-bàn theo các trường phái tư tưởng khác nhau. Một số cho rằng Niết-bàn là một thiên cung hay một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ; một trú xứ có kích thước khủng khiếp, một đô thị lớn, một vầng hào quang hay một ánh sáng chói lòa kỳ vỹ. Một số chấp vào quan niệm cho rằng Niết-bàn là một trạng thái trong đó cái ngã cá nhân bị hút hoàn toàn vào trong cái ngã vũ trụ (tiểu ngã nhập vào làm một với đại ngã), v.v… Tất cả những quan niệm này chỉ là sự mơ tưởng phát sanh từ vô minh.
Nāgasena, Triết Gia Phật giáo vĩ đại so sánh Niết-bàn với bông sen và kết luận bằng cách nói: “Và nếu ngài hỏi, làm thế nào để biết được Niết-bàn? Tôi sẽ nói Niết-bàn được đạt đến bằng sự giải thoát khỏi khổ đau và nguy hiểm, bằng niềm tin, bằng sự bình yên, bằng sự an tịnh, bằng hỷ lạc, bằng sự tinh tế, bằng sự thanh tịnh, bằng sự tươi mát.” (Milindapañhā Mi-tiên Vấn Đáp).
“Thưa Đại Vương Niết-bàn là như vậy. Nó có thể được nhận thức bằng tâm thanh tịnh, cao thượng, chánh trực, không chướng ngại, không có những ước muốn trần tục. Có Niết-bàn, nhưng nó không thể được mô tả bằng màu sắc hay hình dạng.”
Sau hết, Niết-bàn nhắm mục đích làm cho cuộc sống của chúng ta an bình bằng cách dập tắt mọi hình thức của tham ái. Vì ngay chính ý niệm Niết-bàn đã là trạng thái tâm cùng sanh với sự an bình này. Và chính trong cái khái niệm của Đạo Phật về Niết-bàn này mà chúng ta có sự phân tích toàn diện nhất về vũ trụ. Không có sự bình an và hạnh phúc chân thực nào là khả dĩ trừ phi một người thoát khỏi những tham muốn ích kỷ và ngã mạn do ba loại ái sanh ra. Chính con đường giải thoát khỏi tham ái và đạt đến bình yên vĩnh hằng được dạy trong giáo lý về Niết-bàn này được xem như định mệnh tối cao đang chờ đợi toàn nhân loại.
Từ đầu tiên và cuối cùng về Niết-bàn được ngài Nāgasena nói trong một cụm từ: “Niết-bàn là!” Vì không có sự thảo luận nào có thể giúp một người với tâm trí hữu hạn nhận thức được cái Vô Hạn. Niết-bàn không thể được nhận thức; nó chỉ có thể được kinh nghiệm.
Hy vọng rằng sau khi đọc hết cuốn sách này một cách thấu đáo, bạn sẽ thấy được những gì Niết-bàn muốn nói mà không có bất kỳ sự mơ hồ nào. Ngài Mahāsī đã giải thích nó bằng những từ ngữ dứt khoát có thể được đúc kết như: “Niết-bàn là sự bình yên vĩnh hằng”. Nó được tạo ra bởi sự chứng đắc A-la-hán Thánh Đạo vốn có thể đạt được bằng cách đi theo Chánh Đạo qua việc thực hành thiền minh sát đích thực. Mọi dấu vết của phiền não , nghiệp và quả hoàn toàn bị xoá sạch và tuyệt diệt khi một người đạt đến Niết-bàn. Với sự hoàn thành này một trạng thái tâm được đạt đến nhờ đó mọi tham ái chuyển thành parinibbāna (Bát Niết-bàn). Đây là sự chấm dứt mọi khổ đau.
Cầu mong các bạn được an vui và giác ngộ
Những câu hỏi và trả lời sau đây cũng vậy:
H: Bất lạc bất khổ thọ giống như thế nào?
Visākha liền đi đến Đức Phật và thuật lại với Ngài việc ông đã đặt những câu hỏi và nhận được những câu trả lời như thế nào. Đức Phật nói, “Nếu ông hỏi Ta thì Ta cũng sẽ trả lời những câu hỏi của ông y như Dhammadinnā đã trả lời mà thôi.” Đức Phật đã tán dương bà như vậy. Và đó là chỗ bài giảng của tôi chấm dứt.
Lúc đó tôi cũng nghĩ đến việc giảng một bài pháp về Niết Bàn cho quý vị hiểu. Nhưng do thiếu thời gian nên tôi không thực hiện được việc đó. Cho đến hôm nay tôi mới sắp xếp được thời gian để thuyết bài pháp này vì lợi ích của quý vị.
Vô minh là không hiểu biết hay không nhận ra bản chất thực của hiện hữu với minh sát trí khi thấy hay nghe một cái gì. Và khi người ấy tuyên bố rằng vị ấy thấy hay nghe một cái gì, vị ấy tuyên bố như vậy với tà kiến cho rằng thực sự chính tự ngã của vị ấy thấy hay nghe. Nhưng thực tế không có cái ngã nào cả. Tà kiến này đánh lừa một người khiến họ tin rằng các pháp là thường hoặc lạc,….từ đó phát sinh tham ái, và khi ái này tăng cường độ, nó trở thành thủ. Đây là cách phiền não xây dựng lên đế chế của nó.
Ngay khi sự chấp thủ đối với các đối tượng giác quan phát triển, người ta liền ra sức nỗ lực để thỏa mãn lòng ham muốn đối với các đối tượng giác quan ấy. Sau đó các hành sẽ bắt đầu hoạt động. Trong ngữ cảnh hiện tại saṅkhāras có thể được gọi là các hành nghiệp, vì chúng trách nhiệm cho sự tạo thành hay quyết định tính chất của nghiệp. Như kết quả của các hành này, khi cái chết xảy ra trong tiến trình hiện hữu, chắc chắc nó sẽ được theo sau bởi sự tái sanh, vì tâm tục sanh , khởi lên ngay sau tâm tử . Cái chết được theo sau bởi sự trở thành hay tái sanh. Nói cách khác, một kiếp sống mới bắt đầu. Có thể nói sự tái sanh này là kết quả của các hành nghiệp vốn tạo ra thức, danh, sắc, lục nhập (sáu xúc xứ), xúc, thọ,… liên tục không ngừng.
Do đó, duyên quả luân (vipāka vaṭṭa), phiền não luân sanh; và duyên phiền não luân, nghiệp luânsanh. Ba luân này cứ xoay vần không dứt trong suốt cuộc luân hồi bất tận. Chỉ khi minh sát trí được áp dụng để thực hành việc ghi nhận các hiện tượng sanh diệt của các uẩn thì tâm Đạo mới được phát triển và Niết-bàn mới được đưa đến gần. Ở giai đoạn này, vô minh, cùng với phụ tá trung thành của nó là phiền não, bị hủy diệt. Khi phiền não vắng mặt thời không có nghiệp mới nào có thể được tạo thành. Bất kỳ tàn dư của nghiệp nào còn tồn tại sau sự hủy diêt của phiền não cũng sẽ bị làm cho vô hiệu hay không còn hiệu quả. Đối với một bậc A-la-hán, sau tâm tử sẽ không có kiếp sống mới nào được hình thành. Bởi vì có sự cắt đứt hoàn toàn sợi dây hiện hữu biểu thị cho sự huỷ diệt trong cái thấy Niết-bàn.
Vì thế, sự định nghĩa về Niết-bàn sẽ là như vầy:
Trong Niết-bàn, khổ luân (vòng khổ đau ) chấm dứt một cách bình yên. Vì thế diệt khổ là Niết-bàn. Nói cách khác, khi A-la-hán thánh Đạo được đạt đến, khổ luân chấm dứt. Tóm lại, chỉ cần lưu ý điều này — Niết-bàn là đồng nghĩa với sự bình yên tuyệt đối. Sự huỷ diệt (tham) khiến cho phiền não luân, nghiệp luân và quả luân diệt hoàn toàn.Chú giải nói rằng trạng thái mát lạnh bình yên hay Santi (An Tịnh) là một đặc tính của Niết-bàn. Khi sự mát lạnh xảy ra thì than hồng của khổ bị dập tắt. Nhưng cái phải được ghi nhận với nỗ lực chuyên cần là sự huỷ diệt hoàn toàn của tam luân — phiền não luân, nghiệp luân và quả luân vốn luôn luôn tạo ra danh, sắc, hành nghiệp,…
Trong Kinh Châu Báu , sự huỷ diệt này được mô tả như dập tắt ngọn lửa. (‘Bậc trí chứng Niết-bàn ví như ngọn đèn tắt’). Với những người có trí tuệ giống như các bậc Thánh A-la-hán, tất cả hữu (sự trở thành hay tái sanh) đều bị dập tắt giống như cách ngọn đèn bị tắt vậy. Những nghiệp cũ của họ sau khi đã kiệt quệ, không có nghiệp mới tạo ra tái sanh nào có thể sanh khởi. Như vậy ngọn lửa hiện hữu đã bị dập tắt.
(Nghiệp cũ đã tiêu mòn,
Xét cho cùng thì việc ghi nhận này tự thân nó đã là thực hành thiền minh sát. Trước khi bạn có thể ghi nhận được tất cả những gì đang xảy ra tại sáu cửa giác quan, lúc ban đầu bạn nên ghi nhận bất cứ sự chuyển động nào của thân mà bạn thấy dễ ghi nhận nhất. Chẳng hạn, nếu bạn đang đi, hãy bắt đầu hành minh sát với việc ghi nhận hiện tượng đi. Nếu bạn đang ngồi hãy biết rõ chính cái hành động ngồi của bạn. Bắt đầu với sự chuyển động của thân nào, như tôi đã nói, dễ cảm thấy nhất. Riêng tôi thì tôi khuyên hành giả (yogis) nên ghi nhận sự phồng lên và xẹp xuống của thành bụng khi chúng ta thở vào và thở ra. Trong khi bạn đang ghi nhận sự chuyển động của bụng có thể tâm bạn sẽ phóng đi. Bạn có thể nghĩ về chuyện này chuyện nó, hay bạn có thể tưởng tượng mọi thứ. Hãy ghi nhận sự suy nghĩ và tưởng tượng này. Bạn có thể cảm thấy mệt mỏi. Hãy ghi nhận sự mệt mỏi này. Bạn có thể cảm thấy nóng hay đau khi gắng sức. Hãy ghi nhận sự sanh và diệt của những cảm giác này. Khi thấy bạn ghi nhận hiện tượng thấy hay khi nghe ghi nhận hiện tượng nghe. Khi bạn cảm giác những cảm thọ lạc bạn cũng phải ghi nhận chúng.
Nếu một bậc Nhập Lưu tiếp tục hành thiền minh sát và phát triển minh sát trí bắt đầu với sanh diệt trí (), vị ấy sẽ chứng đắc Thánh Đạo và Thánh Quả phù hợp với một bậc Nhất-Lai và trở thành Thánh Nhất Lai ().
Tiếp tục hành thiền minh sát, bậc Nhất Lai tiến lên giai đoạn kế tiếp như một bậc Thánh Bất Lai (anāgāmi). Ở giai đoạn này, tất cả những nghiệp quá khứ có thể dẫn vị ấy đến cõi dục, kāmabhava (dục hữu), sẽ chấm dứt và không nghiệp mới nào hướng vị ấy xuống bốn ác đạo có thể sanh. Ở đây người ta có thể hỏi liệu những thiện nghiệp ) thuộc dục giới () có thể không sanh khởi được không. Chắc chắn những thiện nghiệp ấy sẽ xuất hiện, nhưng vì chúng không đi kèm với dục ái, kāmabhava (dục hữu), hay mong muốn tái sanh trong cõi dục, nên họ sẽ không trở lại (cõi dục). Nhưng một câu hỏi khác lại nảy sanh là liệu những thiện nghiệp dục giới ấy có không cho quả không. Do việc mọi nghiệp phải tạo ra quả, nên chắc chắn chúng sẽ tiếp tục tạo ra quả; nhưng trong trường hợp này quả sẽ là Thánh Đạo và Thánh Quả. Điều này có thể được biết từ câu chuyện của gia chủ Ugga
Hàng phàm nhân có một sự dính mắc rất lớn đối với thế gian mà họ đang sống trong đó. Họ muốn có một cuộc sống không bị quấy nhiễu bởi già, bệnh và chết. Nhưng họ vẫn phải bị chi phối bởi quy luật tử sanh. Vì vậy họ phải chết. Nhưng khi họ chết họ lại mong muốn được tái sanh trong một thế giới khác tốt đẹp hơn cái thế giới mà họ bỏ lại đằng sau. Ngay cả những bậc Nhập Lưu và Nhất Lai cũng không thể loại trừ được sự dính mắc này một cách hoàn toàn. Chẳng hạn, những bậc Bất Lai sau khi chết vẫn nguyện được tái sanh lên các cõi Phạm Thiên Sắc Giới hoặc Vô Sắc Giới. Đó là lý do vì sao sau khi từ bỏ cõi đời này các vị tái sanh lên các cõi Phạm Thiên ấy. Với các bậc A-la-hán, không còn khao khát hay tham ái đối với sự sống.
Nābinandāmi maraṇaṃ
Các vị A-la-hán xem sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn như gánh nặng. Thân này phải được chăm sóc và nuôi dưỡng, phải được mặc quần áo và cho ăn. Nó không những phải được cho ăn với đồ ăn mà còn phải có những đối tượng hấp dẫn các giác quan (căn) của nó nữa. Nó phải thường xuyên được củng cố với bốn oai nghi (iriyapatha), đi, đứng, nằm, ngồi. Nó phải được hít thở để sống. Thực vậy, vì sức khoẻ của nó, nó phải thường xuyên được chăm sóc. Đối với các vị A-la-hán tất cả những công việc này là gánh nặng.
Chỉ nói riêng kiếp cuối cùng của vị A-la-hán (trước khi chứng đắc Niết-bàn), từ lúc kiết sanh thức khởi lên khi thụ thai trong bào thai người mẹ vị ấy đã phải đeo mang cái gánh nặng năm uẩn này. Và từ lúc đó trở đi các hành nghiệp bắt đầu vận hành và do sự vận hành này mà danh-sắc phát sanh không ngừng. Tái sanh là do nghiệp và các phiền não thừa hưởng từ quá khứ tạo ra. Nhìn từ kiếp sống hiện tại, vị ấy chỉ là sản phẩm của các uẩn quá khứ, nó hình thành như kết quả của nghiệp và phiền não quá khứ. Càng nghiên cứu sâu thêm vào quá khứ theo cách này, bạn sẽ càng khám phá ra rằng chỉ có các hiện tượng sanh khởi không ngừng của các uẩn mà thôi. Do đó, bạn không bao giờ có thể biết được “sự hiện hữu” bắt đầu khi nào.
Hãy nghĩ xem cái nào bắt đầu trước, quả trứng hay con gà, và hột xoài hay cây xoài. Con gà đẻ ra trứng từ đó nở ra những con gà con, rồi những con gà con này lớn lên thành những con gà mái đẻ; tiến trình này cứ tiếp diễn vô cùng tận và người ta không bao giờ biết được đâu là thuỷ tổ. Điều này cũng có thể áp dụng cho trường hợp cây xoài và hột xoài.
Có lẽ, người ta có thể đưa ra quan điểm cho rằng con gà và cây (xoài) là khởi thuỷ, hiện hữu ngay lúc bắt đầu của thế gian. Nhưng khi xét đến các uẩn danh-sắc, bạn không bao giờ có thể biết được sự khởi đầu của chúng. Sau khi đã mang lấy gánh nặng năm uẩn từ cái thời vô thủy này, một vị A-la-hán chỉ ôm ấp một ước nguyện duy nhất, đó là, trút bỏ cái gánh nặng này khỏi đôi vai khi thời nhập Niết Bàn (pari-nibbāna) đến mà thôi.
Hàng phàm phu dưới sự thống trị của các phiền não phải chấp nhận cái gánh nặng từ lúc tâm tử nối tiếp với tâm tục sanh không biết bao nhiêu lần trong suốt vòng luân hồi này. Gánh nặng đã nặng càng trở nên nặng hơn khi luân hồi tiếp diễn. Với các vị A-la-hán, vì không khao khát đối với sự hiện hữu tương lai, chủng tử dục tàn héo và sự tái sanh mới không thể xảy ra. Như vậy gánh nặng được nhẹ đi. Đây là điều khao khát của các vị.
Ở đây, cho phép tôi thêm vào một ghi chú để làm sáng tỏ ý nghĩa của từ kammaviññāṇa. Nó là một từ đồng nghĩa với abhisaṅkhāraviññāṇa (thắng hành tâm) vốn tự khẳng định vào lúc sắp chết như tốc hành tâm cận tử , với sự bổ sung của nghiệp thiện hoặc bất thiện. Nó không vô hiệu lực giống như tâm duy tác mà là tâm tích cực. Và vì thế nó tiếp nhận các đối tượng giác quan vào lúc chết và khiến cho kiết sanh thức khởi lên sau khi chết. Điều này hợp với lời dạy trong Kinh Điển Pāḷi: Đối với các bậc A-la-hán vào lúc Bát Niết-bàn nghiệp thức (tâm nghiệp) không có chỗ mà chỉ có các tâm duy tác vốn không thể tạo ra bất kỳ quả nào xuất hiện. Khi tâm Bát Niết-bàn thực sự sanh khởi, không có kiết sanh thức, không có danh , không có sắc nào có thể xuất hiện trở lại. Do đó, có thể nói rằng không có hữu (tái sanh) nào sanh khởi bởi vì hạt giống của nghiệp thức không có mặt hay vô hiệu lực. Những người có học Kinh Điển Pāḷi phải nhớ điều này.
Khi một vị A-la-hán sắp nhập Niết-bàn, vị ấy không bị quấy rầy bởi nghiệp , nghiệp tướng và thú tướng Tâm tích cực cũng không hoạt động, và do đó không quả nghiệp nào có thể ngóc đầu lên được. Chỉ có những tâm duy tác kết hợp với thiền minh sát hoạt động. Ngoài những tâm duy tác ra chỉ có tâm tử thuộc Parinibbāna, và khi vị A-la-hán thực sự Niết-bàn thì hạt giống nghiệp trở thành vô hiệu lực. Do đó, có một sự huỷ diệt hoàn toàn của hiện hữu.
Vì sự diệt của các uẩn cũng giống như ngọn lửa bị dập tắt, những người bị ám ảnh với ý niệm về tự ngã thường nghĩ và nói rằng vị A-la-hán như một cá nhân hay con người đã biến mất. Sự thật thì cái được gọi là cá nhân con người không có căn cứ thực tế. Theo ngôn ngữ quy ước, những gì chúng ta mô tả như một cá nhân, suy cho cùng chỉ là một hợp thể của danh và sắc hay tâm và thân tự chúng thể hiện. Với các bậc thánh A-la-hán, những pháp cấu thành (hữu vi) này bị diệt tận. Diệt ở đây không có nghĩa là sự biến mất của một cá nhân.
Nếu một người chấp chặt vào niềm tin cho rằng cá nhân hay người ấy biến mất, họ sẽ phạm tội đoạn kiến Như Tôi đã nói, không có cá nhân hay con người nào cả. Chúng ta chỉ có một chuỗi danh-sắc tiếp nối nhau sanh và diệt. Vị A-la-hán là một ví dụ điển hình của hiện tượng sanh và diệt nối tiếp nhau ấy. Ngoài các uẩn không có cá nhân hay con người nào. Vì thế, với các vị A-la-hán sự diệt có nghĩa là sự chấm dứt của chuỗi sanh và diệt của các uẩn. Chính với sự diệt này trong tâm mà Tôn-giả Ānandā ám chỉ đến ngọn lửa đã tắt.
Kinh cũng nói: Nibbāti vaṭṭadukkham etasmim adhigateti vā nibbānaṃ, có nghĩa là: Khi Niết-Bàn được đạt đến, vòng khổ luân bị huỷ diệt. Ở đây Kinh nhấn mạnh rằng Đạo và Quả là công cụ dẫn đến sự chấm dứt khổ. Như vậy Niết-Bàn cũng có thể được mô tả như phương tiện nhờ đó sự chấm dứt khổ được thành tựu. Nhưng điều này cũng chỉ nói theo nghĩa bóng mà thôi.
Điều quan trọng cần ghi nhớ ở đây là bản chất của Niết-Bàn là sự huỷ diệt của mọi phiền não. Với sự huỷ diệt của vòng phiền não (phiền não luân), sự hiện hữu mới không phát sanh, và tất cả đều là sự tĩnh lặng. Có thể tóm tắt lại cho dễ nhớ như sau:
Nibbāna là nơi vòng khổ luân dừng lại.
Nibbāna là công cụ dẫn đến sự chấm dứt của khổ luân.
Trong nghĩa đầy đủ nhất thì bản chất của Niết-Bàn là sự chấm dứt của vòng luân hồi khổ.
Đối với hành giả minh sát, những phiền não trở nên trơ ì chỉ trong một khoảnh khắc trong lúc đang hành thiền minh sát. Chúng không thể bị bứng gốc hoàn toàn. Sự diệt hoàn toàn chỉ khả dĩ với sự chứng đắc Thánh Đạo, dẫn đến việc tâm đạo chảy vào dòng hủy diệt.
Theo nghĩa bóng, Niết Bàn được trình bày như nơi chấm dứt mọi khổ đau do phiền não tạo ra. Còn theo phép ẩn dụ, bản chất của Niết Bàn được mô tả như chính yếu tố tĩnh lặng, kết quả của sự chấm dứt khổ đau. Trong thực tế, bản chất của Niết Bàn chính là sự hủy diệt của Tam Luân (phiền não luân, nghiệp luân và khổ luân). Đặc tính của nó, theo chú giải, là sự an tịnh (santi).
Sát nhân, trộm cắp và nói dối là những hành động bất thiện trong khi bố thí và trì giới là thiện. Hàng phàm nhân và thậm chí các bậc thánh, ngoại trừ bậc thánh A-la-hán, đều phải chịu sự vận hành của vòng phiền não (phiền não luân); và vì vậy, những hành động mà họ làm có thể là phước hoặc phi phước. Khi sự chủ ý hay tư tâm sở trong lúc thực hiện những hành động này kết hợp với tham, sân và si thì đó là bất thiện nghiệp và sẽ tạo ra những quả xấu hay phi phước. Ở đâu ba phiền não chính này vắng mặt, các thiện nghiệphay phước nghiệp được thành tựu. Những ác nghiệp chỉ đường đến các cõi khổ, trong khi những thiện nghiệp đưa đến nhân giới, thiên giới và Phạm thiên giới. Thông thường những thiện nghiệp dẫn đến trường thọ, khoẻ mạnh và tài sản vật chất. Và nếu muốn một người thậm chí có thể nguyện đắc các Đạo Quả và Niết Bàn tối hậu, nhờ thực hiện các thiện nghiệp. Nếu một người muốn không bị tái sanh trong bốn cõi khổ hoặc bị những quả nghiệp xấu quấy rầy, họ phải tránh sát sanh, trộm cắp, v.v…Nếu một người muốn được tái sanh vào nhân giới, thiên giới và Phạm thiên giới, họ phải hành bố thí, trì giới và tu thiền. Người nguyện đắc Đạo Quả và Niết-bàn tối hậu, phải hành vipassanā hay thiền minh sát.
Kusala citta hay tâm khuynh hướng về làm điều thiện và akusala citta tâm khuynh hướng về điều ác không cùng sanh, cái sanh trước cái sanh sau. Cũng như khi đi, chân trái dở lên trong khi chân phải đứng vững trên đất. Khi chân phải dở lên, chân trái đứng vững. Hai chân không thể dở lên hay đặt xuống cùng lúc được. Hai tâm phải hoạt động theo cùng một cách. Trong khi những hành động thiện đang hoạt động, những hành động bất thiện sẽ không hoạt động. Nhưng những thiện nghiệp lúc nào cũng phải là kết quả của sự nỗ lực có chủ ý; trong khi những nghiệp bất thiện hầu như không đòi hỏi phải có bất kỳ sự chủ ý đặc biệt nào. Chúng luôn luôn đến một cách tự nhiên tuân theo sự sai khiến của tham, sân và v.v… Ngay cả khi một người đang hành Dhamma (Pháp) để chế ngự chúng, chúng cũng ngóc đầu dậy ít nhất khi có cơ hội. Do đó, chắc chắn rằng khi một người từ bỏ điều thiện , điều ác nhất định sẽ tăng trưởng. Con đường đi đến các cõi khổ luôn mở rộng cho một người làm điều ác. Xét cho cùng, chính vì những tà kiến người thầy ấp ủ mà người đệ tử đã lầm đường lạc lối. Chính vì những chỉ dẫn sai lầm ấy mà Đức Phật đã nói trong Kinh Hạnh Phúc (Maṅgala Sutta):
Không gần gũi kẻ ác
Liên quan đến bản chất của nghiệp và quả, một người có thể dễ dàng ngưng làm điều thiện; nhưng anh ta sẽ hoàn toàn không thể kháng lại điều ác. Nếu bạn không làm được những thiện nghiệp, chắc chắn những ác nghiệp sẽ thắng thế hơn trong bạn. Những quả nghiệp do thiện nghiệp tạo ra sẽ rất có lợi cho bạn, vì chúng có thể đưa bạn đến cõi người và các cõi chư thiên; nhưng những phi phước do phiền não thúc ép được tích luỹ bởi ác nghiệp chắc chắn sẽ kéo bạn xuống địa ngục. Nếu nghiệp của bạn thuận lợi, bạn sẽ có cơ hội gần gũi với những người có trí và giới đức; nhưng nếu nghiệp xấu đang vận hành bạn sẽ trở thành kẻ đồng hành với những yếu tố ác và bạn có thể tiếp tục phạm vào những ác nghiệp suốt cuộc đời bạn. Trong cuộc đời một người, có thể họ đã làm hàng tỷ nghiệp; nhưng vào lúc lìa khỏi cõi đời này chỉ có một nghiệp tạo ra quả (tái sanh), làm cho những nghiệp còn lại trở thành vô hiệu hay không cho quả.
Tuy nhiên những nghiệp còn lại này sẽ là báo nghiệp (trì nghiệp hay chướng nghiệp); và một khi bạn đi xuống các cõi khổ, bạn sẽ chịu khổ ở đó trong nhiều kiếp. Nếu một người trở thành peta (ngạ quỷ), họ sẽ mãi mãi bị đói khát; hoặc họ có thể bị thiêu sống, hay bị đả thương bằng kiếm hay các vũ khí giết người khác. Đối với những khổ đau này họ chỉ có thể khóc than chứ không thoát ra được. Nếu một người bị tái sanh làm thú, làm một con bọ hay một con côn trùng nào đó, hay làm một con trâu, một con bò, một con ngựa, hay một con voi — họ sẽ đối mặt với những khổ đau không thể nói hết được; vì, trong thế giới loài vật, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, và cuối cùng kẻ yếu sẽ trở thành bữa ăn cho kẻ mạnh. Tôi kể ra những ví dụ này để các bạn biết những gì sẽ xảy ra đối với người tích tạo nhiều điều phi phước hay nhiều ác nghiệp.
Ngay cả khi những nghiệp thuận lợi đang vận hành và một người được tái sanh làm người, họ cũng không thể thoát khỏi già, bệnh và chết vốn gây ra sầu, bi, ưu, não,… mà tất cả đều là khổ. Nếu không may mắn, họ còn phải sống trong cảnh nghèo hèn trong kiếp sống mới của mình. Hoặc, một người có thể bị áp bức hay bị hiếp đáp bởi những kẻ mạnh. Hay họ có thể bị cám dỗ để phạm vào những tội ác. Và rồi, như kết quả của những ác nghiệp này họ có thể lại phải đi xuống các cõi khổ sau khi chết. Nếu may mắn, một người có thể được sanh lên cõi chư thiên; nhưng cho dù là ở cõi chư thiên; một người vẫn có thể cảm thấy buồn khổ, thay vì vui sướng, khi thấy rằng những ước muốn của mình không được thành tựu hoàn toàn. Hoặc, thậm chí như một chư thiên, nếu một người quên Pháp (Dhamma) trong việc theo đuổi các dục lạc, họ cũng có thể phải rơi xuống các cõi khổ sau khi chết ở cõi chư thiên.
Không có cách nào thoát khỏi ba vòng xoay của khổ[2] này trừ khi một người thực hành Bát Chánh Đạo đã được Đức Phật nói rõ như con đường trung đạo trong Kinh Chuyển Pháp Luân. Thực hành Bát Chánh Đạo là thực hành sự tu tập giới, định và tuệ là những đối tượng chính của việc phát triển tâm như đã được nói ở một phần trước. Người hành thiền trong Giáo Pháp này đã quen với thiền minh sát tứ niệm xứ vốn mô tả các phương pháp ghi nhận sự sanh và diệt của danh-sắc hay của tâm và thân cũng như lục nhập (sáu căn), xúc, thọ, … do quả luân của kiếp sống hiện tại làm duyên.
Ở đây tôi xin trích dẫn một đoạn Kinh trong Nidānavagga Samyutta:
Từ hành động thấy, thọ sanh; và khi thọ này được quan sát và ghi nhận một cách đúng đắn bằng thiền minh sát, tất cả ba vòng xoay của khổ sẽ bị huỷ diệt. Để có một sự hiểu biết thêm về đề tài Tôi sẽ trích dẫn bài Kinh Sammasa trong Tương Ưng .
Theo bài Kinh này, nếu một người thấy một đối tượng và quán trên hiện tượng của nó trong ánh sáng của Tam Tướng — vô thường, khổ, vô ngã, thời tham ái sẽ được diệt trừ ngay khoảnh khắc minh-sát trí sanh; và lúc đó tất cả vòng xoay của khổ sẽ bị dừng lại. Sát-na chứng ngộ đặc biệt ấy là sát-na của sự thật. Nó là sát-na tadaṅga nibbāna ( 一向涅槃 ) hay sát-na huỷ diệt tạm thời tất cả vòng khổ luân do phiền não, nghiệp và quả tạo ra.
Sau khi đã trục xuất tất cả phiền não, không có khổ nào sanh nữa. Nhưng vì chưa vất bỏ thân vật lý, bậc A-la-hán vẫn phải trải nghiệm những bất tiện ở thể xác có thể được hiểu như khổ thân. Các hành nghiệp vẫn tiếp tục làm công việc của chúng bên trong cái ngã vật chất này, vì thế những khổ đau liên hệ đến thân của vị A-la-hán vẫn còn. Tuy nhiên khi Niết-bàn được thành tựu, sự bình yên cùng với pháp đồng sanh của nó là mát mẻ sẽ ở cùng với vị ấy.
NIẾT BÀN — LẠC
Thực sự là vậy, không có thọ trong Niết-bàn. Thế thì lạc có thể ở đâu? Tỳ-kheo Lāludayi đã lao vào nơi mà ác ma sợ không dám đặt chân đến, bởi vì vị ấy là một kẻ ngu si. Vị ấy có biệt danh là Lāludayi, trong Pāḷi Lālu là một từ chỉ kẻ hay đùa.
Tôn-giả Xá-lợi-phất trả lời
Có hai loại lạc, lạc liên hệ tới ngũ dục và lạc không liên hệ tới ngũ dục. Khi sáu đối tượng giác quan mang lại sự thoả mãn hay lạc, nó được gọi là , lạc xuất phát từ cảm thọ. Trong cõi dục, năm thứ lạc của giác quan — thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc chạm được xem như tốt nhất. Không ai thích bị tước đoạt chúng. Những người thích nhai trầu hay hút thuốc đều không muốn sống trong một môi trường ở đấy những thứ xa xỉ này bị từ chối. Những kẻ háu ăn không thích sanh vào cõi Phạm thiên nơi mà việc ăn uống tuyệt đối không cần thiết. Trong cõi Phạm thiên không có sự phân biệt giới tính. Sự vắng mặt của hoạt động tình dục làm cho năm món dục lạc trở nên dư thừa; nhưng những người thích khoái cảm lại không thích sự vắng mặt ấy. Ở đâu vô minh và tham ái thắng thế, ở đó Niết-bàn không được mong muốn vì thiếu các dục lạc. Lāludayi là một điển hình về loại người không thích Niết-bàn. Tôn-giả Xá-lợi-phất phải quở trách vị ấy, ngài nói rằng sự vắng mặt của thọ (vedanā) chính là Niết-bàn. Sự bình yên và hạnh phúc chân thực không xuất phát từ các dục lạc mà từ (lạc không xuất phát từ cảm thọ hay không liên hệ tới ngũ dục).
Người chỉ quen với việc hưởng thụ sẽ coi trọng chúng. Sự hưởng thụ được xem là chí thiện đối với anh ta. Trong thời Đức Phật một chủ thuyết phổ biến giữa những người ngoại đạo hàm ý rằng khổ đau có thể được chấm dứt ngay trong kiếp sống hiện tại này mà không cần diệt hữu (tái sanh). Những người theo chủ thuyết đó được gọi là diṭṭhadhammanibbānavādis, Hiện tại Niết-bàn luận thuyết giả. Họ thường thuyết rằng: Điều này được đề cập trong Kinh Phạm Võng . Những người chỉ biết lạc của thiền hay lạc của Phạm thiên và loại trừ các loại lạc khác thì ca tụng nó đến tận mây xanh. Thực vậy, Phạm Thiên Baka đã nói với Đức Phật rằng lạc của Phạm thiên là tối thượng lạc.
Người ta thường nghĩ rằng loại đồ ăn mua ở thành phố hay thị trấn có vẻ ngon hơn đồ ăn ở làng quê. Tương tự, người ta thường nghĩ rằng lạc của thiền tốt hơn các dục lạc. Trong thực tế, loại lạc đạt được nhờ Đạo và Quả tốt hơn lạc của thiền. Tiến thêm một bước nữa, lạc của Niết-bàn còn tốt hơn lạc của Đạo và Quả của nó.
Một sắc trần (cảnh sắc) làm phát sanh nhãn thức, một thinh trần (cảnh thinh) làm phát sanh nhĩ thức, một hương trần làm phát sanh tỷ thức, một vị trần làm phát sanh thiệt thức và xúc trần (cảnh xúc) làm phát sanh thân thức. Tất cả những đối tượng giác quan này lôi cuốn tâm, sinh ra cảm giác yêu thích hay ưa mến, tạo ra khoái cảm và kích động tham dục. Tất cả chúng tạo thành ngũ dục . Trong cõi dục những ai có cơ hội được hưởng ngũ dục này đều cảm thấy như họ đã đạt đến hạnh phúc.
Khi hành sơ thiền, các dục lạc được từ bỏ. Người đắc thiền bị cuốn hút vào các thiền chi tầm , tứ , hỷ lạc và nhất tâm Dòng hỷ lạc của sơ thiền chảy liên tục không gián đoạn không giống như những niềm vui trần tục của các giác quan phát sanh một cách thất thường. Trong cõi dục người ta có thể lúc này cảm thấy vui nhưng lúc khác lại thấy buồn. Nhưng cảm giác hỷ lạc của thiền có thể kéo dài không gián đoạn trong một khoảng thời gian dài hơn. Nếu, trong khoảng thời gian trước khi tập trung trên lạc của thiền này, người hành thiền có tình cờ nhớ đến các dục lạc mà mình đã thọ hưởng trước khi nhập vào trạng thái an chỉ, họ sẽ bị hối hận, chịu đựng sự khổ tâm không khác gì cái đau của một vết thương cũ bị bồi thêm một cú đánh mới vậy. Điều đó có nghĩa rằng khi một hành giả nhập thiền, chỉ riêng cái ký ức về các dục lạc thôi cũng đủ để tạo ra cái cảm giác ghê tởm và sợ hãi. Vì thế vị ấy mong mỏi sự chứng đắc Niết-bàn, nơi đây thọ không sanh.
Điều này cho thấy rằng lạc xuất phát từ sơ thiền vượt xa lạc xuất phát từ các dục lạc. Cũng vậy, lạc của nhị thiền vượt xa lạc của sơ thiền, lạc của tam thiền vượt xa lạc của nhị thiền, và lạc của tứ thiền vượt xa lạc của tam thiền. So với lạc của các thiền (sắc giới) này thì hỷ lạc của bốn thiền vô sắc còn vượt xa hơn nữa. Bốn thiền vô sắc là: Không vô biên xứ thức vô biên xứ , vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ Mỗi thiền chứng sau tốt hơn thiền chứng trước. Nhưng ngay cả trong thiền chứng vô sắc cao nhất, đó là phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền, những cảm thọ cực kỳ vi tế vẫn có thể sanh. Vì thế lạc của Niết-bàn ở đây mọi cảm thọ đều dừng lại vượt xa loại thọ mà người ta có thể gặp trong trạng thái vô sắc.
Như vậy, lạc của Niết-bàn cao hơn lạc của thiền. Người hành thiền biết rằng hỷ và lạc được kinh nghiệm ở giai đoạn Hành Xả Trí vượt xa hỷ lạc được kinh nghiệm ở giai đoạn Sanh Diệt Trí . Khi quả của Đạo được thành tựu, hỷ và lạc kinh nghiệm ở giai đoạn ấy là tối thượng. Do đó chúng ta có thể nói rằng avedayita sukha (lạc vô thọ) hay santi sukha (an tịnh lạc) vượt xa vedayita sukha (lạc hữu thọ). Những ai không thể hành minh sát hay thiền định dù có thể thưởng thức được các cấp độ hạnh phúc hay lạc khác nhau đến đâu như đã liệt kê ở đây thì cũng phải đi đến kết luận rằng an tịnh lạc là tối thượng.
Họ cũng có thể nhận ra rằng trong Đạo Phật, có những lý tưởng cao siêu mà họ không dễ gì đo lường được; và điều này có thể dùng như một động lực nhằm cố gắng phát triển niềm tin trong pháp .
Lời dạy của ba đời chư Phật đều nói rằng Niết-bàn là tối thượng. Nó là sự chấm dứt của mọi cảm thọ. Khi không còn các cảm thọ, sự bình yên và mát mẻ ngự trị tối thượng. Tất cả khổ đau liên quan đến già, bệnh, chết và sự tan hoại chấm dứt. Vì Niết-bàn là bất tử nên lạc của nó là bất khả hoại. Và do đó nó là lạc tối hượng.
Trước khi đóng lại phần này tôi sẽ tóm lược lại những gì đã nói.
- Uppāda và Anuppāda
Nāma và rūpa hay danh-sắc được tạo thành liên tục qua tiến trình sanh và diệt và chúng trôi chảy giống như một dòng suối. Khi một đối tượng của tâm hay đối tượng của giác quan đi vào dòng này, các loại tâm khác, chẳng hạn như ý thức tâm hay ý xúc sanh khởi, như đã nói ở trước, tương thích với đối tượng được nhận thức. Các pháp hữu vi được tạo thành theo cách này và dòng đời tiếp diễn giống như một dòng suối trôi chảy. Vì vậy mà hàng phàm nhân nghĩ rằng cái khối danh sắc tương tục này hiện hữu không phải chịu bất cứ sự thay đổi nào. Họ nghĩ rằng cái thân mà họ đang thấy ngay lúc hiện tại này cũng giống với cái thân đã hiện hữu khi họ còn trẻ. Từ những quan niệm đại loại như vậy làm phát sinh sự tham chấp đối với tự ngã và ý tưởng về sự thường hằng của cái tôi. Do sự tham chấp này, họ không thấy được những thực tại đang là. Khi họ cảm giác một cảm thọ lạc đang xâm chiếm tâm họ, họ nhầm lẫn đó là hạnh phúc. Khi không thể nắm bắt được sự thực cùng tột về bản chất của các pháp hữu vi giống như danh và sắc, họ bị dẫn dắt đến chỗ tin vào thường, lạc, ngã, và tịnh.
Người hành thiền, nhờ tuệ giác, biết rõ tiến trình hình thành và hoại diệt của các pháp hữu vi. Cho nên niềm tin vào vô thường của người ấy rất vững chắc. Vị ấy cũng nhận ra rằng cái gì vô thường là bất toại nguyện, và cái gì bất toại nguyện là khổ. Vị ấy thấy không có cái “Tôi” trong bất kỳ hiện tượng danh sắc nào. Khi vị ấy ghi nhận sự sanh và diệt của danh-sắc, vị ấy nhận thức được rằng cái vòng hình thành và hoại diệt này là bất tận. Những gì vị ấy thấy với sự trợ giúp của thiền minh sát như vậy là Pavatta[3] (sanh khởi). Tập trung tâm không ngừng trên sự sanh diệt, vị ấy đạt đến Hành Xả Trí , khi vị ấy khuynh hướng về sự bình yên (Niết-bàn giới) ở đây dòng danh-sắc ngừng trôi chảy. Vì không có gì sanh khởi giai đoạn này nên nó được gọi là apavatta (不轉起 bất chuyển khởi hay 無作用 vô tác dụng). Khoảnh khắc ấy, tức khoảnh khắc khi trí này khai mở nhờ tâm đạo và tâm quả, là khoảnh khắc của sự thật khi người hành thiền trở thành một với Niết-bàn.
Những người không chuyên tâm hành thiền minh sát tin rằng các đối tượng mà họ thấy có hình thù hay hình tướng hay kích thước xác định. Ngay cả những người hành thiền lúc ban đầu cũng nghĩ như vậy. Hợp theo quy luật của Satipaṭṭhāna (Niệm Xứ), khi đi vị ấy có thể ghi nhận sự thật rằng vị ấy đang đi, nhưng vị ấy không thể giũ bỏ cái biết rằng trong tiến trình đi, chân vị ấy đang nhấc lên và thân vị ấy đang chuyển động. Vị ấy cảm nhận được cái cảm giác chuyển động của thân mình. Tương tự, khi vị ấy đang ghi nhận sự phồng và xẹp của bụng, vị ấy luôn luôn bị nhớ về cái hình dạng hay hình thù của bụng. Điều đó có nghĩa rằng vị ấy đang biết những tướng hiện tại của các hành vốn phải chịu thay đổi. Những tướng này là Hành .
Tuy nhiên khi vị ấy đạt đến một giai đoạn minh sát trí cao hơn, vị ấy chỉ biết yếu tố chuyển động (vāyo, phong đại) sanh lên rồi biến mất. Lúc này vị ấy mới có sự tin chắc rằng tất cả đều vô thường. Theo cách này, vị ấy đạt đến diệt trí , trí biết về sự diệt của các pháp hữu vi.
Khi, trí của hành giả được làm cho sắc bén nhờ hành thiền, việc ghi nhận và sự nhận biết đối tượng dưới sự quan sát trở nên nhanh đến mức, khi vị ấy nhận biết các hành vị ấy có thể mở rộng niệm chỉ đến sự diệt của các hiện tượng. Điều đó xảy ra theo cách này.
Bản dịch của Ngài Ñāṇamoli trong Thanh Tịnh Đạo có hơi khác: Khi trí của vị ấy làm việcmột cách sắc bén, các hành nhanh chóng trở nên rõ ràng. Lúc đó vị ấy không còn mở rộng niệm đến sự sanh hay sự hiện diện hay sự xuất hiện của tướng nữa mà đưa niệm tập trung trên chỉ sự diệt của chúng như sự huỷ diệt, rơi rụng và tan rã.
Mỗi sát-na tâm có ba sát-na tiểu, đó là sanh kể như sự bắt đầu, trú kể như chặng giữa và diệt kể như sự chấm dứt của hiện tâm xảy ra.
Trước khi hành minh sát, người hành thiền không ý thức được ba sát-na tiểu của sát-na tâm này. Do đó, đối với vị ấy tất cả hình dạng, khái niệm chế định và tướng đều chỉ ra rằng mọi hiện tượng xảy ra như một chuỗi tương tục của các sự kiện. Vị ấy nghĩ rằng các sự kiện trôi chảy giống như một dòng suối không gián đoạn. Khi vị ấy bắt đầu tu tập bước đầu tiên trong thiền minh sát, đó là Danh Sắc Phân Tích Trí trí đạt đến nhờ phân tích danh sắc hay thân và tâm thành những phần cùng tột của chúng, những ý niệm về sự tương tục của vị ấy giảm thiểu đến một mức nào đó. Khi trí thẩm sát tam tướng hay tư duy trí 思惟智 phát triển trong vị ấy, vị ấy có được trí hiểu biết về sự sanh và diệt của các sự kiện quá khứ, hiện tại và vị lai như sanh , trú và diệt . Tuy nhiên ngay cả như vậy vị ấy vẫn nghĩ rằng chúng là vững bền vì lẽ chúng móc nối hay liên kết với nhau thành một chuỗi. Khi vị ấy chứng được Sanh Diệt Trí , trí về sự sanh và diệt của các uẩn, vị ấy mới biết về sự bắt đầu,, và sự chấm dứt , của sát-na tâm, nhưng sát-na trú hay sự xảy ra thực sự, pavatta (chuyển khởi hay hiện hành), không rõ ràng. Khi Diệt trí được chứng ngộ, những tướng của các hành liên quan đến sự sanh khởi và phát triển lắng xuống chỉ còn lại sự diệt cho người hành thiền ghi nhận. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng giờ đây vị ấy đã thấy Niết-bàn. Chỉ khi gắn tâm vào Tam Tướng — anicca, dukkha, anatta, vị ấy mới có thể nhận ra các hành . Và chỉ khi vị ấy đạt đến Hành Xả Trí , trí xả đối với các các hành (các pháp hữu vi), vị ấy mới có thể phát triển thái độ dửng dưng đối với tất cả tướng biểu thị cho các hành , đó là sự sanh, trú và diệt. Cuối cùng khi vị ấy suy xét trên Đạo, quả, tham đã đoạn trừ, tham còn phải đoạn trừ thêm nữa và Niết-bàn với phản khán trí , lúc đó vị ấy đạt đến giai đoạn tối hậu ở đây tất cả tướng của hành biến mất.
Các bản chú giải mô tả Niết-bàn bằng đặc tính, nhiệm vụ, và sự thể hiện của nó. Đặc tính của Niết-bàn là sự bình yên, nhiệm vụ của nó là bất tử và sự thể hiện của nó là vô tướng. Tuệ tri vô tướng chỉ có thể được thành tựu nhờ đạo trí và quả trí với sự trợ giúp của phản khán trí. Khi các bậc Thánh suy xét trên Đạo và quả thì sự vắng mặt của hình dạng, khái niệm chế định và tướng mới trở nên rõ ràng.
Niết-bàn không phải là một toà lâu đài hay một cung điện. Nó không phải là thành phố, không phải là ánh sáng. Không có hào quang trong Niết-bàn. Nó không có yếu tố trong sáng và mát mẻ. Vì lâu đài, cung điện, thành phố, ánh sáng, hào quang, trong sáng và mát mẻ đều không phải là vô vi [4] , hay những thực tại tối hậu .
Tôi đã viết lời giới thiệu đó một cách khách quan không có ý định công kích hay bài bác bất cứ điều gì hay người nào. Nhưng sau đó tôi tìm thấy một cuốn sách mô tả Niết-bàn như một sự phát triển của ánh sáng. Những người đọc có thể nghĩ rằng tôi đang viết một bài chỉ trích tác giả cuốn sách đó. Nhưng không! Tôi viết không mảy may nghĩ về điều đó. Tôi chỉ lập lại những lời trong Mi Tiên Vấn Đáp khi nói rằng Niết-bàn là Vô Sắc (không hình tướng). Một hành giả khi đang tập trung trên đối tượng minh sát với Hành Xả Trí Thuận Thứ Trí và Chuyển Tộc Trí (, sẽ bị lạc vào dòng tâm thừa nhận sự diệt của tất cả hành. Ở giai đoạn này, cả tâm ghi nhận lẫn đối tượng ghi nhận có vẻ như đang tan ra.
Vì nhiệm vụ của hànhlà , đặc tính của nó là , có thể là thụ động hay chủ động. Khi sự hình thành được làm duyên bởi bốn yếu tố — nghiệp lực, tâm, thời tiết và vật thực, nó là thụ động. Danh và sắc tuỳ thuộc vào bốn yếu tố này. Khi chúng ta nói tất cả hành là vô thường, khổ và vô ngã là chúng ta muốn nói đến danh và sắc này. Tâm sở là pháp đồng sanh của tâm, và nó cũng được gọi là hành uẩn . Khi nó hoạt động để tạo ra thân hành, khẩu hành và ý hành, thì đặc tính của hành được nói là chủ động. Cetanā là tư hay ý chí là một thành phần của tâm sở. Nó tạo ra dị thục quả hoặc tốt hoặc xấu, phù hợp với thân hành, khẩu hành và ý hành đã thực hiện một cách tốt đẹp hay không tốt đẹp. Có thể nói những thiện nghiệp và bất thiện nghiệp phát sanh theo cách này, và chính nghiệp này là saṇkhāra chủ động khiến cho có sự hiện hữu mới sau khi các uẩn cũ diệt. Chỗ nào Cetanā không xảy ra, chỗ đó danh sắc mới không sanh.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trước, khi không có phiền não, các nghiệp chủ yếu trở thành duy tác. Các phiền não bị huỷ diệt khi đạt đến Đạo Quả nhờ thiền minh sát. Thoát khỏi ảnh hưởng của các phiền não , các nghiệp quá khứ bị làm cho kiệt sức, và chúng hoàn toàn không thể đưa đến sự hình thành của một hiện hữu mới. Với các bậc A-la-hán tất cả khandhās (các uẩn) đều dừng lại cùng với sự diệt của tham ái và trạng thái Niết-bàn này được gọi là vô dư y .
Một người không tu tập tâm sẽ không thể nào biết được cách chế ngự điều ác. Vì, khi đối diện với muốn vàn đối tượng khác nhau đem lại sự thích thú cho các giác quan, làm thế nào một người bình thường có thể kiểm soát được tâm mình không để dính mắc vào các dục lạc cho được? Họ sẽ mãi mãi hài lòng với những đối tượng hấp dẫn nào họ thấy hay nghe.
Một người có gia đình khó mà kiềm chế trong việc đáp ứng những mong muốn của gia đình, anh ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể làm được để thực hiện nó. Một người độc thân, dù không bị những ràng buộc của hôn nhân, nhưng cũng sẽ không thể kháng lại sự cám dỗ mà các đối tượng giác quan khả lạc mang đến. Vì lẽ anh ta có tất cả những đặc quyền thọ hưởng những gì có sẵn để thọ hưởng, nên anh ta sẽ không quan tâm đến việc kiểm soát những dục tham, sân hận và si mê của mình. Anh ta chắc chắn sẽ bộc lộ sự tức giận của mình nếu gặp bất kỳ đối tượng nào mà anh ta xem như không mong muốn. Liên quan đến việc kiểm soát tâm này, có câu chuyện kể về một người chú và người cháu nọ. Người cháu thường nói, “Hãy để tâm yên, cứ trao dây cương cho nó, nó có thể tự tránh khỏi phiền não.” Người chú có vẻ đã chán ghét những lời nói lém lỉnh như vậy bèn tát vào má đứa cháu. Khi được hỏi tại sao lại làm như vậy, người chú giải thích rằng chú đang kiểm tra tính xác thực của lời tuyên bố cháu đưa ra thôi mà. Người cháu, không cần phải nói, trở nên rất tức giận. Sân hận chỉ có thể được loại trừ khi một người đạt đến A-la-hán Thánh Đạo qua việc hành thiền minh sát.
Trong thời Đức Phật, Tôn giả Xá-lợi-phất nổi tiếng vì sự điềm tĩnh. Ngài không bao giờ sân hận. Một vị Bà-la-môn kia, không tin Tôn giả đã chiến thắng được sự giận dữ, đi đến phía sau ngài và đánh vào ngài một cái. Tuy nhiên Tôn giả Xá-lợi-phất vẫn tiếp tục đi một cách bình thản. Chỉ lúc đó người Bà-la-môn mới nhận ra lỗi lầm của mình và cầu xin tha lỗi. Một bậc Thánh A-la-hán có sự bình thản nhờ đã diệt mọi sân hận,… bằng việc thực hành thiền minh sát làm phát sinh tâm Đạo.
Khi nhìn thấy những điều đáng ghét bạn có thể kiểm soát được tâm bạn để không cảm thấy ghê tởm, buồn bã, chán nản hay phiền muộn không? Có thể bạn chẳng bao giờ biết cách làm thế nào để kiểm soát tâm mình nếu không hành thiền minh sát.
Đối với hàng phàm nhân, những nghiệp thiện hoặc bất thiện cả ở quá khứ lẫn hiện tại, đều có thể tạo ra quả trong hình thức kiết sanh thức. Có thể nói những hữu tình chúng sanh trải qua vô số kiếp sống theo cách này. Vì bao lâu các uẩn còn tiếp tục sanh khởi, khổ đau không bao giờ hết.
PAṬISANDHI VÀ APPAṬISANDHI
Vô-ngại-giải Đạo đã nói về kiết sanh này như sau: Có nghĩa.
Nó được gọi là paṭisandhi hay kiết sanh là vì nó nối kết cái khe hở tách rời sát-na cuối của kiếp sống trước với sát-na khởi đầu của kiếp sống sau. Kiếp sống quá khứ nối liền với kiếp sống hiện tại một cách bất tận bao lâu quy luật của nghiệp còn vận hành. Sự nối kết này tạo ra kiếp sống trong cõi địa ngục, hoặc trong cõi ngạ quỷ , hoặc trong cõi bàng sanh, hoặc, cũng có thể trong các cõi giới khác. Phải sanh đi sanh lại trong những cõi khổ vừa nói quả thực là khủng khiếp. Trừ phi một người đạt đến Đạo Quả A-la-hán bằng không họ sẽ miệt mài trong cõi luân hồi. Ngay cả các bậc Thánh Nhập Lưu cũng sẽ phải trải qua bảy lần trong cõi dục giới. Một bậc Nhất Lai phải đi qua hai kiếp sống nữa. Một bậc Bất Lai sẽ lang thang trong cõi Tịnh Cưnơi đây nhất định vị ấy sẽ đắc A-la-hán. Đối với những chúng sanh còn lại sẽ ở trong cõi của phiền não chuẩn bị cho những cuộc tái sanh bất tận. Tuy nhiên, như tôi đã nói, với các bậc A-la-hán cả ba vòng xoay của nghiệp, phiền não và quả đã dừng lại. Đây là không kiết sanh , đặc tính của Niết-bàn. Do đó chúng ta có thể nói rằng Niết-bàn là Vô Sanh.
Những người đã phát triển được các minh sát trí — bhaya ñāṇa (bố uý trí), ādinava ñāṇa (quá hoạn trí) và nibbidā ñāṇa (yểm ly trí), thường cảm thấy chán nản và trở nên ghê tởm đối với vòng khổ luân sau khi chứng ngộ chân lý bằng tâm Đạo. Mong chờ Niết-bàn, họ hành thiền minh sát để diệt các phiền não và đặt chân vào Đạo Quả. Điều này tự nó là sự chứng ngộ Niết-bàn; nhưng vì nền tảng của sự hiện hữu vẫn chưa được đoạn trừ nên nó được gọi là hữu dư y Niết-bàn (saupādisesa nibbāna) khác với vô dư y Niết-bàn (anupādisesa nibbāna), ở đây không còn các uần sau khi diệt tận mọi tham dục.
- Gánh Nặng Phiền Não
- Gánh Nặng Tích Tụ (Ābhisaṅkhāra)
Cách duy nhất để buông bỏ gánh nặng abhisaṅkhāra (tích tụ) là phải hành thiền minh sát. Nếu người hành thiền đạt đến trạng thái của một bậc nhập lưu , tất cả nghiệp bất thiện dừng lại; và vị ấy không bao giờ còn đi xuống bốn cõi khổ nữa. Nếu vị ấy đạt đến Đạo Quả A-la-hán, tất cả mọi gánh nặng sẽ được nhấc ra khỏi vai vị ấy, “hữu (sự trở thành)” mới sẽ không sanh. Nhưng trước khi một bậc A-la-hán nhập vào trạng thái vô dư Niết-bàn những nghiệp xấu của vị ấy có thể vẫn cho quả. Kinh nói rằng ngay cả Đức Phật cũng không thể tránh được quả của nghiệp, hay quả của những nghiệp xấu còn dư tàn (từ những kiếp quá khứ).
- Gánh Nặng Năm Uẩn
Tóm lại, tất cả những phiền não của tâm giống như tham, sân, si tạo thành gánh nặng của Phiền não, tất cả những thiện nghiệp và ác nghiệp tạo thành gánh nặng của Abhisaṅkhārā (tích tụ), và tất cả năm uẩn tạo thành gánh nặng của Năm Uẩn.
Khi sợi dây dắt (bò) ngắn con bò không thể lang thang ra ngoài những gì sợi dây ấy cho phép. Theo cách tương tự nếu một người bị cột bằng một sợi dây với phạm vi hạn hẹp của sanh hữu họ không thể vượt qua phạm vi đó. Khi sợi dây sanh hữu chỉ cho phép họ lang thang trong cõi sắc giới và vô sắc giới, họ sẽ chẳng thể nào vượt qua được những giới hạn ấy để đạt đến Niết-bàn. Vì thế họ phải tiếp tục sống trong khổ đau, trong già, bệnh và chết. Nhưng các bậc A-la-hán biết rằng họ đã cắt đứt vĩnh viễn sợi dây sanh hữu ấy.
Một khi A-la-hán Thánh Đạo được chứng vị A-la-hán sẽ thọ hưởng Hữu Dư Y Niết Bàn cho đến khi nhập vào Vô Dư Niết Bàn (parinibbāna). Vị ấy an vui tuyệt đối trong trạng thái hữu dư y Niết Bàn vì đã loại bỏ được tất cả khổ do phiền não luân gây ra. Tuy nhiên thân ngũ uẩn vẫn còn và nếu trường hợp ngài chứng Đạo trong cõi Phạm Thiên thân ngũ uẩn này có thể kéo dài một hay hai ngàn năm nữa. Về một phương diện nào đó thì điều này là tốt, vì trong cõi phạm thiên khổ thân và những đối tượng bất lạc không hiện hữu. Nhưng đối với những vị đắc Đạo trong cõi người, họ sẽ phải chịu đựng những cái khổ mà xác thịt này thừa hưởng, chẳng hạn, sự nhọc nhằn trong việc đi khất thực, phải tắm rửa hàng ngày,… Như vậy, dù là một bậc thánh A-la-hán , các ngài cũng phải mang cái gánh nặng ngũ uẩn bất chấp sự thực rằng ngài không còn dính mắc vào chúng.
Trưởng lão Bākula, người được xem là tối thắng về sức khoẻ (vô bệnh đệ nhất) trong số những đệ tử của Đức Phật, sống đến 160 tuổi, trở thành bậc A-la-hán lúc 80 và nhập vô dư Niết Bàn tám mươi năm sau. Điều đó có nghĩa rằng ngài đã mang cái gánh nặng năm uẩn này trong 160 năm và chỉ sau khi nhập vô dư Niết Bàn ngài mới được giải thoát khỏi sự trói buộc của các uẩn cũng như những nhọc nhằn của kiếp người. Nhưng ngài không mong muốn sống lâu cũng không muốn chết sớm. Ở một đoạn trước tôi đã nói về điều này rồi — rằng một vị A-la-hán không mong muốn sống cũng không mong muốn chết mặc dù ngài háo hức chờ vô dư Niết Bàn.
Điểm quan trọng cần lưu ý ở đây là Thọ (vedanā) diệt cùng với sự nhập Vô dư y Niết Bàn của vị A-la-hán. Đối với phàm nhân và ngay cả đối với các bậc hữu học, thọ không thể bị loại bỏ. Họ có thói quen chấp nhận nó như là cái gì đó thích thú, và do đó một sự chấp thủ đã sanh khởi trong họ. Bị dính mắc vào thọ , họ chấp nhận nó thậm chí cho đến sát-na tâm tử. Vì thế, thọ tiếp tục trôi chảy, như nó đã từng, và xuất hiện cùng với thức tái sanh. Kết quả là sanh hữu mới sanh khởi. Nhưng với vị A-la-hán sự diệt của thọ đã được bắt đầu trong đời sống của vị ấy. Liên quan đến sự diệt này có thể mọi người còn nhớ đến sự giống nhau đã được rút ra từ ngọn đèn đang tắt. Sự tắt này bắt đầu trong đời sống của vị ấy. Vì lẽ thọ đã được kìm lại như vậy nên cơ hội cho sự trở thành không thể có được sau vô dư Niết-bàn của vị ấy.
Những gì đã được nói về thọ cũng áp dụng chính xác cho tưởng , hành và thức vốn tất cả đều diệt khi thọ diệt. Cùng với sắc , chúng (thọ, tưởng, hành và thức) tạo thành năm uẩn dựa vào quả của nghiệp để hiện hữu. Với sự vô hiệu lực của các uẩn và quả cuối cùng bậc Thánh A-la-hán thành tựu sự diệt không còn tàn dư của sanh y (vô dư y Niết-bàn).
Duve imā cakkhumatā padāsitā,
Hai Niết-bàn giới này,
Những ai với chánh trí,
Sẽ không hoàn toàn thích đáng khi nói rằng Đạo và Quả của nó nghiêng về phía đối tượng của chúng — Niết-bàn, là nhân và sự diệt của các phiền não trong hai Niết-bàn giới là quả. Người ta cũng có thể cho rằng sự Bình Yên mà Đạo và Quả nghiêng về là Niết-bàn bình thường còn hai Niết-bàn giới đang xem xét ở đây là Niết-bàn đặc biệt. Tuy nhiên cả hai Niết-bàn chỉ là một và có cùng sự an tịnh , một trong những đặc tính của Niết-bàn.
Niết bàn là phi thời gian. Và vì thế sẽ không thích hợp tương tự khi hỏi liệu Đạo, ở sát-na diệt của phiền não, nghiêng về phía Niết-bàn ngay trong tiến trình hình thành của nó, tức là, trong thời hiện tại phải không, hay nó mong chờ Niết-bàn tương lai với sự huỷ diệt của các uẩn sau Bát Niết-bàn (nhập diệt) của vị A-la-hán. Nhưng ở đây Niết-bàn là kālavimutti, vượt ngoài khái niệm về thời gian. Hãy xét về các tuỳ miên , những khuynh hướng góp phần vào sự hình thành của tham, sân, và si. Phàm nhân có những khuynh hướng này rất nhiều. Chúng sanh khởi khi những điều kiện thuận lợi. Chúng không thể được gán cho là quá khứ, hiện tại hay tương lai. Vì lẽ chúng là phi thời gian, sự diệt của chúng cũng phi thời gian.
Chúng ta cũng hãy xem xét đến hiện tượng diệt. Nó không phải là một cái gì đó đang xảy ra cũng không phải là một cái gì đó đang sanh. Bạn không thể nói rằng nó đã sanh hay nó đang sanh, hay nó sẽ sanh. Nó đến cùng một lúc với sát-na khi tâm Đạo sanh. Khi các phiền não diệt, các uẩn, tuỳ thuộc vào chúng, mất đi cơ hội để sanh. Hiện tượng xảy ra trong trường hợp này là phi thời gian . Do đó không ích lợi gì khi hỏi liệu tâm Đạo khuynh hướng về hiện tại hay tương lai.
Ở đâu vòng sanh , trú , diệt đang hoạt động thì pháp tốt nhất vẫn là tập trung và thiền trên Quả của Đạo. Khi đạt đến cái Tuyệt Đối cùng với sự biến mất của ba sát-na tiểu — sanh, trú, diệt của sát-na tâm, Niết-bàn được chứng ngộ. Nó là giai đoạn cao nhất. Khi các bậc A-la-hán xuất khỏi thiền quả (suốt quá trình chứng quả của Đạo) họ thường bầy tỏ niềm hân hoan của họ như sau:
Susakhaṃ vata nibbānaṃ, samāsambuddha desitaṃ;
Tất cả khổ bị diệt tại Niết-bàn nơi không có ưu sầu, không có cấu uế của phiền não và hiểm nguy.
An lạc thay là Niết-bàn đã được Đấng Chánh Biến Tri tuyên thuyết.
Tôi đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại nhiều lần điểm này rằng Niết-bàn không có chỗ đặt chân ở bất kỳ đâu, bởi vì để xác định vị trí chỗ dừng lại của danh và sắc đang sanh xảy ra là điều không thể. Trong một bài kinh (Sutta) nó đã được tuyên bố một cách dứt khoát rằng Niết-bàn vô xứ sở. Và trong một Kinh khác nó đã được đề cập như: trong tấm thân dài một sải (1m82) tứ Thánh Đế đã được công bố. Tuy nhiên, trong Abhidhammā (Vi-diệu Pháp) nói rằng Niết-bàn ở ngoài thân. Bạn sẽ tìm thấy những giải thích về điều này khi tôi nói về sáu nội xứ và ngoại xứ sau này.
Sắc hay vật chất hiện hữu trong cõi Sắc Giới và danh hay tâm trong cõi Vô Sắc Giới. Nhưng Parinibbāna (Bát Niết-bàn) giải thoát một bậc A-la-hán khỏi sự thống trị của danh và sắc. Như vậy chúng ta có thể nói về sự nhập Niết-bàn của Tôn giả Bāhiyadārucīriya như sự giải thoát khỏi vòng khổ luân.
Lúc bấy giờ có một vị Phạm thiên, một bậc Bất Lai trên cõi Phạm thiên, biết được những việc làm của Bāhiya. Ngài liền đi xuống cõi người để gặp Bāhiya và nói sự thực rằng vị ấy không phải là bậc A-la-hán và cũng không đang hành Pháp xứng đáng một bậc A-la-hán.
Khi nghe những lời này, Bāhiya trở nên cực kỳ xấu hổ và thỉnh cầu vị Phạm thiên hướng dẫn cho mình đến diện kiến một bậc A-la-hán, nếu có. Vị Phạm thiên lúc đó mới nói rằng Đức Phật, bậc A-la-hán đích thực, hiện đang trú ngụ trong ngôi chùa Kỳ Viên ở Sāvatthi.
Bāhiya đi đến chùa Kỳ Viên theo chỉ dẫn, nhưng khi vị ấy đến được đó Đức Phật đã đi vào làng khất thực. Ngay lập tức vị ấy đuổi theo Đức Phật, và khi gặp Đức Thế Tôn, ông thỉnh cầu thuyết pháp. Nhưng lời thỉnh cầu của ông bị từ chối, vì thời gian và cơ hội không thích hợp. Nhưng Bāhiya cứ nằng nặc thỉnh cầu Đức Phật thới ba lần. Cuối cùng Đức Phật kham nhẫn và đưa ra cho vị ấy lời khuyên sau:
Không hành thiền minh sát, việc một người có thể dừng lại ngay ở chỗ chỉ nghe khi nghe, chỉ ngửi khi ngửi, chỉ nếm khi nếm, và chỉ xúc chạm khi xúc chạm, sẽ là điều không thể xảy ra. Điều khó làm nhất là dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ khi suy nghĩ. Do đó người hành thiền được khuyên là nên ghi nhận liên tục các hiện tượng khi chúng xảy ra. Lúc ban đầu hầu như bạn không thể ghi nhận được mọi hiện tượng thấy, nghe,… vì thế hãy bắt đầu với một hiện tượng đặc biệt nào đó khi bạn hành thiền. Trong Kinh Đại Niệm Xứ Đức Phật dậy rằng khi đi hành giả phải ghi nhận đi. Ghi nhận ở đây là quan sát hiện tượng chuyển động, sự hoạt động của phong đại (vāyo). Khi đứng, ghi nhận đứng; khi ngồi, ghi nhận ngồi. Trong suốt những chuyển động như vậy bạn có thể kinh nghiệm một số điều hiển nhiên đang xảy ra trong thân bạn. Hãy ghi nhận chúng. Riêng tôi, tôi khuyên bạn quan sát sự phồng lên và xẹp xuống của bụng khi hành thiền.
Khi bạn đang quan sát sự phồng lên và xẹp xuống của bụng theo đúng phương pháp thiền, tâm bạn có thể lang thang (phóng tâm), và bạn sẽ bắt đầu nghĩ điều này điều nọ. Ghi nhận cái bạn đang nghĩ về đó. Thỉnh thoảng, khi hành thiền, bạn có thể cảm thấy mệt, hay cảm thấy nóng bức, ngột ngạt hay đau nhức. Những cảm giác này cũng phải được ghi nhận. Khi bạn cảm thấy mệt, bạn có thể cải thiện oai nghi của mình. Ghi nhận từng chuyển động bạn đang thực hiện để tìm sự thoải mái. Khi đang hành thiền có thể bạn nghe thấy những âm thanh lạ, cũng phải ghi nhận khi chúng sanh. Tóm lại, bạn phải ghi nhận mọi hoạt động của mình, cả ở thân và tâm, cùng với các cảm thọ bạn cảm giác. Khi không có gì đặc biệt để ghi nhận, hãy tập trung tâm trên bụng như lúc ban đầu.
Khi định phát triển bạn sẽ nhận thấy rằng, khi bạn thấy, cái thấy được thiết lập trong giây lát chỉ để tan biến ngay trong sát-na kế tiếp. Đối với các hiện tượng nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ cũng cần được hiểu như vậy. Khi bạn ghi nhận hoạt động nghe, thì cả âm thanh và sự nhận thức về âm thanh ấy đều biến mất. Khi bạn ghi nhận cảm giác đau, thì cả sự tổn thương gây ra cái đau và cảm giác đau biến mất. Bạn tập trung trên cái thấy, ghi nhận trong tâm cái bạn biết như đang thấy. Liền đó, cái thấy, sự ghi nhận và tâm biết liền tan biến. Lúc ấy trí hiểu biết sẽ sanh lên trong bạn rằng cái gì sanh lên sẽ diệt và do đó hiện tượng thấy là vô thường, Trí hiểu biết về bản chất vô thường này là aniccānupassanā ñāṇa (vô thường tuỳ quán trí). Cái gì sanh lên chỉ để tan hoại thì bất toại nguyện; và do đó hiện tượng này xét cho cùng chỉ là khổ (dukkha). Trí nhận thức sự thực liên quan đến khổ này là dukkhānupassanā ñāṇa (khổ tuỳ quán trí). Thêm nữa, anattānupassanā ñāṇa (vô ngã tuỳ quán trí) hay trí nhận thức về bản chất không thật của các pháp, cũng phát triển khi bạn có được sự tin chắc rằng bản chất của các pháp chỉ xảy ra theo đường lối tự nhiên của chúng.
Bāhiya, nhờ có đầy đủ Ba-la-mật đã đắc tuệ giác khi nghe những gì Đức Phật dậy cho ông. Khi vị ấy thấy một đối tượng, vị ấy ghi nhận chỉ những gì vị ấy thấy và không làm thêm gì nữa. Khi vị ấy quan sát hiện tượng như nó xảy ra, không có gì sanh khởi trong tâm vị ấy ngoài sự thực rằng vị ấy đang thấy. Khi quan sát hiện tượng vị ấy không tự nghĩ, “Ta thấy nó. Chính cái tự ngã này của ta đang thấy nó.” Khi tâm vị ấy được xả ly chấp thủ thì ngã mạn và tà kiến cùng với ý niệm về tự ngã được xua tan.
Đức Phật đã nói thêm cho vị ấy rằng,…
Với sự biến mất của chấp thủ, ngã mạn và tà kiến, mọi phiền não dừng lại. Ở đâu không có phiền não, ở đó sự hiện hữu, dù trong đời hiện tại hay trong đời tương lai, có thể nói là đã tuyệt diệt. Không-trở thành (tức không còn tái sanh) có nghĩa là sự chấm dứt của khổ hay còn được gọi là Vô Dư Y Niết-bàn .
Ở đây những dẫn giải trong Udāna aṭṭhakathā đã gợi ý thêm. Có mười hai xứ — sáu nội xứ và sáu ngoại xứ, sáu nội xứ gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm và sáu ngoại xứ gồm sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Khi một người, nhờ phát triển trí tuệ minh sát, thoát khỏi những những phiền não như tham (chấp thủ), v.v… , họ cũng thoát khỏi sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Những khái niệm Tôi hay “tự ngã” của tôi không còn trú trong ý môn (căn), trong đối tượng (trần) và trong thức. Khi những nhiệm vụ của các căn xứ này dừng lại chính là Niết-bàn.
Điều này hợp với kinh nghiệm thực tiễn của người hành thiền. Ở giai đoạn đầu của thiền minh sát, người hành thiền thường phải hướng tâm mình vào ý môn, đối tượng và thức để ghi nhận sự sanh và diệt của danh-sắc. Có thể nói lúc nào vị ấy cũng phải hay biết về sự sanh và diệt của các uẩn. Khi minh sát trí thuần thục, tâm vị ấy trôi vào sự diệt của tất cả hiện tượng thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và hay biết, lúc này vị ấy được nói là đã đối diện với Niết-bàn.
Khi Đức Phật trên đường trở về chùa, ngài nhìn thấy thi thể của A-la-hán Bāhiya. Đức Phật đã cho hoả táng xác ngài theo nghi thức thích hợp và nói với các đệ tử dựng lên một ngôi tháp thờđể tưởng nhớ. Các vị tỳ-kheo trong chùa đã hỏi Đức Phật về sanh thú của Bāhiya. Đức Phật trả lời rằng Bāhiya đã trở thành một bậc A-la-hán trước khi chết, và vì thế vị ấy đã nhập Niết-bàn Vô Dư Y , sau đó Đức Phật nói lên bài kệ đã trích dẫn ở trước liên quan đến Niết-bàn ở đây tứ đại không hiện hữu:
Như vậy ngài đã nhiều lần chết trong tay của nữ Dạ-xoa này. Nghiệp bất thiện của ngài đi theo ngài như một cái bóng, gây ra những khổ đau không nói hết được và thường là trong bốn cỗi khổ. Tất cả đều là kết quả của ác nghiệp ngài đã tạo. Nếu không đắc A-la-hán sau khi gặp Đức Phật, chắc chắn ngài sẽ còn phải tiếp tục chịu khổ do những ác nghiệp ấy. Tuy nhiên, bây giờ, mặc dù cái chết của ngài là do một con bò gây ra theo cách đã mô tả, tất cả khổ đều dừng lại cùng với sự chứng đắc Vô Dư Y Niết-bàn của ngài. Vì thế Đức Phật đã coi cái chết của ngài như một sự chiến thắng. Thực vậy, Đức Phật đã tôn vinh ngài như bậc tối thắng trong số các đệ tử của ngài về vấn đề đắc các thắng trí trong thời gian nhanh nhất có thể.
Chú giải đề cập đến rất nhiều trường hợp ở đây các vị tỳ-kheo đạt đến Đạo Quả A-la-hán khi họ hành thiền trên vị của món cháo họ đang ăn. Khi họ đang ăn cháo với chánh niệm, họ hay biết được sự diệt của các uẩn danh sắc và các tâm hành.
Đối với một hành giả đang hành thiền, thân là đối tượng phải được quan sát trong mọi lúc. Nếu Hành Xả Trí phát triển khi vị ấy đang ghi nhận thân tạo ra xúc tưởng, vị ấy hay biết được sự diệt của danh, sắc, các tâm hành, và tâm ghi nhận biến mất hoàn toàn.
Đây là sự khám phá Niết-bàn xuyên qua sự nhận thức của tâm. Sự khám phá này có thể được xem là thường xuyên nhất. Khi người hành thiền ghi nhận sự sanh và diệt của các hiện tượng, saṅkhārupekkhā ñāṇa hay hành xả trí phát triển, những đối tượng thô biến mất, các đối tượng vi tế hơn thay thế chỗ của chúng. Đến đây vị ấy nghĩ rằng toàn thân mình đã biến mất chỉ có tưởng (sự nhận thức) còn lại. Vì, khi vị ấy ghi nhận sự phồng lên và xẹp xuống của bụng, thì sự phồng và xẹp biến mất, vị ấy chỉ còn hay biết thực tại là mình đang nhận thức sự phồng xẹp mà thôi. Khi tập trung trên sự thực này, danh, sắc và các tâm hành dừng lại. Và chính cái biết về sự diệt này là Niết-bàn.
Bất kỳ người nào mong muốn chứng đắc Niết-bàn trước tiên phải thành tựu giới thanh tịnh . Một người tại gia cư sĩ ít nhất phải giữ ngũ giới và ājīvaṭṭhamaka sīla (活命第八戒 — hoạt mạng đệ bát giới — Giới này liên quan đến việc thực hành Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng), Chánh ngữ có thể được tu tập bằng cách tránh nói dối, tránh nói lời gây chia rẽ, tránh nói lời thô lỗ và tránh nói lời vô ích. Chánh nghiệp được thành tựu nhờ tránh sát sanh, trộm cắp và tà dâm. Chánh mạng có nghĩa là cách sinh sống chân chánh. Sau khi đã thành tựu giới thanh tịnh này, tâm thanh tịnh phải được thực hành thông qua định hay các bậc thiền . Nếu một người đã tu tập hoàn hảo, vị ấy có thể hành sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền theo tuần tự. Vào lúc chứng thiền, các triền cái sẽ được loại trừ. Triền cái hay những pháp ngăn che tiến bộ là tham dục, sân hận, hôn trầm-thuỵ miên, trạo cử-hối hận và hoài nghi. Sau khi chứng thiền, vị ấy phải hành minh sát.
Ngay cả khi một hành giả không mong muốn đắc các bậc thiền, vị ấy cũng bắt buộc phải nỗ lực để có được cận định . Thậm chí nếu vị ấy không thể làm được điều này (tức hành để có cận định), vị ấy phải bắt đầu với việc tập trung tâm trên tứ đại, hay 18 loại sắc (thực tính), hay 12 xứ, hay năm uẩn, hay ít nhất cũng phải trên hai phương diện danh-sắc . Theo Kinh Đại Niệm Xứ, vị ấy phải tập trung tâm trên bốn oai nghi, trên các hoạt động của thân do tứ đại — đất, nước, lửa, gió và nóng, lạnh gây ra, trên các cảm thọ, trên tâm, v.v… Kinh nói, Theo cách này vị ấy ghi nhận để biết rằng vị ấy đang đứng khi đứng, đang ngồi khi ngồi, v.v… Nhờ vậy tâm sẽ không lang thang. Nó sẽ như thể dính chặt vào đối tượng ghi nhận. Lúc đó, khi tất cả các triền cái được loại trừ, bạn biết rằng bạn đã thành tựu tâm thanh tịnh. Giai đoạn này được xác nhận là sát-na định minh sát , một loại niệm được thiết lập trong sát-na, cũng tốt như khi đạt đến cận định vậy. Nói tóm lại, thanh tịnh tâm có nghĩa là một trạng thái tâm không bị cản trở bởi những thân hành thấp hèn và phiền não.
Một hành giả đã hoàn thành thanh tịnh tâm xong thì tiếp tục ghi nhận sự sanh và diệt của danh-sắc liên quan đến tam tướng — vô thường, khổ và vô ngã. Vị ấy suy ngẫm: “Sắc là vô thường; thọ là vô thường, v.v…”
Sau đó vị ấy trở nên nhàm chán và ghê tởm đối với tất cả danh-sắc này. Do nhàm chán, vị ấy trở nên dửng dưng đối với danh, sắc và các hành bằng tất cả sự chân thật, vị ấy không còn tham đắm đối với chúng. Do mệt mỏi với sự sống, vị ấy trở nên nhàm chán, từ bỏ mọi ước muốn, và cuối cùng đạt được sự giải thoát. Lúc này Đạo được thành tựu.
Vô-ngại-giải Đạo đề cập đến nhiều giai đoạn tuệ minh sát phải được người hành thiền chứng đắc theo tuần tự.
Tuy nhiên những ai miễn cưỡng hành minh sát hay chỉ khuyến khích người khác hành minh sát sẽ tuyên bố những điều lẽ ra không nên tuyên bố. Họ thường nói rằng: Một lời khuyên như vậy rõ ràng mâu thuẫn với giáo lý mà Đức Phật tuyên bố. Thực sự những người hay khuyên dạy này biết được gì? Sự hiểu biết của họ về các hành là khổ chỉ ở bề mặt. Họ không thể đi sâu vào những thực tại tuyệt đối. Nếu họ thực sự thấy rõ khổlà gì, họ chắc chắn sẽ cảm thấy nhàm chán nó và cố gắng để thoát ly khỏi nó. Họ quả quyết rằng họ biết khổ, nhưng thực sự họ lại không cảm thấy danh-sắc đó là bất toại nguyện. Cảm giác nhàm chán không phát triển trong tâm họ. Vì thế họ không có ước muốn đoạn trừ chúng. Mà thực tế họ thích ôm giữ và chấp nhận chúng hơn.
Những ai xem các uẩn danh-sắc như đáng mong muốn cũng rất giống như người đánh cá nắm con rắn trong tay vậy. Trước khi biết được mình đã nắm cái gì, anh ta rất vui thích, nhưng khi phát hiện ra nó có ba khoang quanh cổ, anh ta trở nên vô cùng kinh hãi. Khi một hành giả ghi nhận sự sanh và diệt của các uẩn, vị ấy sẽ được nhắc nhở về tam tướng vô thường, khổ và vô ngã, và khi vị ấy áp chúng trên các hiện tượng vị ấy đang thiền, vị ấy sẽ nhận thức rõ rằng tất cả pháp hữu vi đều xấu xa và đáng nhàm chán. Không một người bình thường nào có thể xem cái thân năm uẩn của mình rất giống một con rắn như vậy. Chỉ hiểu biết đơn thuần sự giống nhau của nó với một sinh vật đáng ghê tởm nào đó sẽ không đủ khiến người ta nhàm chán với chính thân của mình. Họ thực sự phải bị thuyết phục về thực tại khổ đau của con người trên phương diện lý thuyết.
Chỉ khi một hành giả có được cái nhìn thấu suốt vào bản chất thực của danh và sắc (tâm và thân) họ mới cảm thấy ghê tởm đối với chúng và xem tất cả sự tham chấp của mình là vô ích và rỗng không. Cuối cùng vị ấy phát triển được thái độ thản nhiên đối với sự sanh và diệt của các uẩn để đạt đến Hành Xả Trí, khi tất cả hành có thể được nhìn với tâm xả. Lúc ban đầu hành giả phải thực hiện một nỗ lực đặc biệt để đạt đến giai đoạn trí này, nhưng với sự thực hành liên tục xả sẽ sanh một cách tự nhiên ngay khi quán sự sanh diệt của các pháp hữu vi. Khi bạn có được trí này bạn cảm thấy rằng mình ngay lập tức hiểu biết rất rõ về các hiện tượng, nhưng không bị ảnh hưởng bởi chúng, dù chúng có vừa ý hay không vừa ý. Tham không sanh trong tâm bạn khi nó chăm chú trên các đối tượng khả lạc. Bạn cũng sẽ không bị bối rối bởi những đối tượng không vừa ý. Bây giờ bạn đã phát triển được khả năng kham nhẫn trước mọi hoàn cảnh theo cách của các vị A-la-hán. Ở giai đoạn phát triển tâm linh này, có thể có những lúc tâm bạn muốn lang thang ra khỏi đối tượng quán, nhưng khi bạn lấy lại kinh nghiệm tâm bạn sẽ không còn đi ra khỏi đối tượng trên đó nó quán nữa.
Với phương pháp hành thiền minh sát đúng này, bạn tiến từ Hành Xả Trí đến Thuận Thứ Trí , một loại trí chuẩn bị cho sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế. Sự bình yên được thiết lập ngay khi bạn vất bỏ trạng thái sanh để có được cái bất-sanh như đối nghịch của nó.
Niết-bàn không thể được thấy với mắt trần. Nó chỉ có thể được thấy ở bên trong như sự diệt của tất cả các hiện tượng.
Như kết quả của việc lắng nghe bài pháp này với sự chú tâm tôn trọng, cầu mong các bạn có thể thực hành thiền minh sát đúng cách trên sự diệt của tất cả khổ do ý môn, do các đối tượng giác quan và tâm gây ra, và được giải thoát khỏi sự trói buộc của hai xứ — đó là nội xứ và ngoại xứ để đạt đến giai đoạn tối hậu nơi đây dòng tương tục danh-sắc vĩnh viễn dừng lại!
Khi nữ dạ-xoa này đi đến cổng chính dẫn vào chùa Kỳ-Viên, tất cả đều yên lặng. Cô nghĩ ở đó có thể đang có bố thí, vì thế cô đi vào với hy vọng có được cái gì đó để ăn.
Khi vào đến bên trong điện thờ, cô thấy mình ở giữa một hội chúng gồm các vị tỳ-kheo và cư sĩ đang lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Vì Đức Phật thuyết pháp với một chất giọng ngọt ngào, cô lắng nghe chăm chú như bị mê hoặc hoàn toàn. Nhưng các con cô, do bị cơn đói quấy rầy, chúng không thể giữ yên lặng. “Mẹ ơi! Hãy cho chúng con đồ ăn đi!” chúng khóc la.
“Này các con thân!” Punabbasumātā khẩn nài, ”Làm ơn hãy giữ yên lặng trong lúc bậc Đại Đạo Sư của trời người đang thuyết pháp. Ngài đang nói về Niết-bàn, pháp chặt đứt mọi xích xiềng của khổ đau. Tình yêu và sự trung thành đối với Niết-bàn đang trỗi dậy mãnh liệt trong mẹ.”
Niết-bàn là sự chấm dứt khổ. Do đó khi một người bị đau khổ vì sầu ưu, họ khao khát Niết-bàn. Đó là điều tự nhiên. Khi một người đang trong điều kiện sức khoẻ tốt nhất, họ không quan tâm tới y tế. Trong tình trạng khoẻ mạnh không ai xem vấn đề sức khoẻ là quan trọng. Nhưng khi về già và trở nên suy yếu, họ mới suy ngẫm đến những lợi ích của sức khoẻ. Vì muốn chữa bệnh, bây giờ họ phải biết lắng những nghe người có thiện ý kê toa thuốc cho mình với sự chú tâm kính trọng.
Tương tự như vậy Punabbasumātā đã chăm chú lắng nghe bài pháp về Niết-bàn của Đức Phật. Có thể lúc này cô đang khổ sở vì đói bụng; và vì cơ cực cô phải đi xin ăn cho bản thân và con cái. Sanh trong cõi dục này cô cần phải chăm lo cho những đứa con mà mình sinh ra nữa. Nhưng do phải chịu muôn vàn khổ đau nên cô khao khát Niết-bàn. Cô nói với những đứa con của mình rằng cô yêu chúng, nhưng cô nhấn mạnh rằng tình yêu và sự trung thành của cô với Niết-bàn còn lớn hơn tình mẫu tử đó.
Yêu con, yêu chồng là đường lối thế gian. Nhưng ta yêu Pháp hơn yêu chúng. Vì yêu chồng và yêu con ta không thể thoát khỏi khổ. Chỉ nhờ nghe pháp ta mới có thể được giải thoát khỏi vòng khổ luân.
Những người mẹ sùng đạo thường chú tâm nghe pháp một cách kính trọng; nhưng họ bị quấy rầy bới những đứa con đang kêu khóc; nhưng những đứa con của nữ dạ-xoa này có vẻ ngoan ngoãn và biết vâng lời. Sau khi bị mẹ trách móc chúng đã lắng nghe bài pháp của Đức Phật một cách chăm chú và kính trọng.
Đức Phật thấy trước rằng cả hai mẹ con nữ dạ-xoa này sẽ trở thành bậc nhập lưu, sotāpannas sau khi nghe pháp. Vì thế ngài đã thuyết về Tứ Thánh Đế. Punabbasumātā và con trai nhờ đó trở thành những bậc nhập lưu.
Sau khi trở thành bậc thánh nhập lưu, cuộc đời cô thay đổi hoàn toàn. Ngay lập tức cô biến thành một thiên nữ giáng trần, xinh đẹp, xiêm y lộng lẫy. Con gái cô, Uttarā, do còn quá nhỏ để hiểu pháp; tuy vậy nó cũng có được lợi ích từ tích luỹ phước của người mẹ.
Hãy suy xét điều này. Không có mắt người ta không thể thấy; không có tai không thể nghe; không có mũi không thể ngửi; không có lưỡi không thể nếm; và không có thân không thể cảm giác sự xúc chạm. Các sắc thần kinh là những trung khu cảm giác hay năm giác quan tạo thành căn cứ của thức. Không có các giác quan, thức không thể sanh. Trong cõi Phạm Thiên , chỉ có thần kinh nhãn và thần kinh nhĩ , còn thần kinh tỷ thần kinh thiệt vắng mặt. Vì thế các vị Phạm Thiên có thể có mũi và lưỡi trong những hình thức thô hay có thân hình kích thước to lớn, nhưng không biết mùi là gì, vị là gì và những cảm giác trên thân là gì. Tuy nhiên trong tất cả hữu tình chúng sanh, dù là người hay chư thiên hay phạm thiên đều có hadaya vatthu, chỗ trú của tâm thường được gọi là tâm cơ hay sắc ý vật. Vì thế trong tam giới, tư duy, trí tuệ và an chỉ thiền đều có thể xảy ra.
Bây giờ câu hỏi phát sanh là liệu trong Niết Bàn tâm không dựa vào sắc , chẳng hạn như tâm vô sắc giới vẫn còn sanh không.
Ngày nay những người không phải Phật tử đã rất mực quan tâm đến (các chương trình) không gian, nhưng không gian có trong tâm họ là không gian trong nghĩa vật chất. Do đó không gian này không thể được đánh đồng với ý niệm về sự hiện hữu trong cõi không vô biên xứ . Ở đây Đức Phật phân biệt rất rõ cõi có tâm và các tâm sở cùng với trạng thái thiền với cõi vô tưởng nơi đây tất cả các pháp đồng sanh với nó và tâm thiền đều bị vô hiệu hoá. Một hành giả tập trung tâm trên sự sanh-diệt của các uẩn có thể đạt đến giai đoạn Hành Xả Trí. Nếu vị ấy đạt đến giai đoạn này, vị ấy sẽ cảm thấy sự biến mất của cái ngã vật lý, chỉ kinh nghiệm một dòng ý thức bềnh bồng trong hư không. Khi trí của vị ấy phát triển thêm dòng ý thức này sẽ càng lúc càng trở nên rõ hơn. Nói đúng hơn, đây không phải là trạng thái an chỉ thiền trong Không Vô Biên mà là một loại tuệ minh sát giống với thiền đó mà thôi.
Từ những gì đã nói ở trên, cũng có thể viện dẫn rằng không có tâm và các tâm sở thuộc cõi Thức vô biên xứ; và tương tự như vậy đối với tâm và các tâm sở thuộc Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cõi cuối cùng này được xem là cao nhất ở đây tưởng vi tế đến nỗi nó có thể được mô tả như một giai đoạn nằm ở giữa tưởng và vô-tưởng. Cũng vi tế tương tự là xúc (phassa), thọ (vedanā), tâm (citta) và các tâm sở (cetasika) có thể gặp trong cõi đó. Trong Niết Bàn những trạng thái vi tế nhất của tâm cũng hoàn toàn không có.
Những người thiếu niềm tin trong pháp và không thể thực hiện được sự chứng thiền hay samāpatti (nhập định), sẽ không chấp nhận những lời dạy liên quan đến các cõi hiện hữu vừa đề cập ở trên. Cái mà những người hoài nghi này nên làm là hãy thực hành thiền định và thiền minh sát như lời Đức Phật dậy. Nếu họ làm được điều này họ sẽ đắc thiền, kể cả phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền, lúc đó họ sẽ nhận ra sự khác nhau giữa trạng thái thiền trong Cõi Vô Sắc và Niết Bàn nơi đây một trạng thái như vậy không còn cần thiết nữa.
Liên quan đến sự gợi ý này một vị Sayadaw đa văn nọ lý luận rằng nếu có một loại danh-sắc đặc biệt trong Niết-bàn, thời cũng phải có một loại tái sanh đặc biệt để sanh ra loại già, bệnh, chết đặc biệt từ đó tạo ra một loại sầu, bi, khổ, ưu, não đặc biệt,… Khi Kinh nói dứt khoát Niết-bàn là sự diệt thời vượt qua nó và lập ra cái ý niệm về một loại hiện hữu đặc biệt sẽ là điều không thích hợp. Sự diệt chỉ rõ không có gì ngoài hư vô. Niết-bàn, vốn không liên quan đến danh-sắc, nên không thể được làm cho nó dính líu đến đời này hay đời sau.
Cũng không có người nào đi ra khỏi hay được vận chuyển từ Niết-bàn đến các cõi sống khác. Các chúng sinh có thiện nghiệp rời khỏi cõi người để đi đến thiên giới; và những chúng sinh từ cõi trời cũng có thể đi xuống quả đất này như những con người. Hoặc ai có những bất thiện nghiệp có khuynh hướng thích đi xuống bốn ác đạo hơn. Nhưng trong Niết-bàn không những chuyện đến đi như vậy.
Khi Đức Phật đang trú tại Kỳ Viên tịnh xá ở Xá-vệ , một vị thiên tên là Rohitassa đã đi đến ngài và hỏi:
Rohitassa rất hài lòng với lời giải thích của Đức Phật. Một thời vị ấy từng là một đạo sĩ có năng lực thần thông (thắng trí) và với nó vị ấy đã cố gắng tìm kiếm tận cùng của thế gian. Với một bước từ cõi này đến cõi khác, vị ấy đã đi khắp cùng vũ trụ trong suốt một trăm năm; nhưng cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ của vị ấy không đem lại kết quả gì. Vào cuối sứ mệnh của mình, vị ấy chết và được tái sanh làm một vị thiên trong chính cái thế gian mà vị ấy đã chu du khắp nơi như một đạo sĩ quyền năng. Tuy nhiên cái thế gian vị ấy nghĩ trong tâm vẫn chỉ là thế gian vật chất. Còn cái thế gian mà Đức Phật nghĩ trong tâm khi trả lời vị ấy là cái vòng khổ luân do dòng chảy không ngừng của danh-sắc gây ra. Chỉ khi vòng này dừng lại người ta mới có thể đạt đến tận cùng của thế giới.
Bạn không thể định vị Niết-bàn. Trước khi nhập Niết-bàn các vị A-la-hán vẫn phải mang gánh nặng của các uẩn vốn chỉ ngừng sanh sau khi nhập Vô Dư Niết-bàn. Có thể nói sự diệt này xảy ra bên trong thân của các vị A-la-hán. Vì vậy, theo quy ước, chúng ta nói sự hiện hữu của Niết-bàn nằm ở bên trong thân năm uẩn của chúng ta. Tuy nhiên theo Abhidhammā , Niết-bàn không liên quan tới thân này. Đó là lý do vì sao trong Udāna Niết-bàn được mô tả như appatiṭṭham có nghĩa là “không có chỗ đứng, 無足場 —vô túc trường, không có chỗ đặt chân.”
Khi bạn nhận ra mình thấy (cái gì đó), bạn nên biết rằng thức đang hoạt động. Lúc này bạn có Thức Thủ Uẩn Sau khi thấy một đối tượng, thọ, lạc hay khổ, sanh khởi trong bạn. Thọ là vedanā. Bây giờ bạn đã phát triển — Thọ Thủ Uẩn Bạn thường ghi nhớ những gì mình thấy để khi có dịp cần đến bạn có thể nhớ lại. Tưởng kể như đã phát triển trong bạn; và lúc này bạn có Tưởng Thủ Uẩn . Kế tiếp những hoạt động ý chí xảy ra trong tâm bạn liên hệ đến những thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp mà bạn phạm. Những trạng thái tâm nằm ngoài lãnh vực của thọ và tưởng này tạo thành Hành và bạn bị dính mắc vào nó. Khi có sự dính mắc thì Hành Thủ Uẩn kể như đã sanh. Như vậy từ hành động thấy, nghe, v.v…, cả năm thủ uẩn đã phát sanh.
Những thủ uẩn này luôn luôn sanh khởi trong chúng ta; nhưng sự sanh khởi của chúng xảy ra tức thời đến nỗi chúng ta khó mà nhận ra nó. Hầu như chúng ta luôn luôn thất bại trong việc nắm bắt cái khoảnh khắc khi hiện tượng xảy ra. Nhưng với thiền chánh niệm hoặc thiền minh sát chúng ta có thể ghi nhận sự sanh và diệt của các thủ uẩn để nhận ra sự thực rằng trạng thái thay đổi liên tục này là cực kỳ bất toại nguyện, và chính sự bất toại nguyện ấy là Dukkha (khổ).
Năm thủ uẩn tạo thành thế gian này. Chúng tiết lộ cho chúng ta biết Sự Thực về Khổ (Khổ Thánh Đế). Vì một người bình thường không thể ghi nhận thấy chỉ là thấy, do đó họ không thể hiểu được bản chất thực của hiện tượng ngay khoảnh khắc nó sanh, họ cảm giác rằng cái thấy của họ là khả lạc. Họ xem khổ là lạc (sukha); và như vậy một sự ưa thích lạc đã phát triển. Ái trở nên mãnh liệt thành thủ. Khi người ấy cố gắng để hoàn thành ước muốn của mình, làm khuây khoả cái cảm giác dính mắc của mình, hành nghiệp xảy ra. Bây giờ hành bắt đầu hoạt động. Do hành nghiệp này một người lúc sắp chết nhận thức qua ý môn những nghiệp mình đã làm, hoặc nghiệp tướng , hoặc thú tướng . Tâm người ấy sẽ hướng về những đối tượng này do sự dính mắc. Họ rất giống như một người đang chết đuối vơ lấy bất cứ vật gì có thể nắm được. Khi người này đang nắm bắt đối tượng cận tử thì tâm tử khởi lên. Và khi họ bỏ lại các uẩn, tâm này lui vào quá khứ. Nhưng do không loại bỏ được sự dính mắc, đối tượng nhận được từ tâm tử của kiếp sống trước, tác động đến tâm tục sanh vừa khởi lên trong kiếp hiện tại này. Như vậy kiếp sống mới bắt đầu với một tâm mới; và vì tâm này nối kết quá khứ với hiện tại nên nó được gọi là paṭisandhi citta, kiết sanh thức hay tâm tục sanh. Khi tâm khởi lên, các tâm sở và sắc vốn nương vào chúng cũng khởi lên. Nếu tham ái không được đoạn trừ thì danh-sắc này sẽ tiếp tục xuất hiện không ngừng suốt các kiếp sống. Vì vậy, tham ái là nhân tạo ra thế gian, và vì thế gian này là một khổi khổ, nên nó phô bày Sự Thực về Nhân Sanh Khổ (Tập Đế) cho mọi người thấy.
Thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm đều là những nhân tố sanh ra khổ, và chính trên tỷ số đó mà tham ái trở thành tập đế. Do tập đế này, chúng ta thích thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm. Và rồi một lần nữa dukkha lại sanh. Đây là Khổ Đế và Tập Đế.
Khi năng lực tập trung của bạn tốt hơn bạn sẽ để ý thấy rằng mỗi chuyển động của cơ bao gồm nhiều diễn biến của các hành động rõ rệt có thể được gọi là những tình tiết và mỗi tình tiết ấy sanh lên rồi liền biến mất. Mỗi sự xuất hiện và biến mất xảy ra nối tiếp nhau rất rõ ràng có thể nhận thấy được. Sự quan sát này áp dụng cho đối tượng tâm. Nhưng tâm ghi nhận, chủ thể quan sát, cũng vận hành theo cùng một cách như đối tượng, tức là thoắt hiện thoắt biến mất nối tiếp nhau một cách nhanh chóng. Khi sự quan sát của bạn càng lúc càng trở nên sắc bén hơn, bạn sẽ nhận ra mọi phần của hiện tượng xảy ra và biến mất như thể mỗi phần tự tách ra khỏi phần kia để làm theo ý riêng của nó vậy. Khi tâm ghi nhận và đối tượng xảy ra như thể vì mục đích tan biến hay diệt, lúc này sự thực vô thường của nó trở nên rõ ràng với bạn. Chúng mãi mãi ở trong trạng thái thay đổi như vậy. Chính sự sanh diệt này là bản chất cố hữu của chúng. Cái gì vô thường là bất toại nguyện. Cái gì bất toại nguyện là khổ. Bây giờ bạn đã đạt đến trí hiểu biết về Khổ Đế. Sự giác ngộ này xua tan bóng tối vô minh . Do đó, tham ái không còn tự xác định mình là đối tượng của bạn nữa. Khi không có tham ái, thủ không thể tác hành như kẻ đồng loã của nó. Vì thủ không sanh nên hành không thể hoạt động để làm thoả mãn những ước muốn do tâm và đối tượng của nó gợi lên. Điều đó có nghĩa rằng nghiệp không được được tạo thành hay hành nghiệp không phát sanh. Khi hành nghiệp chấm dứt thì thức tái sanh không thể xảy ra. Như vậy sẽ không có sự sanh mới, tức không có các uẩn mới. Điều này biểu thị cho sự diệt khổ và nhân sanh khổ. Ở khoảnh khắc đặc biệt khi bạn nhận ra sự diệt này bạn chứng ngộ Niết-bàn. Có thể điều này chỉ xảy ra trong một sát-na, nhưng sát-na đó vô cùng quý giá. Ghi nhận và biết rõ các hiện tượng xảy ra cuối cùng dẫn đến diệt trí (trí hiểu biết về sự diệt) tương đương với sự chứng đắc hiệp thế về Đạo Diệt Khổ Thánh Đế.
Do đó, kinh thường nói rằng Tứ Thánh Đế ở ngay trong tấm thân của người hành thiền.
Khi được thành tựu, hành giả bị hút vào thiền đến nỗi họ cảm thấy thân mình, cùng với thọ và tưởng của nó, dừng lại. Vì thế Kinh nói thêm:
Khổ Đế hiển nhiên ở khắp mọi nơi; nhưng Tập Đế thì chỉ có thể viện dẫn từ bản chất nội tại của tất cả phàm nhân không thể loại trừ phiền não khỏi tâm. Trước khi một người bước lên Đạo Lộ họ có thể tìm kiếm Nhân (sanh khổ) qua sự tự xét chính mình. Nói theo quy ước thì Diệt Đế có mặt trong các Bậc Thánh bất chấp sự thực rằng họ vẫn còn một số tàn dư của phiền não và các uẩn vẫn còn bên trong họ.
Tuy nhiên đối với các bậc A-la-hán khi phiền não đã được đoạn trừ hoàn toàn, sự diệt được nói là đã thành tựu. Bát Thánh Đạo thuộc Đạo Đế có thể được khám phá trong thân của vị A-la-hán đang hướng đến Đạo Quả. Ở đây kinh muốn chỉ ra rằng sự bình yên của Niết-bàn chỉ có thể được thực chứng với sự diệt hoàn toàn của danh-sắc và các pháp đồng sanh của nó.
Khi bạn suy nghĩ bạn biết chỗ suy nghĩ nằm ở đâu. Hiển nhiên là nó nằm trong thân bạn và trong tâm cơ (sắc ý vật) của bạn. Thêm vào đó là cảnh pháp (đối tượng tâm). Dựa vào ba yếu tố này tiến trình hình thành ý tưởng, suy nghĩ, ý định, ước muốn, …. sanh khởi. Nếu bạn không kịp thời ghi nhận bản chất thực của tiến trình này, bạn có thể bị dẫn đến chỗ tin rằng toàn bộ thân vật lý cùng với sắc ý vật của nó là tự ngã của bạn. “Đây là Tôi,” bạn có thể tự nhủ, “Thân này là của tôi. Chính Tôi là người đang suy nghĩ. Đây là suy nghĩ của tôi. Tôi là cảnh pháp. Hay, anh ta là cảnh pháp (đối tượng của tâm).” Bạn có thể hình thành những ý niệm như vậy trong đầu. Nhưng trong thực tế các pháp sanh khởi khi bạn nghĩ và cố gắng để biết những gì bạn nghĩ hoàn toàn chỉ là các thủ uẩn, upādānakkhandhā. Các uẩn này là một khối khổ. Thấy được như vậy là bạn đã thấy Khổ Đế. Năm thủ uẩn này có thể được phân loại như sau:
- Vào lúc hình thành ý tưởng, ý vật và thân tạo thành chỗ cho tâm khởi. Chúng tạo thành sắc thủ uẩn .
- Kế tiếp suy nghĩ nảy sanh. Tất cả tư duy và ý niệm này tạo thành thức thủ uẩn.
- Kế tiếp thọ sanh, thường phân biệt giữa lạc và khổ.
- Kế tiếp tưởng khởi lên ghi nhận đối tượng tâm. Chúng tạo thành tưởng thủ uẩn
- Kế tiếp các hành xuất hiện. Chúng tạo thành hành thủ uẩn .
Ở đâu tâm và tưởng diệt, ở đó có sự diệt của tất cả xứ , và điều này cần phải được tuệ tri .
Sự diệt này là Niết-bàn. Trong Kinh chữ mana (ý) được dùng, và điều này cần làm sáng tỏ. Từ này được dùng dựa trên sự kết hợp của hai loại tâm, đó là tâm hữu phần và tâm chuyển hướng Bhavaṅga là trạng thái tâm xảy ra khi một người đang ngủ say. Nó không quan trọng như tâm chuyển hướng vốn cần phải được quan sát một cách sít sao nhờ vậy bạn mới biết được sự diệt của nó. Trong Kinh chữ dhamma saññā , cũng được dùng. Nó có nghĩa là sự nhận thức đối tượng giác quan. Nhưng sự nhận thức này chúng ta thường nói là tâm (citta) cho dễ hiểu. Vì thế tôi đã dịch avajjana (tâm chuyển hướng) này chỉ đơn giản là citta thôi. Những gì muốn nói ở đây là sự diệt của tâm tiếp nhận đối tượng, tâm biết thông thường, và cuối cùng tâm hiểu rõ đối tượng. Điều này tượng trưng cho ba giai đoạn hoạt động của tâm. Sự diệt của chúng biểu thị sự huỷ diệt hoàn toàn của tất cả hành: và trong trường hợp này gọi là Niết-bàn. Chỉ khi hành thiền minh sát chúng ta mới có thể hiểu rõ được pháp này. Khi tâm hướng về Niết-bàn, và khi tâm Đạo và tâm Quả được chứng ngộ thì mọi hình thức tâm đều diệt.
“
.
Không cần phải nói, người xây nhà chính là taṅhā , xây dựng nên căn nhà của các uẩn trong luân hồi. Chính tham ái này tạo ra tái sanh , nỗi khiếp sợ lớn nhất trong tất cả những khổ đau mà người ta có thể phải gặp. Nếu người xây nhà này không được khám phá ra, nó sẽ tiếp tục xây đi xây lại căn nhà ngũ uẩn. Có thể bạn không có bất kỳ khuynh hướng muốn đi xuống các cõi khổ nào, nhưng taṅhā (tham ái) sẽ nhất quyết bắt bạn phải đến cư trú trong căn nhà nó đã xây dựng ở đó. Nếu bạn không có Toàn Giác Trí bạn sẽ không bao giờ tìm được nó. Trước khi chứng được trí này Đức Phật đã phải trải qua vô số kiếp tái sanh trong luân hồi. Ngày nay, việc tụng đọc hai bài kệ Khải Hoàn này khi xác nhận (một nghi thức giống như lễ an vị) một ngôi bảo tháp (thờ xá-lợi) hoặc tượng Phật đã trở thành tục lệ của người Phật tử Miến Điện. Và cũng không gì lạ đối với người cư sĩ khi tụng Pháp Duyên Sanh theo chiều thuận và theo chiều nghịch trong buổi lễ đó. Pháp Duyên Sanh đã được Đức Phật quán xét vào ngày thứ bảy trước khi giác ngộ. Nghi lễ xác định được gọi là “Anekazatin” ở Miến Điện. Tuy nhiên tục lệ này không phổ biến ở Thái lan và Tích lan.
Nhưng điều này không hàm ý rằng Niết-bàn tồn tại cùng với các Bậc Thánh trong nghĩa nặng về vật chất của từ. Tất cả phiền não đã bị huỷ diệt trong tâm của các Bậc Thánh. Sự huỷ diệt này được nêu ra một vị trí chỉ theo nghĩa biểu trưng; và điều này đã được đề cập một cách rõ ràng trong Chú Giải Thanh Tịnh Đạo như vầy:
Về điểm này Abhidhamma rất dứt khoát. Abhidhammā (Vi-diệu Pháp) tuyên bố rõ rằng Niết-bàn không liên quan đến thân. Niết-bàn được đạt tới ở ngoài thân, bahiddha. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng Niết-bàn không có xứ sở, không có nơi trú và không có vị trí.
Niết-bàn có mục đích là giải thoát khỏi nanh vuốt của tham ái Kinh nói; — . Ở một bài Kinh khác thì nói: — . Tất cả những điều này đều chỉ ra rằng mục đích của tham ái không phải là Niết-bàn.
Dục ái coi trọng việc phân biệt giới tính. Nó yêu thích những dục lạc xuất phát từ các giác quan như mắt, tai, v.v… Nó cảm thấy buồn chán nếu không có ngũ dục. Tham ái cũng phát triển trong các cõi sắc giới và vô sắc giới. Những người còn bị ám ảnh bởi tham ái không thể nhận ra những bất hạnh của sự hiện hữu, và vì thế họ không ham thích Niết-bàn nơi mà không còn tái sanh. Người ta cầu nguyện cho sớm được Niết-bàn; nhưng nếu họ được bảo là họ sẽ được chuyển tới đó ngay lập tức với mọi thay đổi trừ việc quay trở lại kiếp sống hiện tại, họ sẽ do dự như cách của người hâm mộ (Niết-bàn) trong câu chuyện sau.
Công tử có đủ lý do để không có chút lòng tin đối với Đức Phật và Pháp của ngài, vì vào những ngày ấy người ta hành theo tà giáo của Purāna Kassapa. Thời đó cũng có nhiều người theo thuyết duy linh. Một số tôn thờ Phạm Thiên như một vị thần. Nếu không được gặp Đức Phật có lẽ bản thân ông Anāthapindika cũng đã bị kéo vào đủ các loại giáo phái hiện hành thời đó. Công tử Kāla cũng là một đệ tử của các trường phái dị giáo ấy. Và có thể sẽ là bất tiện cho cậu ta để chuyển từ tôn giáo này sanh tôn giáo khác.
Người cha nghĩ đến hạnh phúc của con trai: Nghĩ như vậy xong, ông trưởng giả liền bảo con trai rằng ông sẽ cho cậu 100 đồng nếu như cậu chịu đi đến chùa. Đứa con chấp nhận lời đề nghị.
Khi đi đến chùa, Công tử Kāla chọn một góc ấm cúng để được ngủ một cách ngon lành, vì cậu không quan tâm đến việc nghe pháp. Sáng hôm sau khi trở về nhà, người cha cho anh ta ăn uống đầy đủ vì tin rằng con trai mình đã giữ giới Bát Quan Trai. Công tử Kāla là người hám tiền nên cậu ta chỉ đồng ý dùng bữa sau khi đã được trả tiền. Qua lần sau ông trưởng giả bảo anh rằng nếu như con chịu nghe Pháp và kể lại cho cha chỉ một bài kệ thôi, con sẽ được thưởng 1,000 đồng.
Công tử Kāla lại đi đến chùa và lần này cậu ta chăm chú lắng nghe những gì Đức Phật thuyết. Bậc Đạo Sư biết anh ta rất rõ, vì thế ngài cố ý thuyết những bài pháp khiến cho con trai ông trưởng giả không thể ghi nhớ một cách dễ dàng được. Vì đã giao kèo với cha là phải thuật lại những gì Đức Phật thuyết cho dù đó chỉ là một bài kệ, nên lúc này cậu rất chú ý lắng nghe để hiểu. Sau khi có được sự hiểu biết, đức tin phát triển trong cậu, và ngay khoảnh khắc tâm lý này Đức Phật đã thuyết một bài pháp đi thẳng vào tâm cậu. Nhờ tích lũy các Ba-la-mật trong nhiều kiếp quá khứ, Công tử Kāla lập tức đắc Nhập Lưu và trở thành bậc Thánh Tu-đà-hoàn.
Một khi đã là bậc Thánh Nhập Lưu, đức tin của của cậu nơi Phật Pháptrở nên vững chắc, mọi hoài nghi và tà kiến được tiêu trừ. Vào cái ngày đặc biệt ấy cậu không trở về nhà một mình sớm, thay vào đó cậu ở lại cùng với hội chúng của Đức Phật. Khi mọi người đi đến nhà ông trưởng giả để dự lễ trai tăng, cậu đi theo họ. Nhưng khi về đến nhà cậu lo lắng rằng cha cậu có thể đưa tiền cho cậu trước mặt Đức Phật, vì không muốn mọi người biết rằng cậu đi đến chùa với một động cơ đặc biệt. Một ý thức hổ thẹn đã xâm chiếm tâm cậu. Theo thường lệ cậu sẽ dùng cơm sau Đức Phật và chư Tăng; nhưng lần này cậu cẩn thận không để mọi người chú ý tới mình. Tuy nhiên, ông Anāthapindika lại đi đến bên cậu để trả tiền như đã hứa ông nói rằng đó là một phần thưởng dành cho việc cậu đi đến chùa giữ Bát Quan Trai giới và nghe pháp. Cậu vô cùng xấu hổ và từ chối nhận tiền. Người cha thuật lại toàn bộ sự việc cho Đức Phật, nói rằng đây quả thực là một ngày đặc biệt vì con trai ông không còn giống như những lần trước bị tham trói buộc nữa mà đã rạng ngời hạnh phúc.
Sau đó Đức Phật nói:
Cuộc sống xa hoa mà một vị chuyển luân vương thụ hưởng trở nên vô nghĩa nếu so sánh với trạng thái bình yên mà một vị Thánh Nhập Lưu thành tựu. Hạnh phúc của vị chuyển luân vương sẽ chỉ kéo dài trong suốt cuộc đời của vị ấy. Nếu vị ấy cai trị thế gian bằng vương pháp, vị ấy có thể được tái sanh thiên giới sau khi chết; nhưng không ai có thể nói chắc được là vị ấy sẽ hướng đến Niết-bàn hay bốn đoạ xứ sau đó. Nhưng một khi hành giả đã trở thành một bậc Nhập Lưu, mọi cánh cửa đi đến bốn cõi khổ sẽ được đóng lại cho vị ấy. Nếu vị ấy sanh lên thiên giới, vị ấy chỉ có bảy kiếp nữa để đi, vì cuối của bảy kiếp này, vị ấy nhất định sẽ hướng đến Đạo Quả A-la-hán và rồi đạt đến trạng thái huỷ diệt hoàn toàn vòng khổ luân sau khi nhập vô dư Niết-bàn. Do đó Đức Phật đã tán dương Công tử Kāla là người có kiếp sống vượt xa kiếp sống của một chuyển luân vương.
Kiếp sống của các vị Phạm thiên cao quý và tốt hơn kiếp sống của chư thiên. Họ bất động trước những cám dỗ của ngũ dục. Họ cũng hưởng thụ sự bình yên của thiền. Kiếp sống của họ kéo dài từ một phần ba kiếp cho đến 84 ngàn kiếp quả địa cầu. Nhưng khi vị Phạm thiên chết, họ quay trở lại thế giới của ngũ dục và ở đây nếu do một dịp không may nào đó họ tình cờ phạm vào điều ác, họ cũng sẽ phải đi xuống bốn cõi khổ. Khi họ trở lại cõi dục họ cũng phải chịu khổ luân như già và chết chi phối. Tuy nhiên đối với bậc Thánh Nhập Lưu không có bốn cõi khổ chờ đợi họ, và họ nhất định hướng đến Niết-bàn sau bảy lần tái sanh.
Những gì Tôi muốn nhấn mạnh trong câu chuyện của Công tử Kāla này là, trước tiên, cậu phải được dỗ dành để đi nghe Pháp mặc dù cậu đã có được sự hoàn thiện đủ để chuẩn bị cho trạng thái nhập lưu, và thứ hai, tham ái là điều đáng nguyền rủa đối với Niết-bàn. Một người bị ám ảnh với tham sẽ không chịu nghe bất cứ lời dạy nào chỉ đường đến Niết-bàn. Ở đây tôi cũng muốn nhắc cho quý vị nhớ rằng khi một bậc thánh Nhập lưu đã ở trong tầm nhìn của Niết-bàn, họ chỉ còn bảy kiếp tái sanh và trong suốt bảy kiếp đó, như một điều tất nhiên, vị ấy sẽ phải chịu những khổ đau. Tuy nhiên cuối cùng vị ấy sẽ là một bậc A-la-hán, bậc diệt tận mọi phiền não.
Tôi đã từng nói rằng tham ái không thế tìm được chỗ cư trú của nó trong Niết-bàn. Vì trong Kinh có nói: .
Vào ngày thứ năm mươi sau khi giác ngộ, Đức Phật đã trầm tư trên bản chất của Niết-bàn và thấy nó vi tế đến nỗi khó có thể hiểu được một cách dễ dàng.
Dục sanh y là năm thứ dục lạc hay ngũ dục. Chúng là những nhân sanh ra khổ, nhưng kẻ phàm phu cho rằng chúng cũng đem lại hạnh phúc hay sự thích thú.
Uẩn sanh y muốn nói tới năm uẩn, vốn đem lại khổ đau cho chúng ta. Tuy nhiên kẻ phàm phu nói rằng chúng cũng là những nguồn hạnh phúc. Đối với họ thấy những cảnh sắc đẹp, nghe những âm thanh dễ chịu, ngửi những mùi thơm, nếm những món ăn ngon, có được sự xúc chạm mềm mại và nghĩ về những điều khả ý tất cả đều là những thú vui. Nhưng đối với các bậc A-la-hán thì những gốc của lạc này là khổ.
Chẳng phải chúng ta kiếm sống cốt là để thoả mãn những đòi hỏi của khoái lạc đó sao? Trong cái công việc lập đi lập lại hàng ngày của chúng ta, đôi khi chúng ta phải liều mạng để giữ lấy gì chúng ta kiếm được. Khi chúng ta dốc hết sức mình để hiện thực hoá những ước muốn của chúng ta, quyền lợi sẽ va chạm khi những cuộc tranh cãi nổ ra thậm chí giữa những bạn bè hoặc anh chị em của chúng ta. Khi ý thức sở hữu tài sản quan trọng hơn hết trong tâm trí chúng ta, những rạn nứt phát triển ngay cả giữa cha mẹ và con cái. Các vụ kiện dân sự về quyền thừa kế tại toà án xảy ra theo cách này. Căn nguyên của những bi kịch trong cuộc sống như vậy có thể bắt nguồn từ sự dính mắc vào ngũ dục.
Tất cả khổ đau đều phát sinh từ Danh-Sắc . Ở đâu các uẩn này không sanh, ở đó khổ diệt. Vì thế các uẩn được nhìn nhận là Uẩn sanh y.
Tham, sân, si là những phiền não căn bản. Chúng luôn luôn tạo ra khổ đau trong luân hồi. Chúng hoạt động trong mọi cảnh giới, dù là cảnh giới chư thiên, hay nhân loại, hay cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng thế. Vì chúng tạo thành căn bản cho khổ sanh nên chúng được gọi là Phiền não sanh y .
Sự tích luỹ các thiện nghiệp và bất thiện nghiệp được gọi là Thắng hành . Nhờ bố thí, giữ giới và tu tập tâm, một người có thể được sanh lên cõi trời, như một vị thiên tử hay Phạm Thiên, lúc đó họ có thể nghĩ kiếp sống của mình là mẫu mực của hạnh phúc. Con người trong thế gian này, khi thọ hưởng quả của những thiện nghiêp, họ cũng nghĩ rằng họ đang thọ hưởng hạnh phúc. Nhưng các vị A-la-hán thấy họ phải chịu khổ, vì số phận của họ do các thắng hành hay sự tích luỹ nghiệp của họ quyết định, nếu những thiện nghiệp của họ ra đi, họ có thể phải đi xuống các cõi khổ. Vị vậy, các hành nghiệp được cho là Thắng hành sanh y [10]. Trong Niết-bàn cả bốn sanh y này bị tận diệt hoàn toàn.
Thực vậy, Niết-bàn không thể thấy được với mắt thường; nó chỉ có thể được thấy với tuệ nhãn . Do đó Niết-bàn không thể đem so sánh (với một cái gì). Nó không có bắt đầu cũng không có chấm dứt, nó không sanh cũng không diệt. Bạn không thể nói rằng chính ở đây Niết-bàn sanh và ở kia Niết-bàn diệt. Không ai có thể khám phá ra sự khởi đầu và chấm dứt của một hiện tượng khi các hành nghiệp diệt hoàn toàn.
Niết-bàn là sự thanh tịnh bản nguyên. Sự ô nhiễm của tâm có thể là do tham ái, giống như tham, sân, si làm ô nhiễm tâm, tâm sở và danh pháp vậy. Trên thực tế, chúng thậm chí còn có thể làm ô nhiễm cả những thiện nghiệp của chúng ta nữa. Nhưng trong Niết-bàn những phiền não như thế không thể sanh. Vì lý do đó chúng ta có thể nói sự thanh tịnh của nó là trong sáng và rõ ràng. Ngôn ngữ bóng bẩy này dẫn đến sự mô tả Niết-bàn như là ánh sáng. Nhưng ánh sáng là kết quả của sự xúc chạm giữa căn và cảnh và biểu thị tính vật chất. Trong Niết-bàn vật chất (sắc) hầu như vắng mặt; vì thế nếu xem nó như ánh sáng trong nghĩa đen là đi ngược lại lời dạy của Đức Phật.
Từ sabbatopabham xuất hiện trong đoạn trích trên từ Kinh Kevaṭṭa có một hàm ý khác, nó nhấn mạnh rằng Niết-bàn là đích đến có thể đạt tới được bằng cách hành thiền . Theo nghĩa đen, kasina có nghĩa là toàn bộ và toàn diện. Nó là một hình ảnh được người hành thiền khái niệm hoá như ánh sáng mở rộng khắp mọi nơi một cách toàn vẹn không giới hạn. Hay, nói cách khác, nó là một dụng cụ quán trên đó một khái niệm được tưởng tượng ra. Vì thế āloka kasina thường được dịch là “dụng cụ ánh sáng”, và ākāsa kasina là “dụng cụ hư không”. Thực hành bất kỳ một trong những đề mục nghiệp xứ ([11]) này đều có thể đưa người hành thiền đến sự chứng đắc Niết-bàn. Nếu một người muốn đi ra biển, họ có thể đi đến đó từ bất kỳ nơi nào trên bờ biển. Nếu bạn muốn tắm trong hồ, thì từ bất kỳ điểm nào của bờ hồ bạn cũng có thể đi xuống hồ nước ấy. Tương tự, nếu bạn muốn đạt đến Niết-bàn bạn có thể chọn bất kỳ con đường nào trong số 38 con đường mà phương pháp nghiệp xứ mô tả. Nhưng, tất nhiên, bạn không thể đi đến nơi mong muốn của bạn chỉ bằng phương pháp tu tập thiền chỉ . Bạn phải thực hành thiền minh sát sau khi có định. Một mình thiền minh sát có thể dẫn bạn đến an chỉ thiền mà từ đó bạn có thể nguyện đạt đến Niết-bàn tối hậu bằng việc chứng đắc Đạo-Quả tâm.
Có lần một vị tỳ-kheo trẻ đi vào rừng cùng với bạn đồng hành của mình, một sa-di, để tìm vật liệu làm cây chà răng. Trên đường đi vị sa-di thấy một tử thi. Ngay lập tức vị ấy hành thiền trên tử thi và đắc sơ thiền. Sau khi xuất thiền vị ấy quay lại quán sự sanh và diệt của các uẩn cho đến khi đắc được Đạo Quả thứ hai và thứ ba theo tuần tự. Khi vị ấy đang cố gắng đạt đến giai đoạn thứ tư của thiền dẫn đến A-la-hán Thánh Đạo, vị ấy nghe tiếng gọi từ xa của vị sư huynh. Vị ấy liền xả thiền và chỉ cái xác cho sư huynh, vị sư huynh cũng ngay lập tức hành thiền và đạt đến đạo quả Bất Lai . Có vẻ như rằng cả hai vị sư — tỳ-kheo và sa-di này đã rất quen với phương pháp thiền minh sát và vì thế họ đều trở thành bậc thánh Bất Lai. Điều này cho thấy rằng bất kỳ đề mục nào trong số 38 đề mục tu tập tâm đều có thể dẫn đến Thánh Đạo và Niết-bàn.
Một lần nọ thanh niên Kevaṭṭa, đi đến Đức Phật và thỉnh cầu ngài cho phép các vị tỳ-kheo thực hiện thượng nhân pháp và thần thông ([12]).
“Kinh thành Nālandā này thịnh vượng,” Kevaṭṭa nói, “và dân chúng có lòng tín kính đối với Đức Thế Tôn. Nhưng lòng tín kính của họ sẽ trở nên sâu sắc hơn nếu Thế Tôn chỉ định một vị tỳ-kheo nào đó thị hiện pháp thượng nhân thần thông mỗi nửa tháng hoặc hàng tháng.”
Mặc dù Kevaṭṭa thỉnh cầu ba lần với niềm tin sâu sắc rằng chính nhờ thị hiện phép thần thông mà các thiện tín này sẽ tăng thêm niềm tin nơi Đức Phật, nhưng Đức Thế Tôn từ chối; trong khi Đức Phật thấy trước những phản ứng xuất phát từ việc thực hiện thần thông của các vị tỳ-kheo.
Khi Đức Phật chế ngự Aṅgulimāla ngài đã biến một mảnh đất nhỏ thành một vùng rộng lớn, và một tảng đá nhỏ thành một quả đồi. Điều này làm cho kẻ sát nhân (Aṅgulimāla) kiệt sức khi đuổi theo Đức Phật để giết, vì ông ta phải chạy một quãng đường rất xa trong khi Đức Thế Tôn chỉ đi từ từ. cuối cùng ông ta hét lên Và ông ta đã dừng chạy. Đức Phật đáp,
Aṅgulimāla rất bối rối khi nghe Đức Phật nói rằng chính ông mới là người đang chạy trong khi vị đại sa-môn đã dừng, mà trong thực tế thì ngược lại. Vì thế ông muốn tìm lời giải thích từ Đức Phật. Đức Phật nói Ngay lập tức Aṅgulimāla thấy được ánh sáng của trí tuệ và thỉnh cầu Đức Phật cho phép gia nhập Tăng Đoàn. Đức Phật nói và kẻ sát nhân trước đây trở thành một vị tỳ-kheo. Trong trường hợp này gần đã được làm thành có vẻ xa nhờ thực hiện biến hoá thần thông.
Tôn-giả Moggalāna (Mục-kiền-liên) sau khi chuyển hoá Kosiya, một kẻ keo kiệt, đã đưa ông cùng với vợ từ làng Sakkara đến Chùa Kỳ-Viên ở Rājagaha (Vương Xá) bằng năng lực thần thông. Ngài đã thực hiện thần thông đưa cổng chùa Kỳ-Viên đến tận bậc cửa dinh thự của phú ông Kosiya. Trong trường hợp này xa được làm cho thành gần.
Cũng có một số mặt hạn chế khác liên quan tới việc phô diễn các năng lực thần thông. Nếu các vị sư chấp nhận những món quà cúng dường để đáp lại việc phô diễn thần thông dù với những động cơ chân thành, điều đó cũng sẽ đi ngược lại việc giữ giới thanh tịnh sinh mạng . Nếu thần thông được phép thì hàng tín đồ sẽ nghiêng về những vị sư có thể thực hiện thần thông hơn những vị sư bình thường thực hành giới, và trong trường hợp đó giới mà những vị thực hiện thần thông giữ sẽ bị cho là đã phạm. Điều này được xem là bất thiện. Một vị sư có thể đã đạt đến Đạo Quả A-la-hán, nhưng vị ấy có thể không có thần thông. Do sự kiện này đức tin của người cư sĩ và tín đồ có thể bị suy yếu. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phồn vinh của Giáo Pháp . Nếu sự tình là vậy vị sư phô diễn thần thông đương nhiên sẽ phải chịu trách nhiệm, vị ấy được xem là đã phạm vào bất thiện nghiệp và điều này sẽ không đem lại lợi ích gì cho vị ấy. Khi Trưởng lão Pindola thực hiện thần thông theo đề nghị của Tôn giả Mục-kiền-liên để lấy chiếc bát bằng gỗ trầm, Đức Phật đã cấm phô diễn năng lực thần thông trong Tăng chúng.
Có một câu chuyện kể về việc Đức Phật chuyển hoá các du sĩ ngoại đạo dưới quyền lãnh đạo của Ưu-lâu-tần-loa Ca Diếp (Uruvela Kassapa). Một lần nọ giáo chủ của giáo phái ngoại đạo này mời Đức Phật đến dự một buổi tiệc. Tuy nhiên Đức Phật không đến dự đúng ngày đã định mà chỉ đến vào ngày hôm sau. Được hỏi lý do tại sao, Đức Phật nói, Lúc đó một ý nghĩ khởi lên nơi Kassapa rằng Đức Phật quả thực là người có quyền lực nhất vì ngài có thể đọc được tâm của người khác. Ngay lập tức lòng sùng kính đối với Đức Phật khởi phát trong ông. Chính theo cách này Kassapa đã được Đức Phật chuyển hoá bằng năng lực thần thông gọi là tha tâm thông của mình.
Ngoài việc tạo ra sự kinh ngạc, có lẽ cách khiển trách như vậy còn có thể lôi cuốn đức tin của những tín đồ chân chánh; tuy nhiên nó cũng có những bất lợi của nó. Đức Phật nói, Không muốn cung cấp thêm bất kỳ lý do gì cho sự phỉ báng như vậy nên Đức Phật đã cấm Thần Thông này.
Vì thế vị ấy đi đến Đại Phạm Thiên và hỏi ông về nơi sự diệt của bốn đại xảy ra.
Kinh Phạm Võng luận bàn về thuyết sáng tạo. Theo bài kinh, vào lúc bắt đầu hình thành thế gian, một vị Phạm Thiên xuất hiện trong Cõi Phạm Thiên. Lúc đó vị ấy chỉ có một mình. Vì vị ấy có tuổi thọ lâu dài, nhưng cảm thấy bị bức bách bởi sự cô đơn và vì thế vị ấy tự nghĩ nếu có những bạn đồng hành ở đây sẽ là điều tuyệt vời biết mấy. Lúc bấy giờ một số người trên quả đất này đắc thiền và được tái sanh trong cõi nơi vị Đại Phạm Thiên đang sống. Những vị mới tới này không có thần lực như vị Đại Phạm Thiên. Vì thế vị ấy nghĩ rằng họ có mặt ở đây là do vị ấy muốn họ đến. Khi hết tuổi thọ họ chết, nhưng vị Đại Phạm Thiên vẫn còn sống. Do đó, các vị Phạm Thiên thấp kém này công nhận ông ta như sáng tạo chủ của họ.
Tuy nhiên vị tỳ-kheo không phải đến để hỏi xem vị Đại Phạm Thiên này có thực sự là vị Đại Phạm Thiên tạo ra Vũ Trụ hay không. Vị ấy chỉ muốn biết nơi tận cùng của đất, nước, lửa, gió. Vì thế vị ấy lập lại điều bí ẩn đó; và vị Đại Phạm Thiên vẫn tiếp tục nói rằng ông ta là đấng sáng tạo. Khi người hỏi cứ khăng khăng hỏi, ông ta cuối cùng cũng buộc phải nói cho vị ấy biết sự thật trong sự vắng mặt của các vị phạm thiên khác, vì ông không muốn để cho họ biết về sự ngu dốt của mình, từ đó đánh mất uy tín như đấng toàn tri và toàn năng .
Chỉ lúc đó vị tỳ-kheo mới đi đến Đức Phật và hỏi:
Đức Phật ví vị Tỳ-kheo như con chim từ một con tàu bay ra ngoài biển để tìm đất liền. Do không thể đạt đến đất liền, nó quay trở lại con tàu. Đức Phật nói,
Sau đó Đức Phật nói lên bài kệ (gāthā) bắt đầu với đã được giải thích một cách bao quát trước đây. Trong Niết-bàn tứ đại cùng với danh sắc không có chân dứng. Tức là, chúng không hiện hữu.
Bài kệ đầy đủ được giải thích ở trên:
Từ trước đến đây tôi đã giải thích các đức của Niết-bàn bắt đầu với trạng thái giải thoát khỏi thế giới của tham ái (taṅhā) đến trạng thái diệt của các hành mà tôi tin tất cả những gì phải được nói đã được nói.
Khi các bạn lắng nghe một cách chăm chú với sự kính trọng với bài pháp về Niết-bàn này, mong các bạn nhận sẽ được phần thưởng là sự giác ngộ Đạo Quả có thể dẫn dắt các bạn đến Niết-bàn nơi tất cả Hành chấm dứt khi mọi tham ái diệt.
Qua một loạt bài giảng vừa rồi quý vị có thể hiểu rõ niết-bàn là gì rồi. Có thể nói, Niết-bàn biểu thị sự diệt của các phiền não, nghiệp, quả của nghiệp, và các uẩn danh-sắc. Tuy nhiên, một số người có thể ra đi với quan niệm cho rằng, bởi vì sự diệt luôn được nhấn mạnh, nên nó có nghĩa là hư vô. Thực ra Niết-bàn là một thực tại tuyệt đối; và nếu thực tại đó bị phủ nhận thì sẽ không có gì ngoài những phiền não, nghiệp, quả của nghiệp và các uẩn, và con người sẽ không thể thoát ra khỏi vòng xoáy luân hồi hay vòng sanh tử luân hồi này. Vòng luân hồi thực sự có thể dừng lại hay bị huỷ diệt với việc thực hành Trung Đạo một cách chuyên cần. Các bậc thánh A-la-hán thoát khỏi luân hồi sau khi parinibbāna (nhập vô dư Niết-bàn). Điều đó cho thấy rằng lạc của Niết-bàn thực sự có thể được thiết lập trong kiếp sống này. Người ta thường cho rằng ung thư là chứng bệnh không thể chữa được, vì không có thuốc trị, trong khi những bệnh khác có thuốc chữa. Điều này chỉ ra rằng nhiều phương thuốc có thể hữu hiệu cho một số bệnh mặc dù thực thế là ung thư vẫn không thể chữa được. Do vì những phương thuốc chữa trị như vậy là có thực, nên phương thuốc để chữa trị dứt điểm những đau khổ do phiền não là có thực. Một khi nó đã được chữa khỏi, sự an lạc của Niết-bàn được thiết lập
Theo các bậc cổ đức thì tuổi thọ trung bình của con người là một trăm năm. Vì mục đích trình tự thời gian tuổi thọ này được chia thành ba giai đoạn, mỗi giai đoạn còn được chia thành ba phân đoạn thời gian. Đó là lý do vì sao các vị Phật mẫu thường sanh con ở chặng cuối của giai đoạn thứ hai; và dựa trên sự kiện này tôi đã tính ra rằng Hoàng Hậu Ma-gia hạ sanh Thái tử Siddhattha khi bà đã qua tuổi 56. Theo những tiêu chuẩn ngay nay thì điều đó có thể là bất khả, nhưng vào cái thời tuổi thọ lâu dài ấy thì việc xác định tuổi như tôi tính là điều hợp lý.
Bảy ngày sau khi hạ sinh Thái tử, người đã được tiền định sẽ thành Phật, bà chết và được tái sanh lên cõi trời Tusītā (Đâu Suất) như một vị thiên nam. Mahā Pajāpati Gotamī, lúc đó có lẽ khoảng 54 tuổi, kế vị chị cả làm chánh cung hoàng hậu, và không lâu sau bà cũng hạ sanh Thái tử Nanda. Bà nuôi dưỡng cả hai vị hoang tử, nhưng bà cho con nuôi bú sữa của mình còn giao con riêng của mình cho vú nuôi chăm sóc.
Lớn lên đến tuổi 16 Thái tử Siddhatta kết hôn với công chúa Yasodharā (Da-du-đà-la), con gái của Vua Suppabuddha (Thiện Giác) của xứ Devadaha. Sống trong sự xa hoa của hoàng gia, ngài hưởng thụ cuộc sống sung mãn cho đến khi ngài trở nên nhàm chán đối với nó; và ở tuổi 29 ngài từ bỏ thế gian để trở thành một sa-môn. Trong sáu năm hành pháp khổ hạnh mà cuối cùng ngài phải từ bỏ vì nhận ra rằng chúng chẳng giúp ích gì được cho ngài trong việc tầm cầu Chân Lý và Giác Ngộ. Sau đó ngài hành theo trung đạo và đạt đến sự giác ngộ vào ngày rằm tháng tư khi ngài 35 tuổi.
Sau khi chứng thành Phật Quả, ngài đi đến Vườn Nai ở Isipatana; và vào ngày rằm tháng sáu ngài thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân cho nhóm năm vị đạo sĩ trong đó Kiều Trần Như trở thành bậc thánh nhập lưu ngay ngày đầu tiên vị ấy nghe Pháp. Bốn vị kia cũng tuần tự đắc như vậy sau một, hai, ba, và bốn ngày. Vào ngày thứ năm Đức Phật thuyết Kinh Vô Ngã Tướng khi cả năm vị tỳ-kheo đều trở thành bậc Thánh A-la-hán. Trong suốt mùa hạ thứ nhất 55 vị sư do ngài Yasa dẫn đầu đã đắc đạo quả A-la-hán.
Cuối mùa an cư thứ nhất, Đức Phật đã quy tụ được quanh ngài 60 vị A-la-hán và ngài chỉ thị cho các vị đi khắp xứ sở để truyền bá Giáo Pháp . Bản thân ngài đã tế độ cho một ngàn vị đạo sĩ do Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp lãnh đạo. Tất cả họ đều trở thành bậc thánh A-la-hán và cùng đi với Đức Phật đến Rājagaha. Trong lần cu hội đầu tiên, đức Vua Tần-bà-sa-la và một trăm mười ngàn thần dân của ông đã nồng nhiệt chào đón ngài, dịp này Đức Phật đã thuyết Tứ Thánh Đế. Sau khi chứng ngộ Chân Lý, đức Vua cho xây dựng ngôi tịnh Xá Trúc Lâm cho Đấng Gíac Ngộ cư trú để thuyết pháp cho dân chúng quanh vùng Rājagaha và Linh Thứu Sơn. Khi Đức Vua Suddhonana (Tịnh Phạn Vương) biết được điều này, ông đã gởi mười vị quan đầu triều, mỗi vị cùng đi với 1000 tuỳ tùng, để thuyết phục con ông, lúc này là Đức Phật, trở về kinh thành Ca-tỳ-la-vệ . Nhưng không một ai trong những sứ giả này từng quay về vì tất cả họ đều xin xuất gia dưới sự che chở của Giáo Pháp. Cuối cùng đức Vua gởi Kāḷudādāyi (Ka-lưu-đà-di) ra lệnh một cách dứt khoát ông phải ngâm vang lời ca ngợi vẻ đẹp của mùa hè bằng sáu mươi vần kệ, vì đó thường là mùa đẹp nhất để du lịch ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời gian nào. Tôi có đưa ra dưới đây bản dịch của tôi về hai bài kệ có thể được tụng đọc như một lời kinh cầu.
Những người đàn ông của dòng tộc Sāriyan nổi tiếng về sự ngã mạn của họ, Đức Phật lúc đó mới 36 tuổi, vì thế những quyến thuộc lớn tuổi hơn Ngài đã miễn cưỡng đến đảnh lễ Ngài. Họ thích đứng phía sau và đẩy những người anh em, con, cháu, chắt nhỏ tuổi hơn lên trước đảnh lễ Đức Thế Tôn. Để cho toàn bộ dòng tộc Thích Ca có thể biết đến những ân đức của Đấng Giác Ngộ, Đức Phật đã thực hiện thần thông tạo ra một hành lang khổng lồ và tự hiện thân ra đi kinh hành trên đó trong khi thân trên phun ra nước và thân dưới phun ra lửa. Nhìn thấy điều này, Đức Vua Tịnh Phạn đã cúi đầu đảnh lễ con mình, và sau đó tất cả mọi người đều làm theo gương ông.
Sau khi nghe xong bài kệ này, đức Vua dồn hết tâm trí vào ý nghĩa của lời kệ, thấy được ánh sáng của pháp và trở thành một bậc nhập lưu .
Các bản chú giải nói rằng chính sự phát triển của hỷ khi suy nghĩ đến tính chất cao quý của những ân đức Phật mà người ta có thể có được minh sát trí vào bản chất vô thường của chính hiện tượng hỷ ấy khi nó sanh và diệt. Đối với những người hành thiền ngày nay, thiền cả ngày chưa đủ để phát triển Định . Vì thế có thể họ phải mất một tuần hoặc khoảng đó để có được định và để nhận ra bản chất vô thường của tâm và thân hay danh-sắc. Tuy nhiên, đối với Đức Vua Tịnh Phạn sự chứng ngộ Pháp là quan trọng vì vua đã có đủ Ba-la-mật cho sự chứng ngộ này từ thời quá khứ. Vì thế khi vua hiểu được rằng sa-môn hạnh mà Đức Phật và Tăng Chúng đòi hỏi phải có là không được hỏi xin vật thực bằng lời nói mà chỉ đơn giản đứng trước nhà người thí chủ sẽ dâng nào đó, vua trở nên rất hài lòng với Đức Phật vì hạnh ấy. Điều đó dẫn đến sự phát triển của hỷ nơi đức vua. Vua hành thiền trên trạng thái hỷ đó và chứng ngộ bản chất sanh-diệt của nó. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy minh sát trí phát triển và vua trở thành một bậc nhập lưu.
Đức Vua rước lấy bát từ tay Đức Phật và thỉnh ngài cùng tất cả chư tăng đến cung điện của mình với ý định thực hiện một cuộc đại cúng dường.
Nhưng khi về đến tu viện ông được Đức Phật hỏi xem có muốn trở thành một sa-môn không. Ông miễn cưỡng đồng ý vì lòng kinh sợ và tôn kính bậc Giác Ngộ. Đúng thời ông được nhận vào Tăng Đoàn. Một tuần sau, theo lệnh của mẹ Rāhula con trai ngài cũng đi đến tu viện để hỏi xin quyền thừa kế từ cha. Nhưng Đức Phật lại bảo Tôn-giả Xá-lợi-phất xuất gia cho con, và như vậy Rāhula trở thành một Sa-di. Không lâu sau đó Đức Phật thuyết một thời pháp về Tiền thân Mahā Dhammapāla cho Đức Vua Tịnh Phạn nghe, và vua ngay lập tức đạt đến Đạo Quả A-na-hàm .
Rời Kapilavatthu, Đức Phật đến trú ngụ ở ngôi làng Anupiya Nigama trong vương quốc Malla; trong khi ở tại đó, Bhaddiya, Đức Vua dòng Sākiyas, Anuruddha , Ānandā , Bhagu, Kimbila, và Devadattha các vị hoàng tử cùng với người thợ hớt tóc Upāli đã đi đến ngài và thỉnh cầu được xuất gia. Trong mùa hạ đầu tiên ở đó, Bhaddiya trở thành một vị A-la-hán trong khi Anuruddha đắc được thiên nhãn trí , và Ānandā đắc nhập lưu. Đề-bà-đạt-đa cũng đắc được các thắng trí thần thông
Khi Đức Phật đang trú tại tinh xá Kūṭāgārasāla ở Vesāli, trên đường trở về từ Kapilavatthu nơi ngài tham dự lễ tang của đức Vua Suddhodana, năm trăm hoàng tử của cả hai dòng tộc Sākiya và Koliya[17] đã thỉnh cầu Đức Phật cho phép họ xuất gia; và đúng thời họ được nhận vào Tăng Đoàn. Những người vợ của họ, giờ không còn chồng, trở nên chán đời và đi đến Gotamī để cầu thỉnh Đức Phật cho phép phụ nữ được gia nhập Tăng Đoàn vì tất cả họ đều muốn trở thành các tỳ-kheo Ni. Mahā Pajāpatti và 500 công chúa này đã tự cạo đầu và đắp y vàng đi bộ 51 do tuần (yoyanas) đến Vesalī, một đoạn đường mất hai tháng. Họ đến đó với đôi chân sưng phồng.
Tại cổng tinh xá, Mahā Pajāpatti đã khóc và nghĩ rằng nếu bà và năm trăm công chúa này không được phép xuất gia thì tất cả họ sẽ không biết xoay sở ra sao nơi đất khách chỉ với đầu cạo trọc và tấm y vàng mà thôi.
Việc người nữ được xuất gia làm tỳ-kheo ni trong giáo pháp của các vị Phật trước là chuyện bình thường. Nhưng Đức Phật không muốn nhượng bộ ước muốn của người nữ một cách dễ dàng vì ngài thấy trước những lợi ích cho Giáo Pháp của ngài cũng như cho những tín nữ nếu sự cho phép gia nhập Tăng Đoàn được đưa ra khó khăn do giới luật nghiêm ngặt.
Như vậy bà được xuất gia do chấp nhận Tám Trọng Pháp. Tuy nhiên những người nữ khác sẽ phải xuất gia theo đúng luật, thủ tục đòi hỏi phải tụng tuyên ngôn, hay sự biểu quyết của toàn thể chư tăng trong tu viện.
Từ đây Mahā Pajāpatti được biết đến với pháp danh Gotamī Theri và không lâu sau đó bà đắc Đạo Quả A-la-hán dưới sự hướng dẫn tu tập của Đức Phật. Khi các bậc A-la-hán đã đoạn trừ mọi phiền não, những nghiệp của họ, ngay cả khi chúng là thiện, cũng được làm cho vô hiệu, không thể tạo ra bất kỳ kết quả nào, như tái sinh chẳng hạn; và những nghiệp mới theo đó cũng ngừng sanh với họ. Liên quan tới sự kiện này, chúng ta thường nói rằng các vị A-la-hán tự mình phủ nhận các thiện nghiệp (kusala kamma) hay những nghiệp xứng đáng với phước đức. Điều này không có nghĩa là sự từ chối các thiện nghiệp; mà nó nhận mạnh đến sự vắng mặt của những quả nghiệp lẽ ra được tích luỹ từ chúng. Các vị A-la-hán vẫn làm các phận sự xứng đáng hàng ngày như kính lễ Đức Phật và Tăng, hành thiền định và thiền minh sát những những thiện nghiệp này không cho quả trên phương diện nghệp báo.
Khi Mahā Pajāpatti trở thành một vị tỳ-kheo ni, có lẽ bà đã ở cái tuổi rất già, 94 tuổi trong khi Đức Phật khoảng 40. Những người theo bà, 500 công chúa, cũng gia nhập Tăng Đoàn và sau đó tất cả đều trở thành các bậc A-la-hán do nghe bài pháp với Trưởng lão Nandaka Thera, một hoàng tử Thích Ca trước đây.
Khoảng 100 ngàn kiếp trước, khi Đức Phật Thượng Liên Hoa đạt đến giác ngộ, Gotamī Therī sanh làm con gái của một vị quan trong triều. Một ngày nọ, khi cô tham dự một buổi lễ có Đức Phật là toạ chủ, cô bị thôi thúc bởi tấm gương của một vị Trưởng lão Ni, người đã chăm sóc và nuôi dưỡng đức Bồ Tát như một người con khi mẹ ngài qua đời, vì bà cũng là một kế mẫu. Đức Phật Padummuttara ban cho bà là tối thắng (etadagga) về niên lạp và thâm niên trong việc phụng sự Giáo Pháp (Sāsanā) trong số những Tỳ-kheo ni đã thấy nhiều ngày (HT Minh Châu dịch là Tối thắng trong số những Tỳ-kheo ni đã lâu ngày của Ta). Gotamī Therī, lúc đó là con gái của một vị quan trong triều như đã nói, suy xét thấy cuộc đời của một người làm mẹ Đức Phật là cao quý nhất. Vì thế cô đã phát nguyện sẽ được sanh trong tương lai như một kế mẫu cho một vị Bồ-tát ; và ước nguyện của cô đã được thành tựu trong thời Đức Phật Gotama này.
Giờ đây cái chết đã cận kề, Gotamī Therī để lại một lời khuyên cho những người đang khóc, bà nói,
“Bạch Đức Thế Tôn!” bà nói, “Con thường được mọi người xem như mẹ của ngài. Nhưng từ quan điểm của Pháp, ngài thực sự là cha của con. Dưới sự hướng dẫn của những lời dạy của ngài Con đã trở thành một bậc Thánh . Con nuôi dưỡng ngài bằng sữa của mình. Ngài đã nuôi dưỡng con bằng sữa của pháp. Sữa con làm dịu cơn đói của ngài trong một thời gian. Pháp của ngài đã dập tắt cơn đói của tham ái vĩnh viễn.”
Nói vậy xong, bà thốt lên những vần kệ sau:
Giờ đây khi bạn lắng nghe bài pháp này là bạn đang nghe lại những lời dậy của Đức Phật, vì thế bạn nên hoan hỷ! Có thể những người trong quá khứ được nghe Đức Phật bằng xương bằng thịt thuyết giảng sẽ may mắn hơn thính chúng hiện nay, vì họ có được hai lần phước báu, đó là phước được nghe trực tiếp giọng nói của ngài và phước do gặt hái được những lợi ích của pháp. Tuy nhiên, điều đáng hoan hỷ nhất ở đây là bạn có được cơ hội này để biết và hiểu những gì mà các đệ tử của Đức Phật ngày nay thuyết giảng. Nếu minh sát trí phát triển và Đạo Quả được chứng ngộ, ít nhất người ta cũng có thể là một bậc thánh nhập lưu. Nếu một người trở thành bậc nhất lai , hay một bậc bất lai hay một bậc A-la-hán thì càng tốt hơn nữa. Như vậy những thính chúng hiện nay có thể tự an ủi mình với sự thực rằng họ cũng may mắn và phước báu không kém gì những đệ tử thời Đức Phật.
Bài kệ gợi ý rằng giọng nói của Đức Phật rất dịu ngọt. Kinh điển mô tả giọng nói ấy rất giống tiếng hót của chim Ca-lăng-tần-già[18] (kalawiṅka 歌羅頻伽). Liên quan tới điều này, có câu chuyện về Hoàng Hậu Asadhimittā, vợ của Vua Sīridhammāsoka, người khi nghe giọng hót của chim này liền nhớ lại giọng nói của Đức Phật với niềm hoan hỷ, bà định tâm hành thiền và kết quả bà trở thành một bậc nhập lưu.
Bài kệ cũng nói rằng giọng nói của Đức Phật làm cho người nghe cảm thấy khoan khoái, vui vẻ. Có lần một người nông dân kia vô cùng đau khổ vì cánh đồng lúa mì của anh ta bị ngập lụt. Đức Phật vì lòng bi mẫn đã đi đến anh ta và thuyết bài Kinh Kāma, khiến cho không những tâm người nông dân hoan hỷ mà cả vợ anh ta cũng thế, cuối cùng cả hai đạt đến Đạo Quả Nhập Lưu.
Cái chết của Tần-bà-sa-la đã hành hạ Vua A-xà-thế , kẻ giết cha. Đức Phật đã thuyết cho Vua nghe Kinh Sa-môn Quả một bài kinh nói về phước báu của người xuất gia. Đức Vua lấy lại được sự bình yên tâm hồn. Và nếu như không bị bất thiện nghiệp giết cha bắt kịp Vua có thể trở thành một bậc Nhập Lưu sau khi nghe xong bài kinh.
Cuối cùng, bài kệ còn chỉ ra rằng những lời dạy của Đức Phật có thể xua tan những thất bại của con người giống như nóng nảy, sân hận, v.v… Lắng nghe Đức Phật một người có thể loại trừ những bất thiện nghiệp khi họ nhận ra những sai lầm của mình và tự sửa đổi bản thân. Chánh niệm vào lời dạy của Đức Phật sẽ dẫn một người đến chỗ thực hành thiền minh sát để huỷ diệt mọi ác nghiệp hay bất thiện nghiệp. Tambadāṭhika là một đao phủ đã từng chặt đầu không biết bao nhiêu tội nhân. Nhưng khi nghe bài pháp của Tôn giả Xá-lợi-phất, tâm ông khuynh hướng về thiền minh sát; và khi chết ông được sanh làm một vị thiên tử trong cõi trời Đâu-suất . Aṅgulimāla còn tệ hơn Tambadāṭhika, vì ông đã giết rất nhiều người. Nhưng khi nghe lời dạy của Đức Phật, ông trở thành một vị tỳ-kheo và sau đó đắc Đạo Quả A-la-hán.
Thân này còn là nơi chứa đựng đủ mọi loại tật bệnh không cần phải giải thích tỉ mỉ ở đây. Gotamī therī đã bày tỏ ước muốn rời khỏi cái lãnh địa của già, bịnh và chết này.
Ba mươi hai bộ phận của thân chúng ta (kotthāso, 部份 bộ phận) luôn luôn phải chịu tật bịnh mà mọi người ghê tởm như thể chúng là rác rưởi. Nhưng chúng ta cần phải quan tâm đến những bất tịnh của tâm hơn là thân thân vật lý này. Những bất thiện nghiệp sẽ sanh ra những quả bất thiện. Các bậc A-la-hán không phải lo lắng về chúng. Nhưng vì các tâm hành là chung cho tất cả chúng ta nên chúng ta phải quan tâm đến sự bột phát của những phiền não làm ô nhiễm chúng ta giống như rác rưởi, phẩn uế vậy.
Chúng ta thường nói: Nhưng nó có thực sự là của chúng ta không? Theo các bậc cổ đức xưa, thân này thực sự là nơi sinh sống cho tám mươi loại ký sinh trùng (hay những kẻ ăn bám). Thực sự, cái chúng ta gọi là thân của chúng ta chính là nhà của chúng. Các con côn trùng như ruồi, muỗi và rệp săn mồi trên tâm thân này. Vì thế chúng ta có thể nói rằng nó luôn luôn phụ thuộc vào người khác.
Thân người này không thể tự duy trì sức khoẻ và hạnh phúc cho chính nó. Điều này có thể được thấy rõ nhất khi nó bị đau đớn với bịnh. Nó không thể tự chữa trị cho nó, và vì thế bạn, người tuyên bố là chủ nhân của nó, phải gọi bác sĩ. Nó không thể tự chống đỡ bằng những nỗ lực của chính nó. Hạnh phúc của nó luôn luôn phải dựa vào những yếu tố bên ngoài.
Nghe Ānanda đang than vãn số phận, Gotamī Therī an ủi ngài bằng những lời sau:
Hỡi A-nan-đa, bậc có kiến thức sâu rộng như đại dương, và người đã tự đặt mình vào công việc chăm sóc cho Đức Phật (thị giả của Đức Phật)! Xin chớ buồn nhân cái dịp vui mừng này. Ta nương tựa Niết-bàn như ngài đã nương tựa, với tất cả sự trợ giúp của ngài, mà ta được phép nương tựa nó.
Sau đó Gotamī Therī thực hiện các phép lạ thần thông. Từ một (thân), bà hiện ra nhiều (thân). Từ nhiều thân, bà hiện ra chỉ một (thân). Tức là bà tạo ra nhiều hoá thân giống như bà và rồi giảm con số những hoá thân đó thành một. Bà bay lên hư không và độn thổ (chui vào đất). Bà biến mình thành nhiều hình dạng khác nhau, đặc biệt giả dạng sự xuất hiện của một vị chuyển luân vương với một đoàn tuỳ tùng đi theo. Sự phô bày những năng lực thần thông này của bà làm tăng thêm đức tin cho những người có lòng tin và chiếm được cảm tình của những người không có đức tin. Đây là một lời tuyên bố thông thường. Có thể thái độ võ đoán này cũng phát huy được hiệu quả khi người ta từ chối tin ngay cả khi bạn cho thấy rằng bạn có thể bay được.
Những gì còn lại của Gotamī therī được đem đi hoả thiêu. Tôn giả Ānandā gôm tro cốt của bà cho vào trong một cái bình và trao lại cho Đức Phật, ngài cầm nó trong đôi tay và tỏ lòng kính trọng với kế mẫu và nói,
Những người chấp vào ý niệm về tự ngã (atta) có thể đưa ra một nhận định cho rằng ngã tánh của các bậc A-la-hán đã đi vào hư vô. Nhưng đầu tiên và trước hết phải nhớ rằng không có ngã tánh. Cái chúng ta thường gọi là một cá nhân chỉ là một sự đại diện của hiện tượng sanh-diệt của các uẩn. Dựa vào hiện tượng này, chấp thủ sanh; nhưng nó chỉ là một khối khổ. Khi giới, định và thiền minh sát được thực hành một cách đúng đắn, loại mệt mỏi (do phải mang gánh năngh ngũ uẩn) giống như Gotamī therī nói sẽ được phát triển. Lúc đó sợi dây chấp thủ danh-sắc sẽ bị cắt đứt hoàn toàn. Vì thế sau tâm tử của vị A-la-hán, mọi nền móng của hiện hữu đều bị huỷ diệt. Điều này không có nghĩa là hư vô, mà nó muốn nói tới thực tại của sự chấm dứt hoàn toàn vòng khổ luân.
Khi không có sanh hữu mới sanh khởi trên sự diệt khổ thời già, bệnh, chết và các loại khổ đau khác đi kèm với nó biến mất hoàn toàn.
Người ta có thể hỏi là nếu chúng ta đi lên cõi trời nơi đây không có già, bệnh, chết điều đó sẽ chẳng phải tốt hơn nhiều sao? Nhưng đây chỉ là chủ nghĩa lý tưởng ở mức độ cao nhất của nó mà thôi. Loại thiên đàng này chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng. Phàm cái gì đã sanh cái đó phải diệt. Cõi chư thiên và Phạm thiên quả thực là những thiên đàng. Nhưng ở đó bạn sẽ thấy danh-sắc luôn luôn trong tình trạng thay đổi, lúc sanh, lúc diệt liên tục. Do đó khi thời hạn hiện hữu (hết tuổi thọ) của họ kết thúc, họ cũng chết!
Như vậy chỉ với sự diệt của nāma và rūpa vốn cho chúng ta thấy sự thực của khổ hạnh phúc chân thực mới có thể được tìm thấy. Nhờ Đạo và Quả, tham ái vốn tiết lộ cho chúng ta sự thực về nhân sanh khổ mới có thể bị huỷ diệt. Chỉ lúc đó các uẩn mới ngừng sanh sau tâm tử liên hệ tới Niết-bàn. Khi tất cả chúng diệt thì vô dư y Niết-bàn kể như thành tựu.
Kết luận, tôi xin cầu nguyện cho mọi người trong thính chúng đã lắng nghe bài pháp này với lòng tôn kính và sự chú tâm thích hợp. Cầu mong mọi người sớm đạt đến Niết-bàn nhờ những thiện tâm và thiện nghiệp của quý vị trong việc thực hành quán niệm hợp với những quy tắc của tứ niệm xứ dẫn đến sự thành tựu bảy pháp giác chi và chứng đắc thượng trí.
(Đối tác)
-- Thưa Ni sư, lạc thọ lấy gì làm tương đương?
-- Hiền giả Visakha, lạc thọ lấy khổ thọ làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, khổ thọ lấy gì làm tương đương?
-- Hiền giả Visakha, khổ thọ lấy lạc thọ làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, bất khổ bất lạc thọ lấy gì làm tương đương?
-- Hiền giả Visakha, minh lấy giải thoát làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, giải thoát lấy gì làm tương đương?
-- Hiền giả Visakha, giải thoát lấy Niết-bàn làm tương đương?
-- Thưa Ni sư, Niết-bàn lấy gì làm tương đương?
-- (Trung Bộ Kinh Q.I)
- Noble lady, what is the counterpart of pleasant feelings?
- Friend Visākha, the counterpart of pleasant feelings are unpleasant feelings.
- What is the counterpart of unpleasant feelings?
- Friend Visākha, the counterpart of unpleasant feelings is pleasant feelings.
- Noble lady, what is the counterpart of neither unpleasant nor pleasant feelings?
- Friend Visākha, the counterpart of neither unpleasant not pleasant feelings is ignorance.
- Noble Lady what is the counterpart of ignorance?
- Friend, Visākha, the counterpart of ignorance is knowledge..
- Noble lady, what is the counterpart of knowledge?.
- Friend, Visākha, the counterpart of knowledge is release.
- Noble lady what is the counterpart of release?.
- Friend, Visākha, the counterpart of release is extinction.
- Noble lady, what is the counterpart of extinction?.
Friend, Visākha, the questions have gone beyond limits. It is not possible to go beyond this limit. Friend, Visākha the holy life is immersed in extinction and extinction is the ultimate aim and end. If you desire approach the Blessed One and ask this question and as he explains it, bear it in mind. (Hiền giả Visākha, câu hỏi đã vượt qua giới hạn. Không thể vượt qua giới hạn này. Đời Phạm hạnh là để nhập vào sự diệt (Niết-bàn). Sự diệt này là mục đích tối hậu, là cứu cánh tối hậu. Nếu muốn hiền giả có thể đi đến Đức Thế Tôn để hỏi câu hỏi này, và Đức Thế Tôn trả lời như thế nào hãy như vậy thọ trì.)
[2] Ba vòng xoay của khổ hay tam luân — phiền não luân, nghiệp luân, quả luân
[3] Pavatta:已轉起的, 已起(發生)的, 輪轉, 生死)流轉 (dĩ chuyển khởi, dĩ khởi hay phát sanh, luân chuyển, sanh tử, lưu chuyển.
[4] 無為, 不被為作(造作) vô vi, bất bị vi tác (tạo tác), Niết-bàn là vô vi, không bị làm ra hay tạo ra.
[5] Vāsanā hay tiền kiên tật, là một ấn tượng quá khứ trong tâm ảnh hưởng đến hành vi cư xử. Tiền khiên tật có thể là tốt hoặc xấu: chẳng hạn, cảm thông khi ai đó đang cần với lòng từ mẫn hoặc ngược lại, đáp lại có tính cách phòng thủ bởi vì tình huống gợi lên một ký ức tiêu cực. Nói cách khác tiền kiên tật là khuynh hướng đáp lại những tình huống một cách tự động. Chúng có thể được xem như những mô thức cư xử đã ăn sâu trong tiềm thức. Tiền khiên tật cũng có thể có nghĩa là một mong muốn hay mong đợi cái gì đó hay cũng có thể là kiến thức bắt nguồn từ ký ức.
[6] Āsava hay lậu hoặc gần như đồng nghĩa với phiền não (kilesa). Chúng ngủ ngầm trong tất cả phàm nhân và sẵn sàng sanh khởi lên bề mặt ngay khi cơ hội có mặt.
[7] Muta: sense perceptions through nose, tongue and touch, sự nhận thức qua mũi, lưỡi và thân (xúc), thường dịch là thức tri.
[8] Udāna: n. [BSk. 〃] 自說經 (Tự Thuyết Kinh), 無問自說 (Vô Vấn Tự Thuyết), 感興語 (Cảm Hứng Ngữ).
[9] Tám pháp khó thể nhập ():
Đây là tám phi thời phạm hạnh trú ():
1. Khi trong thế gian có đức Như Lai bậc Ala hán Chánh Đẳng Giác xuất hiện, và giáo pháp được thuyết giảng đưa đến an tịnh, tịch diệt, giác ngộ do bậc Thiện Thệ khai thị, hạng người này sanh trong địa ngục. (
2. Khi trong thế gian có đức Như Lai... hạng người này sanh làm loài thú. (...
3. Khi trong thế gian có đức Như Lai... hạng người này sanh làm loài ngạ quỉ. (.
4. Khi trong thế gian có đức Như Lai... hạng người này sanh làm chư thiên thọ mạng dài. ( ).
5. Khi trong thế gian có đức Như Lai... hạng người này sanh vào các xứ biên địa giữa các loài mọi rợ vô trí, những nơi mà không có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cận sự nam, cận sự nữ lui tới. ( .
6. Khi trong thế gian có đức Như Lai... hạng người này tái sanh ở các Trung quốc độ nhưng lại có tà kiến, có quan điểm điên đảo. ( .
7. Khi trong thế gian có đức Như Lai... hạng người này tái sanh ở các Trung quốc độ nhưng thiểu trí, đần độn, câm điếc, không có khả năng hiểu ý nghĩa thiện ngôn, ác ngôn. (.
8. Khi trong thế gian không có đức Như Lai A-la-hán Chánh Đẳng Giác xuất hiện, và giáo pháp an tịnh, tịch diệt, dẫn đến giác ngộ mà bậc Thiện Thệ khai thị không được tuyên thuyết, hạng người sanh ra tại các Trung quốc độ, có trí tuệ, khôn ngoan, không câm điếc, có khả năng hiểu ý nghĩa thiện ngôn, ác ngôn . ( . (KTPH Tỳ-kheo Giác Giới)
[10] Abhisaṅkhāra: 行作 (hành tác), 為作 (vi tác)。
[11] Kammaṭṭhāna: 業處 (nghiệp xứ, theo nghĩa nơi để tâm làm việc), 行處 (hành xứ), 觀念 (quán niệm), 修行 (tu hành). Có thể hiểu kamaṭṭhāna như những đề mục thiền hay nơi để tâm hành thiền trên đó.
[12] Pāṭihāriya 神變 (thần biến), 神通 (thần thông).
[13] Thadingyut — Lễ Hội Ánh Sáng của người Miến. Nó được tổ chức trong ba ngày trăng tròn của tháng thứ bảy theo lịch Miến (tương đương tháng 10 DL).
[14] Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. (Hoà Thương Minh Châu dịch)
[15] Yojana 由旬, do tuần, 由延 do duyên, một đơn vị đo chiều dài của Ấn Độ khoảng 7 dặm Anh, có chỗ nói 14 km.
[16] Nigrodhārāma: A grove near Kapilavatthu, where a residence was provided for the Buddha when he visited the city in the first year after his Enlightenment (MA.i.289). It belonged to a Sākyan named Nigrodha, who gave it to the Order. (Một khu rừng gần Kapilavatthu, nơi đây một tinh xá đã được xây dựng cho Đức Phật khi ngài đến thăm khinh thành vào năm thứ nhất sau khi giác ngộ (MA.i.289). Khu rừng này thuộc một người Thích Ca (Sākyan) tên Nigrodha, người này đã hiến dâng nó cho Tăng Đoàn của Đức Phật.)
[17] Koliya: một trong những bộ tộc theo chế độ cộng hoà thời Đức Phật. Lãnh thổ của người Sākiyan (Thích Ca) và Koliya nằm kề nhau, chia tách bởi con sông Rohinī. Cả hai đều tuyên bố có mối quan hệ với Đức Phật. Từ sau vụ tranh chấp nguồn nước sông Rohinī, một số người Koliya xin tị nạn tại Sākiya trong đó có các hoàng tử xin xuất gia này.
[18] Kalawiṅka (Ca lăng tần già) là tên của một loài chim quý, lông màu đen, mỏ đỏ, tiếng hót cực hay, êm ái, véo von hơn cả tiếng trời, thường sống thành cặp chẳng hề rời nhau, còn được gọi là mỹ âm điểu, diệu thanh điểu. Tiếng hót của loài chim này thường được ví như pháp âm của Phật. Theo Tuệ uyển âm nghĩa, quyển hạ: “Ca lăng tần già là loài chim có tiếng hót rất hay, tuyệt diệu. Loài chim này vốn sống ở Tuyết Sơn, tiếng hót hòa nhã, thánh thót, du dương, người nghe không biết chán”. Cộng mạng là một loài chim lạ, cực kỳ quý hiếm sống ở Tuyết Sơn, với đặc điểm là tuy một thân nhưng có hai đầu nên còn gọi là mạng mạng điểu hay sanh sanh điểu. (sưu tầm)
[19] pāṭihāriya:a. n. [paṭi-hṛ 的 grd., BSk. prātihārya] 神變 (thần biến), 神通 (thần thông).
- Từ khóa :
- Mahasi Sayadaw
- ,
- niết bàn