Con
người từ đâu đến và chết rồi sẽ đi về đâu?
Đó
là những vấn đề làm cho nhân loại băn khoăn tìm hiểu và
khai sanh rất nhiều triết thuyết tự cổ chí kim, nhiều khi
mâu thuẫn phản ngược nhau và càng làm cho rối ren thêm vấn
đề này.
Ở
đây chúng tôi không muốn làm cho rối ren thêm một vấn đề
tự nó đã là một ổ tơ vò không lối thoát. Chúng tôi chỉ
muốn đặt trước các độc giả một số dữ kiện, một
vài định lý và hiện tựợng dựa trên thực tế, để giúp
các bạn hiểu một cách dễ dàng hơn sự giải thích của
đạo Phật về vấn đề này. Chúng tôi cũng không có cao vọng
xác chứng vấn đề tái sanh và xây dựng lòng tin cho quý vị,
vì vấn đề tái sanh đòi hỏi mỗi cá nhân tự mình nhận
xét suy tư, tự mình xác nhận kinh nghiệm, không những trên
tự bản thân mà trên cả những hiện tượng xung quanh mình
nữa.
Chúng
tôi dựa trên kinh tạng và luận tạng để giải thích, đặc
biệt là luận A-tỳ-đàm Thượng tọa bộ để sự dẫn chứng
nghiên cứu dễ dàng hơn.
Từ
trước, chúng ta thường dùng danh từ “Luân hồi” để giải
thích hiện tượng sanh tử, tử sanh, một danh từ dễ sinh
ra hiểu lầm: một vòng tròn xoay quanh một trục lăn nhất
định và đều đặn trở lại chu kỳ xuất phát. Ở đây
chúng tôi dùng danh từ “Tái sanh” nghĩa là sanh một lần
nữa, thế cho danh từ “Luân hồi”, với dụng ý xóa bỏ
hình ảnh chu kỳ nhất định không di dịch, phản lại định
lý căn bản Vô thường của đạo Phật.
I. Những định lý chi phối con người và sự vật.
1.
Định lý Vô thường: Anicca.
Con
người và sự vật ở trong đời này luôn luôn thay đổi biến
dịch, từng giờ, từng phút, từng sát na. Nhưng sự thay đổi
này không phải loạn xạ bất định mà tuân theo những định
lý, định luật chi phối và điều hành sự biến dịch của
sự vật và con người. Khi dùng chữ định lý hay định luật,
chúng ta đừng có hiểu lầm là những luật này do một Tạo
hóa làm ra hay do một pháp viện nào ban hành. Những định
lý này là những định lý thiên nhiên, tự nhiên, nêu rõ một
sự vận hành có kỷ cương trật tự, chi phối mọi sự vật
kể cả con người. Những định lý này không phải do đức
Phật chế ra, mà chỉ do Ngài khám phá và tuyên bố cho thế
giới biết.
Định
lý đầu tiên là định lý Vô thường (Anicca) nêu rõ không
một sự vật gì ở trên đời mà được thường hằng, bất
biến. Nói một cách khác, mọi sự vật kể cả con người
đều bị luật Vô thường chi phối. Núi non, nhà cửa, cây
cối, người vật đều được thay đổi và bị thay đổi
trong từng sát na, từng phút, từng giây. Có khi sự thay đổi
rất mau lẹ chúng ta có thể thấy được như nhà cửa bị
đổ nát trong thời kỳ chiến tranh; có khi sự thay đổi tế
nhị lâu dài hơn từ đời này qua đời khác như sông núi,
mặt trăng, mặt trời. Định lý Vô thường này được nhận
xét dưới nhiều trạng thái hình thức khác nhau như sanh tử,
khởi diệt, tăng giảm, co dãn, thành hoại, hữu vô, tiến
thối v.v... Dù dưới hình thức nào, định lý Vô thường
này hàm chứa ý nghĩa một sự thay đổi từ trạng thái này
qua trạng thái khác. Như vậy vô thường ngự trị và chi phối
toàn thể thế giới, không có một sự vật cá nhân gì có
thể thường còn bất biến. Thời gian di động tất cả, di
động cả chúng ta, dù chúng ta muốn hay không. chúng ta sống
trong một thế giới vô thường biến dịch, và chính danh mạng
căn của chúng ta và sắc mạng căn của chúng ta được thay
đổi biến dịch từng sát-na, từng giây phút. Sabbe sankhàrà
aniccà: Tất cả pháp hữu vi là vô thường. Nếu mọi pháp
là vô thường, nhưng không có vật gì là hoại diệt. Chỉ
có hình thái thay đổi, không có gì tiêu tan mất hẳn. Trạng
thái chất cứng biến thành chất lỏng, trạng thái chất lỏng
biến thành trạng thái chất hơi, nhưng không có sự vật gì
hoàn toàn bị tiêu diệt. Vật chất là một biểu hiện của
năng lượng, và như vậy không bao giờ tiêu mất hay bị hủy
hoại. Đây cũng là định lý khoa học: Conservation of energy.
Chúng ta cũng biết là thân ta luôn luôn bị thay đổi, và cứ
bảy năm một lần thân thể hoàn toàn đổi mới. Cho đến
khi chết, cũng không có gì hoại diệt. Một phần thân thể
của chúng ta sẽ biến thành chất lỏng hay chất hơi, kim khí
hay muốl, tùy theo từng thân phần. Nếu sinh vật học dạy
rằng thân thể chúng ta hoàn toàn đổi mới sau bảy năm, thì
đức Phật dạy rằng thân thể chúng ta biến đổi trong từng
sát na một, và sự diễn tiến của sự biến dịch này được
mang tên là Khanika marana nghĩa là sự chết trong từng sát na.
Một
đặc tính của định lý Vô thường này là không có biên
giới rõ rệt giữa một trạng thái này với một trạng thái
nối tiếp, những trạng thái này hoàn toàn cách biệt với
nhau. Hãy nhìn những làn sóng khởi lên rồi diệt xuống, mỗi
làn sóng khởi lên rồi xuống khiến cho một làn sóng kế
tiếp được khởi lên. Rồi làn sóng này lại rơi xuống dể
làm khởi lên một làn sóng kế tiếp. Chúng ta khó mà chỉ
đích thực đâu là ranh giới giữa hai làn sóng, chỗ nào là
chỗ diệt xuống của một làn sóng trước và chỗ nào là
khởi điểm cho làn sóng sau. Mỗi một làn sóng như chìm sâu
vào làn sóng kết tiếp và làn sóng kế tiếp nữa. Như vậy
định lý Vô thường giúp chúng ta ý thức được con người
và sự vật luôn luôn thay đổi, biến dịch; tuy thay đổi
nhưng chỉ thay đổi trạng thái, không mất hẳn hay diệt hẳn.
Và giữa hai trạng thái liên tục, không có một ranh giới
rõ rệt.
2.
Định lý Hiện hữu (Bhava) và định lý Liên tục (Santati)
Từ
định lý Vô thường, chúng ta bước sang định lý Hiện hữu
trong một trạng thái khác. Danh từ Pàli gọi là Bhava. Hán
dịch là Hữu: Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu.
Hột
lúa luôn luôn ở trong trạng thái hình thành cây mạ, nụ hoa
luôn luôn ở trong trạng thái hình thành bông hoa, con nít luôn
luôn ở trong trạng thái hình thành người lớn, người lớn
luôn luôn ở trong trạng thái hình thành người già.
Có
người hỏi, nếu hột lúa được tưới nước sôi vào và
cây mạ bị nhổ lên thời hột lúa có thành cây mạ không,
và cây mạ có thể trở thành cây lúa không? Lẽ dĩ nhiên
là không, những định lý hình thành hay hiện hữu này không
chấm dứt. Nó tiếp tục nhưng hướng về tiêu mòn, hao diệt,
mà không mất hẳn. Cả hột giống và cây mạ đều thay đổi,
tiêu mòn và có thể trở thành bốn đại chủng nhưng không
mất hẳn. Định lý Hiện hữu này đưa đến một định lý
khác, gọi là định lý Liên tục hay Tương tục (Santati).
Chúng
ta thấy sự vật là vô thường, biến dịch, thay đổi từ
trạng thái này qua trạng thái khác. Chất cứng có thể trở
thành chất lỏng, chất lỏng có thể trở thành chất hơi
nhưng không một chất nào tiêu diệt hẳn. Các năng lực mà
những chất này là những hình thức hiện hữu, vẫn tiếp
tục dù hình thức của những chất này có thay đổi.
Như
vậy chúng ta thấy có sự liên tục của năng lực, và sự
liên tục này là một đặc tính của mọi sự vật. Chính
vì có sự liên tục, nên khó mà nêu rõ ranh giới giữa một
trạng thái này qua một trạng thái khác. Không những không
có ranh giới không gian mà cũng không có ranh giới thời gian,
vì thời gian cũng liên tục thay đổi. Khó mà chỉ đích thực
lúc nào là quá khứ, lúc nào là hiện tại, lúc nào là vị
lai. Hiện tại từng sát na cũng đi vào hiện tại. Khi có người
bạn nói ta mấy giờ, ta xem đồng hồ đáp 10 giờ vài giây
rồi. Thời gian không có đứng một chỗ, luôn luôn xê dịch
vào quá khứ. Và như vậy thời gian cũng do định lý Liên
tục chi phối. Sự vật đã như vậy, không gian thời gian đã
như vậy, thời con người với hai phần danh và sắc lẽ nào
có thể thoát khỏi sự chi phối của định lý Vô thường.
Hiện hữu và Liên tục được. Và như vậy, khi con ngườỉ
mới sanh ra, định lý Liên tục, cho ta thấy có sự liên kết
với những đời sống quá khứ; và khi con người chết đi,
sự chết không có nghĩa là mất hẳn mà chỉ là mở đầu
cho một đời sống mới. Đó là những vấn đề khiến chúng
ta cần phải suy nghĩ.
3.
Định lý Nghiệp báo hay định lý Nhân quả.
Định
lý này nêu rõ, mỗi hành động tạo tác ra phải có kết quả
của hành động ấy như câu sau này nêu rõ: “Yàdisam vatate
bijam tàdisam harate phalam” (Gieo hạt giống nào thì gặt kết
quả ấy). Định lý này áp dụng cho thế giới vật chất
và thế giới tâm linh, và khi áp dụng cho hành động con người,
định lý Nhân quả này được gọi là định lý Nghiệp báo.
Theo
đạo Phật, mọi hành động cố ý về thân, khẩu, ý đều
gọi là Kamma hay Nghiệp, và kết quả của những hành động
ấy là Kammavipàka hay Nghiệp báo. Hành động thiện (Kusalakamma)
đưa đến nghiệp báo thiện (kusalavipàka), và hành động bất
thiện (akusalakamma) đưa đến nghiệp báo bất thiện (akusalavipàka).
Nhưng ở đời, chúng ta thấy nhiều người làm ác mà vẫn
phây phây sung sướng giàu sang; có người làm thiện lại phải
trải qua nhiều thời gian truân đau khổ. Sự phân chia không
đồng đều về khổ lạc, về giàu nghèo, và yểu thọ giữa
loài Người hình như nói lên sự bất công của định lý
Nhân quả, Nghiệp báo này. Sự hành động của chúng ta có
nhiều loại khác nhau, và thời gian giữa nhân và quả, giữa
nghiệp và nghiệp báo không phải nhất luật, theo một thời
gian nhất định. Thêm nữa, giữa nhân quả, giữa nghiệp và
nghiệp báo thường hay xen lẫn nhiều yếu tố khác nữa và
chính những yếu tố này đã chi phối sự hình thành của
những kết quả .