KHÔNG YÊU
THÍCH LUÂN HỒI HAY NIẾT BÀN
Sáng
nay, tôi muốn nói về sự không yêu thích luân hồi hay Niết
bàn. Nhiều điều trong giáo lý Mahamudra (giáo lý về những
kinh nghiệm được chuyển thành kiến thức cao siêu và những
phương tiện thiện xảo) dạy về
bản chất của
tâm trí,
nói về
trạng thái tĩnh và động. Nếu bạn phân tích sự
vật,
hiện tượng đến cùng, tất cả những gì còn lại
sẽ chỉ là sự yên tĩnh của
không gian và những gì
liên
tục sinh ra
từ không gian,
quay trở lại không gian–tĩnh và
động. Đôi khi nó đươc gọi là
bản thể và
hiện tượng.
Trong bất kỳ
trường hợp nào, điều mà tôi muốn nói là
không nên
ưa thích tĩnh hay động, hay bạn có thể nói rằng
không nên
ưa thích sự náo động của
luân hồi hay sự
tịch
tĩnh
của
Niết bàn.
Thông
thường, có một số
định kiến về
vấn đề này. Có hai
hình thức chung của chứng loạn
thần kinh chức năng của
con người. Một thứ là bị kẹt trong
lo lắng,
sợ hãi và
hy vọng, trong muốn và không muốn và trong những thứ như:
Công
việc gia đình, nhà cửa, xe hơi, tiền bạc,
giải trí,
sự
lãng mạn, kỳ nghỉ, sông núi sa mạc, Châu Âu, Mexico,
Jamaica, hố đen của Calcutta (The black Hole of Calcutta), ngục
tù, chiến tranh và hòa bình,v.v...
Vì vậy rất nhiều người
trong số
chúng ta bị
mắc kẹt trong tất cả những
sự kiện
đó, bị
mắc kẹt vào một
sự kiện như thử
chúng ta đang
bị kẹt trong một vùng nước xoáy. Trong
luân hồi,
chúng ta
liên tục cố gắng tránh xa nỗi đau bằng cách tìm sự
vui
thích, và khi làm điều đó,
chúng ta chỉ cứ đi lòng vòng.
Tôi nóng quá và tôi mở tất cả các cửa sổ, và rồi tôi
quá lạnh và tôi mặc một chiếc áo len vào. Rồi khi ngứa
ngáy, tôi bôi kem lên cánh tay; khi nhớp nhúa, tôi đi tắm.
Khi lạnh tôi
đóng cửa sổ, và như vậy, như vậy, như vậy.
Tôi đơn cô nên tôi kết hôn và khi tôi luôn tranh cãi với
chồng (hay vợ) của tôi, tôi bắt đầu một cuộc tình khác,
và rồi chồng tôi (hay vợ tôi)
đe dọa bỏ tôi, tôi
mắc
kẹt trong sự
bối rối với những gì phải làm
tiếp theo,
và như vậy, như vậy.
Chúng ta luôn
cố gắng nhảy khỏi nơi
nóng bỏng để đến một nơi mát lạnh, luôn luôn
cố gắng
trốn chạy và do đó không bao giờ thực sự ổn định
thoải
mái và
thưởng thức. Đó gọi là
luân hồi (Samsara)–nói
cách khác, dù sao,
chúng ta cũng
ưa thích đối với
hiện tượng,
vì vậy chúng ta luôn làm việc trong một
hệ thống chuẩn
mực,
nỗ lực tạo sự
dễ chịu trong một
hệ thống chính
trị và
triết học,
tôn giáo và tất cả mọi thứ,
cố gắng
đạt niềm vui trong tất ca những
hiện tượng xã hội xảy
ra.
Một
chứng bệnh rất thông thường khác là bị
mắc kẹt bởi
sự
ưa thích tĩnh hơn động. Khi đang du lịch, tôi gặp một
số người đã lập nên một hội đoàn
dựa trên niềm tin
rằng một dĩa bay sắp đến và mang họ đi khỏi
thế giới
rối ren này. Hó đang chờ đợi những chiếc dĩa bay đến
giải phóng họ khỏi sự
ô nhiễm của trái đất này. Họ
nói về sự vượt khỏi những tệ hại của cuộc sống,
đi
vào không gian trong sáng và an vui, không bị ngăn trở trong
bất kỳ
trường hợp nào, được
tự do hoàn toàn. Khi con
tàu
không gian đưa họ đi, họ đi đến một nơi mà không
có bất kỳ
vấn đề gì. Đây là tất cả những gì
chúng
ta thực hiện một cách
tinh tế. Nếu
chúng ta có một
kinh
nghiệm về sự
trong sáng hay
an lạc,
chúng ta muốn nó luôn
dược
liên tục. Đó là những gì mà những người nghiện
ngập mong muốn, muốn
cảm thấy tốt
mãi mãi, nhưng nó thường
kéo dài không bao lâu
Tuy nhiên, nó là một căn bệnh rất thông
thường, bị
mắc kẹt bởi sự mong muốn sống thoát ra ngoài,
muốn ở trong
không gian. Có một số người có sự thâm hiểu
bản chất của
thực tại rộng lớn và
tuyệt vời như thế
nào–đôi khi gọi là một cái nhìn thông thái–nhưng rồi
họ trở nên
hoàn toàn thất vọng với cuộc sống
bình thường.
Đáng lẽ cái nhìn
thông minh đó thật sự làm giàu cuộc sống
của họ, nhưng ngược lại nó làm họ
cảm thấy luôn
nghèo
khổ hơn. Thông thường
lý do khiến người ta đi đến
rối
loạn thần kinh là họ thấy được sự rộng lớn
tuyệt diệu
đó của
thế giới hiện tượng nhưng rồi họ
bám víu vào
sự thâm hiểu của họ và họ trở nên
hoàn toàn bị
mắc
kẹt ở đó. Người ta thường nói một cách khá
chính xác
rằng một người loạn
thần kinh là người đang
chìm đắm
trong những điều
tương tự, những điều mà một người
huyền hoặc đang dính vào.
Những
gì tôi muốn nói ở đây là
bản ngã có thể dùng bất cứ
điều gì để tái tạo lại chính nó, cho dù đó là
hiện
tượng hay
bản thể, cho dù đó là những gì
chúng ta gọi
là
luân hồi hay Niết-bàn. Có một chiều hướng chung trong
nhiều
tôn giáo là mong muốn
lánh xa trái đất và nỗi đau
của
thế gian để không bao giờ
kinh nghiệm lại những điều
tệ hại của cuộc sống này nữa. “Hãy vứt nó lại đằng
sau và an nghỉ trong
Niết bàn tĩnh lặng”. Bạn có thể
để
ý rằng trong
bài hát Oryoki
chúng ta nói
đức Phật “Không
trú mãi trong Niết bàn”. Nếu Ngài không trú trong
Niết bàn
thì
phải chăng luân hồi và
Niết bàn là một, không nên
ưa
chuộng luân hồi hay
Niết bàn mà hãy sống
trọn vẹn trong
cả hai.
Gần
đây, tôi thấy trên tường trong căn bếp của một người
bạn có một câu trích từ một bài nói chuyện của Chogyam
Trungpa Rinpoche, câu ấy nói rằng: “Hãy nắm giữ khổ đau
và buồn thương của
luân hồi trong tim bạn và
đồng thời
nắm giữ
quyền lực và
hình ảnh đẹp của
mặt trời Đông
phương vĩ đại. Rồi thì người hiệp sĩ có thể làm một
tách trà đúng khuôn phép”. Tôi bị một đòn bất ngờ ở
câu ấy, bởi vì khi đọc nó tôi chợt
nhận ra rằng chính
tôi cũng có một sự
ưa chuộng sự tĩnh lặng. Cái khái niệm
về sự ôm ấp
nỗi buồn và nỗi đau của
luân hồi trong
tim tôi đã nghe có vẻ
như thật, nhưng tôi
nhận ra tôi đã
không
thực hiện được điều đó.
Ít nhất, tôi đã có một
sự
ưa chuộng rõ ràng đối với
năng lượng và
hình ảnh
đẹp của
mặt trời vĩ đại Đông phương–đặc tính của
việc
thức tỉnh liên tục. Nhưng còn việc
đồng thời nắm
giữ
nỗi buồn và nỗi đau của
luân hồi trong tim tôi thì
sao? Câu nói ấy đã thật
sự tạo một
ấn tượng mạnh trong
tôi. Điều đó
hoàn toàn đúng: Nếu bạn có thể sống với
sự
buồn chán của
cuộc đời con người (những gì mà Rinpoche
thường gọi là sống với trái tim
dịu dàng hay trái tim
chân
thật), nếu bạn có thể sẵn lòng cảm nhận đầy đủ và
nhận thức một cách
liên tục nỗi buồn của chính bạn và
nỗi buồn của người khác, nhưng
đồng thời không chết
đuối bởi nó, bởi vì bạn cũng có thế nhớ
hình ảnh đẹp
và
năng lượng của
mặt trời vĩ đại
Đông phương, bạn
cảm nhận được sự cân bằng và sự
hoàn hảo, sự nối
kết giữa trời và đất giữa
ảo ảnh và
thực tại.
Chúng
ta nói về đàn ông và
phụ nữ, nói về sự
liên kết giữa
trời và đất, nhưng thật sự tất cả đã nối kết rồi.
Không có bất kỳ sự chia tách nào giữa
luân hồi và Niết-bàn,
giữa buồn đau của
luân hồi và
năng lượng của
mặt trời
vĩ đại
Đông phương. Người ta có thể giữ cả hai trong
tim họ, và đó thật sự là
mục đích của khóa
thực tập
này.
Lễ
nghi tức là sự
liên kết ảo ảnh và
thực tế, trời và
đất,
luân hồi và
Niết bàn. Khi mọi điều được hiểu
một cách
đúng đắn,
toàn bộ cuộc sống của
con người
giống như một
buổi lễ tôn giáo. Rồi thì tất cả những
điệu dáng của
cuộc đời là những
thủ ấn (mudra–những
hình dáng của bàn tay trong quá trình
thực hành những
thủ
pháp mật tông Phật giáo,
diễn tả những
đặc tính khác
nhau trong
Thiền định) và tất cả
âm thanh của cuộc sống
giống như một Mantra (thần chú–những
từ ngữ hay vần điệu
bí mật có
công năng khác nhau của
Mật tông)–và sự
linh
thiêng hiện hữu khắp
mọi nơi. Đây là những gì đằng sau
lễ nghi, những điều
hình thức hóa được
thực hiện trong
các
tôn giáo của những nền
văn hóa khác nhau.
Nghi lễ, khi
nó là sự
chân thành, giống như một hình nang
thời gian. Nó
như thử hàng ngàn năm trước một ai đó có một cái nhìn
rõ ràng không
mắc kẹt về sự
mầu nhiệm,
quyền năng và
sự
thiêng liêng, và
nhận ra rằng nếu anh ta đi ra mỗi sáng
và chào
mặt trời một cách đúng kiểu, có thể bằng cách
làm một bài tụng
đặc biệt và dâng hiến hay bằng cách
cúi đầu, rằng nó
liên kết anh ta với sự
giàu có.
Vì vậy,
ông ta dạy con cháu làm
theo như vậy, và trẻ con dạy lại
con cháu của chúng, cứ
tương tự như thế.
Vì vậy, hàng
ngàn năm sau, người ta vẫn làm điều đó và
liên hệ với
chính xác một
cảm giác giống như vậy. Tất cả những
lễ
nghi được truyền lại đều như vậy. Một ai đó có thể
có một sự thâm hiểu và thay vì bị đánh mất nó có thể
tồn tại qua
lễ nghi. Chẳng hạn, Rinpoche thường nói rằng
giáo pháp, giống như một
bí quyết cho bánh mì mới ra lò.
Cách đây hàng ngàn năm, một ai đó đã
khám phá cách nướng
bánh mì, và bởi vì
công thức được truyền lại qua nhiều
năm, bạn
vẫn có thể làm bánh mì mới mà bạn có thể ăn
ngay bây giờ.
Những
gì tôi nghĩ về
lễ nghi như sự nối kết khổ đau của
luân
hồi với
hình ảnh đẹp của
mặt trời vĩ đại
Đông phương
là rằng bằng cách nào đó, chỉ
đơn giản dùng những điều
bình thường để khơi mở
cảm hứng cho
đời sống của
chúng
ta.
Mặt trời mọc vào buổi sáng,
chúng ta có thể dùng
âm
thanh của một chiếc chuông để gọi
chúng ta đến
chánh điện,
chúng ta có thể chấp hai tay lại trong thế
hoa sen (gasho) và
chào nhau,
chúng ta có thể nâng bát Oryoki của
chúng ta với
3 ngón tay trong cùng một kiểu cách mà người ta đã làm trong
nhiều thế kỷ. Qua những
lễ nghi này,
chúng ta bày tỏ sự
thường thức của
chúng ta đối với
thức ăn, đồ vật và
sự
phong phú của
thế giới. Bạn nâng
bình bát lên và rồi
cuối buổi tập, bạn về nhà và có lẽ bạn quên tất cả
về Oryoki. Có thể bạn
quay trở lại vài năm sau và
thực
hành một
chương trình khác, và bạn
tìm thấy có điều gì
gây
cảm động về việc
thực hiện lại điều đó. Có thể
bạn
thực hiện điều đó đầu tiên lúc bạn 20 tuổi và
rồi bỗng nhiên vào lúc 80 tuổi bạn
nhận thấy chính bạn
làm lại điều đó. Nó giống như một sợi chỉ xuyên suốt
toàn bộ cuộc đời bạn–nâng bát Oryoki của bạn lên với
3 ngón tay.
Những
lễ nghi chân thành thật sự giúp
chúng ta nối kết lại với
năng lực và
hình ảnh đẹp cũng như với nỗi đau buồn của
kiếp sống
con người. Khi
quyền năng và sự suy niệm (khả
năng nhìn nhận) đến
với nhau, có một vài
ý niệm về việc
thực hiện mọi việc một cách đàng hoàng chỉ để
giữ
gìn chính nó, vì
mục đích và
vì lợi ích của chính nó.
Chế một tách trà đúng kiểu là bạn
hoàn toàn và kỹ lưỡng
chế tách trà ấy bởi vì bạn biết trà và nước sôi nếu
pha
với nhau sẽ tạo nên một
thức uống bổ dưỡng và
ngon
lành, nó
nâng cao tinh thần của
con người. Bạn không làm
điều đó bởi vì bạn
lo lắng rằng ai đó sẽ không thích
bạn nếu bạn không làm điều đó
đúng đắn. Bạn cũng không
làm điều đồ quá nhanh đến nỗi nó
kết thúc trước khi
bạn
nhận ra rằng bạn đã làm một tách trà, huống hồ là
bạn muốn 6 tách.
Vì vậy, cho dù hút một điếu thuốc, uống
một tách trà hay sửa soạn giường chiếu, rửa chén bát–
bất cứ điều gì–đó là
nghi thức trong
ý nghĩa thực hiện
nó một cách đàng hoàng nếu bạn có thể giữ
nỗi buồn
cũng như khả năng nhìn thấy
mặt trời vĩ đại
Đông phương
trong trái tim bạn.
Chogyam
Trungpa Rinpoche rất
thích nghi lễ. Ông đã rút ra được từ
tất cả các truyền thống–gồm
Tây Tạng, Nhật, Anh–để
tạo nên
lễ nghi của riêng ông. Một trong những
lễ nghi đó
là cách ông
đi vào chánh điện. Bạn đang ngồi trên
chánh
điện và bỗng nhiên bạn nghe thấy tiếng ầm ầm của những
cây gậy lễ, tiếng leng keng của những chiếc chiên nhỏ,
tiếng bùm bùm của chiếc trống lớn: “rắc” “keng”,
“bùm” ; “rắc”, “keng”, “bùm”. Khi những
âm thanh
ấy tiến gần, bạn biết rằng Rinpoche sắp sửa bước vào.
Rồi ông ở đó với đoàn người
tham dự lễ, ông chỉ
đi
vào chánh điện để
thuyết pháp. Nhưng bằng cách nào đó,
lễ nghi của ông đã tạo nên một môi trường mà trong đó
không gian mở thoáng ra. Bạn
cảm thấy như thử bạn đang
ở trong một
không gian bất tận (không
ảnh hưởng thời gian).
Đó không phải là ngày 22-6-1989; nó không phải là một
thời
gian đặc biệt trong ngày hay đêm hay trong năm, nó chỉ là
một loại không-thời gian. ông biết nếu ông tạo nên tất
cả những
âm thanh của
lễ nghi này, tất cả
chúng ta sẽ
có lợi bởi
kinh nghiệm về
thời gian vô hạn ấy.
Người
nông thôn
thường hiểu biết về
thời tiết mùa màng, thời
điểm mặt trời mọc và lặn... Họ có những
nghi lễ của
mỗi mùa. Để không ai có thể bỏ lỡ
sự kiện rằng tất
cả
chúng ta đều được nối kết, những
lễ nghi trưởng
thành và tất cả những
lễ nghi khác được biên đạo rất
tốt: như một bài múa đẹp. Người già biết cách làm những
điều này và họ truyền những
kiến thức ấy lại, đó gọi
là kế dòng. Black Elk là một người
thánh thiện trong những
năm 1880,
thời gian mà dân chúng của ông bị mất
tinh thần,
mất lòng tin,
do bởi phương cách mà họ đã từng sống, tạo
cho họ nhiều
ý nghĩa của việc
liên kết, đã bị
phá hoại,
tuy cũng còn đủ hay họ đã không đánh mất tất cả. Khi
lên 9 tuổi, ông có một giấc mơ về
việc làm thế nào để
cứu dân chúng của ông, giấc mơ về những con ngựa đến
từ
bốn hướng. Trong một hướng là những con ngựa màu trắng,
hướng khác màu hồng; hướng khác màu da nai và hướng
cuối
cùng màu đen. Cùng với những con ngựa là những trinh nữ
mang theo những vật
thiêng liêng và những ngườì đàn ông
hát những lời sấm truyền. Mỗi hướng đều có
hình tượng
lễ nghi hoàn hảo của nó. Ông không nói sự nhìn thấy của
ông cho ai, bởi vì ông nghĩ sẽ không có ai tin ông. Nhưng khi
lên 17 tuổi, ông
cảm thấy ông sắp bị điên,
vì vậy cuối
cùng ông nói với một người thầy thuốc, người thầy thuốc
hiểu ngay và nói: “Chúng ta phải
thực hiện nó ngay”. Họ
làm
toàn bộ sự việc. Sơn
thân thể họ và đóng diễn như
những gì ông đã nhìn thấy.
Khi
ông ở tuổi 20, sự việc
hoàn toàn vỡ lẽ ra. Ông
quyết
định đi đến cuộc
trình diễn Wild West của Buffalo Bill với
một số người Ấn khác. Họ được đưa đi trên một chiếc
“thuyền lửa” đến Châu Âu để
thực hiện một cuộc
biểu diễn ở London với những con ngựa của họ và
y phục
Ấn của họ. Một đêm nọ, nữ hoàng Victoria đến xem cuộc
trình diễn. Bây giờ bạn sẽ không nghĩ có nhiều sự giống
nhau giữa Black Elk, một người Oglala Sioux đến từ những
thảo nguyên và nữ hoàng Victoria. Những đêm đó không ai khác
đến, chỉ có nữ hoàng Vìctoria trong xe ngựa của bà và đoàn
tùy tùng. Khi buổi
trình diễn kết thúc, bà
đứng dậy bắt
tay tất cả bọn họ với bàn tay mềm dịu nhỏ nhắn của
bà. Ông thật sự thích bà. Rồi bà
cúi chào họ và họ bị
gây
ấn tượng mạnh về bà và
cách cư xử của bà đến
nỗi những người
phụ nữ đã làm những điều gọi là “kỹ
thuật reo dây đàn hay sự rung động” và những người đàn
ông thì reo lên
vui mừng, và rồi tất cả họ đều
cúi chào
nữ hoàng. Black Elk đã
mô tả bà như “một vị
mẫu nghi
của nước Anh”. Bà có rất nhiều sự oai vệ và dáng vẻ
đặc biệt. “Bà
xinh đẹp,
dễ thương và rất tốt đối
với chúng ta”. Khoảng một tháng sau, bà mời họ đến Silver
Jubilee của bà. Như ông ta kể, khi ông ta và những người
bản xứ khác vào tòa nhà to lớn vĩ đại này,
mọi người
đều kêu lên “Jubilee! Jubilee!”. Ông ta nói rằng ông vẫn
không biết từ đó có nghĩa gì, nhưng lúc đó ông có thể
mô tả những gì ông thấy. Đầu tiên, nữ hoàng Victoria đến
bằng xe ngựa vàng rực của bà, những con ngựa được che
phủ bằng vàng và tất cả áo quần của bà cũng vàng như
lửa. Rồi đến chiếc xe ngựa màu đen, với những con ngựa
màu đen và cháu
nội trai của nữ hoàng. Trong xe ngựa màu
xám và ngựa màu xám là
thân quyến của bà. Ông
mô tả tất
cả những xe ngựa và tất cả những con ngựa và rồi tất
cả những người đàn ông đang đến trong trang phục
đẹp
đẽ, cưỡi ngựa đen với những chùm lông trang trí. Cả
buổi
lễ đã gây
ấn tượng mạnh với họ. Ông ta nói rằng, trước
lễ Jubilee, ông
cảm thấy như
chưa bao giờ thấy hinh ảnh
ấy, nhưng sự nhìn thấy tất cả sự trưng bày trang trọng
và
cảnh tượng ấy đã nối kết với những gì ông đã mơ
thấy trước đây. Khi nữ hoàng Victoria trong xe ngựa vàng đến
bên những người
Ấn Độ, bà cho dừng xe và đứng lên, chào
họ. Họ lại ném tất cả đồ vật của họ lên không trung,
la hét và tung bật dây đàn và rồi họ hát với quốc mẫu
Anh.
Lễ
nghi ấy có thể là của nữ hoàng Anh hay của dân chúng Great
Plains. Một cách nào đó nó đã vượt
thời gian và
không gian.
Trong bất kỳ
trường hợp nào, tôi nghĩ nó có điều gì để
thực hiện cùng với việc nắm giữ
nỗi buồn đau của
luân
hồi trong tâm bạn và
đồng thời nắm giữ
hình ảnh và
năng
lượng của
mặt trời Đông phương vĩ đại. Cả
cuộc đời
của
chúng ta có thể là một
lễ nghi.
Chúng ta phải học cách
dừng lại khi
mặt trời đi xuống và khi
mặt trời mọc lên.
Chúng ta phải học cách lắng nghe gió;
chúng ta có thể học
cách
để ý rằng trời đang mưa, đang có tuyết rơi đầy
hay đang yên tĩnh.
Chúng ta có thể nối
kết liên hệ với
thời tiết mà là chính
chúng ta, và
chúng ta có thể
nhận
ra rằng đó là những
nỗi buồn. Càng buồn, nó càng rộng
lớn, càng rộng lớn thì
tâm hồn chúng ta càng rộng mở.
Chúng ta có thể đừng nghĩ rằng
thực hành tốt là khi nó
bằng phẳng và yên lặng và
thực hành tồi khi nó
gồ ghề
và
đen tối. Nếu
chúng ta có thể nắm giữ tất cả chúng
trong
tâm hồn thì
chúng ta có thể làm được một tách trà
đúng kiểu cách.