03. Cúng Sao Giải Hạn

15/10/201012:00 SA(Xem: 16328)
03. Cúng Sao Giải Hạn

CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH PHẬT GIÁO
DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH

NỘI DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 03
CÚNG SAO GIẢI HẠN
(Nghe audio bấm vào hàng chữ này)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Đây là chương trình truyền thanh Phật giáo do ban biên tập Thư Viện Hoa Sen phụ trách, phát thanh mỗi tuần một lần, nhằm truyền bá giáo lý giải thoát của Đức Phật đến với mọi ngườiChúng tôi trân trọng kính chào toàn thể quý thính giảnhân dịp đầu năm Ất Dậu, chúng tôi kính chúc chư tôn Hoà thượng, Thượng Toạ, Đại Đức, Tăng Ni cùng toàn thể quý Phật tử, quý thính gỉa, một năm mới thân tâm thường lạc, vạn sự kiết tường như ý

Thưa quý thính giả,

Hoa đào và hoa mai đã nở trên hè phố Bolsa báo hiệu mùa Tết Việt Nam trở về, báo hiệu trời miền Nam Cali chan hòa nắng ấm. Mai và đào là hai loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được người Việt chúng ta yêu mến như một người bạn thân thiết, không thể thiếu vào dịp lễ hội Tết cổ truyền của dân tộc. Ngoài nét đặc biệt đó ra, nó còn là một biểu tượng của sự vươn dậy sau giấc ngủ co mình trong những ngày tháng ảm đạm và giá rét của mùa Đông. Khi nhìn thấy sắc vàng tươi thắm của hoa mai hay mầu hồng của hoa đào người ta còn liên tưởng rằng, nó đồng hành với mùa xuân vào dịp xuân sắp đến, đang đến hay sẽ đến. Nó mang lại vui tươi, hạnh phúc, may mắn, dồi dào, thịnh vượng, sức khoẻ, trẻ trung cho mọi người. Vì vậy tập quán người Á Châu trong những ngày tết, ngày bắt đầu một năm mới, thường chúc tụng lẫn nhau những lời chúc lành tốt đẹp và kiêng nói những lời không hay đẹp.
Chúng tôi mời quý vị, mời các bạn nghe Như Nguyệt tản mạn về mai vàng và ngày Tết trong bài viết: “Mai Vàng Mấy Độ”

“Mai vàng sắp nở báo hiệu ngày xuân sắp đến, rồi từng cánh mai vàng rơi cũng là dấu hiệu ngày xuân sắp tàn, con người cũng chịu sự thay đổi trong từng sát na sinh diệt như những đóa hoa nở hay những cánh hoa rơi. Nhưng có mấy ai thức tĩnh biết mình đang chìm trong cơn mộng, mãi cứ đắm say với những lạc thú của thế gian, người ta cho rằng một hiện tượng không còn hiện hữukết thúc. Nhưng không, một sự vật kết thúc không phải là hết mà là một nhân tố để hình thành cái mới với một hình thức khác theo nhân đã tích tụ. Những thành quả của năm cũ là nguyên nhân dẫn đến một kết quả khác trong năm kế tiếp. Thế nên chu kỳ một năm được kết thúc bằng một sự vui mừng, nhộn nhịp...để hy vọng, mong mõi những thành quả kế tiếp sẽ được tốt đẹp hơn, vì vậy tập quán người Á Châu trong những ngày tết, ngày bắt đầu một năm mới, kiêng nói những lời không hay đẹp, mà phải chúc tụng lẫn nhau bất kể hiện thực ra sao. 

Tập quán này được xuất hiện rất sớm trong dân gian chúng ta, đã là tập quán thì xấu tốt đều có. Không ít người quan niệm rằng: "Năm mới làm điều gì thì suốt năm ấy phải chịu như vậy", nên những ngày tết nhất phải nói lời tốt đẹp, làm việc có lợi thì suốt năm mới được như vậy. Khi tôi nghe ông bà căn dặn những trẻ nhỏ như vậy, tôi tự hỏi: Nếu những ngày tết không làm gì cả mà vẫn có ăn thì ngày thường không làm cũng được sung túc như vậy không? Người ta đâu biết rằng những vật chất hưởng thụ trong ba ngày tết là một sự dành dụm của một năm gian khổ làm việc. 

Thuở còn làm điệu tôi nghĩ nếu những ngày này lỡ có lầm lỗi gì cũng không bị đòn nữa, nhưng mà đâu được như vậy, thầy tôi cũng theo tập quán dân gian đó, kiêng cử những ngày tết không la rầy các điệu trong chùa nên lợi dụng những ngày đó các điệu chứng tôi tha hồ mà chơi giỡn, nhưng đâu ngờ rằng thầy chúng tôi sắp lớp để đó, sau ba ngày tết thầy tôi mang ra một lá sớ táo quân kể tội rành mạch từng đứa và mỗi điệu phải lãnh từng bản án khác nhau: quỳ nhang, nhổ cỏ...

Lớn lên tôi mới hiểu đó chỉ là một phong tục của người Trung Quốc, của người thế tục nhưng người xuất gia lại là những người chịu ảnh hưởng nhiều hơn, vì cảnh chùa trong những ngày tết là nơi để người phật tử chiêm bái, cầu phúc. Thậm chí phật tử đến chùa còn được quý thầy cô cầu chúc, những lời chúc mừng đó nghe rất là đạo vị như: "Hưởng mùa xuân Di Lạc", "Bồ đề tâm kiên cố"...,nhưng ngặc nỗi người được cầu chúc cũng không hiểu đức Di Lạc là ai, bồ đề là gì nhỉ? Có người mường tượng ngài Di Lạc là một ông bụng to lúc nào cũng vui vẻ. Thực ra lời cầu chúc đó không phải là không tốt đẹp, nhưng có lẽ đẹp hơn là vào ngày Vía đức Di Lạc chúng ta nên dạy cho phật tử biết về lược sử của một vị Bồ Tát Di Lạc thì có ý nghĩa hơn là những lời chúc thông thường mang tính truyền thống mà người đời thích nghe. 

Thực sự ngài Di Lạc là một vị Bồ Tát sinh đồng thời với đức Phật Thích Ca, được phật Thích Ca thọ ký sẽ thành phật trong tương lai, hiện tại Ngài đang là một vị Bồ Tát giáo hóa chúng sinh tại cõi trời Đâu Suất, với tâm từ bi và hỷ lạc vô lượng vô biên đối với chúng sinh nên trong vô lượng kiếp về sau, ở kiếp Thành là kiếp mà tuổi thọ con người đến 84.000 tuổi, thì Ngài được bổ nhiệm giáng sinh tại cõi Diêm Phù Đề để giáo hóa chúng sinh, vì chư Phật xuất thế đều giáng sinh tại một quốc độ trung tâm, không giáng sinh những nơi biên giới, Trung Ấn là vùng trung tâm của vũ trụ. Phật tử chúng ta ai cũng mong rằng được sinh trong thời Bồ Tát Di Lạc xuất thế, được trực tiếp nghe Ngài thuyết giảng, chỉ có mong mõi mà không thực hành thì làm sao gặp được Ngài, được dự trong pháp hội của Ngài. 
Mỗi gia đình, mọi chùa, mọi nơi...vào ngày tết truyền thống chúng ta, giàu nghèo, ít nhiều đều mua hoa dâng cúng Phật, tổ tiên hoặc chưng bày cho đẹp nhà cửa không khí vui tươi trong những ngày xuân. Rồi những cánh hoa ấy cũng theo một quy luật sinh – trụ – dị – diệt của vạn vật, lần lượt rơi rụng vào những ngày xuân trong mọi gia đình chúng ta, phật tử chúng ta nên nhận chân được thực tướng của nó, của mọi pháp là duyên khởi pháp, nhân duyên hội đủ thì hình thành, thiếu nhân thiếu duyên thì tan rả thì chúng ta đâu phải đau buồn khi mọi chuyện đến và đi, chúng ta không phải buồn nhớ cha mẹ, thầy tổ, bạn bè, quê hương...nhất là những người sống nơi đất khách phải xa nhà, xa chùa, xa tất cả những người thân...khi xuân về mà không thấy được hương vị quê hương, nhất là thiếu cành mai vàng mang nét đặc thù của xứ sở Việt Nam

Mỗi độ mai vàng nở là biểu hiện một khoảng thời gian dài lại qua đi, phật tử chúng ta nên kiểm chứng lại chính mình đã trưởng thành những gì trong đời sống chánh pháp, khi chuỗi thời gian đã không ngừng biến đổi trên xác thân tứ đại này. Chúng ta đừng để thời gian đi qua một cách vô ích khi tuổi đời chồng chất mà đường trước mênh mông không biết phải đi về đâu, mấy độ mai vàng nở mà ta vẫn chưa trở về đến nơi. 

Mùa xuân hoa nở 
Mai cúc vàng tươi 
Hương tỏa khắp nơi 
Ong bướm thảnh thơi 
Tranh nhau hút mật 
Ngày xuân đi qua 
Từng cánh hoa rơi 
Trơ trọi cành lá 

Bốn mùa đổi thay 
Lại một cành mai 
Báo hiệu xuân về 
Lòng ta não nề 
Đường về còn xa 
Ngày qua!!! 
Rồi lại ngày qua 

(Nhạc Phật Giáo chuyển mục)

Thưa quý thính giả, thưa các bạn,

Hàng năm, vào những ngày đầu năm mà cao điểm là vào dịp lễ Rằm tháng Giêng, một số Phật tử chúng taViệt Nam cũng như ở hải ngoại có thói quen đi chùa xin cúng sao giải hạn để tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ. Tập tục này hay có người còn gọi là hủ lệ có phải là một thói quen tốt của người Việt chúng ta không? Chúng tôi mời quý vị, mời các bạn nghe Hoàng Liên Tâm viết về “Cúng Sao Giải Hạn” cũng như so sánh việc này với việc cầu an và cầu siêu độ trong Phật giáo, sau một chuyến hành hương đầu năm tại quê nhà:

“Hằng năm, cứ vào dịp đầu năm Âm Lịch, nhất là tuần lễ thứ hai trong tháng Giêng mà cao điểm là ngày Rằm, người Phật tử Việt Nam và Trung Hoa thường có lệ đi chùa dâng sớ cầu an cúng sao giải hạn. Vì là ngày Rằm đầu năm nên các chùa ở trong nước cũng như hải ngọai thường tổ chức lễ rất trọng thể nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng Phật tử. Hầu như chùa nào cũng có chương trình cầu an đầu năm. Tuy nhiên vẫn còn một số chùa nhận ghi danh Phật tử cúng sao giải hạn vào ngày Rằm tháng Giêng.

Đến thăm một ngôi chùa khá lớn và nổi tiếng tại Hà Nội vào dịp đầu năm vừa qua, chúng tôi cũng thấy chương trình cầu an đầu năm từ ngày mồng tám đến ngày Rằm, có cúng sao giải hạn. Lễ Phật xong, chúng tôi vào phòng khách thăm thầy trú trì. Trong phòng cũng khá đông Phật tử đến nhờ thầy xem tuổi, xem sao hạn và ghi danh vào danh sách cần cúng sao giải hạn. Chúng tôi nghe thầy nói với một Phật tử: “Phật tử năm nay sao Thái Bạch, vào hạn khánh tận, thái bạch là sạch cửa nhà, phải dùng tám ngọn đèn hay tám ngọn nến làm lễ hướng Tây, mỗi tháng cúng vào ngày Rằm, khấn đức Thái Bạch Tinh Quân”. Tới lượt Phật tử khác và cứ như thế, người vào người ra mang trong lòng nỗi buồn vui đầu năm theo những vì sao đã an bài cho đời mình trong năm.

Tôi rời chùa mà lòng như không vui, tự hỏi ai đã đem tập tục cúng sao giải hạn vào nơi già lam, biến chốn thiền môn nghiêm tịnh thành nơi thờ cúng Thần Tiên, cầu hên xui may rủi cho con người và cũng thương thay cho những ai đặt lòng tin không đúng chỗ, trao phận mình cho người khác sử lý qua việc khấn sao xin giải trừ hạn xấu.

Thật ra, lễ Rằm Tháng Giêng, còn gọi là lễ Thượng Nguyênlễ hội dân gian ở Việt Nam, được du nhập từ nước láng giềng Trung Hoa phương Bắc. Gọi thượng nguyên là cách phân chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung nguyên (Rằm tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo mặt trăng. Theo một số sách Trung Hoa, như Đường Thư Lịch Chí, quyển 18 thì có chín ngôi sao phát sáng trên trời. Có sách nói là bảy sao, rồi về sau có sách thêm vào hai sao La HầuKế Đô. Chín vì sao đó là Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La HầuKế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch nữa thành mười sao. Chín vì sao này hay còn gọi là Cửu Diệu là các sao phối trí theo các phương, sắp xếp theo mười hai chi và ngũ hành. Theo sách này cho rằng thì hàng năm mỗi tuổi âm lịch chịu ảnh hưởng của một vì sao gọi nôm na là sao chiếu mạng. Do đó có năm gặp sao tốt, có năm gặp sao xấu. Hai sao La HầuKế Đô là sao xấu, là loại ám hư tinh vì hai sao này chẳng thấy được mặt trời.

Đó là theo tập tục dân gian vốn có từ thời xa xưa mông muội, khi mà con người cảm thấy quá bé nhỏ trước thiên nhiên, bị đủ loại bệnh hoạn mà chưa tìm ra thuốc chữa, cho là vì các vị Thần trừng phạt, nên sợ sệt trước đủ mọi loại Thần mà họ có thể tưởng tượng ra được, từ thần Sấm, thần Sét, thần Cây Đa, cây Đề, thần Hổ, thần Rắn, thần Núi, thần Sông (Hà Bá) v.v…

Nhưng căn cứ vào kinh sách liễu nghĩa của nhà Phật, theo lời Phật dạy trong Pháp Tứ Y : "y cứ theo kinh liễu nghĩa, chẳng y cứ theo kinh không liễu nghĩa", thì chúng tôi thấy không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Tuy vậy, vẫn có một số ít chùa, ở những vùng địa dư còn chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống tín ngưỡng dân gian đa thần, thì các vị tu sĩ Phật giáo cũng đành phải, gọi là tùy duyên hóa độ, tùy theo niềm tin của đa số quần chúng sơ cơ học đạo giải thoát, mà tổ chức các buổi lễ lạc, bên cạnh những nghi thức thuần túy Phật giáo, mục tiêu cũng vẫn là dùng phương tiện để hóa độ chúng sinh, từ từ chuyển tâm họ quay về bờ Giác. Ngoài ra, cũng có một số chùa ở chốn thị thành, mặc dầu biết việc cúng sao giải hạn là không phù hợp với chánh pháp nhưng vẫn duy trì, hoặc do nhu cầu phát triển chùa cần sự trợ giúp của thí chủ, hoặc vì lo ngại Phật tử sẽ đi nơi khác hay theo thầy bùa, thầy cúng mà tội nghiệp cho họ phải xa dần Phật đạo

Tại sao chúng tôi nói là không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Bởi vì tất cả họa và phước mà con người có được đều là do nhân quả của chính người ấy làm nên. Bảy ngôi sao, chín ngôi sao hay mười ngôi sao nói ở trên là do chính con người đặt tên và vẽ cho mỗi ngôi sao mang một đặc tính, chứ đức Phật không hề nói về chúng. Ngài dạy chúng ta về nhân quả. Ngài dạy rằng không có quả nào từ trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất hiện lên, mà đều do các hành động qua thân, khẩu và ý của con người tạo ra. Con người tạo nhân tốt lành thì quả tốt lành nhất định đến. Thí dụ như chúng ta muốn có cam ngọt thì chúng ta phải chọn giống hay chiết cành từ cây cam ngọt, như cam Texas chẳng hạn. Thêm vào đó chúng ta phải chăm sóc, bón phân, tưới nước đúng thời kỳ, thì thế nào chúng ta cũng sẽ hái được cam ngọt. 

Tương tự như vậy, mọi sự thành công hay thất bại trong đời của mỗi người không phải do ai ban phát cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta tạo tác sẽ trổ quả xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ qủa tốt. Nhà Phật có câu “muốn biết thời quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà chúng ta đang lãnh. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”; Tuy nhiên, nhân quả không đơn thuần mà rất đa dạng, trùng trùng, chẳng phải chỉ do trực tiếp ở đời hiện tại mà lại có thể do ảnh hưởng từ nhiều đời trong quá khứ, ngoại trừ những người tu hành liễu đạo, tới được trạng thái "Tâm Không" thì: "Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không"(Vĩnh Gia Huyền Giác). 

Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng. Phật giáo dạy rằng bất luận việc gì xảy đến cho chúng ta, đều do một hay nhiều nguyên nhân, chớ không do ngẫu nhiên, thời vận hên xui hay số mạng an bài. 

Đối với Phật giáo, không có ngày nào xấu, mà cũng không có ngày nào tốt, mà cũng không có sao hạn xấu tốt. Nếu ta đi coi xăm, bói quẻ, coi sao, coi hạn, thầy nói ngày ấy tốt mà lại đi làm những chuyện không tốt lành, như ăn trộm, gây gỗ, đánh nhau, giết người, chắc chắn chúng ta sẽ bị pháp luật trừng trị và ngày tốt do ông thầy nói ấy trở thành ngày xấu ngay. Như vậy ngày tốt, ngày xấu không có cơ sở, chỉ là do con người bày ra mà thôi. Lại thí dụ có hai đạo quân giao tranh, đều chọn ngày tốt và giờ hoàng đạo ra quân, vậy mà chỉ có một bên thắng, và cả hai bên, dù thắng dù thua, cũng đều có tử sĩ và thương binh. Chọn ngày tốt mà làm việc giết người thì quả trổ ra sẽ có chết chóc là vậy.

Đối với sự cúng sao giải hạn, nếu chỉ mua sắm lễ vật mang lên chùa để xin thầy cúng sao La Hầu, Kế Đô hay Thái Bạch gì đó để giải hạn xấu giùm thì nghịch lại lý Nhân Qủa. Nếu vị thầy cầu xin đức Thái Bạch Tinh Quân, đức La Hầu Tinh Quân, … tha tội, giải hạn xấu nổi thì những người giầu có cứ tạo ác rồi sau đó xin thầy cúng sao giải hạn cho tai qua nạn khỏi, cho khỏi bị tù tội, tạo nhân ác mà hưởng được quả thiện, thì toàn bộ nền đạo lý xây dựng trên quan điểm về lý Nhân Quả mà nhà Phật rao giảng phải sụp đổ sao?

Có người hỏi rằng, nếu chỉ tin vào quy luật Nhân Quả thì có nên cúng bái Cầu Siêu, Cầu An không?

Xin thưa, cúng bái Cầu Siêu, Cầu An khác với cúng Sao giải hạn.

Trường hợp Cầu Siêu, đó là một hình thức tưởng niệm người đã qua đời, với tâm thành ước mong thần thức người quá vãng được sanh về nơi tốt đẹp. Chuyện lời cầu có được đáp ứng hay không thì chưa ai chứng minh bằng khoa học được. Nhưng lòng thương nhớthân nhân dành cho người quá vãng nếu được biểu lộ bằng những buổi lễ trang nghiêm, với niềm tin tưởng thành kính, chí tâm cầu nguyện cho người quá vãng, thì nếu như thần thức người quá vãng còn trong trạng thái thân trung ấm, sẽ có thể có cảm ứng tốt mà vơi đi nỗi buồn rầu, lo sợ, sân hận, có thể tạo được cơ hội cho nghiệp lành dẫn dắt mà tái sanh.

Ngay như những buổi cúng giỗ, nếu gia đình người quá vãng có thể thiết lễ trên chùa, cùng nhau vì người quá vãng mà tụng một thời kinh, dùng một bữa cơm chay tịnh, thì ngoài biểu tượng của lòng hiếu thảo từ con cái hướng lên cha mẹ, hoặc tình thương mến đối với người thân nhân đã qua đời, cũng còn là một duyên lành của những người tham dự với nhà Phật khởi lên từ kỷ niệm đối với người quá vãng.

Còn trường hợp lễ Cầu An thì chúng tôi thiết nghĩ, nếu muốn có được kết quả tốt thì chính người bệnh phải cùng với thân nhân tham dự buổi lễ. Mà phải tham dự với tâm niệm chí thành. Người bệnh và tất cả thân nhân đều đồng tâm chí thành tụng niệm, thì ngay trong những giờ phút chí thành đó, tâm họ đã thanh tịnh. Nhà Phật quan niệm rằng tất cả Thân và Tâm đều vô thường, cho nên khi Tâm chuyển thì nghiệp chuyển, nghiệp chuyển thì bệnh chuyển. Bệnh là do Thân, Khẩu, Ý Nghiệp xấu tạo nên.

Có câu: "Tâm được tịnh rồi, tội (nghiệp) liền tiêu".

Vậy muốn Cầu An cho có kết quả thì ngoài vị thầy, chính người bệnh và thân nhân phải cùng nhau hành trì để cho Tâm được tịnh. Sự kiện thân nhân nên cùng tụng niệm là để cho người bệnh được tăng trưởng niềm tin khi thấy có bạn đồng tu, chứ nhân vật chính vẫn phải là người bệnh. Còn như chỉ đưa tiền cho vị thầy để nhờ thầy tụng niệm giùm, rồi xoa tay hoan hỉ về nhà chờ kết quả thì trái quy luật nhân quả. Vị thầy tụng niệm thì Tâm thầy tịnh, người bệnh không được ảnh hưởng, ngoại trừ chút hy vọng.

Đức Phậtvị đạo sư, Ngài không làm chuyện bất công là ban phước hoặc giáng họa cho ai, đã dạy chúng ta rằng phải tạo nhân lành để hưởng quả tốt trong Nhân Thừa. Rồi Ngài dạy chúng ta con đường để thăng tiến trong năm Thừa của nhà Phật, từ Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác ThừaBồ Tát Thừa, rồi đi tới giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.

Quý vị tu sĩ trong đạo PhậtTrưởng Tử Như Lai, hiển nhiên là phải nối tiếp bước chân của Đức Phật mà soi chiếu Ánh Đạo Vàng cho Phật tử, dạy Phật tử những điều Phật dạy trong kinh. Quý vị tu sĩ Phật giáo không phải là những người môi giới giữa Thần Thánhtín đồ như tu sĩ của một số tôn giáo khác, tự nhận là có thể cầu xin Thần Thánh ban ơn giáng họa được. Chúng ta cần dùng trí tuệ để hiểu rõ con đường Giải Thoát của nhà Phật.

Trong kinh Phật Giáo Nguyên Thuỷ (kinh Trường Bộ), Đức Phật đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, những người đã thọ dụng sự cúng dường của tín thí Phật tử, không nên thực hành những tà hạnh như: “chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem địa lý, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng mờ, … sắp đặt ngày lành để đưa (rước) dâu hay rể về nhà, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước, …” 

Ngoài ra, cũng trong kinh Nguyên Thuỷ (Giải Thoát Kinh), Đức Phật đã dạy về giáo pháp của chư Phật. Ngài dạy rằng:

“Ai hành trì chánh Pháp
cúng dường Đức Phật
Bằng cách cao quí nhất
Trong các sự cúng dường…”

Pháp mà Ngài dạy có thể tóm lược trong ba điều, đã trở thành quen thuộc với mọi người Phật tử:

“Không làm các việc ác
Siêng làm các việc lành
Thanh tịnh hoá tâm ý…”

Như vậy, nếu mỗi Phật tử đều hành trì ba điều Đức Phật dạy kể trên thì giờ nào, ngày nào, tháng nào hay năm nào cũng đều là giờ hoàng đạo, là ngày tốt, tháng tốt và năm tốt cả; đâu cần phải đi nhờ thầy cúng sao giải hạn nữa. Và hành trì như thế mới là cách cúng dường cao quý nhất trong các cách cúng dường Đức Phật..."

(Nhạc Phật Gíao chuyển mục)

Thưa quý vị, thưa các bạn,
thời lượng phát thanh có hạn nên chương trình của chúng tôi đến đây là tạm ngưng, xin hẹn quý thính giả vào lần phát thanh tuần tới. Quý vị và các bạn có thể xem các bài này cùng các kinh sách Phật Giáo tại website: www. thuvienhoasen.org Thư từ liên lạc xin e-mail về: thuvienhoasen@yahoo.com

Chúng tôi trân trọng kính chào toàn thể quý thính gỉa và các bạn. Kính chúc quý vị và quý bạn một năm mới vô lượng an lạc, vạn sự kiết tường như ý.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Ban Biên Tập



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
15/10/2010(Xem: 14616)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.