05. Bình Đẳng Và Cấp Bực Trong Đạo Phật

15/10/201012:00 SA(Xem: 18596)
05. Bình Đẳng Và Cấp Bực Trong Đạo Phật

CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH PHẬT GIÁO
DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH

NỘI DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 05
BÌNH ĐẲNG VÀ CẤP BỰC TRONG ĐẠO PHẬT
(Nghe audio bấm vào hàng chữ này)

Thưa quý thính giả,

Trong chương trình truyền thanh hôm nay, chúng tôi mời quý vị, mời các bạn nghe hai bài pháp ngắn, một bài nói về chứng bệnh cô đơn và cách trị liệu chứng bệnh này của Đức Đạt Lai Lạt Ma do Chân Huyền chuyển ngữ và một bài viết về Bình Đẳng và Cấp Bực Trong Phật Giáo, do một độc giả từ Texas gửi cho chúng tôi.

Thưa quý vị, thưa các bạn:

Khi được hỏi: Có bao giờ ngài cảm thấy cô đơn không? Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời KHÔNG! Sau đây là lời giải thích của ngài: 

“Tôi nghĩ rằng một yếu tố khiến cho tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn vì tôi thường nhìn vào các khía cạnh tích cực của những người mà tôi được gặp gỡ. Tôi ráng tìm nơi họ những điểm tốt lành. Thái độ đó khiến cho các người kia có cảm tình và muốn liên hệ với tôi ngay.” 

“Một phần cũng có thể vì tôi ít khi muốn thu góp, nắm giữ cái gì, tôi cũng không sợ, không lo rằng cách hành xử của mình có thể khiến người kia không kính trọng hoặc coi tôi như người khác lạ... Có lẽ vì không mong cầu và cũng không sợ hãi, nên khi tiếp xúc với người khác, tôi thường có thái độ cởi mở. Theo tôi, đó là lý do chính khiến tôi không bị cô đơn bao giờ.” 

"Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh với giọng nói quả quyết khi nói về chuyện chữa trị chứng bệnh cô đơn

“Tôi tin rằng điều căn bản tiên quyết là bạn phải hiểu rõ về những lợi ích do lòng từ bi đem lại. Đó là điểm then chốt. Khi bạn không còn nghĩ rằng thứ tình thương rộng lớn đó là chuyện trẻ con, là cảm xúc nhất thời... và bạn bắt đầu hiểu thấu được ý nghĩa sâu xa của lòng từ bi, thì bạn mới thấy nó hấp dẫn, đáng để tâm lực và thì giờ nuôi dưỡng nó.” 

“Một khi bạn khích lệ các tư tưởng từ ái trong tâm; một khi tâm từ bi biến thành hành động, thì thái độ của bạn đối với người khác tự động sẽ thay đổi. Khi tiếp xúc với người khác với cái tâm từ bi, bạn sẽ không còn sợ hãi, giữa hai người chỉ có sự cởi mở chân thành. Ngay lập tức bạn tạo ra được bầu không khí thân tình và dễ chịu với họ. Thái độ đó sẽ giúp bạn có được những mối liên hệ tốt đẹp, thân thiết. Dù cho người kia chưa sẵn sàng, không thân thiện, thì chính nhờ vào thái độ cởi mở nơi mình mà bạn có thể sẽ uyển chuyển được trong các giao tiếp khó khăn ấy. Ít nhất bạn có thể trao đổi một câu chuyệný nghĩa với người đó được.” 

“Nếu không có lòng từ bi, nếu bạn khép kín, bứt rứt hay lạnh lùng, thì dù cho gặp người thân nhất, bạn cũng vẫn cảm thấy khó chịu... tôi cho rằng đa số chúng ta khi tiếp xúc với ai, thường mong đợi đối phương có thái độ tích cực trước, mà ít khi tự mình hiến tặng người kia thái độ đó. Đó là điều sai lầm vì nó chỉ đưa tới cái rào cản, thúc đẩy cảm giác lẻ loi cho chính mình mà thôi.” 

“Nếu bạn muốn hết cô đơn, thì bạn phải chú ý tới cái nền tảng căn bản của trạng thái đó. Tiếp xúc người khác với lòng Từ Bi là cách tiếp xúc tốt đẹp nhất.” 

Khi bác sĩ tâm lý Howard Cutler hỏi Đạt Lai Lạt Ma coi có phương pháp và kỹ thuật nào hữu hiệu nhất cho sự giao tiếp giữa người này với người kia được tốt đẹp, ít trở ngại... thì ngài cười, như thể câu hỏi quá vu vơ. Đạt Lai Lạt Ma cho rằng: 

“Liên hệ giữa người với người là một vấn đề khá phức tạp. Làm sao chúng ta có thể có một giải pháp chung như một thứ “công thức” được? Nó giống như khi ta làm bếp. Ta cần nhiều thực phẩm và phải có nhiều giai đoạn mới nấu nướng được một bữa cơm ngon lành. Muốn có liên hệ tốt đẹp với người khác, chúng ta cũng cần để ý tới nhiều yếu tố. Không thể nói: “Đây là phương pháp, đây là kỹ thuật giao tiếp”! 

“Điều căn bản không thể thiếu trong liên hệ giữa người với người là lòng từ bi, trong đó, sự cảm thông, đồng cảm là một yếu tố quan trọng. Khi có khó khăn trong một liên hệ nào đó, chúng ta nên đặt mình vào địa vị của đối phương để có thể hiểu họ hơn, có lòng kính trọng họ và giảm thiểu bớt các lực chống chọi nhau...” 

Đạt Lai Lạt Ma cho biết khi ngài gặp gỡ một người nào, ngài cũng nhớ tới những điểm ngài và người kia giống nhau, chẳng hạn như cả hai đều có tình cảm, trí óc, cả hai đều muốn vui, không muốn khổ... Ngài đến với người khác bằng cái nhìn thiện cảm vì có những tương đồng, chứ không để ý tới những khác biệt về màu da, chủng tộc hay tôn giáo... 

Theo ngài “muốn giao tiếp khéo léo và thành công với người khác, ta cũng nên biết về căn bản, về cội nguồn của con người đó. Ta cần cởi mở và thành thật, đó cũng là những yếu tố cần thiết trong các giao tiếp.” 

Ngài cho biết ngày còn nhỏ ở thủ đô Lhasa xứ Tây Tạng, sau các buổi họp nhức đầu với hội đồng nội các, ngài thường về phòng chia sẻ đủ chuyện với những người dọn phòng! Ngài tự diễu mình về chuyện này, rồi nói tiếp: “...Có thể vì bản chất tôi như thế, với ai tôi cũng trao đổi trò chuyện được, nên không bao giờ tôi cảm thấy cô đơn”. 
... 
Đạt Lai Lạt Ma cho rằng “muốn hiểu được các khó khăn trong sự tương giao, đầu tiên chúng ta cần hiểu về bản chất của mối liên hệ đó. Chẳng hạn như trong tình bằng hữu, có nhiều loại: Nếu tình bạn bắt nguồn từ vấn đề tiền tài, quyền lực hay địa vị thì khi những thứ đó hết, tình bạn cũng tàn. Nếu tình bạn không liên hệ gì tới những thứ kể trên, chỉ là tình cảm thuần túy giữa hai con người gần gụi nhau và muốn chia sẻ với nhau mọi thứ - thì tôi cho đó là tình bằng hữu tinh nguyên. Nó không bị phai nhạt dù cho tiền tài, danh vọng tăng tiến hay giảm thiểu.” 

(Nhạc Phật Giáo chuyển mục)

Thưa quý thính giả, thưa các bạn, có nhiều người thắc mắc về cấp bực trong Phật Giáo, về các chức danh trong đạo Phật, nào Thượng Tọa, nào Hoà thượng… Chúng tôi mời quý thính giả và các bạn thưởng thức bài viết với tựa đề là “Bình Đẳng và Cấp Bực Trong Phật Giáo” của một độc gỉa gửi cho chúng tôi từ tiểu bang Texas. 

"Đức Phật triệt để chống sự phân chia giai cấp, ngài chủ trương tất cả mọi người đều bình đẳng, đều có Phật tánh. Không ai vừa sinh ra đã là người tôn quý, hoặc hạ tiện. Chỉ có công phu tu hành, chứng đắc, mới là cao hơn kẻ còn chìm đắm trong sông Mê bể Khổ. 

Phật giáo đã chia ra hai loại đệ tửXuất giaTại giaĐệ Tử Xuất gia, giữ 10 giới gọi là Sa Di, giữ 250 giới gọi là Tỳ khưu. Nữ tu sĩ giữ 348 giới gọi là Tỳ Khưu Ni. 

Đệ tử tại gia, giữ 5 giới, gọi là Ưu bà Tắc, phái nữ gọi là Ưu bà Di
Cả hai hàng đệ tử, xuất giatại gia, đều có thể giữ Bồ tát giới, nếu tự nguyện thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, Vô Ngã, Vị Tha, xả thân để cứu chúng sinh

Hàng xuất gia từ giã thân quyếnthế tục, cắt tóc vào chùa, sống đời sống độc thân, có nhiệm vụ hoằng dương Chánh Pháp, lãnh đạo tinh thần

Hàng tại gia còn có gia đình và bổn phận đối với xã hội, có nhiệm vụ hộ pháp, cung cấp các nhu cầu, vật thực cho hàng xuất gia

Mỗi bên đều có địa vị, nhiệm vụquyền hạn riêng biệt, không dẫm chân lên nhau mà trái lại phải kính nể, ủng hộ lẫn nhau. Đức Phật thường ví hai hàng đệ tử xuất giatại gia như hai cánh của con chim, có đủ cả hai thì mới hoạt động đắc lực được. Ngài nhấm mạnh tinh thần bình đẳng của hai hàng dệ tử, không phải chỉ có hàng xuất gia mới tiến tuchứng ngộ, mà hàng tại gia cũng có những người đắc đạo như cư sĩ Duy Ma Cật, được tất cả các hàng Bồ tát, Thanh văn đều kính trọng ngợi khen

Dĩ nhiên hàng xuất gia dễ tu, dễ chứng hơn hàng tại gia vì có đủ điều kiện thuận tiện tu hành, còn hàng tại gia thì còn nhiều chuyện ở đời phải lo: Tìm kế sinh nhai, dậy dỗ con cái, bổn phận công dân, tiếp đãi thân quyến, bạn bè, cúng dường chư Tăng… Thời gian dành cho việc tu hành đã không bao nhiêu, lại còn bị đời quyến rũ, thật khó tu hơn hàng xuất gia nhiều lắm. Do đó đã có câu: 
 “Khó nhất là tu tại gia, khó nhì tu chợ, khó ba tu chùa.” 

đức Phật chủ trương bình đẳng nên các đệ tử của ngài đều dùng hai chữ Mô Phật hay sáu chữ hồng danh: Nam Mô A Di Đà Phật để chào hỏi nhau, ví như con cùng cha, đều là anh em, không hơn không kém. Hàng xuất gia mỗi khi gặp nhau thường hỏi ai nhiều tuổi hạ ngồi trên, gọi là Thượng tọa, ai kém tuổi hạ thì ngồi dưới. Danh từ Thượng Tọa chỉ đặc biệt dành riêng để dùng cho các buổi họp, sau khi bế mạc thì không còn dùng nữa, các vị xuất gia chỉ nhận là Tỳ kheo mà thôi. Danh từ Tỳ kheo đã có đầy đủ sự cao quý của nó, qua ba định nghĩa: Khất Sĩ, Phá Ác và Bố Ma, hà tất gì không dùng, lại sử dụng những danh từ như Thượng Tọa, Đại Đức… chỉ làm tăng lòng tự cao, tự đại, mắc kẹt trong hình danh, sắc tướng của thế tục là nơi các ngài đã quyết tâm từ bỏ

Hàng đệ tử tại gia, khi nói với hàng xuất gia, thường tôn xưng các Tỳ kheoThượng Tọa, Đại Đức để tỏ lòng tôn trọng, cung kính nhưng không biết rằng các hư danh đó có thể chạm lòng khiêm tốn của các vị chân tu, tránh kiêu mạnchấp ngã. Các vị Tỳ kheo đạo cao, đức cả, với tinh thầm diệt ngã, vị tha, không ưng xưng là Thượng Tọa, Đại Đức, mà chỉ khiêm tốn nhận là Tỳ kheo mà thôi, mỗi khi nói chuyện với hàng tại gia, các ngài thường xưng là Bần Tăng, Bần Ni…các ngài ít ký tên với các danh hiệu như Thượng Tọa, Đại Đức, hay chức vụ: Chủ tịch, Tổng vụ trưởng, Tiến sĩ Tổng vụ Trưởng v.v… để diệt lòng ngã mạn, kiêu căng và cũng tránh sự ghen ghét của người đời. 

Đức Phật chống sự phân chia cao thấp do giai cấp, do hệ thống cầm quyền, chống sự phân biệt chủng tộc, chống sự kiêu căng ngã mạn của những người có địa vị cao trong xã hội. Ngài chỉ chấp nhận sự hơn kém trong công phu tu hành chứng ngộ mà thôi. Trong Giáo hội của ngài có những đệ tử xuất thân từ những giới mà xã hội Ấn Độ lúc đó coi là giai cấp hạ tiện, như làm nghề hốt rác, đổ thùng, xấu xa, hèn kém; nếu những vị đó được đức Phật xác nhận là đã chứng quả A La Hán thì được ngồi trên và được các Tỳ kheo, Quốc vương, Đại thần lễ lạy, cúng dườngTrái lại, những vị xuất gia tu hành cầu danh không chứng đắc thì dù xuất thân từ giới cao sang, quyền quý cũng phải ngồi dưới và tuân theo lời chỉ dạy của các bậc A La Hán 

Về phía các đệ tử tại gia cũng vậy, một số đi chùa để mưu cầu danh lợi, chức tước, địa vịcuộc đời không đưa lại cho họ. Lấy cảnh chùa làm chỗ hội họp, vui chơi, mua bán, không phân biệt phải quấy, ủng hộ các vị kiêu tăng phạm giới, không chú tâm vào việc sám hối cho bớt tội lỗi, nghiệp chướng tích lũy từ vô thỉ đến nay, không giữ giới luật, không tụng kinh trì chú cho ba nghiệp được thanh tịnh lại còn đem các mê tín dị đoan vào chùa như xin xâm, bói quẻ, lên đồng… thì thật là đã làm ô danh Phật giáo, sai lạc hẳn con đường cao quý của Đức Thế Tôn hướng về giác ngộ giải thoát

Nếu những người có trách nhiệm lãnh đạo các hội đoàn Phật giáo mà không tự tu, tự giác, dùng bản thân làm gương mẫu cho người khác, thì hỏi làm sao còn hưóng dẫn cho người khác theo mình, nhất là giới thanh, thiếu niên đầu óc còn trong trắng, có nhiệt tâm muốn tìm hiểu đạo Phật, nhưng không thể chấp nhận những người lãnh đạo mà không đủ tư cách

Luật nhà Phật bình đẳngcông bằng, ai tu nấy chứng, ai chứng thì được giải thoát, không ai tu giùm người khác được. Những ai còn kẹt trong vòng danh lợi, tuy đã xuất gia nhưng chỉ mong có chùa to, tượng lớn, có địa vị quan trọng, có nhiều đệ tử cung phụng mà không chịu giữ gìn giới luật, chẳng thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, Vô Ngã, Vị tha và những điều căn bản cội rễ của đạo Phật thì dù có che mắt được thế gian, sau khi mãn kiếp Ta Bà này, làm sao dám diện kiến Đức Phật là đấng Chánh Biến Tri? 

Kính mong tất cả những người con Phật, dù xuất gia hay tại gia, hãy sáng suốt nhận định tính cách bình đẳng trong đạo Phật, mà tự tu, tự giác rồi giác tha, lợi tha; mỗi ngày hãy bỏ ra vài phút để tự hỏi: Ta đã làm những tội gì? Phạm giới gì? Đã tạo công đức nào? Giúp đỡ những ai…rồi thành tâm sám hối, từ bỏ các ràng buộc thế gian như tiền bạc, danh lợi, ăn ngon, ngủ ấm, sắc đẹp , tức là Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy, gác ngoài tai những xưng tụng giả dốiquyết tâm giữ gìn giới luât, giữ thân tâm trong sạch và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh
Chỉ có vậy, chúng ta mới xứng đáng là Phật tử, là con của Phật. "

Ban Biên Tập

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
15/10/2010(Xem: 14616)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.