Phật Giáo Trong Thế Kỷ mới Tập 1

01/09/20163:34 CH(Xem: 6585)
Phật Giáo Trong Thế Kỷ mới Tập 1

PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ MỚI
PHẬT LỊCH 2540 – GIAO ĐIỂM
Tuyển tập 1

phat giao trong the ky moi tap 1Với các bài viết của Minh Chi - Huyền Cương – Võ Đình Cường – Thích Trung ĐạoThích nữ Karuna Dharma – Bùi Mộng Hùng - Trần Tuấn Mẫn – Đào Nguyên - Trần Chung Ngọc - Hồng Ngọc - Quán Như – Lý Nguyên Quân – Lê Văn Tâm – Cao Huy Thuần – Thích Chơn Thiện – Tinh Tiến.

* * *

In lần thứ nhất tại California, Hoa Kỳ, tháng 12/1996.
Trách nhiệm thực hiện: Tôn Thất Duy, Tâm Hòa, Thanh Nguyên, Hoàng Phấn, Trung Phong.
Phụ trách biên tập: Trần Văn Chi, Phan Mạnh Lương, Đặng Phương, Hồng Quang, Đỗ Hữu Tài.
Sửa bản vi tính lần 2, tháng 8/2004: Nguyên Định.

Mục Lục

Dẫn Nhập

Thư Ngỏ

Các chủ đề gợi ý

PHẦN MỘT: TỔNG QUAN

1. Phật giáo Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21. Lý Nguyên Quân

2. Phật giáo: sinh lộ cho nhân loại?. Tinh Tiến

3. Những vấn đề trước mắt đối với Phật giáo Việt Nam. Thích Trung Đạo

4. Phật giáo Việt Nam thế kỷ 21. Minh Chi

5. Những đại pháp nạn của Phật giáo Việt Nam. Hồng Ngọc

PHẦN HAI: GIÁO DỤCĐÀO TẠO

1. Vai trò của giáo dục trong hướng phát triển của Phật giáo. Thích Chơn Thiện.

2. Một số nhận định về việc giáo dụcđào tạo Tăng Ni. Trần Tuấn Mẫn

3. Sự huấn luyện tu sĩ Tây Phương.Thích Nữ Karuma Dharma

4. Dịch, tụng, giảng kinh và tiến hành nghi lễ Phật giáo bằng tiếng Việt. Huyền Cương Lê Trọng Cường.

5. Ngợi ca trí tuệ tột cùng hay là Bát nhã diễn ca. Huyền Cương Lê Trọng Cường.

6. Sự đóng góp của người cư sĩ Phật tử trong công cuộc phát triển Phật giáo. Võ Đình Cường

7. Đạo Phật có thể đem lại những gì cho giáo dục ngày nay. Bùi Mộng Hùng

PHẦN BA: XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

1. Sự gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc Việt Nam nhìn ở góc độ văn học. Đào Nguyên.

2. Kinh tế Phật giáo. Quán Như

3. Đạo Phật đối với vấn đề phát triển lâu bền và bảo vệ môi trường. Lê Văn tâm.

PHẦN BỐN:  DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO 

1. Ta với ta. Cao Huy Thuần.

2. Phật giáo Việt Namvấn đề giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc. Trần Chung Ngọc

Dẫn Nhập :

 

Từ nhiều năm nay, cuộc sống hiện thực của những người con Phật tại nước ngoài hầu như lúc nào cũng bắt họ phải đối diện với một số vấn đề nhân văn phức tạp: Làm thế nào để vận dụng được những lời Phật dạy vào cuộc sống trong một mội trường văn hóa xa lạ với truyền thống của họ? Tại sao những xã hội Tây phương cực kỳ tiến bộ về trình độ khoa học kỹ thuật lại bắt đầu khước từ những giá trị tâm linh nội sinh và lâu đời để quay tìm tới các nguồn đạo học Đông phương? Phật giáo Việt nam, như một bộ phận khăng khít của dân tộc, phải chuyển hóa như thế nào để bước nhịp nhàng với những chuyển đổi sâu rộng hiện nay của đất nước và thời đại? Những lực vận động nào sẽ định hình và định tính các định chế Phật giáo Việt Nam trong tương lai qua sứ mạng hoằng dương Chánh pháp? Và còn nhiều nữa, những vấn nạn lớn và nhỏ, những quan tâm gần và xa, những âu lo có cơ sở hoặc thuần cảm tính. Biểu hiện lên mặt nỗi là những lời cảnh giác và dự báo, những công trình nghiên cứulý luận, những buổi hội thảo và mạn đàm, những nỗ lực vận động và tổ chức… của cả ở trong lẫn ngoài nước, từ cả giới xuất gia lẫn tại gia, do cả ba Tông phái lớn tại Việt Nam là Thiền, Mật và Tịnh. Tất cả, nhiều lúc tích cực nhưng không phải không có lúc thật tiêu cực, đan kết và chồng chéo lên nhau như một bức tranh vạn hoa nhiều màu sắc và hình khối, để làm rõ nét một xu thế chung: Đã đến lúc phải nhìn lại chính mình trước tấm gương lạnh lùngtrung thực của sự thật. Đã đến lúc phải biết phân biệt để củng cố cái gì là bất biến và phát huy cái nào là tùy duyên. Bằng trí tuệ Bát Nhã và bằng tâm nguyện Bồ Tát.

      Do đó, trong quá trình thực hiện

      Tuyển tập Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan-Phao Lồ II

      (http://www.giaodiemonline.com/sach_detail.php?sachid=81 )

      để làm sáng tỏ một số ngộ nhận và đính chính những sai lầm của vị chủ chiên Thiên Chúa giáo La Mã về đạo Phật, Giao Điểm cũng đã lấy quyết định song song hình thành một diễn đàn chung dưới hình thức những tuyển tập liên hoàn, không phải như một phản ứng tự phê tự kiểm, mà để liên tục và có hệ thống, trình bày những vấn đề của chính tôn giáo mình, trong mục đích đóng góp vào nổ lực truy tìm một định hướng khế lý và khế cơ, khả thể và khả dụng, cho đường lối phát triển Phật giáo trước thế kỷ mới.

      Lẽ dĩ nhiên, trong quy trình đóng góp vào việc phác thảo định hướng to lớn và lâu dài đó, không có gì là không quan trọng dù đó là ý kiến cụ thể về một vấn đề thực dụng, cũng không có gì là không đáng nói hoặc không được nói dù đó là cuộc mổ xẽ khắc nghiệt để nhận diện những con sư tử trùng nội sinh. Muốn minh Tâm thì phải kiến Tánh, để giải phóng ra khỏi gông cùm thì trước hết phải nhìn cho rõ cái gông cùm, và càng phải nhìn lại chính mình một cách nghìn lần rõ ràng hơn. Một cái nhìn triệt để toàn diệntích cực.

      Và cũng lẽ dĩ nhiên, định hướng đó phải nằm trong tọa độ đủ lớn cho cả nhân loại, vì biển khổ thì không ngừng lại trước các biên giới thiên nhiên hay chủng tộc, nhưng cũng phải vừa đủ nhỏ cho từng chúng sinh để mỗi người có thể tự mình thắp đuốc mà một mình đáo bỉ ngạn. Đâu đó giữa hai tọa độ nầy là một đạo Phật Việt Nam trong lòng một tổ quốc Việt Nam, mà quá trình lớn dậy của hai thực thể này đã là một gắn bó tương thông và hòa hài, nương dựa và bất khã phân ly, từ lúc bắt đầu cùng hiện diện đã hai nghìn năm nay cho đến một thiên niên mới đang trải dài trước mắt. Cho nên nội dung của những đóng góp vào nỗ lực định hướng này cũng đã, tự thân và chủ yếu, xuất sinh từ những gốc rễ văn hóalịch sử đặc thù Việt Nam. Nghĩa là mang bản sắc Việt Namtương ứng với hiện thực Việt Nam. Một hiện thực có cả một dân tộc, trong đó có Phật giáo Việt Nam, đang tự mình từng bước chủ động thoát ra khỏi chu kỳ ngoại thuộc và chậm tiến, để lẫm liệt chấp nhậnquyền biến giải quyết các thách thức sinh tử của thời đại.

      Để cung ứng điều kiện trình bày cho những đóng góp có nội dung liên hệ đến một định hướng như thế, công việc hình thành một diễn đàn đáng lẻ phải quy mô hơn và hùng hậu hơn. Cần nhiều công sức và phương tiện hơn. Nhưng Giao Điểm, với những giới hạn và khó khăn mà ai cũng biết, vẫn đứng ra nhận lãnh công việc nầy như viên đá lót đường cho cả đoàn người đi tới. Chỉ bằng tấm lòng sắt son với dân tộc, và niềm tin vững chắc vào Chánh pháp.

      Từ cuối xuân năm 1996, lúc bắt đầu phổ biến Lá Thư Ngỏ và các Chủ Đề Gợi Ý để kêu gọi sự đóng góp vào Tuyển Tập 1, Giao Điểm đã nhận được những đáp ứng rất thuận lợi cả ở trong lẫn ngoài nước, thậm chí có bài viết gửi đến cho chúng tôi chỉ trong vòng hai tuần lễ sau đó. Tuy nhiên, cũng có những thân hữu đến nay vẫn chưa thấy hồi âm như đã hứa. Có nhiều lý do giải thích sự ngần ngại nầy nhưng đáng nói hơn cả, nên do đó cần làm rõ ra ở đây, là vì hai lý do sau:

  • Thứ nhất là lý do nhận diện. Nhiều Phật tử trong nước không biết, hoặc chưa hiểu, chủ trương và đường lối của Giao Điểm như thế nào nên chưa muốn có quan hệ với một hoạt động ngoài nước, dù quan hệ đó chỉ là những tư duy dưới hình thức một bài viết. Còn tại hải ngoại vì một số xuyên tạcngộ nhận, Giao Điểm cũng đã không được biết rõ như thật là nó, nên hợp tác với Tuyển tập sẽ tạo ra một số phiền lụy cho cá nhân người viết bài. Chúng tôi xin nhân dịp nầy để xác định cho rõ điều đã thể hiện rõ ràng trên Tạp chí Giao Điểm, nhất là các số gần đây, và qua các hoạt động nhân đạogiáo dục y tế từ 5 năm qua của Giao Điểm Foundation ở trong nước, là với tư cách của những Phật tử Việt Nam, chúng tôi chỉ muốn quan tâm chia xẻ và đóng góp vào những thao thức, những thăng trầm, những cơ hội và thách thức mà cả dân tộc 77 triệu người trong và ngoài nước đang kinh qua. Để từ đó góp phần xây dựng một đạo Phật có thêm người tu và hành đúng Chánh pháp trong một nước Việt Nam có dân giàu, có nước mạnh, có một đời sống có văn hóa, trong một xã hộivăn minh.

  • Thứ hai là lý do thái độ. Một số thân hữu phân vân không biết phải “nhìn lại mình” như thế nào để tránh gây thêm những rạn nứt, những khó khăn, những đau đớn vốn dĩ đã ít nhiều hiện diện và huấn tập từ lâu. Đó là một thái độ thật sự đáng tôn trọng nhưng e rằng có thể chỉ sẽ làm trầm trọng thêm một căn bệnh vốn đã bước qua thời kỳ trầm trọng rồi. Người Mỹ có câu “Muốn làm trứng ôm-lét thì không thể không đập vỡ cái vỏ”. Huống gì điều chúng ta đang làm không phải là đập một cái vỏ, vốn chỉ là một phương tiện thiện xão, mà là với thành tâmthiện ý, góp sức lau chùi cho sạch những bụi bặm oan nghiệt để cái trứng lại thật sự trở thành cái trứng mà thôi. Nhưng đạo Phật không phải trứng mà cũng chẳng phải vỏ, vì để tiếp tục ví von, thì đạo Phật phải như một viên kim cương bất hoại, càng chùi bụi thì ánh sáng càng óng ánh, chứ ai đập vỡ được nó bao giờ.

 Ngoài ra, là một phần tử rất nhỏ trong cộng đồng dân tộc, nhưng nhờ sự trong sáng trong công việc và lương thiện trong tình ý, nên Giao Điểm có được cơ duyên tiếp cận trực tiếp với cả trạng huống trong nước lẫn tình hình trên thế giới, do vậy, ở một giới hạn nào đó, chứng nghiệm, cảm nhận và đối chiếu được những thay đổi sâu rộng trong định hướng học thuật và hành xử văn hóa tại nước ngoài mà độc giả trong nước có thể chưa trực tiếp cảm nhận cụ thể được. Chúng tôi muốn đề cập đến cuộc phản tỉnh tư duy sâu sắc và rộng lớn của giới trí thức Tây phương trước sự phá sản các giá trị tôn giáo truyền thống, và thái độ khước từ những ước lệ đạo đức xã hội mà họ đang sống. Cuộc phản tỉnh đó cũng có liên hệ đến tình hình khai thác và hủy diệt không giới hạn những dự trữ cuối cùng của tài nguyên thiên nhiên trên quả địa cầu này. Điều đáng nói là chảy xuyên suốt cuộc phản tỉnh về nhận thức này, nội dung lời dạy của Đức Phật và triết lý hành động của Phật giáo đã được thành phần trí thức phương Tây vận dụng một cách sinh động và có hiệu quả.

       Điều xin thưa cuối cùng là dù đã cố gắng tối đa, Tuyển tập 1 nầy chắc chắn cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết cả về hình thức lẫn nội dung. Đặc biệt sau khi đọc hết, quí vị độc giả dù không tinh ý cũng sẽ thấy ba điều:

  • Thứ nhất là chúng tôi không có một bố cục chặt chẽ và nhất định, dù có vẽ như Giáo dụcĐào tạo Tăng Ni là chủ điểm nổi bật nhất. Điều đó thật ra chỉ là một sự phù hợp đầy thuận duyên giữa ý định biên tập ban đầu của chúng tôi và buổi Hội thảo về Hướng phát triển Phật giáo Việt Nam tại Thiền viện Trúc Lâm ở Pháp vào tháng 9 năm 1996 vừa qua, mà vài bài phát biểu hôm đó đã được trích đăng lại trong Tuyển tập này. Và cũng chính điều đó đã tạo ra tiền lệ cho một nguyên tắc chọn bài là chúng tôi sẽ mạo muội đăng lại một số bài giá trị và hợp đề đã phổ biến (kể cả phổ biến trên tạp chí Giao Điểm), nếu thời giankhông gian cách trở không cho phép chúng tôi liên lạc với tác giả để xin chấp thuận.

  • Thứ hai là qua nội dung và ngôn từ, độc giả cũng thấy được số bài viết của tác giả trong nước gần bằng với số ngoài nước, dù điều kiện liên lạc khó khăn và dù hoàn cảnh sáng tác khác nhau. Sự quan tâm đầy nhiệt tình và thái độ rất tích cực đó đã là một khích lệ lớn lao cho ban thực hiện Tuyển tập, và là một khẳng định rất hùng hồn về chủ trương đúng đắnGiao Điểm đang nổ lực thực hiện.

  • Thứ ba là tuy Tuyển tập 1 có chia ra bốn chủ điểm khác biệt, các bài viết vẫn không đan kết được với nhau như một tổng thể nhất quán, dù tự thân mỗi bài viết đều có giá trị nội tại của nó. Thậm chí lại có những bài tiếp cận vấn đề từ những tư thế đối nghịch nhau, dùng những phương pháp luận xung khắc nhau, và đưa đến những giải pháp khác biệt nhau. Điều này không làm cho chúng tôi ngại ngùng. Lại càng không làm cho chúng tôi nhân danh một bài này để loại trừ một bài khác. Vì chủ đề của Tuyển tập vốn phức tạp, không có những cách nhìn dễ dàng và không có những giải pháp tiền chế, và vì chúng ta vốn được Phật dạy về lý Duyên sinh, cái này có là vì cái kia có.

Tuy nhiên, nếu Tuyển tập này, với những giới hạn nhất định do chính Giao Điểm tự mình tạo ra đó, mà gây được một hứng khởi và một niềm tin nơi bạn đọc, cũng như nơi những người viết, cho sự ra đời nối tiếp của các Tuyển tập sau; và nếu từ những nổ lực trí tuệ khiêm nhường này mà Phật Tử Việt Nam vận dụng được chút nào để đóng góp cho quá trình chuyển hóa của Phật Giáo Việt Nam trước thềm thế kỷ mới, thì quả thật điều đó đã vượt quá tâm nguyện của chúng tôi.

GIAO ĐIỂM

Hoa Kỳ, tháng 12 năm 1996

* * * * * *

THƯ NGỎ
KÍNH BẠCH CHƯ TÔN ĐỨC
KÍNH THƯA QUÍ THIỆN HỮU TRI THỨC

 

      Do tác động trực tiếp của những tiến bộ trong lãnh vực khoa học và công nghệ, và đặc biệt do phong trào phản tỉnh trí thức để đối trị với cuộc khủng hoảng nhân văn toàn cầu hiện nay đang tàn phá không những môi sinh của con người, mà cả những kỷ cương đạo đức nền móng nhất của chính con người, các giá trịtín điều tôn giáo của nhân loại đã và đang được nghiêm chỉnh thẩm định lại một cách triệt để.

      Trong cuộc thẩm định cần thiết và quyết liệt đó, trong khi các tôn giáo đang ngự trị một cách áp đảolâu dài trên cuộc sống Tây phương bị phê phán vì tính bất tương ứng với các nhu cầu tâm linh, và tình trạng tụt hậu so với trình độ tiến bộ tư duy của thời đại, thì Phật giáo bỗng xuất hiện như một biệt lệ. Các nhà tư tưởng lớn của nhân loại, đặc biệt những vị xuất sinh từ chính các xã hội Tây phương nầy, như nhà toán học Blaise Pascal, triết gia Bertrand Russel, nhà phân tâm học Graham Howe… lại đã đánh giá rất cao khả năng giải phóng con ngườixây dựng xã hội của Phật giáo, mà tiêu biểu cho các danh nhân lỗi lạc nói trên là nhà Vật lý học Mỹ gốc Do Thái Albert Einstein, cha đẻ của Thuyết Tương đối và là người được giải thưởng Nobel Vật lý về Quang Điện (Photoelectric) năm 1921. Là khuôn mặt lớn nhất của khoa học tự nhiên trong thế kỷ thứ 20, lại lấy Khoa học, vốn là sức mạnh và niềm tự hào của văn minh phương Tây, để so sánh, ông đã nhận định về Phật giáo như sau:

       Nếu có một tôn giáo nào ứng phó được với các nhu cầu khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật giáo. Phật giáo không cần phải duyệt xét lại hầu cập nhật hóa với những khám phá khoa học mới đây. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để theo khoa học, vì Phật giáo không những đã bao gồm cả khoa học mà còn vượt qua cả khoa học nữa. (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific findings. Buddhism needs no surrender its views to science, because it embraces science as well as goes beyond science).

      Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, cần ý thức và nhìn nhận rằng lối sống đạo của Phật tử và cách truyền đạo của Phật giáo, đặt biệt là Phật giáo Việt Nam, đang gặp một số giới hạn nhất định. Do đó, việc cập nhật hóa phương pháp truyền đạo, cách thế sống đạo, là một nhu cầu bức thiết. Để, ở trong nước, Phật giáo có thể đóng góp năng động hơn vào đời sống đạo lývăn hóa của dân tộc, và Phật tử có thể góp phần hữu hiệu hơn vào sứ mệnh làm cho dân giàu nước mạnh mà thời đại Lý Trần đã được Dân tộc chứng nhậnLịch sử chứng nghiệm. Còn ở ngoài nước, Phật giáo có thể phát huy được tối đa khả năng đóng góp của mình vào nỗ lực chung của nhân loại, nhằm đối trị những cuộc khủng hoảng, mà cấp thiết nhất là khủng hoảng đạo lýtư tưởng, mà nhân loại đang cay đắng kinh qua.

      Trong niềm thao thức đó, và với tất cả tâm thành thiện chí, Tạp chí Giao Điểm thỉnh cầu chư Tôn Đức và hàng Thiện hữu tri thức trong nước cũng như khắp thế giới, góp ý của mình dưới hình thức những bài viết về chủ đề:

 

PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ MỚI.

 

      Chúng tôi xin mạo muội đề nghị nội dung và mục đích bài viết nên có tính xây dựng, thực tiễn và khả thi. Phương pháp luận được sử dụng trong bài giảng Tứ Diệu Đế để mô tả và phân tích hiện thực, truy tìm và giải bày nguyên nhân, định hướng và đề nghị phương thức giải quyết, là một quy trình mà chúng tôi nghĩ có thể sử dụng được. Lẽ dĩ nhiên đề nghị đó chỉ có tính gợi ý mà thôi, quý vị có toàn quyền chọn lựa cách thế trình bày nào thích hợp nhất.

      Tạp chí Giao Điểm dự định sẽ tổ chức, nếu hoàn cảnh cho phép, một (hay nhiều) buổi mạn đàm hoặc hội thảo về chủ đề nói trên vào mùa hè năm 1996. Ngoài ra, những bài tham luận cũng sẽ dự trù được in thành một Tuyển tập để phổ biến rộng rãi.

      Với định hướng đa diện hóa và đa phương hóa các quan hệ với bên ngoài, Việt Nam đang là nơi giao lưu của các luồng tư tưởnghọc thuật trên thế giới. Đi chung với những trào lưu nhân bản và khai phóng, cũng có không ít những luồng văn hóa, những nguồn tôn giáo lỗi thời và nguy hại, ngụy trang dưới những hình thức văn minhtiến bộ, tuôn tràn vào đất nước chúng ta, và đặt dân tộc trước vấn nạn phải nhận diện và chọn lựa cho đúng con đường Hiện đại hóa mà không Tây phương hóa.

      Do đó, hơn lúc nào hết, đạo Phật Việt Nam lại càng có vai trònhiệm vụ quan trọng hơn đối với sinh mệnh và tương lai của Dân tộc. Với đặc tính nhân bản và khai phóng, chức năng làm phên dậu văn hóa để thừa kếsáng tạo, tiếp thu có chọn lọc của đạo Phật Việt Nam lại càng cần phải được khai dụng tối đa. Chúng tôi tha thiết mong cầu được sự khuyến khích và hưởng ứng thiết thực của chư Tôn Đức và quý Thiện hữu tri thức trong cũng như ngoài nước, để nổ lực nầy chóng thành tựu.

California, ngày 15 tháng 2 năm 1996

Thay mặt Ban chủ trương Tạp chí Giao Điểm

Kính thư,

Hồng Quang

***

TUYỂN TẬP
PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ MỚI
CÁC CHỦ ĐỀ GỢI Ý

  1. TỔNG QUAN

  1. Giáo lý đức Phật và những yếu tính của thời đại.

  1. Phật Giáo và cuộc khủng hoảng của thế giới hiện nay.

  2. Một cái nhìn lịch sử của Phật Giáo Việt Nam trong sinh mệnh dân tộc

  3. Bản sắc đặc thù của Phật Giáo Việt Nam.

  4. Phật Giáo Nhật Bản và cuộc canh tân xứ sở: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo.

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

  1. Vài suy nghĩ về giáo lý, giáo chế và giáo hội.

  1. Hiện tình Phật Giáo Việt Nam trong và ngoài nước; triển vọng và cơ hội.

  2. Những đề nghị cụ thể để Phật Giáo Việt Nam có đủ tầm vóc bước vào thời đại mới.

  3. Phương pháp truyền đạo và những phương tiện truyền thông hiện đại.

  4. Những đề nghị cụ thể để Gia Đình Phật Tử (GĐPT) đáp ứng được những nhu cầu của tuổi trẻ trong thời đại mới.

  5. Phật Giáo Việt Nam: chỗ đứng và nhiệm vụ đối với dân tộc.

  6. Phật Giáo Việt NamPhật Giáo thế giới.

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ ĐỂ HIỆN ĐẠI HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

  1. Tụng kinh, giảng kinh và hiểu kinh bằng ngôn ngữ thời đại.

  1. Giáo lý đức Phậttri thức khoa học.

  2. Vận dụng giáo lý vào đời sống văn minh.

  3. Đường hướng và phương pháp đào tạo tăng ni trong thời đại mới.

  4. Hình ảnh, phong thái và tầm cỡ của vị trú trì, giảng sư trong thời đại mới.

  5. Những đề nghị cụ thể cho một buổi lễ Phật Giáo mang tính thời đại.

  6. Chức năng của một cư sĩ thời đại.

  7. Mẫu người mà Phật Giáo đào tạo cho thời đại mới.

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

  1. Phật Giáo và chính trị.

  1. Phật Giáo và sự phát triển kinh tế.

  2. Phật Giáovấn đề giáo dục và y tế.

  3. Phật Giáovấn đề ô nhiễm môi sinh.

  4. Phật Giáovấn đề phạm pháp và các tệ đoan xã hội.

  5. Phật Giáo và các vấn đề kiến trúc, hội họa, điêu khắc, sáng tác, âm nhạcvăn nghệ.

  6. Phật Giáo nên có hay không có một tổ chức chặt chẽ như các tôn giáo Tây Phương.

  7. Ý kiến về hai dòng tu: Thanh Tịnh xuất giaXuất Thế tại gia.

  8. Phật Giáo và các tôn giáo khác.

  1. CÁC VẤN ĐẾ KHÁC:

Tùy sáng kiến của quý vị.

***************

 

PHẦN MỘT
TỔNG QUAN
LÝ NGUYÊN QUÂN

 

PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC NGƯỠNG CỬA THẾ KỶ 21
MỘT THÁI ĐỘ CẦN THIẾT

 

      Như một con bệnh không thể chữa lành khi người ta chỉ tìm cách che đậy, trốn tránh hay loanh quanh với những lý luận mơ hồ, không ăn nhập gì với hiện trạng. Cũng không thể chữa lành khi bệnh thì nằm ở gan ruột mà lại đi lo chữa chạy ở ngoài da. Phật Giáo Việt Nam (PGVN) ngày nay, ngoài những thành tựu của quá khứ dễ khiến người Phật tử tự hào, ngoài các sức mạnh quần chúng còn lại sau nhiều lần bị phung phí; và bên cạnh những yếu tố tích cực có thể đóng góp cho một viễn ảnh tốt đẹp hơn, thì vẫn còn đó, những yếu tố tiêu cực ngay ở tự thân của nó - những yếu tố đã từng làm cho PGVN bị nghiêng ngửa, rã rời, tan nát và ngày càng tỏ ra như một căn bệnh trầm kha, không ai chữa trị và cũng không ai muốn chữa trị. Ngay cả việc nói đến nó không thôi, người ta cũng phải e sợ đủ thứ chuyện thì nói gì đến việc chữa trị. Khoan nói đến lý do của trạng huống tâm lý này. Chỉ cần ghi nhận, trạng huống tâm lý này phản ảnh một thái độ tiêu cựchậu quả là chính Phật Giáo bị thiệt thòi chứ không ai khác. Làm thế nào mà PGVN có thể vươn mình trỗi dậy làm ngọn đuốc soi sáng cho đời khi mà các trạng huống tâm lý này cứ mãi đè nặng nơi một đa số thầm lặng - những người từng hoài bão nhiều cho Phật Giáo? Làm sao mà PGVN có thể mở rộng được cánh cửa tương lai để đi tới khi mà nó cứ phải trói buộc mình vào cái tâm cảnh của một nỗi e sợ kỳ cục như thế này?

      Hẳn nhiên là PGVN sẽ vẫn còn đó. Còn đó trong tâm hồn của con người Việt Nam dẫu cho người ta vô tình hoặc cố ý không biết đến sự có mặt của nó chăng nữa vì nó đã như nước thấm sâu vào lòng đất. Còn đó trong đời sống trí tuệ của con người Việt nam vì nó vốn không phải là một tôn giáo sống bằng những hình thức tín ngưỡng dị đoan; lại càng không phải sống bằng những hứa hẹn và đe dọa hão huyền mà vì nó vốn là tôn giáo của Trí Tuệ, là con đường chân thực đưa tới Sự Thực. Dẫu cho thế gian này có bị thiêu hủy hay chìm trong tăm tối vì sự tham tànngu muội của con người chăng nữa thì Sự Thực vẫn là Sự Thực và con đường chân thực đưa tới Sự Thực vẫn là con đường chân thực đưa tới Sự Thực. Nhưng còn đó như thế nào là điều mà chúng ta nên nghĩ tới. Còn đó như một ngọn đuốc soi sáng cho đời hay như một cục than bị vùi lấp giữa đống tro tàn? Còn đó như một sức mạnh văn hóa mở đường đi tới cho con người hay như một bảo vật trong viện bảo tàng? Đó là những câu hỏi đặt ra cho những người còn ít nhiều hoài bão cho Phật Giáo Việt Nam lúc này, khi mà các trạng huống tâm lý nói đến trên đây đang đè nặng trên tâm hồn của người con Phật Việt Nam ở bên này và bên kia. Đó cũng là những câu hỏi đặt ra một thái độ cần có như một bước đầu cho những chuẩn bị nghiêm chỉnh để đi tới ở ngày mai.

      Thái độ đó là gì? Là sự rời bỏ trạng huống tâm lý e sợ đã nói để có đủ can đảm nhìn lại mình như một tác nhân chủ yếu quyết định cho con đường đi tới của PGVN giữa hoàn cảnh ngổn ngang này. Hoàn cảnh ngổn ngang của lịch sử, của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội… của đất nước trong mấy thập niên qua đã từng tác động mạnh mẽ - và chắc chắn cũng sẽ còn tác động mạnh mẽ - lên tấm thân của Phật Giáo. Nhưng hoàn cảnh y báo ấy, trong ánh sáng của giáo lý Phật, vốn không thể tách rời và càng không là năng lực chủ động quyết định cho tự thân chánh báo. Chúng ta cần nhận ra điều này để không tự ru ngủ mình và không phải tập trung tất cả thì giờ, năng lực cho những việc làm, dù có thân thiết, nhưng chưa phải là điều thiết cốt. Truy tầm những lý do cho bệnh trạng ở bên ngoài và đặt vào đấy trách nhiệm về bệnh trạng trong khi vi trùng thì ở ngay thân mình – như nhiều người đã làm một cách rất năng nổ - dù có thể là một điều rất nên, rất đáng nhưng chắc chắn là không đủ để chữa trị bệnh trạng. Đó là chưa kể đến, việc lo đối phó với hoàn cảnh ngổn ngang đến độ trở thành một vật kéo của chiếc xe hoàn cảnh thì lại còn tệ hại hơn cả hoàn cảnh tệ hại vì nó chính là cách tự đánh mất mình, tự hủy diệt mình một cách nhanh và gọn nhất. Đã không cứu được mình, đã tự đánh mất mình, tự hủy diệt mình như thế thì còn nói gì đến chuyện cứu ai bây giờ!

      Phật Đạo giữa thế gianBồ Tát Đạo. Trên con đường hoạt dụng của Bồ Tát ấy, người con Phật phải lấy Bồ Đề Tâm làm động cơ căn bản. Nhưng Bồ Đề Tâm chỉ có thể phát khởi khi có được thâm tâm và trước hết, là có được trực tâm. Trực tâm là cái tâm ngay thẳng, chất trực, không quanh co trá ngụy, không tự dối mình và dối người. Đó là cái tâm không e sợ, can đảm nhìn thẳng vào mình như một tác nhân chủ yếu để thấy ra đâu là cái gốc của bệnh, cái mầm của loạn. Đó chính là cái tâm quy định cho một thái độ cần thiết, bước đầu cho sự lên đường trở về tìm lại chính mình để cho Phật Giáo đúng là Phật Giáo chứ không phải là một cái gì khác mang danh Phật Giáo.

HIỆN TRẠNG CỦA PGVN NGÀY NAY

      Ngoài những thành tựu và đổ vỡ mà ai cũng thấy và đã được nói đến nhiều – không kể đến những tiếng nói phô trương quá lố hay những xuyên tạc dối trá ở bên này và bên kia, PGVN ngày nay như đang ở trong một tình trạng phức tạp vừa có nhiều triển vọng vừa chứa đựng những nguy cơ hiểm họa khó lường.

  1. Triển vọng trước hết là ở niềm tin Phật của quần chúng. Sau hơn nửa thế kỷ - và có thể kể xa hơn, gần 140 năm nay – dân tộc Việt Nam đã phải ở trong một chu kỳ lịch sử lệ thuộc vào những sức mạnh của thời đại xuất phát từ Tây Phương. Ở đó, những chế độ nối tiếp nhau liên tục đặt Phật Giáo vào trong cái thế của một kẻ bị trị; và vì vậy, bị khống chế và kềm hãm đủ thứ. Lại ở đó, chiến tranh thù hận, độc tài áp bức, sự tuyên truyền có tính cách tẩy não của những ý thức hệ tôn giáo, chính trị đang nắm trong tay sức mạnh của thời đại đã như cùng tập hợp lại để không cho PGVN trỗi dậy; thậm chí, để triệt hủy niềm tin Phật của quần chúng. Nhưng rõ ràng cho đến hôm nay, niềm tin Phật của quần chúng đã không dễ dàng bị triệt hủy và Phật Giáo vẫn còn đó như một tôn giáo của đa số với hơn 50% dân chúng tin theo như thống kê của chế độ đương quyền (vì tính cách lỏng lẻo của các tổ chức Phật Giáo xưa nay, trong thực tế con số này có thể lớn hơn nhiều). Những Lễ Hội Chùa Hương kéo dài trong nhiều tuần lễ với hàng hàng lớp lớp người tín mộ. Những mùa Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên Đán… tràn ngập khách lễ bái hành hương ở khắp các chùa trên mọi miền đất nước như một cái gì rất xưa bừng sống dậy. Những lễ tang các bậc tôn túc với số người tham dự làm lo ngại cho cả nhà cầm quyền… Đó là những gì mà các quan sát viên và những người từng đi về Việt Nam đã chứng kiến và mô tã rải rác trên nhiều trang báo. Dưới những chế độ thực hiện chính sách triệt hủy Phật Giáo cách này cách khác trải dài hơn thế kỷ; những chủ thuyết, ý hệ chính trị xã hội cực đoan luôn đi theo cùng với sức mạnh quân sự, kinh tế của thời đại liên tục tấn công vào thành trì tín ngưỡng của dân tộc; với sự nghèo nàn cố hữu và ngay cả, với những đổ vỡ rạn nức ở ngay bản thân các tổ chức PGVN từ trước đến nayniềm tin Phật của quần chúng vẫn còn như vậy thực là một điều kỳ diệu. Điều kỳ diệu này cho phép ta nghĩ được rằng, ít nhấtcho đến lúc này, niềm tin Phật của quần chúng vẫn còn là một tiềm năng lớn, một trong những yếu tố lớn cho một triển vọng có thể có của PGVN ở ngày mai.

  1. Một yếu tố khác đóng góp vào triển vọng của PGVN là đa số trí thức Việt Nam đã từng quay lưng lại với tôn giáo ngày càng tiếp cận với Đạo Phật; và càng tiếp cận thì càng có khuynh hướng quay về với Phật Giáo do bởi nhận ra rằng, Đạo Phật thực sự không giống với các tôn giáo khác.

      Không giống với các tôn giáo khác. Sự thực này được nhìn ra là một yếu tốtính cách quyết định cho thái độ và khuynh hướng của người trí thức Việt Nam ngày nay. Tôn giáo là một thực thể của xã hội loài người. Lịch sử văn minh, văn hóa của con người đã có không ít những đóng góp của tôn giáo. Nhưng đồng thời, ở một mặt, tôn giáo cũng đã đóng góp không ít vào những thảm họa lịch sử. Lịch sử còn đó, những cuộc chiến tranh tôn giáo được gọi là Thánh Chiến (The Holy War) trải dài trong thời Trung cổ ở Âu Châu. Lịch sử cũng đang phơi bày những cuộc chiến tranh diễn ra trong thời cận và hiện đại ở khắp nơi trên thế giới có động cơ tôn giáo, những chiến tranh ở Trung Đông, Ái Nhĩ Lan, ở Ấn Độ, Phi Luật Tân, ở Phi Châu... Đó là chưa kể đến những thảm kịch Jonestown, Waco…, mặc dù trong một phạm vi nhỏ hơn, nhưng đã là những biểu hiện lòng cuồng tín tôn giáo đến độ làm ngạc nhiên, bàng hoàng cả những kẻ còn mê tín vào tôn giáo. Đó cũng là chưa kể đến những cuộc hôn nhân khác tôn giáo đã phải bị ép uổng hoặc gãy đổ khiến nhiều người phải đau khổ thế nào; và còn nữa, những tín điều, giáo điều, những lời phán truyền đầy dẫy trong các sách sử tôn giáo mà ngay cả người có đầu óc bình thường cũng không thể không đặt lên câu hỏi về bản chấtý nghĩa của tôn giáo. Giữa bầu khí tôn giáo cần và đang được tra vấn đó thì Phật Giáo như riêng mình một cõi. Không từng can dự vào bất kỳ một cuộc chiến tranh tôn giáo nào xưa nay, không từng đẩy con người đến chỗ cuồng tín ở bất cứ đâu, không chứa đựng một điều gì huyền mị trong kinh sách – ngoài những biểu lộ cảnh giới của tâm linhcon người chưa vươn tới được. Cho nên, không chỉ là yếu tố Thần (Gods) làm cho Phật Giáo khác với các tôn giáo khác mà ngay cả thực tế lịch sửđời sống tín ngưỡng, người ta cũng không thể dùng định nghĩa và khái niệm tôn giáo chung chung đem áp dụng cho Phật Giáo. Không phải là vấn đề hơn hay thua, mạnh hay yếu nhưng rõ ràng là, Phật Giáo thực sự khác biệt với các tôn giáo khác. Điều này có ý nghĩa rất lớn nếu ta hiểu được cái lý do mà người trí thức Tây Phương ngày càng ngưỡng mộ Phật Giáo và tìm đến để học hỏi.

      Người trí thức Việt Nam ngày nay, trong buổi hoàng hôn của những chủ nghĩa, ý hệ hoang tưởng một thời được tôn thờ đưa đến những đổ vỡ trong tâm hồnđời sống, phải đứng trước ngã ba đường để đi tìm một nền tảng tư tưởngđạo lý cho cuộc sống. Các tôn giáo dễ dàng là các cửa ngõ cho một lựa chọn mới này. Ở đó, Phật Giáo hiện ra như một tôn giáo của Từ Bi, Bất Bạo động, của Trí Tuệ, Hỷ Xả - khác biệt với tất cả các tôn giáo khác trên mặt tư tưởng cũng như trên thực tế lịch sử, sẽ trở thành một cửa ngõ cho những tâm hồn khao khát sự an lạc và những đầu óc khát vọng chân lý. Một số không nhỏ các nhà trí thức Việt NamViệt Nam và ở hải ngoại đang tìm về với Phật Giáo như một lựa chọn mới này, và đã có không ít những đóng góp trí tuệ vào ý hướng xây dựng một nền tảng tư tưởngđạo lý cho dân tộc Việt Nam giữa lúc tinh thần chao đảo hiện nay. Những biểu hiện cho khuynh hướng trí tuệ tìm về Phật Giáo này đang quy tụ ở nhiều nơi: Ở Việt Nam, các thiền viện dưới sự hướng dẫn của Thiền Sư Thanh Từ, các trường Cao Cấp Phật Học, các Viện Nghiên Cứu Phật Học và ngay cả trong một vài sinh hoạt của Viện Khoa Học Xã Hội mấy năm lại đây mà buổi Hội Thảo về Tuệ Trung Thượng Sỹ là một điển hình… Ở hải ngoại, Làng Mai dưới sự hướng dẫn của Thiền Sư Nhất Hạnh, và các chi nhánh của nó ở nhiều nơi, các tạp chí Phật Giáo hoặc có màu sắc Phật Giáo mà đường hướng nhiều khi rất khác biệt nhau (Phật Giáo Việt Nam, Giao Điểm, Tin Phật, Hoa Sen, Chân Nguyên, Bông Sen, Viên Giác, Phật Giáo Hải Ngoại…)

    

  1. Một triển vọng đáng kể khác là những trung tâm tu học được thiết lập với những truyền thống tu tập được xây dựng, tái tạo hoặc cách tân. Như xương sống của cơ thể, những trung tâm tu họctruyền thống tu tập đã là yếu tố quyết định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật Giáo xưa nay. Thử tưởng tượng, Phật Giáo Trung Hoa mà không có các bậc Cổ Đức đời đời nối tiếp thiết dựng các Đạo Tràng Dịch Kinh, Giảng Kinh, nói Pháp, lập thành các Pháp môn tu tập Thiền, Tịnh và các Tòng lâm hướng dẫn đồ chúng tu tập thì di sản của Phật Giáo Trung Hoa còn có gì? Như Phật Giáo Nhật Bản, không phải là Tổng Hội Phật Giáo Nhật Bản - thường được xem là cơ cấu đại diện cho Phật Giáo - nắm mạng mạch của Phật Giáo ở đây mà chính là hệ thống các Tông Phái với những sắc thái linh hoạttruyền thống tu tập khác nhau được giữ gìn đã tạo nên các sức sống cho Phật Giáo xứ này. Phật Giáo Tây Tạng ngày nay là một ví dụ rõ nét khác. Trong khi Tây Tạng đang phải chịu đựng một trong những thảm kịch đau thương nhất của lịch sử các dân tộc mà tương lai chưa biết thế nào thì Phật Giáo Tây Tạng, theo cùng tình cảnh lưu vong của một phần dân tộc họ, lại đang ảnh hưởng lớn trong đời sống tâm linhtrí tuệ của con ngườiTây Phương. Được vậy không chỉ vì những huyền thoại được nói nhiều về xứ này; cũng không chỉ vì những hình thức khá kỳ dị trong sinh hoạt tôn giáo của họ (vì huyền thoại và những hình thức nếu có làm cho người ta lưu tâm đến thì cũng chỉ nhất thời) mà chính là ở cốt tủy, Phật Giáo Tây Tạng còn đó những truyền thống tu tập với những kinh nghiệm tâm linh thực sự.

       Phật Giáo Việt Nam, ít ra là từ 1963 trở về sau, đã bị cuốn hút vào cơn lốc của thời thế để không có được sự quan tâm đúng mức, nói gì đến việc đáp ứng nhu cầu sinh tử nầy của Phật Giáo. Dù chúng ta có đó, những đời sống tâm linh tỏa sáng thành những tấm gương đạo hạnh đáng ngưỡng mộ nhưng đó chỉ là những trường hợp cá biệt; chúng ta cũng có đó những Tu Viện, Phật Học Viện nhưng nề nếp tu họcsinh hoạt không đủ để tạo nên những truyền thống tu tập cho hơn một thế hệ. Phải đợi đến sau này, trong nghịch cảnh nhiễu nhương của vận nước, vận đạo, PGVN mới có được những bậc tôn túc quan tâmthực hiện những trung tâm tu họcxây dựng lại những truyền thống tu tập. Các Thiền Viện ở trong nước với Thiền Sư Thanh Từ quy tụ đông đảo đồ chúng đang làm sống dậy bầu khí tu Thiền, kết hợp truyền thống Tổ Sư Thiền ở Trung Hoa với truyền thống Thiền Trúc Lâm đời Trần của Việt Nam. Trước và song song với nó, và trên những phạm vi ảnh hưởng nhỏ hơn, có những Đạo Tràng Liên Hữu tu tập Tịnh Độ, pháp môn Niệm Phật Công đức rải rác ở Trung và Nam. Trong khi ở hải ngoại, Làng Mai ở Pháp trở thành một trung tâm Thiền nổi tiếng với Thiền Sư Nhất Hạnh, đưa phương pháp Thiền trong truyền thống Kinh Tạng Phật giáo áp dụng vào cuộc sống của con người xã hội hiện nay, quy tụ hằng năm rất nhiều người từ khắp nơi trên thế giới và từ những truyền thống tôn giáo khác nhau đến tu học. Có nhiều nhóm Thiền sinh Việt Nam và ngoại quốc đang áp dụng phương pháp Thiền tập này và sinh hoạt tu tập khá đều đặn. Có những nơi vận dụng phương pháp Thiền tập này kết hợp với nề nếp tu tập vốn có ở Việt Nam trước đây như ở một số chùa, Tu Viện tại miền Bắc California, Texas, Massachusetts…

       Việc tái dựng các truyền thống tu tập với sự có mặt của các trung tâm tu học nói trên là một yếu tố đáng khích lệ lúc này khi nhìn về viễn ảnh của PGVN ngày mai. Càng đáng khích lệ hơn khi quần chúng Phật tử ngày càng qui tụ về các trung tâm tu học, thể hiện tấm lòng thiết tha cầu tu, cầu học và đưa sự tu học trở thành một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Tu học trở thành một nhu cầu, đó hẳn là một dấu hiệu có tính cách quần chúng đáng mừng nhất trong hai thập niên cuối của thế kỷ này. Mặc dù không ồ ạt nhưng tác động tích cực và thầm lặng của nó vào con đường đi tới của PGVN chắc chắn sẽ được thấy rõ về lâu về dài sau này.

  1. Cũng là những yếu tố tích cực góp phần vào triển vọng của PGVN là những thành tựu trong một chừng mực nhất định của hai tổ chức Giáo Hội hiện nay ở Việt Nam.

       Không kể đến những thành tựu trước năm 1975, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), trong mấy năm lại đây, đứng trên vị trí cố hữu của mình, đã lên tiếng cho những khát vọng của dân tộc và của chính Phật Giáo. Đặt trong vị trí của một tổ chức tôn giáo lớn mà lại không thể công khai hoạt động và trong liên hệ với cảnh ngộ chung của dân tộc, sự lên tiếng của GHPGVNTN phải được xem là can đảmcần thiết. Can đảm bởi vì sự lên tiếng đó đã phải trả giá bằng giá của nhiều hy sinh, ngay cả hy sinh thân mạng. Và đó là một trong những cách thế biểu lộ tinh thần xứng đáng được ngưỡng mộ của người Phật Tử Việt. Cần thiết vì nhu cầu chuyển hóa đất nước đòi hỏi phải có những tiếng nói khác với tiếng nói của người cầm quyền, những tiếng nói xuất phát từ người dân bị áp bức bất công và nói là nói cho những khát vọng của họ. Cũng cần thiết vì nó góp phần khẳng định con đường của PGVN khi đối diện với cái khổ của con ngườicon đường không nằm ở bên này hay bên kia mà vượt qua tất cả mọi thế đối nghịch tương tranh của con người trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Tiếc thay, tiếng nói của lương tâm đó đã không được nghe một cách nghiêm chỉnh như chính nó. Nhưng dù không được nghe một cách nghiêm chỉnh lúc này thì âm hưởng của tiếng nói đó cũng sẽ còn để góp phần định hướng cho con đường đi tới của PGVN giữa những tình thế còn nhiều phức tạp sau này.

       Trong khi đó, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), trong những giới hạn lịch sửtính chất của nó, cũng đã có những thành tựu đáng kể. Không nói đến những chùa chiền được tái tạo và xây dựng – không hẳn là do Giáo Hội này, GHPGVN ít nhất đã làm được hai điều có ý nghĩa lớn:

       Một là đã thực hiện được hệ thống các trường Phật Học từ Cơ Bản đến Cao Cấp và từ Nam đến Bắc để đào tạo các thế hệ Tăng sĩ cho ngày mai. Hẳn nhiên còn nhiều giới hạn trong việc tổ chức, trong nội dung chương trìnhphương pháp giáo dụcvì vậy, liên hệ đến phẩm chất đào tạo, nhưng sự hình thành một hệ thống như vậy với số lượng Tăng ni sinh theo học đông đảo đã là điều có ý nghĩa lớn cho sau này. Nó chứng tỏ tấm lòng thiết tha với tương lai của PGVN của những nhà lãnh đạo Giáo Hội này; và chắc chắn thành quả đào tạo của nó sẽ góp phần quyết định cho tương lai của PGVN như tấm lòng hoài bão của những người đã ra công thực hiện.

       Hai là Giáo Hội này đã tổ chức và thực hiện được bước đầu, Đại Tạng Kinh Việt Nam. Đây là một nỗ lực không chỉ tùy thuộc vào tài chánh mà còn vào khả năng trí tuệ trên nhiều lãnh vực nghiên cứu, dịch thuật mà nếu không tập hợp được các khả năng này thì không dễ làm gì được. Trong khi Phật Giáo ở các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Đại Hàn và phần lớn các nước trong truyền thống Nam truyền đã có Đại Tạng từ lâu; và ngay cả Âu Mỹlịch sử du nhập và phát triển Phật Giáo đang còn mới mẻ nhưng công trình dịch thuật, nghiên cứu kinh điển Phật Giáo đã hết sức đồ sộ thì gia tài của PGVN, trên lãnh vực này, thực là ít ỏi. Cho nên, việc thực hiện Đại Tạng Kinh Việt nam là một đóng góp lớn vào sự nghiệp trí tuệ đang còn nghèo nàn của PGVN và là một công trình cần thiết cho những thế hệ học Phật ở Việt Nam hôm nay và ngày mai.

       Những yếu tố đáng kể cho nhìn ra triển vọng của PGVN là đó. Nhưng bên cạnh và ngay nơi một số yếu tố đầy triển vọng này, PGVN cũng đang có nhiều nguy cơ hiểm họa.

  1. Một đa số quần chúng Việt Nam vẫn còn niềm tin Phật nhưng đó là niềm tin có quá nhiều tính chất tiêu cực và có nhiều những tác động tiêu cực ở ngoài vào trong khi không có nhiều những nỗ lực điều hướng và giữ gìn niềm tin này ở các tổ chức Phật Giáo. Niềm tin Phật đó vốn không đơn thuần mà bị pha trộn với nhiều hình thái tín ngưỡng dân gian đầy những mê tíndị đoan. Tin Phật, tin nhân quả đó nhưng cũng tin vào bói toán, cầu đảo, vào sự thưởng phạt của đủ loại thần, thánh, ma, quỷ; và vì vậy, Đạo Phật vốn là đạo của Trí Tuệ, đã và đang còn bị nhìn bởi một số đông người như là Đạo của mê tín, dị đoan, hủ lậu. Ở miền Bắc – như được ghi nhận bởi nhiều người - niềm tin Phật của quần chúng trỗi dậy mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ không kém, sự trỗi dậy của nhiều hình thức tín ngưỡng dị đoan của nhiều người “làm ăn” ở những hình thức tín ngưỡng này. Trong quá khứ, những hình thức này có thể đã là cái thành trì tín ngưỡng chống đỡ lại sức công phá của những giáo điều, tín điều ngoại nhập vốn cũng mê tíndị đoan không kém. Nhưng trong tương lai không xa, đất nước đi vào con đường Tây phương hóa, như một điều không thể tránh – ít ra là trên mặt kinh tế - con đường lấy dục vọng làm động cơ thúc đẩyvì vậy có sức cám dỗ mãnh liệt và kéo theo nó là cả những thành quả của khoa học, kỹ thuật làm thay đổi não trạng và khuynh hướng sống của con người, một đạo Phật gắn liền với những mê tín, dị đoan chắc gì không bị lung lay, nghiêng đổ? Một Đạo Phật mê tín bị lung lay, nghiêng đổ chẳng có gì là đáng tiếc – đáng mừng là khác – nhưng nghiêng đổ để rồi, không có một Đạo Phật chánh tín thay vào thì không chỉ là một nguy cơ suy tàn của Phật Giáo mà còn là cả một hiểm họa cho dân tộc trên mặt đạo đức. Một Đạo Phật chánh tín cho quần chúng không có, nguy cơ đó không phải trách nhiệmquần chúng mà là ở những người đang giữ gìn mạng mạch của Phật Giáo ngày nay.

       Cũng trong viễn tượng của một xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi và thay đổi với một tốc độ rất nhanh, những hiện tượng tiêu cực trong Phật Giáo hiện nay - đặc biệt là ở cơ cấu tổ chức và ở giới Tăng sĩ trên cả hai mặt phẩm chất đạo đức và khả năng - nếu không sớm điều phục thì chỉ trở thành đối tượng cho những khai thác không mấy lương thiện của nhiều thế lực khác mà thời nào cũng có, góp phần lay đổ niềm tin Phật của quần chúng và mở lớn cơ nguy suy tàn của PGVN mà thôi.

       Ngay với một thành phần không nhỏ giới trí thức Việt Nam đang tìm về Phật Giáo như tìm về một nền tảng tư tưởngđạo lý cho đời sống cũng sẽ không làm gì được nếu như Phật Giáo không có được môi trường thích hợp cho những sinh hoạt trí tuệ; và nếu như giới này chỉ thấy được cái hay của Đạo Phật trong kinh sách và trong quá khứ mà không thấy được cái hay của Đạo Phật trong hiện thực đời sốngxã hội trước mặt. Chánh Pháp, cuối cùng, may lắm thì chỉ còn với một số cá nhân mà không thể trở nên ngọn đuốc hướng đạo cho đời sống tinh thần của ngay cả quần chúng Phật tử, nói gì đến xã hội.

  1. Nguy cơ suy tàn trên đây vốn liên hệ tới vai trò của các tổ chức Phật Giáo và phẩm chất của người Tu sĩ Phật Giáo.

       Tổ chức Phật Giáo trong mấy mươi năm nay cứ như một tấm thân ốm yếu bệnh hoạn lại cứ phải đắm trong một bầu không khí ô nhiễm. Ốm yếu, bệnh hoạn vì như chưa bao giờ Phật Giáo Việt Nam có được những chuẩn bị đầy đủ cả về lý thuyết lẫn thực tế cho một tổ chức Giáo Hội vừa muốn giữ lại tinh thần của Tổ chức Tăng đoàn thời nguyên thủy; vừa muốn có đủ giáo quyền để đảm nhiệm tất cả các mặt thế trị phức tạp như các tổ chức tôn giáoTây Phương. Rõ ràng đây là một ý hướng nhằm giải đáp những yêu cầu đặt ra cho một tổ chức tôn giáo trong xã hội hiện nay; và ở trường hợp của PGVN, còn là cái yêu cầu bức thiết của hoàn cảnh lịch sử lâu đời không cho phép PGVN thu mình lại trong bốn bức tường của Thiền môn. Nhưng rõ ràng, hai ý muốn đó chứa đựng một nghịch lý đã không được trả lời thỏa đáng trên thực tế. Và vì vậy mà, Tăng đoàn trở nên lỏng lẻo trong đời sống hành trì và tổ chức Giáo Hội thì không đủ sức chủ động được các mặt thế trị phức tạp.

       Tăng đoàn trở nên lỏng lẻo vì thiếu đi cái xương sống của nó là những truyền thống tu tập - điều mà một tổ chức Giáo Hội – dù cho có đủ giáo quyền đi chăng nữa – không thể đảm nhiệm được. Sự thiếu vắng những truyền thống tu tập, ngoài hai thời công phu và khóa lễ Tịnh độ ở các chùa, viện, đã làm cho đời sống người Tu sĩ thiếu nội lực tâm linh và phẩm chất người Tu sĩ ngày càng yếu kém trên cả hai mặt đạo đức và khả năng. Thiếu nội lực và yếu kém phẩm chất mà lại mang thân vào đời để đảm nhiệm các mặt thế trị phức tạp của một tổ chức Giáo Hội như yêu cầu mong muốn thì thật khó tránh được cái “họa sát thân”. Cái họa đã rõ, ít ra là từ sau 1963 đến nay. Ngoại trừ một số vị giữ mình nghiêm mật, còn một số lớn khác đã không tránh được cái “bả lợi danh” của thế tục. Hỡi ôi! Đức Phật như một gương mẫu vẹn toàn đã vức bỏ tất cả để thành tựu được tất cả mà ngày nay, một số Tu sĩ hành đạo lại chỉ muốn ôm giữ tất cả để phải mất tất cả thì làm sao mà Phật Giáo thoát cảnh suy tàn! Một giáo lý cao đẹp chứa đầy tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ, Vị Tha, Vô Ngã… mà ngày nay, một số người con Phật càng sống, càng hành đạo thì bản ngã như lại càng to, càng lớn, càng thích loạn ngôn và múa may trên sân khấu đời. Nguy cơ khó tránh được là vậy.

       Các tổ chức Giáo Hội, cũng vì vậy mà không chủ động được các mặt thế trị phức tạp. Trái lại, chính các mặt thế trị này lại lôi cuốn các tổ chức Giáo Hội vào trong vũng lầy của nó để có muốn dứt ra cũng không được. Hậu quả là, các hoạt động của Phật Giáo trên các mặt thế trị bị rơi vào trong những cực đoan bên này, bên kia trong cái thế đối nghịch của hoàn cảnh lịch sửxã hội; để cuối cùng, nhiều khi không tránh được cái thảm cảnh “gà nhà bôi mặt đá nhau”. Con đường của Phật Giáo vốn là Trung Đạo, là con đường vượt trên và vượt qua các cực đoan đối nghịch trong tư tưởng và hành động và chỉ như vậy mới hiện thực được mục đích của nó giải thoát con người khỏi mọi sự ràng buộc đau khổ. Thì ở đây, các tổ chức Giáo Hội lại cứ bị du vào cái thế “mua dây buộc mình”. Đối nghịch giữa tổ chức này với tổ chức khác là điều khó tránh dù cùng là Phật Giáo với nhau. Càng khó tránh hơn là cái hiện tượng đối nghịch xung khắc ngay trong cùng một tổ chức Phật Giáo. Bởi vì, ở đây – như mọi tổ chức thế tục của con người – các mâu thuẫn về quan niệm, khuynh hướng, sở thích và tánh khí của cá nhân không lúc nào mà không phát sanh; và khi không có gì chế ngự được nó thì mâu thuẫn trở thành xung khắc đối nghịch. Đường lối chính sách của tổ chức Phật Giáo, nếu có, cuối cùng chỉ có trên lý thuyết, còn trong thực tế thì hoàn toàn tùy thuộc vào khuynh hướng, sở thích, cảm tính của các cá nhân lãnh đạo, điều hành và theo sự tác động, ảnh hưởng, chi phối ở bên ngoài vốn đã đầy những trang chấp, đối nghịch. “Dở hay âu cũng tính trời, biết sao!” Đó là căn bệnh trầm kha của các tổ chức Phật Giáo. Ba cửa thanh tịnh của nhà Phật, Không, Vô Tướng, Vô Tác như chỉ còn trên trang kinh để thay vào đó, ba cửa Hữu (Tham), Tướng (Sân), Tác (Si) mở rộng để cho ngôi nhà Phật Giáo tràn ngập các mùi vị của thế tục; và sinh lực của nó bị cuốn trôi vào những hoạt động thế tục. Mối nguy thực đã quá rõ. Càng nguy hơn khi nó phải đắm mình trong một bầu không khí ô nhiễm của lòng người ly tán vì sự ngăn cách của đủ thứ cảnh ngộchướng ngại; của hoàn cảnh chính trị, xã hội nhiễu nhương và của bao nhiêu thế lực chỉ muốn lợi dụng và biến Phật Giáo thành con cờ của họ.

  1. Một mối nguy khác có tính cách lịch sử giai đoạn nhưng lại ở trên một quy mô lớn, ảnh hưởng toàn diện lên các sinh hoạt của PGVN hiện nay là sự hiện diện song hành của hai tổ chức Giáo HộiViệt Nam: Giáo Hội PGVN Thống Nhất và Giáo Hội PGVN. Mặc dầu cả hai Giáo Hội đều có những đóng góp có ý nghĩa như đã nói; *mặc dầu, đứng ở những vị trí khác nhau, người ta có thể có những cái nhìn khác nhau về mỗi Giáo Hội; nhưng, ngay cả sự hiện diện song hành của hai Giáo Hội vốn đã tiềm ẩn những cơ nguy khó lường.

       Không như mối liên hệ kiểu “ai tu phận nấy” giữa các tổ chức Tông phái với những truyền thống, pháp môn tu tập khác nhau - điều mà PGVN có nhưng đang thiếu, đang cần. Cũng không như mối liên hệ thân hữu dễ dàng được thiết lập giữa các tổ chức Giáo Hội tập hợp các thành phần khác nhau và sinh hoạt trong những môi trường, khu vực khác nhau của cùng một tôn giáo - điều mà PGVN có nhưng đang thiếu, đang cần. Cũng không như mối liên hệ thân hữu dễ dàng được thiết lập giữa các tổ chức Giáo Hội tập hợp thành các thành phần khác nhau và sinh hoạt trong những môi trường, khu vực khác nhau của cùng một tôn giáo - điều mà PGVN cũng đã từng có và không bao giờ phải trở thành vấn đề. Mối liên hệ giữa GHPGVN và GHPGVN TN có nhiều yếu tố phức tạp, tế nhị lại chịu sự tác động nặng nề của tâm cảm và hoàn cảnh chính trị không mấy “xuôi chèo mát mái” của đất nước; và vì vậytrở thành vấn đề. Một bộ phận lớn của GHPGVN là GHPGVNTN. Nhưng không vì vậy mà ta có thể nói, đây là hai Giáo Hội anh em dù giữa hai Giáo hội có nhiều thầy trò, anh em với nhau. Một Giáo Hội thì ép mình theo thời thế để duy trì mối đạo; và vì vậy làm được nhiều việc nhưng cũng chịu nhiều nỗi đắng cay. Một Giáo Hội thì không chịu ép mình theo thời thế để nói tiếng nói cho những bất công, áp bức nên không làm được gì nhiều nhưng khẳng định được tinh thầntính cách truyền thống của người Phật tử Việt Nam. Hai Giáo Hội biểu lộ hai thái độ phản ứngtính cách nghịch hướng trước thời thế; và cả hai thái độ đều có những lý do thích đáng của nó. Việc nhận ra những lý do thích đáng này để bao dung được nhau không phải là điều khó, nếu ta vượt qua được những xúc cảm nhất thời và không để cho những tác động tiêu cực ở bên ngoài chi phối để nhìn ra được Con Đường Lớn của PGVN giữa những nghịch cảnh vốn đã rất đau long. Tiết thay, tác động tiêu cực của các thế lực bên ngoài quá nặng, kích động các mối xúc cảm nhất thời khiến cho việc nhìn nhận nhau, bao dung nhau thành khó. Càng khó hơn khi có một số người - ở cả hai - đứng hẳn vào trong quỹ đạo của các thế lực này để kết án lẫn nhau, tạo nên các màn “chỉ điểm, đấu tố” nhau một cách kỳ cục, khó coi chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo. Đó là mối nguy thứ nhất đã được thấy của hiện trạng song hành hai Giáo Hội.

       Giáo Hội nào cũng có thầy. Thầy nào - bất kể chánh hay tà, chân hay ngụy, đấu tố hay bị đấu tố - cũng có một số người theo. Theo để học đạo. Đó là điều quá quý và không có gì để nói. Điều đáng nói là, những người theo để lợi dụng hoặc bị lợi dụng hoặc theo vì cảm tính hay vì chút liên hệ nào đó. Mối nguy nói đến trên đây sẽ không còn giới hạn trong một vài cá nhân liên hệ mà đã và sẽ mở rộng ra trong quần chúng đi theo này. Quần chúng lại là lớp người dễ bị kích động tâm lý - nhất là lúc nào cũng có sẵn người làm công việc kích động này và ở trong bầu khí đầy nghi kỵ, tranh chấp, thù nghịch bởi nhiều cảnh huống phân ly hiện nay. Đến đây thì không chỉ là tình trạng ngăn cách, phân hóa, bất hợp tác giữa các khuynh hướng Phật Giáo mà là sự xung khắc thù nghịch giữa các khối lực quần chúng Phật Tử. Sẽ có nhiều lý lẽ để biện minh cho sự xung khắc, thù nghịch này của mỗi bên - nhất là cái lý lẽ nhị nguyên phi Phật Giáo “chánh-tà, chân-ngụy” đã được nói đến nhiều. Nhưng điều đó có ích gì hay chỉ xé nát và chôn vùi Phật Giáo trong bầu khí hận thù ở khắp mọi nơi và di lụy lâu dài cho các thế hệ Tăng niPhật tử mai sau. Đó là mối nguy thứ hai mà hiện trạng song hành hai Giáo Hội đã và sẽ chỉ làm cho nó ngày một thêm rộng, thêm sâu.

       Ngay đến đặt sự hiện diện hai Giáo Hội này vào một hoàn cảnh bình thường – nghĩa là như tất cả mọi tổ chức trong xã hội, “đường ai nấy đi” để không có nữa, các màn đấu tố và thái độ thù nghịch nhau – điều tốt đẹp nhất mà có người đã nghĩ tới và mong muốn – thì vì những liên hệ phức tạp của chúng, sự hiện diện song hành này cũng không thể trở thành bình thường. Chỉ những mặc cảm, thành kiến sâu dày đã có không thôi mà lại ở vào tình trạngkhông thể không gặp nhautrong đời sống và trên các mặt hoạt động vì những liên hệ và tánh cách của nó, những va chạm thường xuyên là điều không thể tránh. Cũng là hoạt động từ thiện xã hội cho cùng một đối tượng nạn nhân đó mà gặp nhau không thể “tay bắt mặt mừng”như với một tổ chức tôn giáo khác cũng đã là khó nói, cũng đủ tạo nên những dư luận không mấy tốt đẹp và sự hoang mang dao động trong quần chúng huống gì những va chạm khó tránh. Oán tằng hội khổ là vậy. Rồi với những cơ sở hiện nay của Phật Giáo và những cơ sở mà bên này, bên kia đang đòi hỏi trả lại cho Phật Giáo, việc xác định chủ quyền của nó thuộc Giáo Hội này, Giáo Hội kia cũng không phải là điều giản dị; và ai đảm bảo, sẽ không có những tranh chấp làm tổn thương cho Phật Giáo sau này? Đó là mối nguy “tốt nhất” của hiện trạng song hành hai Giáo Hội.

TRƯỚC NGƯỠNG CỬA THẾ KỶ 21

       Đất nước Việt Nam đang thay đổi. PGVN cũng không thể ở mãi trong tình trạng như hiện nay. Nhưng thay đổi như thế nào?

       Phật Giáo là một tôn giáo không có giáo điều nên là tôn giáo có khả năng thích ứng nhất với mọi đổi thay của hoàn cảnh; lại là một tôn giáo, tự bản chất, không trụ vào bất cứ pháp tướng nào. Ngay cả Pháp tướng Niết Bàn mà cũng không thì huống gì các pháp tướng lịch sửthời đạibản chất của nó chỉ là vô thường, vô ngã, chỉ là không.

       Trên bình diện tuyệt đối, “Chánh pháp cũng phải xả hà huống là phi pháp”. Âm vang của lời kinh đủ cho người có chí nguyện tu họcphụng sự Phật Pháp bình thản đi giữa mọi cơ nguy và đau khổ mà sống trọn chí nguyện của mình. Nhưng trên bình diện tục đế của đời sống nhân văn và xã hội và với tất cả những liên hệ duyên khởi, người hoài tâm cho Đạo không thể không nhìn vào những triển vọng và cơ nguy của Đạo trong khi thực hiện chí nguyện của mình. Nhìn vào để thấy, để biết. Biết đường mà đi. Biết cửa mà vào. Biết nguy cho Đạo để tránh. Biết an cho Đạo để làm. Biết tất cả đó là Pháp sinh diệt vô thường để không vướng mắc, kẹt dính vào đâu. Lại biết tất cả đó đều là nơi để thành tựu tất cả công hạnh tu tập để không hề chán nản, để trải lòng, trải thân ra mà trọn nên chí nguyện cho Đạo, cho Đời. Đó là những gì mà các bậc Thầy Tổ xưa đã từng nêu gương để mở ra Con Đường Lớn của PGVN.

Con Đường Lớn của PGVN là gì?

       Đó là con đường không trụ, không bám vào bất cứ cực đoan đối nghịch nào trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi thời. Mạng sống của con người và của lịch sử đã phải bị kềm hãm giữa hai bờ của những cực đoan đối nghịch ngay từ thưở bắt đầu của nó; và vì thế, đã không một ngày nào trên mặt đất mà không có chiến tranh, thù hận. Con đường của Phật Giáocon đường giải thoát - giải thoát con người khỏi mọi ngục tù của những thành kiến, tà kiến, thiên kiến, biên kiến, ngục tù của những quan niệm, ý hệ cực đoan, những động lực mù quáng đã gieo rắc chiến tranh, hận thù ở khắp nơi. Ý thức về tất cả những tai họa đã có, đang có và sẽ có cho dân, cho nước, cho đạo, PGVN không thể để mình bị kẹt dính vào đâu trong những cực đoan đối nghịch mới có thể hiện thực được con đường giải thoát này.

       Đó là con đường không trụ, không bám vào bất cứ một pháp tướng lịch sửthời đại nào. Mọi pháp tướng đều là không tướng, đều là giả hợp, vô thường, tạm bợ. Những pháp tướng lịch sửthời đại của PGVN hiện nay đều là những phương tiện để hành đạo, để thực hiện công hạnh độ sanh của người con Phật Việt Nam chứ không thể và không nên là cửa ngỏ cho những lợi danh có tính cách thế tục là đầu mối cho những tranh chấp, tạo thành các cơ nguy cho Đạo. Mặc dù các pháp tướng đều cần thiết và có vai trò của nó – và vì vậy, cần được quan tâm, giữ gìn, xây dựng sao cho phù hợp với tinh thần Phật Giáo, với truyền thống và với nhu cầu của hoàn cảnh, thời đại – nhưng điều thiết yếu không phải là ôm giữ những pháp tướng này mà làm gì, làm thế nào để - bằng vào những pháp tướng đó - hiện thực được Đạo Phật trong đời sống của con ngườixã hội cho hôm nay và mai sau.

       Đó là con đường của sự sống - sự sống cụ thể của con người trong những điều kiện tâm sinh lý và môi trường thiên nhiên xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế… của nó. Một Đạo Phật thực sự, vì vậy, không thể không đối diện với những vấn đề của con người - những vấn đề căn bản của hiện sinh cũng như những vấn đềhoàn cảnhthời đại đặt ra cho nó. Đối diện để cung ứng những phương pháp trị liệuchuyển hóa chứ không phải để tạo thêm vấn đề cho con người. Chỉ với những phương pháp trị liệuchuyển hóa này mà sự có mặt của Đạo Phật mới thực sự có ý nghĩa.

       Trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, cái cần có để cho Phật Giáocon đường của sự sống là một Đạo Phật chánh tín cho quần chúng để đối trị với những mê tín đang còn đầy dẫy; là một nền giáo dục đặt căn bản ở sự tự giáo dục và việc tái dựng những truyền thống tu tập để đối trị với tình trạng sa đọa tâm linh của con người ngày nay – trong đó có cả giới Tu sĩ – đang bị cuốn trôi vào khuynh hướng hưởng thụ và tìm kiếm hư danh; và để có được cho đời, những bậc thầy có chí nguyện và hoài bão, có phẩm cách đạo đức và khả năng làm công việc đối trịchuyển hóa này. Sau nữa, một sự nghiệp Trí Tuệ của PGVN cần được trân trọng xây dựng bên cạnh những xây dựng khác để cho cuối cùng, PGVN không phải chỉ còn lại những đống tro tàn của một thời ngổn ngang mà còn đó, một ngọn đuốc sáng cho dân tộc tìm lại được Phẩm Giá và thấy được đường đi về sự Thanh Bình, An LạcChân Lý sau khi đã đánh đổi quá nhiều đau thương, mất mát.

       Giữa biển trần mờ mịt, đâu chánh, đâu tà, đâu chân, đâu ngụy? Nói bao nhiêu cũng chỉ là nói mộng huống chi là những cãi cọ với ngôn từ. Kỳ cùng, có lẽ chỉ có sự sống của con người với những đau khổhạnh phúc của nó mới cho được câu trả lời đích thực.

       Phật Giáo Việt Nam trước ngưỡng cửa Thế Kỷ 21. Triển vọng và cơ nguy. Tất cả đều đang có mặt và đang góp phần. Có Con Đường Lớn của PGVN dẫn con người Việt Nam đến trước ngưỡng cửa thế kỷ 21 hay là chỉ còn đó những trò chơi vẽ vời cảnh thế gian của tâm thức mộng mị trước khi khép lại cánh cửa cửa thế kỷ này? Kỳ cùng, cũng có lẽ, chỉ có người mang cái danh Phật Tử Việt Nam, Tu sĩ hay không là Tu Sĩ, với cái tâm và cuộc sống hiện thể của nó, mới quyết định được cho câu trả lời.

       Đem tấm lòng thành viết để hiến cúng Đức Phật và dâng đến những tâm hồn đã từng khóc cười với Phật Giáo Việt Nam.

 

 Lý Nguyên Quân

Những ngày cuối năm 1996.

 

TINH TIẾN
PHẬT GIÁO :
SINH LỘ CHO NHÂN LOẠI?

 

       Nhân Loại? Lịch sử thành văn ghi lại nhiều chiến tranh hơn hòa bình, nhiều áp bức hơn tự do, nhiều tranh chấp hơn đối thoại… Có thể nào khác được không khi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến là sáu thuộc tính bản chất nhất của nhân thể, cũng có nghĩa là từ vô thỉ. Nhưng chỉ là vậy thôi sao, khi nhân loại cũng là Phật tính, là Bồ Tát Hạnh, là các tâm sở Dục như khát vọng tới lý tưởng, Thắng Giải như khả năng Chính Tri, Tinh Tiến như nỗ lực tự vượt mình, Định Tuệ như giải pháp toàn năng… Tương quan của hai thiên hướng nội tại này, hai lực đẩy câu sinh này trong thời đại hiện nay và triển vọng trong thế kỷ 21 sẽ ra sao?

       Hãy nhìn thẳng, với mức độ Chân lượng tối đa, vào những gì đưa tới hiện trạng của nền Văn Minh Nhân Loại trong những thập niên cuối này, vì thế có nhiều khả năng và trên nhiều vị thế được kéo dài và khuếch đại cho những năm sau 2000. Muốn viện dẫn cái gì đi nữa, muốn huênh hoang kiểu nào đi nữa, dù truyền thống văn hóa, dù giá trị Châu Á, dù minh triết Phương Đông,… thực tế là toàn cầu đang sống dưới dấu ấn của nền Văn Minh Phương Tây hiện hình trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa, … nghĩa là trên các lĩnh vực chủ đạo của hiện thực nhân sinh.

    Vậy thì ta buộc phải bước nhanh trở xuôi từ…

       Thời Trung Cổ Châu Âu đặc trưng hóa bởi sự bỏ quên con người như một cứu cánh cho các hoạt động của chính họ, sao nhãng con người như một homo sapiens đối trước những thách thức của Tự Nhiên. Cái gì mâu thuẫn với Tự Nhiên, cái ấy sớm muộn rồi ra cũng sẽ tiêu vong. Vậy mà Con Người, tạm nói Tham, Nghi; tạm nói Sân, Ác Kiến; tạm nói Si, Mạn như những tiềm phục câu sinh của Chủ Nghĩa Cá Nhân, của lối sống thực dụng, của bạo lực cách mạng. Cho nên thời Phục Hưng, rồi thế kỷ Ánh Sáng, từng bước, qua đấu tranh bằng lý luận và qua lý luận bằng đấu tranh, đã phục hồiđăng quang cái tư cách Cứu Cánh cái tính năng Lý Trí của Con Người. Trong giai đoạn vinh quang của sự Tiến Hóa chói lọi này, Pascal, Berkeley đã dịch sao lại Lock, Descartes được hỗ trợ cực kỳ hữu hiệu bởi Newton, Darwin. Vả chăng, trên hiện thực lịch sử, đường hướng duy lý và thực dụng, tinh thần nhân bảnduy vật, đã tự biện minh hùng hồn biết bao, qua biết bao những kỳ tích tiến hóa huy hoàng từ trên 300 năm nay trên các lĩnh vực cá nhâncộng đồng, quốc gia và quốc tế. Làm sao khoa học tự nhiên có thể lớn mạnh đủ để giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác cho Phúc Lợi của Con Người, hay cũng vậy, cho Ngũ Dục: Sắc, Tài, Danh, Thực, Thụy? Làm sao khoa học nhân văn lại có thể trưởng thành đủ để phát triển sâu rộng Dân Chủ, Tự Do, Bình Đẳng trong nội bộ quốc gia như những giải pháp cho cuộc xung đột giữa các tâm sở Phẫn, Hận, Não, Tật… và Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Bất Tín… nếu Con Người như một thực thể hiện sinh lại bốc hơi trong tư thế bao trùm của một Đấng Toàn Năng được đại diện bởi một thế lực xã hội có, ở đâu cũng vậy, và thời nào cũng thế, có tính Phàm nhiều hơn tính Thánh; nếu Con Người như một hữu thể nhận thức lại bị hóa giải trong ánh hào quang rực sáng của một Đấng Toàn Tri phát biểu qua một thẩm quyền phán quyết bất khả kháng?

       Không thể chối bỏ được rằng trong hơn 300 năm qua, trên bình diện hiện sinh, nhân loại đã chế ngự được nhiều tai ương mà trước đó được xem là vô phương khắc phục như đói rét, bệnh tật,…; trên bình diện nhận thức, đã vén mở được bức màn che phủ các thế giới vi mô và siêu vĩ mô mà trước đó được xem là nằm ngoài cảnh giới của sáu Liễu Biệt Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, tức là ngoài toàn bộ (?) khả năng tri giáctrí tuệ của Con Người. Nhiên liệu vận hành các tiến bộ văn minh này được khai thác trong các kho thiên hướng ngũ dụclý trí hướng ngoại; và khai thác ngày càng triệt để…

Trên lý thuyết,

       Ngũ Dục, đó là phương diện tác dụng của cấu tạo nhân thể “ngô hữu thân” định hình hóa trong khuôn đúc của Cộng Nghiệp và Biệt Nghiệp, hay nói một cách thô thiển theo khoa học, của thể chế xã hội và ADN. Lý trí hướng ngoại, đó là một phương thức phản xạ trí tuệ hay pháp chấp câu sinh và hậu đắc tạo dựng bởi Ý Thức hay Thức Thứ Sáu thao tác trên thông tin, tư liệu của tiền ngũ thứcdựa vào sự đạo diễn của Mạc-na (Manas) hay Thức Thứ Bảy. Ngũ Dục không tự ấn định cho nó một ranh giới cuối cùngcon người hiện đại say sưa buông thả vô hạn độ trong đại dương cực phân biệt của xã hội tiêu thụ. Lý trí hướng ngoại ngày một Mạn và Kiêu trước những thành tích chói lọi thu hoạch trên con đường Làm Chủ Tự Nhiên của nó, từ đó sự tương xung tương khắc ngày càng ác liệt giữa Con Người và, hay cái tưởng đâu là Trí Tuệ Nhân Loại và bên đối tác, Tự Nhiên khách quan.

       Ngũ Dục nơi mỗi cá nhân, mà nhiều khi được xếp vào hạng mục Nhân Quyền; Ngũ Dục nơi mỗi cộng đồng, mà nhiều khi được xếp vào hạng mục Tự Quyết, không dễ gì tìm ra cách thỏa mãn, ngoài con đường xung đột vũ trang và chưa vũ trang, đừng nói vội sự thỏa mãn nọ tất yếu đẻ ra truy cầu kia, và cứ thế, cứ thế cho đến một ngày “đẹp trời” Ngũ Dục của tất cả được hóa giải trong chiếc “nấm” Ngũ Dục mà một nhóm điên khùng dựng lên dưới chiêu bài văn minh, tôn giáo, chính nghĩa, chủ quyền… Ngũ Dục được vuốt ve, chiều chuộng ngày một âu yếm hơn, mặc nhiên tự đồng nhất hoá với Văn Minh, dưới sức nặng thuyết phục cực lớn đến nỗi dường như không còn cách nào cho phương châm thiểu dục của Lão Tử, diệt dục của Đức Thích Ca có cơ may cất lên được tiếng nói, dù chỉ thều thào.

       Lý Trí hướng ngoại, bên cạnh kỳ tích thượng tri thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự, bằng những thành tựu ngoại thân hóa của nó, tức là những computer trí tuệ, đang ngày càng được tôn vinh như một quyền năng không bị hạn cục trong bất kỳ một khuôn viên nào từ sự truy tìm Chân Lý. Đồng thời, mỉa mai thay, và cũng đáng đời thay, đang tự ngày càng xói mòn bản thân nó: cần gì nữa sự rèn luyện trí năng một khi robot có thể làm thay và làm tốt hơn.

Và trên thực địa,

       Các thành viên của nhóm G7, mục tiêu lý tưởng cho phần còn lại của nhân loại, không phải là thiên đường cho các chủ thể cấu thành: tội ác, bạo lực, ma túy, Sida, gia đình phân rã, đức tin tiêu vong, đạo đức tàn lụi, lý tưởng thiếu vắng… Kể gì đến phần còn lại, ở đây, nếu không muốn nói, còn tệ hơn.

       Làm sao khác được nếu Con Người chỉ chuyên chú vào Ngũ Dục như lý do tồn tại của nó, các Ngũ Dục hoặc không được thỏa mãn và không bao giờ được thỏa mãn đầy đủ, hoặc chính nó thị hiện qua các hiện tượng. Tội ác ư? Đó là Tài; Sida ư? Đó là Sắc; Ma túy ư? Đó là Thụy; Bạo lực ư? Đó là Danh; Trọng bệnh ư? Đó là Thực. Hoặc lẫn lộn, và lẫn lộn trong gia đình, đức tin, đạo đức, lý tưởng.

       Nói riêng Bạo Lực. Phải chăng bạo lực chỉ giới hạn trong một chiếc ô tô đầy ắp chất nổ quy ước TNT đủ làm sập cả một cao ốc ở Oklahoma City, Colombo… trong những tràng tiểu liên hoặc tiếng nổ của một quả lựu đạn trên một đường phố ở Alger, Cairo,… hay vì nhân loại đang tiến cực nhanh trên con đường công nghệ dân sự cung cấp trở lại cho công nghệ quân sự, vật liệu làm bom nguyên tử cỡ nhỏ, như kết quả của xu hướng phi hàng loạt hóa (demassification) sản xuất, có thể tìm mua ngay… ở đầu phố, theo đúng thông báo của Builden, chuyên gia về vũ khí hạt nhân: “nếu không phải trong đời tôi, thì có thể trong một tương lai gần, vũ khí hạt nhân sẽ được phổ biến đến tận tay cá nhân, có thể các cá nhân sẽ chế tạo được vũ khí hạt nhân bằng nguyên liệu đang lưu hành trên thị trường thương mại”, và nhân loại văn minh đương đại thiếu gì Trọc Đầu, Báo Đen, Hổ Tamil…

       Ngũ Dục, dưới tấm khăn phủ hữu phú loè loẹt màu chính nghĩa là phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, phú cường tổ quốc, thị hiện trên đường hướng không ai dám phản bác để chuốc lấy danh vị phản bội, ít nữa mất gốc, và từ đó, và đồng thời cùng với cái bóng của nó, sự hủy diệt cân bằng sinh thái, sự ô nhiễm môi trường sống còn, sự phá vỡ thượng tầng ozon, sự thù địch trong quan hệ xã hội, sự vị kỷ trong nếp nghĩ và ứng xử… Con Người của Ngũ Dục, của xã hội tiêu thụ, của phát triển kinh tế,… có thể nào hợp lý hóa Ý Thức của họ về những hiểm họa đang đè nặng lên một Trái Đất đang lâm nguy và đang hẹp dần bằng những lời kêu gọi vu vơ, hàm hồ, lỗi thời của Thanh Tâm, của Quả Dục, của Ngũ Giới, của Thập Hạnh Balamật. Lý Trí… Hữu Phú sao được! Một khi nhờ tính năng này Con Người vượt lên đứng đầu muôn loài và có tham vọng tranh ngôi bá chủ với Thượng Đế.

       Hãy tạm xét thành tích của Lý Trí hay Trí Tuệ Hướng Ngoại trên ba bình diện:

    • Quốc Nội: bởi vì một trong hai thuộc tính của Lý Trí là truy cầu cái Lợi, cái lợi cho bản thân, cho phe nhóm, cho giai cấp (nặng tính lý thuyết), cho dân tộc (như một ngộ nhận). Cái lợi được thực hiện thường xuyên và “hồn nhiên” qua “cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”, chi tiết hóa trên xung đột giữa cá nhân, giữa phe nhóm, những giai cấp một bên, trong khuôn viên của một cộng đồng, cực đoan dưới hình thức cách mạng, nhiều lúc dưới là cờ “phải đạo” của một Nhà Nước tập quyền bá đạo hay cực tri, một bên trên trường….

    • Quốc tế: qua xung đột quốc gia với quốc gia, liên minh tung với liên minh hoành. Quan hệ giữa các quốc gia được tiêu chuẩn hóa trước hết và trên hết trên tình trạng chiến tranh hay hòa bình. Mà chiến tranh thì khỏi nói, phi lýngu xuẩn đã rành rành, chẳng thế mà cùng với Lý Trí của toàn nhân loại văn minh, Lý trí của một H.G. Well, năm 1914 ngay trên cửa ngỏ của Thế Chiến I: “Không có gì rõ ràng hơn đối với con người đầu thế kỷ XX là việc chiến tranh sẽ nhanh chóng trở thành điều không thể có được”; của một Henry Ford, năm 1928, gần đúng một giáp trước Thế Chiến II: “Con Người đang trở nên quá thông minh nên không thể để xảy ra một cuộc chiến tranh lớn khác nữa”. Và thảm hại hơn nữa, mới đây thôi, với sự hỗ trợ của đủ loại computer toàn năng, sau khi “bức tường Berlin” sụp đổ và chiến tranh lạnh giữa “Đế Quốc” và “Dân Chủ” tàn lụi, niềm hy vọng của lý trí, của niềm tự hào của Con Người, đã nhanh chóng nhường chỗ cho một tình thế rất bi quan của … của hiện thực; từ đó nỗi nuối tiếc một thời Nhị Phân… dù sao xác xuất sống còn của nhân loại còn đủ lớn trong những bàn tay của Lý Trí siêu cường. Nuối tiếc vô lý, vì sớm muộn gì, bất kỳ quốc gia nào, ngay cả khi nó đang chết đói, vẫn có thể tống tiền, bắt chẹt phần còn lại của thế giới bằng thói bần cùng liều thân của một Chí Phèo hạt nhân hóa, dù là một thứ hạt nhân hóa hạng bét.

       Tính chất Chính Trị của hai phần trên có tính ngàn đời, nhưng ít nữa về lâu về dài, không thể có sắc thái biệt lập với cái sắc thái nhân học đang chịu những biến động cực lớn có nguy cơ làm thay đổi cả cấu trúc sinh hóa của nhân thể.

     

    • Đặc thù của Hiện Đại: Nếu Lý Trí Hướng Ngoại không loại trừ nhận thức về mối liên hệ công sinh như một điều kiện căn bản cho tồn tại cá nhân thì, trong hiện thực của những cộng đồng hiện đại đang ngày càng manh múng về mặt cấu trúc như hậu quả của xu thế manh múng trên các lĩnh vực sản xuất, thông tin, tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục… nó khó tránh khỏi tác động của một thúc đẩy tách rời nó ra khỏi mối liên hệ cộng sinh. Hiện tượng này càng được tăng cường bởi tính phù du ngày càng rõ nét của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với đồ dùng và nơi cư ngụ, bởi tính độc lập của con người đối với các cơ chế mà trước kia có ý nghĩa sống còn. Cái liên hệ mật thiết nhất, liên hệ trong hôn nhân, đang rã rời qua số liệu ly dị, qua các hình thức hôn nhân không đăng ký (concubinage), hôn nhân theo hợp đồng, theo nhóm, cả giữa những người đồng tính. Cái liên hệ thiêng liêng nhất, tưởng đâu là tự nhiên cũng bị phi tự nhiên hóa là tình mẫu tử, đang bị pha loãng trong một nghề nghiệp mới, nghề làm cha mẹ chuyên nghiệp, mà lý do phát sinh là nhằm giúp các bậc cha mẹ sinh học có nhiều thời gian hơn cho… họ. Tiến bộ khoa học, kỹ thuật đẩy nhanh tốc độ sản xuất và nhịp độ đổi mới hàng tiêu dùng đến mức ngày nay hầu như bất cứ đồ vật nào đặt vào tay người tiêu dùng chỉ để vứt vào sọt rác một thời gian ngắn sau. Ý niệm sở hữu phai nhạt cùng với những tình cảm đối với nơi mà có cả trăm lý do khiến người ta phải hay muốn rời bỏ sau một thời lượng cư trú ít nhiều dài ngắn. Cũng chính nhờ tính năng, hiệu năng, của nền sản xuất phi hàng loạt hóa, trực tiếp ảnh hưởng lên quyền hạn của các tổ chức của giới chủ, của Nhà Nước quan liêu và mệnh lệnh, mà con người tìm được những mảnh đất cho tự do ngày càng rộng thoáng hơn. Cái ý nghĩa quan trọng nhất và khẩn cấp nhất, trong mọi ý nghĩa có thể tìm ra từ hiện thực trên, ấy là…

       Nếu sang thế kỷ 21 Nhân Loạithể không phạm phải cái ngu xuẩn lớn nhất là cuộc xung đột hạt nhân giữa các quốc gia - một điều cho tới nay không mấy chắc chắn, vì trên đống gạch vữa của Bức Tường Berlin, đã rất nhanh hiện rõ tham vọng bá quyền của… , chúng tôi rất tán thưởng quan điểm của ẩn sĩ Hammoud về sự sổ lồng của các âm hồn tà giáo – thì một hiểm họa mới, ngay bây giờ đây, đã thế chỗ rồi: nó còn trầm trọng hơn cái mà Huntington đã giả định, sự đụng độ giữa các nền văn minh, nó… chúng tôi muốn nói tới hiểm họa về một nhân loại vô chính phủ, về cái mà Vivekananda đã gọi là thể hỗn hống (amalgame) và giờ đây trở thành cực bác tạp, cực ô trọc hay PHÂN BIỆT. Tình hình là như vậy đó khi ta nghĩ đến các nhóm sắc tộc Kurd, Tchéchène, Tamil, Serbe, Croate, Bosnia… kể cả những hình thức mới trong những nước văn minh của Lữ Đoàn Đỏ Ý, “Con Đường Sáng” Perou, khi ta nghĩ đến những tai họa khủng bố đã xảy ra rồi trên bầu trời, dưới mặt biển và sẽ dứt khoát xảy ra cả trên siêu xa lộ thông tin mà dấu hiệu báo trước là những đàn virus điện tử đang đe dọa nhiều cơ quan Nhà Nước, tổ chức tư nhân; khi ta nghĩ đến những stress mà từ đó cuộc sống vũ bão hiện đại sẽ làm nảy sinh những anh điên, chị khùng, có trong tay không chỉ hơi độc sarin (theo Seaquist, chiến lược gia ở Bộ Quốc Phòng Mỹ: “một xí nghiệp hóa dược cũng có khả năng chế tạo vũ khí sinh học”), và rồi đây cả những trái mìn siêu nhỏ tự tái sinh và v.v…. Cho nên…, nhưng còn quá hẹp hòi và lạc quan, Warren Christopher cảnh cáo: “Nếu chúng ta không tìm ra được biện pháp nào đó để các nhóm sắc tộc khác nhau có thể chung sống trong một đất nước… thì chúng ta sẽ có 5000 quốc gia, so với trên 100 như chúng ta hiện có”. Biện pháp nào? Hơn nữa rõ ràng Ngoại Trưởng Mỹ mới chỉ xem xét mặt chính trị của vấn đề. Bao quát hơn, trong cuộc gặp mặt giữa các cựu nguyên thủ quốc gia ở Colorado Springs, tháng 10-1995, cố Tổng Thống Pháp F. Mitterand nhận định: “Điều tuyệt đối cần cấp là năm 2000 phải định ra được các quyền của những nhóm thiểu số… Nếu không chúng ta sẽ chứng kiến sự tan rã và phân hủy rộng lớn, mà không ai còn đứng ngoài được nữa”.

       Và quan trọng hơn, cấp bách hơn và trực tiếp liên quan tới cuộc hội thảo này, khi ta nghĩ đến những giáo phái Davidiens, Hamas, “Đền Thờ Mặt Trời”, Aum Shinrikyo… đang mọc lên như nấm khắp mọi hang cùng ngõ hẻm. Giáo phái… Tôn Giáo… Tại sao vậy và ý nghĩa gì?

       **

       Nói đến Tôn Giáo…, trước hết và một cách phổ biến, đó là niềm tin vào sự hiện hữu của Đấng Thượng Đế được quan niệm qua hình tượngtính cách con người lý tưởng hóa cực điểm. Đấng Thượng Đế, với tư cách ấy, “buộc” phải sáng tạo ra toàn bộ cái vũ trụ hiện thực này, và “buộc” phải có quyền lực tuyệt đối lên bất kỳ cái gì nằm trong vũ trụ ấy. Đồng thời, về sự hiện hữu của Linh Hồn như một sở thuộc của mỗi cá nhân, đặc trưng hóa cá nhân ấy và tồn tại vĩnh hằng.

       Niềm tin này được trình bày lại và chi tiết hóa cho các mặt tâm linhthế tục trong một hệ thống giáo điều nối tiếp nhau ít nhiều logic, bởi những tổ chức xã hội, một số rất nhanh chóng trở thành những thế lực xã hội hùng mạnh mà các tâm sở tham, mạn, sân, tật, san, phẫn, biên kiến, kiến thủ… nổi trội hơn nhiều lần các tâm sở tàm, quý, tinh tiến, vô tham, vô sân, bất hại, hành xả… mặc dù họ vẫn luôn luôn nhắc nhở, đòi hỏi các tín đồ phải trì giới nghiêm khắc, mà giới thì ở tôn giáo nào cũng vậy, đều ít nhiều đồng nghĩa với các tâm sở thiện, cũng là các biện pháp phòng ngừa, khống chế Ngũ Dục.

       Là đồng minh rất gần gũi, có thể gọi là nguồn dự trữ chiến lược của tôn giáo, mặc dù vẫn thường xuyên bị tôn giáo chối bỏ, hất hủi một cách hết sực khinh bỉ và Cực Kỳ Phi lý (!), mê tín dị đoan cũng tự định nghĩa trên niềm tin và sự hiện hữu của các sức mạnh siêu tự nhiên, những hữu thể siêu tự nhiên theo nghĩa không thể, về phía con người, tùy ý tri giác trực tiếp bằng các giác quan hoặc những công cụ khuếch đại, nhưng lại có thể gây nên những tác động vào sự sống còn của mỗi người thông qua những thủ pháp mà trình tự nhân quả không nằm trong tri thức duy lý khoa học. Niềm tin loại này rất phổ biến trong nhân loại tuy có nồng độ rất khác nhau và không được “chủ thuyết hóa” bởi một lực xã hội nào và nhất là thường không bày tỏ một quan điểm cụ thể về một Thượng Đế “có tên họ”, hình như bởi vì đó là tàn dư của giai đoạn vật linh luận và phiếm thần luận.

       Sự đăng quang của Lý Trí Hướng Ngoại lên ngôi thống trị Trí Tuệ đã thực hiện được trong 300 năm qua những kỳ tích chói lọi của Khoa Học và Kỹ Thuật, đã xây dựng được những xã hội công dân dân chủtự do, những phẩm chất xứng đáng nhất của con người với tư cách sinh vật xã hội; cả hai tổng hợp vào nửa sau của thế kỷ 20, trong xã hội tiêu thụ, lúc đầu như một thành công bất khả phản bác của những tư tưởng Ánh Sáng, rồi rất nhanh như những hiểm họa tiềm phục mà chính những tư tưởng ấy phải trả giá.

       Và trước hết, tất cả đều có ý nghĩa, đều có tác dụng đẩy lùi Thượng Đế, và cùng với Ngài, “đẩy lùi các tôn giáo vào bóng tối”. Tình hình là như vậy, và không thể khác được; vài tiếng nói lẻ tẻ từ Pascal đến Einstein, từ Schopenhauer đến Bergson, lại là tiếng nói của Thế Trí Biện Thông (trừ Pascal) không thể vực tôn giáo khỏi sự tàn lụi của nó, bởi vì:

       

  • Trên mặt Lý: Tôn giáo phải có Thượng Đế, Thượng ĐếĐấng Sáng Tạo, Sáng Tạosáng tạo trong thời gian, có nghĩa là Thượng Đế tồn tại trong thời gian, và người ta tự hỏi, trước thời điểm bắt đầu Sáng Tạo, Ngài làm gì? Thượng Đếquyền lực tuyệt đối lên Vạn Vật – lên vạn vật là lên vạn vật trong không gian, có nghĩa là Thượng Đế tồn tại trong không gian và người ta tự hỏi, trước thời điểm Sáng Tạo, Ngài ở đâu? Chưa kể quyền lực dựa trên phán xét, sự triền phược vào một thể vô định hình là Thị Phi! là Thiện Ác!

       

  • Trên mặt Sự: Bằng những lập luận có đằng sau nó cả loạt thực nghiệm chính xác và chặt chẽ, có đằng trước nó sức mạnh của chính những lập luận ấy vật chất hóa, khoa học đã buộc tôn giáo phải từ bỏ, chí ít phải hiệu chỉnh hết giáo điều này đến giáo điều khác mà ngày xưa nó đã dại dột chi tiết hóa và khẳng quyết quá sớm. Đồng thời trước những vấn nạn nóng bỏng của nhân loại, tư duy duy lý khoa học đã đẩy nhiều tôn giáo vào thế lấn bấn, lúng túng, như hiện thân của sự bất lực và vô năng, giữa giải phápgiáo điều. Ngoài ra, vì Dân ChủTự Do không hề kiêng nể, dè mặt bất kỳ ai, dù Thánh hay Phàm, vậy mà tôn giáo nào cũng đều muốn quảng bá đạo học của mình, mở rộng quần chúng tín đồ, do đó phải được tổ chức chặt chẽ, khoa học (!) do đó phải có một hệ thống lãnh đạo quan liêu, do đó… thôi thì… cho nên… Và trong cả trăm, cả ngàn những tệ hại, tạm nói cái bé nhất mà Krisnamurti đã phát hiện từ lâu “Ngày nay may ra Phật Giáo chỉ còn tồn tại ở những nơi không có bóng dáng Thượng Đế”.

       Cho nên từ Friedrich Nietzsche (1844-1900) Thượng Đế đã chết, và cách nay vài ba thập kỷ, người ta đã tính chuyện thành lập khoa Thần Học về cái Chết của Thượng Đế. Dĩ nhiên cùng với Ngài, cả tôn giáo vốn lấy Ngài làm lý do tồn tại. Và như vậy tất cả đều quá hợp lý! Có điều… Lý Trí Khoa Học chưa hề bao giờ vét cạn được hiện thực nhân sinhvũ trụ. Cho nên… và Chứng cớ là…

       Trong vài ba thập kỷ qua, nhân loại đã chứng kiến vụ bội thu của hàng vạn, hàng chục vạn những giáo phái trong các nước đang dẫn đầu nền văn minh hiện đại, tức là văn minh khoa học, duy lý và vật chất chủ nghĩa. Có những giáo phái đã trở thành nguy hiểm cho an toàn và ổn định của cả một quốc gia; có những giáo phái đã tiến lên chiếm vị trí trọng yếu về mặt ảnh hưởngquyền lực đối với xã hội. Aum Shinrikyo làm nảy sinh vấn đề an ninh không chỉ trong phạm vi một đất nước; và Ikeda, người cầm đầu giáo phái Soka Gakkai được đánh giá là nhân vật có thế lực nhất ở Nhật: tổ chức Cứu Rỗi Toàn Thống đang thách thức sự sống còn của Nhà Nước Algérie… Cạnh đó, cả một quốc gia, cả một khu vực nữa, Iran, Iraq, Khối Hồi Giáo, Khối Nho Giáo,…. Đã 10 năm rồi, bản án tử hình vẫn lủng lẳng trên đầu người công dân của nước Anh Salmon Rushdie như một cái tát vào mặt nền Văn Minh Đương Đại, Duy Lý và Pháp Trị; và việc trục xuất Talisman Nasrin ra khỏi tổ quốc của bà dù sao cũng phải được xem như dấu hiệu của sự đồng thanh tương ứng. Và tuy phải đạo hơn và ôn hòa hơn, Lý Quang Diệu hay Mohamed Matin có ý nghĩanếu không phải cũng là những manh nha… Cho nên ở nhiều nơi trong thế giới Văn Minh đương đại, người ta, những nhà khoa học hay những người có tư duy khoa học, đang phải xem xét rất nghiêm túc một vấn đề rất khẩn trương: “Sự Phục Thù của Chúa” đang thị hiện vào những năm cuối của thế kỷ này và chắc chắn sẽ được thi hành ác liệt và tàn bạo hơn nhiều.

       Không phải là nhà khoa học, cũng không phải là người có tư duy khoa học, chúng tôi cũng không thấy trong những hiện tượng trên, dấu hiệu cho sự phục thù của Chúa; chỉ thấy ở đó dấu hiệu, dù đôi lúc và đôi nơi, có nhuốm sắc màu ảm đạm, cho khuynh hướng đi về tâm linh của nhân loại. Thực ra, đợi chi cho đến những năm này! Ngay từ đầu thế kỷ 20, Charles Lancelin đã tiên đoán “Khoa Học Huyền Bí sẽ là khoa học của thế kỷ 20”. Và rồi trước khi “thế kỷ 21 là Thế Kỷ Tâm Linh”, George Velgel đã thông báo: “Phi thế tục hóa thế giới là một trong những hiện tượng xã hội nổi bật của thế kỷ 20”.

       Chứng cớ, đó là sự kiện, và thế đã quá đủ. Tuy nhiên chúng ta có thể “bàn chơi” về Tại Sao và Thế Nào vậy.

       - Nếu Khoa Học một mặt cứ khư khư tinh thần quyết định luận của Vật Lý Newton và tinh thần bài trung của logic Aristote mà, hoặc chính vì thế vẫn, hoặc không vì thế không, tiếp tục tiến lên đánh đâu thắng đó trên khắp các trận địa của hiện thực nhân sinh thì quả thực tôn giáo còn phải ấp a, ấp úng, gãi đầu gãi tai tự bào chữa cho quyền sống của nó trước tòa án của Trí Tuệ Nhân Loại như nó từng làm thế từ thời Phục Hưng đến đầu thế kỷ 20. Song, từ thuyết Tương Đối trở lại nay, người ta không còn tìm đâu ra được cái thái độ tự chủ đầy ngạo mạn của Laplace, trái lại, dễ dàng nhận ra ở khắp nơi, hoặc một R. Feynman “Khoa học chẳng cho ta biết cái gì hết…, chẳng chứng minh cái gì hết”, hoặc một D. Hilbert “Trong Toán học, người ta không biết người ta đang nói cái gì và những điều người ta nói có đúng không”, hoặc một A. Zadeh, hoặc một Heisenberg… nhất là Heisenberg: Nguyên Lý Bất Định giáng một đòn chí tử vào quyền độc tôn của Khoa Học với tư cách những phán quyết sắt thép và đơn trị. Nói cách khác, chính khoa học thế kỷ 20 đã thu hẹp vương quốc của Tất Yếu bằng sự thừa nhận đế quốc của Ngẫu Nhiên. Cũng là tự thu hẹp quyền lực và oai phong của chính nó và mặc nhiên cho phép mọi khả năng cơ hội hiện thực. Từ đó cái Vô Lý của Tôn Giáo không còn là một luận cứ đủ để phản bát quyền tồn tại của Tôn Giáo.

       Lại càng như vậy, cái Vô Lý của Thượng Đế. Ngược lại là đằng khác. Chính Khoa Học đôi lúc không khỏi… “Ôi! Thời oanh liệt.. ôi Feuerbach, ôi Karl Marx…”. Chẳng hạn, gần đây nhất, góp phần vào một bản hợp tấu bắt đầu cũng đã lâu rồi, nhà bác học nổi tiếng thế giới Trịnh Xuân Thuận rất tin vào sự hiện hữu của Thượng Đế chỉ bởi vì, dựa vào tính toán của ông và các đồng nghiệp, vũ trụ này đã được tạo dựng theo một chương trình được thi công chính xác đến từng một phần tỷ tỷ giây. Để đảm bảo được sự chính xác kinh khủng này – kinh khủng đối với ai? một giây mà đã là ngắn à? “Một satna bao gồm toàn bộ thời gian từ vô thỉ đến vô chung” - phải có một Đấng Thượng Đế đứng ra chủ trì chứ không thể mặc nhiên giao phó cho Ngẫu Nhiên được. Thì ra nhà bác học rất tài năngđạo đức ấy, vốn sợ Ngẫu Nhiên như nước sợ Chân Không, tin rằng Thượng Đế có thực vì Ngài rất giỏi, giỏi bằng Con Người: chẳng phải cái gọi là chính xác đến một phần tỷ tỷ tỷ ấy chính là sản phẩm của Con Người, thậm chí của một số người nào đó hay sao? Mà những người này thì quá thật đến nỗi câu hỏi “Tôi là Ai?” trở thành quá lố đối với họ! Thêm nữa chẳng phải chính Trịnh Xuân Thuận đã khẳng định ngay trên bìa cuốn sách: Và Con Người đã tạo ra Vũ Trụ! - Thế kỷ 20 là thế kỷ của thông tin, của giao lưu và kỹ thuật trắc nghiệm. Chính trong tình hình này mà nhiều hiện tượng mới gần gần đây thôi còn bị Khoa Học, và những người theo đuôi nó, đáng chú ý nhất là Tôn Giáo, ném thẳng tay vào sọt rác của mê tín dị đoan mà không cần xem xét thật giả gì hết, giờ đây lại được lôi ra, rồi kiểm tra, rồi đo đạc, rồi thí nghiệm, và cuối cùng trong nhiều trường hợp người ta buộc phải rụt rè công nhận “khoa học chưa giải thích được” thay vì nói thẳng ra và ít ngu xuẩn hơn “nằm ngoài logic khoa học.”

       Từ đó, người bạn đồng minh trung thành, tuy thường bị rẻ rúng, của tôn giáo, dần dần ngẩng cao đầu, nói năng đàng hoàng với thiên hạ, tuy nhiều lúc, do tự ti lâu năm lại thêm ít học, cứ tự làm mình lố bịch bằng cách vay mượn dăm ba chiếc lá nho khoa học rất rẻ tiền. Cũng có nghĩa là Tôn Giáo giờ đây đã hiểu ra hoặc phải hiểu ra rằng nó không cần quá rụt rè, khúm núm trước Khoa Học nữa mà cần hiên ngang hơn, tự tin hơn, đứng vững hai chân trên mảnh đất của nó.

       

  • Thế kỷ 20, trong toàn bộ nền văn minh nhân loại đến lúc đó, là đỉnh cao nhất của những thành tích kỳ vĩ mà Khoa Học và Kỹ Thuật đã thực hiện trên hiện thực cũng đủ làm các tôn giáo phải kính nể, đồng thời cũng là đỉnh cao của biết bao nhiêu cái… chúng tôi đã sơ sơ nói qua một vài chi tiết. Và thế kỷ ấy, kiêu mạn là thế, lại đang sắp kết thức trong hồi chuông róng rả báo tin Chúa đang trở lại, Chúa tái sinh, và kinh khủng hơn hết, Chúa… phục thù!

       Chúng ta vừa bàn chơi ba động lực của khuynh hướng về tâm linh nhưng có một sự kiện không phải là nói chơi, đó là Tôn Giáo, bất kỳ tôn giáo nào, không hề tham gia tí nào vào sự hình thành bất kỳ một động lực nào trong ba động lực trên, bất kỳ… kể cả Phật Giáo. Mặc dù cả ba động lực ấy đều tìm được đáp án, vượt quá cả nội dung mà con người hiện đại đặt ra cho chúng trong kinh luận của Nhà Phật.

**

       Trong tất cả các tôn giáo, các hệ tư tưởng duy tâm, duy nhất chỉ có Đạo Phật đã làm được điều cực kỳ vĩ đại, đủ vô hiệu hóa mọi thách thức của Trí Tuệ Con Người trong mọi thời đại, trước mắt trong thế kỷ 21, ngay cả với mọi giả định về sự phát triển không thể hình dung được của Khoa Học và Kỹ Thuật, ấy là Đạo Phật đã phủ định: Thượng Đế như nguyên nhân đầu tiên của Tồn Tại

Và Linh Hồn như sở thuộc cá nhân, như lý do cho tín ngưỡngtu tập.

       Mỗi nền Văn Minh đều hình dung Thượng Đế trong một mô hình riêng, có tính đặc thù về các mặt truyền thống, dân tộc, địa lý, lịch sử, … Thượng Đế Brahma hay Ishvara của người Ấn Độ, Đức Thích Ca tuy có thừa nhận chức năng coi sóc vũ trụ của Ngài, cái vũ trụ trong tri kiến của chúng sinh trong cõi Ta Bà, nhưng Đức Phật không đánh giá Ngài cao lắm, vẫn xếp Ngài vào giỏ Lục Đạo liên tục rỉ chảy vào vòng Luân Hồi; chính bản thân Thượng Đế này cũng tự phản tỉnh tính hạn chế của mình nên Ngài vẫn thường xuyên đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Vậy ai đóng vai Thượng Đế Toàn Năng Toàn Tri bây giờ?

       Mặc dù Đức Thích Ca đã nói trắng ra, không úp mở, vòng vo, bóng gió: “Thiên thượng, thiên hạ duy Ngã độc tôn” mặc dù cái tài tính toán chính xác và sắp xếp chi li trong vòng 10-43 giây sau bức tường Planck chẳng ăn nhằm gì so với “Như Lai… cho đến giọt nước ở ngoài hằng sa thế giới, cũng biết số mục, không rời nơi đạo trường mà hiện khắp cả Mười Phương Thế Giới”,

“Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận ;

Trên đầu một mảnh lông hiện ra các cõi nước, ngồi trong một hạt bụichuyển Đại Pháp Luân”

nhưng Đức Phật lại không tự cho mình cái tư cách sáng thế, không phải vì Người, thái Tử Sidartha, dòng họ Gautama, con của Quốc Vương Suddhodana, mới sinh ra vào năm… nào có ăn nhằm gì với tuổi của vũ trụ ít nhất là 15 tỷ năm; đơn giản chỉ bởi vì…

       Đối trước cái vũ trụ quan sát được này (l’univers observable) – mà theo một giả thuyết thiên văn hiện đại về vũ trụ muôn thể (univers multiples) chỉ là một thứ bọt bèo (bulle) mất tăm trong một cái siêu vũ bọt bèo (bulle méta-univers), cái này đến lượt nó lại mất tăm trong… và cứ thế vô tận - Đức Phật có cái tư cách bình đẳng với bất kỳ một chúng sinh nào; nghĩa là một bộ phận? một thành phần? một mô hình thu nhỏ của Vũ Trụ. Không, toàn những câu chuyện trẻ con vì nó vẫn không giải quyết được vấn đề nguyên nhân, vần đề phát sinh. Ấy vậy màtrái lại, Đức Phật, và cùng với Ngài mỗi người chúng ta, đều có cái Tư Cách SÁNG THẾ: “Núi sông, thế giới, và hư không đều là vật trong CHÂN TÂM hiện ra… Các ông thấy có núi, có sông, có thế giới, có chúng sinh vì các ông đều Mang Bệnh Nhặm Mắt (tức là Vô Minh ) từ vô thỉ… Toàn thể các chúng sinh trong Mười Phương Thế Giới đều do Vô Minh Vọng Động từ vô thỉ nên cùng Vọng Tưởngthế giới như thế, có chúng sinh như thế hiện ra”.

       Hãy tạm tưởng tượng con mắt của chúng ta có thể xuyên sâu vào cấu trúc nguyên tử của vạn pháp thì ta dễ hình dung, dễ tiếp cận tính chân lý tuyệt vời của khẳng định cực kỳ phi lý trên (!). Nhưng Đức Phật đâu thèm dừng lại ở mức nguyên tử, hay hạt quarks, hay gì gì đi nữa: “Cái giới hạn về sắc tướng đến Hạt Lân Hư là cùng tột. Nếu có thể làm phân rã hạt lân hư này một lần nữa thì sẽ có Hư Không”. Rõ ràng“Tính của SẮC là CHÂN KHÔNG”.

       Cái Chân Không xuất hiện thay thế cho sự tiêu vong của Lân Hư như lượng tử của vật chất, và ta không khỏi liên tưởng đến thí nghiệm bắn phá hạt cơ bản mới đây nhất làm mất tiêu vật chất trong Trường Chân Không Vật Lý. Mà Vật Chất chính là Không Gian, vì ngày nay Không Gian không còn được quan niệm như cái Chứa trống rỗng mà như tính cách của vật chất: Vật Chất tạo ra Không Gian chứ không phải Không Gian chứa vật chất.

       Thế còn Thời Gian thì sao? Cái thành phần cấu tạo thứ hai của Vũ Trụ? Chẳng phải Đức Phật vẫn nói đến Luân Hồi, đến Nhân Duyên, đến Quả Báo… và tất cả đều tất yếu diễn ra trong thời gian chứ còn trong cái gì khác nữa: “Ta nói thuyết nhân duyên là đúng về phần sự tướng chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chứ không phải chỉ do Lý Tính Tuyệt Đối vậy”.

       Giống như chúng ta đang sống nhởn nhơ trên Trái Đất này với giờ, với phút, với giây, có cái chính xác của vàng ròng, nhưng nếu ta rời khỏi Trái Đất với tốc độ gần bằng tốc độ tuyệt đối, hoặc lọt vào hố đen, hoặc vọt ra hố trắng… Đại khái các pháp trong thế gianLý Tính Tuyệt Đối khác nhau như vậy. Nhưng còn Tam Thế Chư Phật? Ông Duy Ma Cật đã đỡ lời Đức Thích Ca“Do văn tự thế tục ghi chép nên nói có ba đời chứ chẳng phải Bồ Đề (tức là Trí Tuệ Tối Thượng) có Đời Đã Qua, Đời Sẽ Tới và Đời Hiện Nay”.

       Tóm lại, qua ống kính Võ Phân Biệt của Trí Viên Thành Thực trên Vương Quốc của Chân Đế“Cả cái Tự Nhiên ấy, cả cái Nhân Duyên ấy đều do CHÂN TÂM vọng động ra cả” Chân Tâm thì ai chẳng có, ai chẳng là chính Nó: “Cái CHÂN TÂM CỦA ÔNG, sao ông không tự nhận lấy, lại cần ta chỉ CHÂN TÂM cho nữa?”

       Nó có dáng dấp của Linh Hồnthoát khỏi cái Vô Lý cực lớn là tính Cá Ngã vĩnh hằng. Còn Vọng Động? Đã là chuyện ảo, chuyện huyễn, như một giấc mơ, sao còn phải quá bận tâm đến Tại Sao hay Thế Nào, như ông Phú Lâu Na: “Chân Tâm bản nhiên thanh tịnh, vân hà hốt nhiên sinh sơn hà, đại địa?”.

       Vậy là? bởi vì khoa học lý thuyết đang ngày càng, và không thể làm khác được, dấn bước trên con đường hóa giải hai thành tố cơ bản và duy nhất của Tồn TạiKhông GianThời Gian, cho nên, không phải chỉ riêng cho thế kỷ 21 mà cho muôn đời sau này, Đạo Phật đã đem lại câu trả lời không bao giờ có thể vượt quá cho những câu hỏi về bản thể, về vũ trụ. Nhưng Con Người, nhưng chính chúng ta đang sống đây, có những nhu cầu trực tiếp, với những vấn đề cấp bách, trước những hiểm nguy gần kề mà phần trên chúng tôi đã điểm sơ sơ, tất cả còn khẩn thiết hơn, hiện thực hơn nhiều lần những vấn đề vũ trụ luận hay bản thể luận. Đạo Phật tuyệt vời thật, nhưng là tuyệt vời trong thế giới siêu việt cái cõi đời tầm thường mà quá thật này. Vậy nó có ích gì cho con người tầm thường và quá thực là chúng ta đây không?

       Cái Vĩ Đại thứ hai của Đạo Phật là những đối sách rất thực dụng của nó cho con nguời trên Tục Đế, dựa trên mặt thứ hai, mặt Vọng của CHÂN TÂM“Tính của KHÔNG là CHÂN SẮC”.

       Nếu chúng ta chưa vượt được trường hấp dẫn của những chủng tử hữu lậu đã huấn tập mà còn bị câu thúc bởi cấu tạo sinh lý, bởi phân tử ADN, bởi tri thức đã học hỏi, bởi cảnh quan văn hóa, lịch sử… nghĩa là bởi Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng Sinh Trược…Nếu chúng ta vẫn tin rằng ta là cái Có Thật trước nhất, đối trước cái Có Thật khác là Thế GiớiChúng Sinh thù địch nhiều hơn thân thiện, thì Đạo Phật còn chỉ ra một cái Có Thật không kém, đó là luận Nhân Quả, luật Luân Hồi. Đây là một răn đe, hoặc một động viên cho con người đang hướng thân, khẩu, ý của mình vào con đường Thập Ác hay Thập Thiện. Thiên ĐườngĐịa Ngục đều có thật hết, với những ai tin rằng có thật cái Ngũ Dục mà họ gắn bó và hành động và suy nghĩ dưới sức đẩy của sáu Căn Bản Phiền Não hay 21 Thiện Tâm Sở.

       Tất nhiên Tôn Giáo nào cũng đều khuyên người ta làm ta làm điều thiện, tránh điều ác với một phần thưởng Thiên Đường hay một trừng phạt Địa Ngục mà chỉ Thượng Đế mới quyết định, và quyết định một lầnxong hẳn cho mỗi người. Đạo Phật cũng chỉ rõ những gì đang chờ đợi con người thiện và ác, những gì ấy không do sự áp đặt hay ban phát của ai hết mà chỉ đến với họ từ chính bản thân họ, và đến trên rất nhiều quốc độ - tam thiên Đại thiên thế giới – và đến dưới mười dạng sinh tồn: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, Atula, Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, trong một vòng tròn bất tuyệt cho sáu loại đầu. Như vậy, lời dạy của Đức Phật, rất phù hợp với phương hướng suy nghĩ của nhân loại văn minh vừa thừa nhận tính tất yếu, vừa thừa nhận tính tự do: con người không phải chỉ là một con rối trong tay của một cái Nghiệp như một tiền định mà còn là quyền tự do lựa chọn hoặc dừng Nghiệp hoặc chuyển Nghiệp.

       Nhưng những hiện tượng này có thật không? Con người hiện đại có nhiều biện pháp trắc nghiệm, và Đức Phật đã chỉ ra một phương thức ngày càng chinh phục được Trí Tuệ Nhân Loại, đó là Tọa Thiền.

       Chúng tôi không đề cập ở đây những lợi ích của Tọa Thiền cho đời sống hiện sinh mà ai cũng đã biết cả, cũng không đề cập tới hiệu lực của Tọa Thiền đối với sự thủ đắc các quyền năng siêu việt quy luật vật lý học mà ta dễ phải công nhận; chúng tôi chỉ muốn lướt nhanh cái tính năng giác ngộ từng phần mà Tọa Thiền đem lại cho hành giả về vấn đề cốt tử của con người, tức là vấn đề “Tôi là Ai”, từ đó Thế Giới này là gì, từ đó, sao lại khác được, chí ít một cuộc sống hòa bình, thăng tiến tâm linh trên Trái Đất này, bởi vì chúng tôi tin tưởng sắt đá rằng qua Tọa Thiền chúng ta sẽ từng bước thể nghiệm được, sinh nghiệm được nhận định bất hủ của ngài Milarepa: “Hai ngụy thuyết căn bản của tư tưởng con người: Tin vào thực tại của những gì chỉ thuộc về Hiện Tượng và tin vào sự hiện hữu của Bản Ngã”.

       Chúng tôi nghĩ rằng sự tiến hóa thế tục của Nhân Loại sẽ được đo và chỉ được đo bằng một loại thước, cái thước của Dân ChủTự Do. Những phẩm chất ấy vốn dĩ lại nằm trong Đạo Phật nhiều hơn bất kỳ một hệ tư tưởng nào mà con người đã và sẽ nghĩ ra. Đức Phật, mặc dù tất cả những vinh danh Thế Tôn, Thiên Nhân Sư, Điều Ngự Trượng Phu, Vô Thượng, Chính Biến Giác Tri, … vẫn khẳng định: “Ta là một vị Phật đã thành, các người là những vị Phật sẽ thành”,

thành ở đâu? “Ta thành Phật trong Tâm Chúng Sinh”.

      Khi Ngài còn tại thế và đi truyền pháp, Ngài thường dùng “phương tiện” để giáo độ, từ đó ngay cả những lời dạy của Ngài cũng không được Ngài gán cho cái ý nghĩa của giáo huấn tuyệt đối“Pháp của ta như bè để qua sông. Khi đã qua được sông rồi còn dùng bè làm gì nữa”. Như vậy Pháp của Phật chỉ có tác dụng của một gợi ý: “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, mồi lửa vào Chính Pháp của ta”.

       Tinh thần Dân ChủTự Do của Đạo Phật thực là vô địch, cho nên một người vốn chưa có danh vị Bồ Tát hay A La Hán, hay Thanh Văn, Duyên Giác, thậm chí cũng chẳng có địa vị trong giáo đoàn tăng lữ như các ông A Nan, Ca Diếp, Ưu Ba Ly,… mà vẫn có cái tư cách thuyết pháp cho tứ chúng, cho cả Bồ Tát, cả A La Hán, ngang bằng với Đức Phật, đó là Ngài cư sĩ áo trắng Duy Ma Cật. Mà Ngài lại toàn thuyết những pháp trái ngược với những lời dạy có tính kinh điển của Đức Thế Tôn, tỷ như“Nếu Bồ Tát thi hành những việc trái đạo, đó là Bồ Tát thông đạt Đạo Phật”. Thông đạt đến mức: “Chẳng lìa dâm, nô,…; chẳng cắt si, ái…; chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp; sáu sư ngoại đạo là thầy, kết bạn với chúng ma; chê Phật, khinh Pháp, chẳng nhập chúng Tăng”.

       Chúng tôi không bàn đến ở đây tinh thần tương đối luận của Ngài Duy Ma Cật, chỉ lưu ý rằng trong Tục Đế vốn có tính tương đối, mặc dù vậy Đạo Phật không hề là vương quốc của tùy tiện, hay chủ nghĩa hư vô:“Tuy hành lẽ Không, nhưng trồng các cội lành, tuy hành lẽ Vô Tướng nhưng độ các chúng sinh, tuy hành lẽ Vô Tác nhưng thị hiện thụ lấy thân sống, tuy hành lẽ Vô Khởi nhưng khởi tất cả các nết lành”.

       Với loại sơ cơ, lưỡi gươm luân hồi nhân quả lúc nào cũng lủng lẳng trên đầu họ như một răn đe; với loại lợi căn, Tọa Thiềntác dụng của ánh sáng soi rọi phương tiện thiện xảo. Có lẽ vì chưa thấy rõ hiệu năng tuyệt đối của Tọa Thiền như phương pháp tu luyện cơ sở trên nguyên lý bao quát “Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức” và phương pháp truyền đạo theo tinh thần “phương tiện” cho từng đối tượng và trình độ, cho nên một con người (hết sức đáng kính) như Giáo Hoàng John Paul II vẫn tự cho phép mình phát biểu một nhận định rất đáng tiếc về đạo Phật.

       Không ai cứu được con người, kể cả Đức Phật, ngoại trừ chính bản thân họ. Tương lai của Nhân Loại trong thế kỷ 21 sẽ ra sao? Đạo Phật chỉ là một gợi ý, dù có tính tối ưu vì phù hợp sát nhất với đường hướng tiến hóa của Trí Tuệ Nhân Loại, nhưng nó vẫn chẳng phải là một đảm bảo tuyết đối. Lại càng như vậy khi…

**

       Thực sự, trên những tiêu chí “khoa học”, chúng tôi không đủ tư cáchhiểu biết để bàn về Đạo Phật trong hiện trạngphương hướng triển vọng trong tương lai trên phạm vi thế giới. Ngay cả trên phạm vị quốc gia! Nhưng với tư cách một kẻ thất phu thành thực có đôi chút ý thức về “vũ trụ giai phận sự” và đã thấy, đã nghe, đã sống, chúng tôi vẫn mạnh dạn trình bày đôi điều suy nghĩ nông cạn và nhận xét phiến diện về tình hình Phật Giáo Việt Nam.

       Trong vài thập kỷ qua, đất nước này đã trải qua nhiều biến động, cuốn hút một tôn giáo đứng ngoài tục giới như Phật Giáo vào dòng thác cuồng nộ của nó và do đó gây nên những phân biệt không đáng có trong nội bộ Phật Giáo vốn, trong cứu cánh, chỉ quan tâm đến cái khổ làm người theo nghĩa luân hồi và nhìn nhận vũ trụ này chỉ như một trò huyễn hóa “Bồ Tát quán chúng sinh như một vị ảo sư nhìn thấy người ảo hóa của mình”.

       Căn cứ trên thực tiễn hành xử của giới tăng ni, chúng tôi được gặp không nhiều lắm các vị tu hành thấm nhuần cái yếu nghĩa đó của Đạo Phật, đủ không để mình sa đà vào những hoạt động thế tục và phù hoa không liên quan gì đến mục đích cứu độ của Phật Giáo. Từ đó, một hậu quả trực tiếp, gần như tất yếu, là hiện tượng trì giới thiếu nghiêm khắc khá phổ biến trong hàng ngũ Tăng Già. Mặc dù, trên mặt đời, trì giớitư cách, là danh dự, là “quyền hành nghề” của người tu hành, cũng là của toàn thể Giáo Hội; trên mặt đạo, trì giớiyêu cầu số một, có tính bản thể cho Định, Tuệ hiện thực hóa, đặng tiến tới Cứu Cánh của Đạo. Vì vậy việc đầu tiên phải làm cho mọi Giáo Hội Phật Giáo hay Hội Phật giáo, danh xưng là gì đi nữa, là phải thanh lọc triệt để hàng ngũ tăng ni trên tiêu chuẩn trì giới, thay vì nói quá nhiều đến những vấn đề chung cục chỉ có tác dụng tha hóa người tu hành trên cả hai lĩnh vực Lý và Sự.

       Ngay cả những vấn đề nội bộ, tức là liên quan đến Tiểu ThừaĐại Thừa. Chúng tôi nghĩ rằng nếu như bằng cỗ xe nhỏ mỗi cá nhân nhà tu hành có khả năng hiện thực để đi đến những cấp bậc nào đó chỉ của thế giới hiện tượng thôi, chưa dám nói đến Niết Bán, Tịnh Thổ chi cả, trên những nẻo đường của Thiền Định, là điều có thể quan niệm được, hình dung được trên cơ sở thực nghiệm, thì chúng tôi lại thấy yêu cầubản nguyện chở thật nhiều người trên cỗ xe thật lớn đế cùng đến Niết Bàn thật vui là một tham vọng thật cao mà thật tế chưa có một Hội Phật Giáo nào đã làm được, dù cho trên những tiêu chí thật đơn giản, thật sơ lược của lý thuyết. Cho nên, thay vì quá lắm lời tự đề cao cái tư cách Đại Thừa, và dựa vào một số lời lẽ trong trong Kinh Luậnmiệt thị đạo hữu Tiểu Thừa của mình, các Hội Phật Giáo nên dành thì giờsức lực vào cố gắng làm giảm nhẹ những đau khổ tầm thường của con người thế tục bằng cách thường xuyên thực thi hạnh Bố Thí trong cả ba nội dung Tài, Pháp và Vô Úy, bắt đầu bằng sự phản tỉnh của bản thân trên các “thuộc tính nhân thể” là Tham, Giải Đãi và Úy của chính mình. Chính ở đây sẽ được đánh giá bởi Nhân Loại thế tục, mà Hội Phật Giáo nào cũng cần đến, vai tròvị trí của Phật Giáo trong những bước tiến hóa của văn minh nhân loại.

       Một phương tiện cực kỳ hữu hiệu liên quan đến hiệu lực của Pháp Thí mà tiếc thay cho đến nay các Hội Phật Giáo đều đã bỏ qua, đều đã không biết quan tâm đúng mức trong thực tiễn nhân sinh đương đại. Nếu ở nước Ấn Độ cổ vào thời đại Đức Phật tại thế, mọi người đều tin mà không đặt vấn đề gì về tính hiện thực của các hiện tượng siêu tự nhiên và các quyền năng huyền bí thì thật quá tự nhiên, quá hữu lý, quá hợp đạo việc Đức Phật cấm các môn đồ của mình thi triển thần thông và xếp vào loại tà giáo tất cả những môn phái tu hành chỉ nhằm sở đắc những quyền năng khuynh đảo con người và sự vật. Nhưng vào thời đại chúng ta đang sống đây, trong tinh thần duy lý và dưới sức ép của Khoa Học và Kỹ Thuật, người ta dễ dàng phản bác những chuyện trên, xem đó chỉ là di lụy của một thời bán khai, ấu trĩ, với sự đồng tình của không ít tăng ni, Phật tử quá ngây thơ mà cứ tưởng mình khoa học và hiện đại, thì chính những việc đó lại là những bằng cứ bất khả kháng cho các luận thuyết Duy Tâm trong đó Đạo Phật đứng hàng đầu. Vì vậy Giáo Hội Phật Giáo phải nghiêm túc nghiên cứu, sưu tầm các hiện tượng thần bí, lấy đó làm căn cứ sơ đẳng, làm phương tiện thiện xảo để giáo hóa hàng sơ cơ khoa học và duy lý những luận thuyết cao siêu cũng là siêu thực, phi lý trong Kinh Luận Phật Giáo; phải dành vị trí đặc biệt cho Mật Tông, Thiên Thai Tông… không kém gì Thiền Tông, Tịnh Độ Tông…; phải hỗ trợ tích cực Mật Tông để tông phái này làm tròn được sứ mệnh của vị Hộ Pháp đối trước những đợt tấn công ác liệt của Khoa Học, Kỹ Thuật, của tinh thần duy lý, vật chất, thay vì các nhà thuyết giảng Phật Giáo mải mê mô phỏng những phương pháp luận trong thế kỷ trước của các bộ môn khoa học xã hội Phương Tây, cứ tưởng làm như vậy là trang bị được cho mình cái diện mạo hiện đại hấp dẫn lắm.

       Mặt khác, kho tàng Kinh Luận Phật Giáo chứa đựng đến vô hạn những giáo huấn mà các lý thuyết khoa học hiện đại và những phát hiện thực nghiệm mới nhất có thể được dùng làm những minh họa ít nhiều thành công, đây phải là một phương hướng hoạt động mà Hội Phật Giáo cần đặt ra cho các Phật Tử đang làm công tác khoa học ở ngoài đời, thay vì Hội Phật Giáo hớn hở chộp lấy như một bằng cớ chứng minh giúp, như một chất liệu trang trí hộ cho bản thân họ, thay vì lo cử các tăng ni ưu tú vào các trường cao cấp thế tục để mang về cho Hội những Sở Tri Chướng Phương Tây rồi ra chỉ có cái ý nghĩa của việc “nuôi ong tay áo”.

       Tạm thời cuối cùng, những không phải là dưới cùng, các tông phái Phật Giáo cần phải hiểu bản thân mình như sự thị hiện của Phật Giáo trên một phương diện của cái “hiện thực huyễn hóa” có nhiều cấp độ này, thay vì công kích nhau loạn xạ, miệt thị nhau bằng những luận điểm nhiều khi rất hẹp hòi, tầm thường, thậm chí cả ngu xuẩn nữa. Các tông phái Phật Giáo thật sự phải coi nhau là những vị Bồ Tát có sứ mệnh khác nhau trong những quốc độ khác nhau, khác nhau như các ngài Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Long Thụ, A Nan, Ca Diếp… đối trước những chúng sinh khác nhau, không bao giờ được phép tự coi mình là người thừa kế duy nhất của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

       Một lần nữa, xin cho phép chúng tôi tự giới thiệu chỉ là một thứ Phật tử dân dã, đã thành thực, ít ra trong một lúc bộc phát của vài ba thiện tâm sở từ cái tâm chúng sinh của mình, bày tỏ đôi ba ý nghĩnhận xét mà chắc rằng rồi ra có nhiều cơ may được Giáo Hội Phật Giáo quan phương dành cho những lời phê phán không thương tiếc, mà chư tôn đức và chư thiện hữu trí thức trong hội thảo này đã dành cho một sự chú ý nhỏ nhoi nào đó, mà chúng tôi xin ghi nhận như một ân thưởng quá quý báuchúng tôi chỉ biết đáp lại bằng tấm lòng thành thực.

Tinh Tiến

20.02.1996

 

THÍCH TRUNG ĐẠO 
NHỮNG VẤN ĐỀ TRƯỚC MẮT ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 

Đạo Phật xuất hiện cách đây hơn 25 thế kỷ, trải qua những thăng trầm của lịch sử, từng chịu đựng biết bao thử thách khắc nghiệt, nhưng vẫn đứng vững và mỗi ngày một lớn mạnh, là vì nó có đủ ba yếu tố: khế lý, khế cơ và khế thời. Trên phương diện khế lý, đương nhiên lấy nguồn cảm hứng từ sự giác ngộ của đức Thế tôn dưới cội bồ đề, nhưng về phương diện khế cơ và khế thời, các sứ giả của Như Lai cần khéo léo vận dụng tinh thần tùy duyên bất biến của giáo pháp để đáp ứng được mọi căn cơ và nhu cầu thời đại, thì hiệu quả của chánh pháp mới phát huy một cách sinh động.

  1. GIỚI LUẬT, CẦN PHẢI CẬP NHẬT HÓA

       Tất cả mọi tổ chức, mọi đoàn thể muốn được ổn định và tồn tại, nhất thiết phải có những điều lệ làm kỷ cương và những tôn chỉ để hoạt động. Nếu không có những điều lệ làm cương lĩnh, chắc chắn tổ chức ấy không tồn tại lâu dài. Cũng thế, một tôn giáo muốn đạt được mục đích cao cả, cần phải có những giới luật thích hợp làm cơ sở mới duy trì được sự thanh tịnh. Chính đức Phật đã dạy: “Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ, Tỳ ni tạng diệt, Phật pháp diệc diệt”. (Giới luật còn thì Phật pháp còn, Giới luật mất thì Phật pháp cũng mất).

       Như vậy, giới luật chính là mạng mạch của Phật Giáo, và chỉ có đức Phật mới có đủ thẩm quyền chỉ định, điều đó ai cũng hiểu. Thế nhưng, thời đại của chúng ta cách Phật đã 25 thế kỷ, do thời thế biến thiên, hoàn cảnh thay đổi, nên những điều Phật quy định trước kia, tuy ngày nay đại bộ vẫn còn giữ được giá trị hiện thực, nhưng có một ít chi tiết đã tỏ ra không còn phù hợp với căn cơ của chúng sinhhoàn cảnh hiện tại. Nếu không điều chỉnh kịp thời, thì tác dụng của giới luật chắc chắn sẽ bị hạn chế không ít. Do đó, thiết tưởng giáo hội cần có một số quy định mới cho phù hợp với những sinh hoạt của Tăng ni trong giai đoạn hiện tại, có như vậy mới phát huy được tác dụng của giới luật một cách trọn vẹn. Vấn đề này, chính Đức Phật xưa kia đã căn dặn: “Này các Tỳ kheo, tuy là những điều do Ta chế định, nhưng nếu không phù hợp với phong tục tập quán của địa phương đó, thì không nên áp dụng. Trái lại, có những điều không do Ta quy định, nhưng vốn là phong tục tập quán của địa phương ấy, thì không thể không thi hành” (Ngũ Phần Luật, ĐTK, 1421, tr 153a).

       Đó là tinh thần uyển chuyển của giới luật do Phật dạy. Và chúng ta cũng biết rằng Quốc gia nào không muốn cho Hiến PhápLuật pháp của mình bị lỗi thờivô hiệu lực, thì Hiến phápLuật pháp ấy phải luôn luôn được tu chỉnh và bổ sung kịp thời. Nhưng, muốn cho pháp luật của quốc gia hay giới luật của tôn giáo phát huy đầy đủ tác dụng của nó, không gì hơn là nhờ đến phương tiện giáo dục hỗ trợ.

  1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC PHẬT GIÁO.

       Cổ đức từng nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”. (Ngọc không mài không thành vật quí, người không học không thông đạo lý). Hiện nay, vấn đề giáo dục Phật Giáo - chủ yếu là dành cho Tăng Ni quả thật có những khởi sắc đáng khích lệ. Thế nhưng trên thực tế, vẫn chưa đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu học hỏi của Tăng Ni. Do đó, thiết nghĩ, Giáo hội nên đặt vai trò giáo dục lên tầm quan trọng hàng đầu trong những Phật sự cấp bách hiện nay. Đồng thời những người giữa vai trò giáo dục phải có thực chất, đủ uy tín, và phương thức tổ chức giảng dạy phải tương đối nghiêm túc, có quy củ. Có như thế mới đạt được hiệu quả tốt nhất. Khi một ngôi trường được phép hoạt động, không những trình độ hiểu biết của người học trò được mở rộng, mà cùng lúc kiến thức của người thầy cũng được nâng cao. Mà hễ trình độ Phật học và thế học của Tăng ni được nâng lên đúng mức, thì sức mạnh của Phật giáo tự nhiên được củng cố; nhờ đó, những lệch lạc và lủng củng ít nhiều tiềm tàng trong hàng ngũ Phật giáo dần dần sẽ bị loại trừ.

       Vấn đề cấp thiết nhất hiện nay đối với công tác giáo dục là thiếu sách giáo khoa Phật học, không những thiếu, mà hầu như chưa có. Chúng tôi đề nghị: Hiện thời những sách giáo khoa nào mà các nước khác đã soạn sẵn có thể dùng được, thì chúng ta dịch sang tiếng Việt để sử dụng, còn loại sách giáo khoa nào chưa có thì bắt buộc phải biên soạn. Có thể sách mới biên soạn lần đầu chưa được hoàn bị, nhưng qua thời gian, chúng ta sẽ hoàn chỉnh dần dần, chứ không nên cầu toàn trách bị. Thế nhưng, nếu muốn cho sự giáo dục đạt đến mức độ hoàn chỉnh, tất yếu phải có Tam tạng giáo điển bằng tiếng Việt. Đó là một trong những yêu cầu bức thiết nhất hiện nay của Phật Giáo Việt Nam.

  1. ĐẠI TẠNG VIỆT NAM, MỘT YÊU CẦU BỨC THIẾT

       Nhìn các nước Phật Giáo chung quanh chúng ta, gần như nước nào cũng đã có Tam tạng giáo điển bằng tiếng mẹ đẻ, chỉ có Việt Nam đến nay vẫn chưa có. Nguồn Tam tạng giáo điển gồm có hai: Hán tạng của Phật giáo Bắc truyền và Tạng Pali của Phật giáo Nam truyền.

       Về Hán tạng, hơn nửa thế kỷ qua, có những vị tôn túc đã cố gắng phiên dịch sang tiếng Việt được một số kinh luận đáng kể, nhưng so với toàn bộ Đại tạng vẫn còn chưa thấm vào đâu. Tuy vậy, những công trình ấy thật vô cùng quí giá. Nhờ đó mà trình độ phật học của Tăng ni Phật tử ngày càng tiến bộ rõ rệt. Nhưng hình như công việc phiên dịch chưa được phân công đồng bộ và hợp lý, vì trong lúc còn nhiều dịch giả dịch đi dịch lại nhiều lần. Đề nghị từ nay, khi phiên dịch, các dịch giả nên tham khảo thư mục Phật giáo Việt Nam, xem những bộ kinh luận nào chưa phiên dịch thì hãy phiên dịch, còn bộ nào đã có người dịch tương đối tạm ổn thì khỏi phiên dịch, để đỡ tốn thì giờ. Ngoại trừ những bản dịch chưa đạt thì đương nhiên phải dịch lại. Về thư mục dùng để tham khảo thì trước năm 1975 đã có hai bản: Một bản do thầy Tuệ Sĩ soạn, và một bản do nhà sách Minh Đức biên soạn. Nhưng từ đó đến nay, số lượng kinh sách đã gia tăng khá nhiều, do vậy, khi phiên dịch cần phải tham khảo thêm.

       Về Tam tạng Pali, sau bao năm miệt mài, cho đến nay Hòa Thượng Minh Châu đã dịch gần xong Tạng kinh, còn Tạng luật và Tạng luận cũng đã có vài vị tôn túc bên Nam tông dịch được một ít. Công việc còn lại sẽ có các vị hậu bối tiếp tục trong thời gian sắp đến.

       Chúng ta có thể nói rằng, chỉ khi nào hai Tạng kinh Nam truyền và Bắc truyền được phiên dịch đầy đủ sang tiếng Việt thì trình độ Phật học ở nước ta mới được kể là ngang tầm với thời đại và quốc tế. Đành rằng hiện nay có một số vị tôn túc đọc được Tam tạng bằng tiếng nước ngoài, nhưng số này rất hiếm, và cũng không phải yêu cầuchúng ta mong đợi. Điều chúng ta mong muốn là trình độ Phật học của quảng đại Tăng ni Phật tử Việt Nam phải tương đương với các nước có nền Phật học tiên tiến như Nhật Bản, Đài Loan vv… hiện nay.

  1. LỢI ÍCH CỦA TẠNG KINH BẰNG TIẾNG VIỆT

       Khi hai Tạng kinh được dịch đầy đủ sang tiếng Việt, mọi người sẽ có cơ hội nghiên cứu, học hỏi, nhờ đó, mà thấy được giá trị siêu việt của giáo lý đức Phật, biết những giáo lý nào do các vị Bồ tát Thánh Tăng khai triển sau này và vì sao phải khai triển. (Phải chăng vì muốn cho bánh xe Chánh pháp luôn luôn vận chuyển, ngõ hầu đáp ứng được mọi thời đại và mọi căn cơ của chúng sinh?).

       Một điều lợi ích khác mà chúng ta thấy rất rõ là những ai quan tâm tìm hiểu cả hai Tạng kinh sẽ dễ dàng rút ra một điểm nhất quán xuyên suốt trong giáo lý đức Phật; nhờ đó sẽ thông cảm được trước những bất đồng của các tông phái khác, để cùng nhau chung sức chung lòng quyết tâm phụng sự chánh pháp.

       Xưa kia, khi Ngài Huyền Trang (602-664) chưa đi du học, nghe các vị pháp sư thuyết giảng có đôi chổ bất đồng, khiến cho Ngài rất hoang mang, không hiểu vì sao cùng là Phật pháp mà lại có những dị biệt như vậy. Nhưng sau khi sang Ấn Độ du học, Ngài học kinh luận của tất cả các bộ phái Phật giáo với một thái độ khách quan, không thành kiến. Nhờ vậy, Ngài nhận ra được chung điểm nhất trí của giáo pháp, rồi soạn ra bộ Hội Tông Luận, xiển dương giáo nghĩa Nhất thừa của đạo Phật. Do đó, Ngài đã chiến thắng cực kỳ vẻ vang trong tất cả các cuộc tranh luận với các vị luận chủ, kể cả các vị giáo trưởng của ngoại đạo. Đáng tiếc là bộ Hội Tông luận của Ngài sau đó bị thất truyền.

       Khi nhận xét về ảnh hưởng của Phật Giáo tại Trung Quốc, học giả Lương Khải Siêu nói: “Nhờ công trình phiên dịch Tam tạng kinh điển Phật giáo của các nhà Phật học mà kho tàng ngôn ngữ Trung Quốc giàu thêm được 35.000 từ”. Như vậy, nếu hai tạng kinh được Việt hóa toàn toàn, chắc chắn ngôn ngữ Việt Nam cũng sẽ phong phú thêm không phải là ít. Thế thì, đâu phải chỉ có Phật giáo mới có lợi mà nền văn học Việt Nam cũng được lợi ích rất nhiều.

       Điều quan trọng hơn nữa là khi có đầy đủ Đại Tạng kinh Việt Nam, các học giả sẽ có phương tiện nghiên cứu Phật học một cách đứng đắn, nhờ đó sẽ tránh được rất nhiều những ngộ nhận lệch lạc về Phật giáo. Và giả sử có kẻ nào đó vẫn cố tình hiểu sai, hoặc ác ý xuyên tạc Phật Giáo, thì chúng ta sẽ có cơ sở vững chắc để đối thoại với họ một cách nghiêm túc.

  1. THÁI ĐỘ CẦN CÓ TRƯỚC NHỮNG SỰ CHỈ TRÍCH PHẬT GIÁO

       Những trường hợp ngộ nhận, phê phán hoặc chỉ trích Phật giáo, khái quát có thể xếp thành ba loại:

  1. Những chỉ trích phát xuất từ thiện chí xây dựng, vì muốn bảo vệ tính chất trong sáng của đạo Phật, hoặc vì bức xúc trước những suy thoái lệch lạc của Phật Giáolên tiếng phê phán. Gặp trường hợp này, người Phật tử cần phải chân thành tiếp thu, thẳng thắn công nhận, và nỗ lực khắc phục những mặt yếu kém và lệch lạc đang tiềm tàng trong nội bộ Phật giáo.

  2. Những chỉ trích phát xuất từ sự ngộ nhận, hoặc vì ganh tị, hoặc vì những động cơ thiếu lương thiện, cố ý tung hỏa mù, làm cho công chúng hoang mang, gây ảnh hưởng không tốt, nhằm triệt hạ uy tín của Phật giáo. Đứng trước tình huống này, thiết tưởng người Phật tự phải thẳng thắn đối thoại, trình bày rõ lẽ phải trái, làm cho chân lý được sáng tỏ, để trấn an mọi nỗi hoang mang. Nhưng phải giữ thái độ bình tĩnh nhã nhặncông bằng, tránh những lời lẽ có tính cách gay gắt hoặc khiếm nhã. Như người xưa từng nhắc nhở: “Kỷ sở bất dục vật thí ư nhân, kỷ sợ dục giả khả thi ư nhân” (Những gì mình không muốn thì chớ làm cho người, những gì mình muốn thì nên làm cho người). Điều này chính đức Phật cũng đã dạy: “Nầy các Tỳ kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi không nên phẫn nộ, mà phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: - Như thế này, điểm này không chính xác, việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi. Trái lại, này các Tỳ kheo, nếu cò nguời tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thì các ngươi không nên đắc chí, mà hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: - Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác; việc này có giữa chúng tôi; việc này đã xảy ra giữa chúng tôi” (Trường Bộ I, tr.14, ấn hành 1991, thuộc Đại Tạng Kinh Việt Nam).

  3. Những lời chỉ trích phát xuất từ ác ý hồ đồ, thiển cận hoặc nhảm nhí, và không có ảnh hưởng hay tác dụngđáng kể. Thiết tưởng, đứng trước trường hợp này, chúng ta không cần phải lên tiếng đối thoại, mà nên giữ im lặng. Nhưng không phải không làm gì cả, mà phải cố gắng trình bày thật súc tích những đặc trưng của Phật giáo, như các đức tính từ bi trí tuyệ, tinh thần vô ngã vị tha, nhập thế tích cực của đạo Phật, cho mọi người thấy rõ. Một khi chân lý được cực lực tuyên dương, thì mọi tà thuyết tự nhiên sẽ bị đào thải một cách thảm hại; cũng như khi vầng thái dương xuất hiện, thì mọi bóng tối tức khắc bị xua tan, chìm vào trong tàn lụi.

       Trên đây, chúng tôi chỉ nêu lên vài suy nghĩ thô thiển và những trăn trở có tính cách thời thượng, rất mong được sự thông cảm và chia sẽ của mọi người. Nếu các bạn tôn túc và những Phật tử giàu lòng nhiệt thành thấy có những điểm nào đồng tình được, xin hãy lên tiếng hưởng ứng, khai triển rộng rãi, để ai nấy đều nhận thức được vấn đề. Chính ý kiến của các vị mới đủ trọng lượng làm cho thao thức trăn trở kia biến thành những việc khả thi, những Phật sự ưu tiênGiáo hội phải quan tâm thực hiện.

Thích Trung Đạo

 

MINH CHI
PHẬT GIÁO VIỆT NAM THẾ KỶ XXI

 

       Hoan nghênh tạp chí Giao Điểm có sáng kiến đề xuất chủ đề “Phật Giáo Việt Nam Trong Thế Kỷ Mới”, và mời đông đảo các nhà Phật học trong và ngoài nước tham gia viết bài và tham luận. Tôi là người trong nước cho nên cho phép tôi phát biểu nhiều về Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo ở trong nước. Nếu trong bài, tôi có đề cập đến Phật Giáo nước ngoài, thì cũng chỉ để liên hệso sánh.

       Theo tôi, Phật Giáo Việt Nam cần thiết để các nhà Phật học trong nước cũng như nước ngoài nước quan tâm nghiên cứu vì những lý do sau đây:

       

    1. Phật Giáo Việt Nam có một bề dày lịch sử đáng kể suốt hơn 18 thế kỷ

       Chính cái bề dày lịch sử này tạo cho Phật GiáoViệt Nam cơ hội tiếp xúc và hòa nhập vào nhau nhuần nhuyễn khiến cho nhà thơ cận đại Hồ Dzếnh có thể viết: “Trang sử Phật,

Đồng thời là trang sử Việt

Trải bao độ hưng suy,

Có nguy mà chẳng mất”

       Trong quá trình tiếp xúc và hội nhập lâu dài đó, đặc biệt là dưới hai triều đại Lý Trần, Phật Giáo thật sự là quốc giáo với những ông vua Phật tử xuất sắc như Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, Trần Thái TôngTrần Nhân Tông. Thời đại Lý Trần cung cấp cho chúng ta mô hình một Phật Giáo gắn bó với dân tộc và phục vụ dân tộc, mà vẫn không làm tổn thương gì đến những chân giá trị tâm linh của đạo. Hai cuộc kháng chiến thắng lợi của nhà Lý chống quân Tống và của nhà Trần chống quân Nguyên đều diễn ra trong thời kỳ thịnh nhất của đạo Phật, với hệ tư tưởng chủ đạo và vũ trụ quan và nhân sinh quan Phật Giáo. Và hệ tư tưởng đó quyết không phải là một hệ tư tưởng tiêu cực, bi quan, lánh đời như một vài Nho gia muốn gán ép vì ganh tỵ. Ai bảo chỉ có đạo Khổng mới lo được cho dân, cho nước, còn đạo Phật chỉ chuyên lo chuyện người chết và thế giới bên kia, còn đạo Khổng mới thật sự lo chuyện người sống và chuyện đời nay? Đạo Phật đời Lý Trần đã dứt khoát trả lời vấn đề này của Tống Nho, và trả lời bằng thực tế của những thành tích giữ nước và dựng nước vẻ vang chói lọi. Trong những thế kỷ gần đây, Phật Giáo Việt Nam không có vấn đề chạy theo ngoại bang mà còn tích cực đóng góp vào công trình đánh đuổi ngoại xâm, giữ gìn giang sơn gấm vóc.

       Về sự đóng góp của Phật Giáo đời Trần, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đã có công trình nghiên cứu, xuất bản dưới tiêu đề “Thiền Học Đời Trần”’ trong đó tôi có viết bài Tổng Kết, mà một số tập san Phật Giáo của Việt Kiều ở Pháp và Mỹ có đăng lại. Ở đây, tôi không trở lại vấn đề này nữa. Tất nhiên, mô hình Phật đời Lý hay đời Trần không thể sao chép y nguyên thành mô hình của Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ 21, mặc dù có một số người muốn vậy. Vì làm như vậy sẽ là giáo điều, mà Phật Giáo Lý Trần là một Phật Giáo không giáo điều, không chấp tướng. Lẽ nào chúng ta lại đối đãi với Phật Giáo Lý Trần với thái độ giáo điều và chấp tướng?

       Khi suy nghĩ về Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ 21, thì mô hình Phật Giáo Lý- Trần chỉ là một tư liệu tham khảo tốt mà thôi. Một ví dụ, có một số nhà phật học nước ngoài muốn và đã đề nghị Phật Giáo nên có quy chế quốc giáo như là dưới thời Lý-Trần hay là như ở Lào, Campuchia và Thái Lan hiện nay. Tôi cho rằng đó là một ý muốn và đề nghị rất thiện chí nhưng không cần thiết. Quý vị cứ đọc quyển “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam” do Việt Triết thuộc Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam thì rõ. Hiện nay mà đòi cho Phật Giáo Việt Namquy chế quốc giáo chỉ là gây thêm khó khăn cho Phật Giáo Việt Nam mà thôi. Tuy nhiên, dẫu không đòi có một quy chế như vậy nhưng chúng ta vẫn khẳng định một cách dứt khoátPhật Giáo đã từng có một bề dày lịch sử hơn 18 thế kỷ ở Việt Nam, và trong quá trình lịch sử đó, Phật Giáo đã thật sự hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam, như một thành tố không thể chia cắt của nền văn hóa Việt Namxã hội Việt Nam.

       Chúng ta cũng khẳng định là Phật Giáo đã cống hiến cho dân tộc Việt Nam những chân giá trị tinh thần, đã từng thể hiện sáng chói trong sự nghiệp cứu nước và dựng nước của hai thời đại Lý và Trần và cả các thời bị ngoại bang đô hộ Phật Giáo đã không làm tay sai cho ngoại bang mà đứng lên chống lại… Nói tóm lại, Phật Giáo hội nhập lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam, gắn bó với xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong mọi bước đi thăng trầm của lịch sử, nhưng tuyệt đối không đánh mất những giá trị tâm linh siêu việt, toàn cầu, có tính vũ trụ của nó (Xem chú thích I ở cuối bài). Đó là một trong những nét đặc sắc của mô hình Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI sắp đến này. Tôi gọi đó là đặc sắc thứ nhất của Phật Giáo Việt Nam, một đặc sắc không thể bỏ qua được, khi chúng ta bàn về Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ 21.

       

    1. Truyền thống bình đẳngdân chủ của Phật Giáo Việt Nam

       Tất nhiên, trong những văn bản chính thức của Phật Giáo Việt Nam, không có các khái niệm và từ ngữ bình đẳngdân chủ. Thế nhưng tinh thần bình đẳngdân chủ thì có, và có rất rõ. Xin nêu một số ví dụ: Phật Giáo Việt Nam từ sớm đã có quy chế nữ tu sĩ: Sa Di NiTỷ Kheo Ni. Một Tỷ Kheo Ni đời Lý là Ni Sư Diệu Nhân là một Tổ thuộc thế hệ thứ 17 giòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Hiện nay, ở Việt Nam số Ni đông hơn số Tăng rất nhiều. Trong khi đó, thì ở các nước Đông Nam Á láng giềng, theo Phật Giáo Nam Tông, như Thái Lan, Campuchia, Lào, Myanmar (Miến Điện) đều không có phụ nữ xuất giaPhụ nữ có thể cạo đầu, ở tu viện, nhưng chỉ được mặc áo trắng, không được mặc áo vàng và hưởng các quyền lợi của tu sĩ. Tình hình này, theo tôi không đúng với tinh thần bình đẳng của đạo Phật, mà cũng không phù hợp với lời dạy của Phật Thích Ca. Bởi vì, theo đúng lời Phật nói với ông A Nan, thì phụ nữ có thể giác ngộgiải thoát, chứng quả A La Hán như nam giới vậy. Trong Kinh tạng Pali, có cuốn “Trưởng Lão Ni Kệ” chép các bài kệ giác ngộ của các Tỷ Kheo Ni, dưới thời Phật đã chứng quả A La Hán.

       Một dấu hiệu bình đẳngdân chủ khác của Phật Giáo Việt Namvị trí của hàng cư sĩ. Lịch sử Phật Giáo Việt Nam ghi nhận có những cư sĩ chiếm vị trí hàng đầu trong giới Phật học nước nhà, được cả hàng tại gia cũng như xuất gia tôn trọng, không khác gì những bậc thầy trong đạo. Xin đơn cử ở đây một vài vị mà tất cả chúng ta đều biết tiếng: Vua Lý Thái Tông, đời Lý, được xem như là học trò đắc pháp của Thiền Sư Thiền Lão thuộc thế hệ thứ 6 giòng Thiền Vô Ngôn Thông, và vua cũng được xem là một vị Tổ thuộc thế hệ thứ 7 của dòng Thiền này.

       Vua Lý Thánh Tông, cũng không xuất gia, nhưng cũng được suy tôn là học trò đắc pháp của Thiền Sư Thảo Đường, và được xem như là vị Tổ thứ 2 của dòng Thiền Thảo Đường. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông còn có hai cư sĩ xuất sắc nữa là Thông Thiên (thuộc thế hệ thứ 13) và Ứng Thuận (thuộc thế hệ thứ 15). Phật Giáo đời Trần có Trần Thái Tông, là ông vua khai sáng ra triều nhà Trần, và là tác giả cuốn “Khóa Hư Lục” nổi tiếng, và nhất là cư sĩ Tuệ Trung, vị thầy đáng kính của Trần Nhân Tông, là ông vua xuất gia, là sơ Tổ của phái Thiền Trúc Lâm.

       Lịch sử Phật Giáo Việt Nam cận và hiện đại cũng ghi tên nhiều vị cư sĩ tài ba, như cụ Tâm Minh Lê Đình Thám, người đã sáng lập ra “An Nam Phật Học Hội”, sáng lập ra trường Phật Học Báo Quốc để đào tạo lớp Tăng tài trẻ, sáng lập và làm Tổng biên tập tờ báo Phật học “Viên Âm”. Ông cũng sáng lập ra Đoàn “Phật Học Đức Dục”, nhằm truyền bá đạo Phật trong giới thanh niên trí thức thời bấy giờ. Tác giả bài này cũng là một trong những thành viên đầu tiên của Đoàn Phật Học Đức Dục, mà bác sĩ Lê Đình Thám từng là người sáng lậpbảo trợ. Đoàn đã xuất bản một số sách Phật học, viết theo thể văn mới và có nội dung thiết thực cho nên đã có tiếng vang nhất định trong giới thanh niên nam nữ học sinh lúc bấy giờ. Ở ngoài Bắc cũng vào thời ấy, song song với việc thành lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ, cũng có nhiều cư sĩtrình độ Phật học cao, như các cư sĩ Thiều Chửu, tổng biên tập báo “Đuốc Tuệ”’, Trần Văn Giáp, Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật (ông này là thư ký Ban Nghiên Cứu Phật Học, được thành lập vào tháng 1 năm 1935). Ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, nổi danh nhất là cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, người sáng lập ra Hội Phật Học Nam Kỳ, có trụ sở tại chùa Xá Lợi.

       Bình đẳng giữa nam và nữ, bình đẳng giữa xuất giatại gia, sự bình đẳng đó, theo tôi là điều kiện tiên quyết của mọi triển vọng phát triển lành mạnh của Phật Giáo Việt Nam, hiện nay cũng như ở thế kỷ XXI. Tôi nhấn mạnh vấn đề này vì nó phù hợp với truyền thống bình đẳng vốn có của Phật Giáo Việt nam, đã được minh chứng qua cả bao thế hệ cư sĩ nổi danh trong làng Thiền Việt Nam, và được Trần Thái Tông tóm gọn trong câu sau đây, có thể là phương châm chỉ đạo cho Phật Giáo Việt Nam, từ nay và mãi mãi về sau: “Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hư biệt tại gia xuất gia bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng “ (Khoá Hư Lục) ; Dịch: “Không kể là ẩn dật lớn hay nhỏ, không kể là tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều cốt yếu là biện tâm, vốn không phân biệt nam nữ, sao lại còn chấp tướng”.

       Rõ ràng, Phật GiáoTrần Thái Tông quan niệm không phải là Phật Giáo của riêng người xuất gia, của riêng giới Tăng lữ, càng không phải là Phật Giáo của riêng nam giới xuất gia, như hiện nay ở các nước Đông Nam Á theo Phật Giáo Nam Tông… mà là một Phật Giáo thật sự bình đẳng của cả nam và nữ, của cả xuất giatại gia, nghĩa là của tất cả mọi người. Trong câu trích dẫn của Trần Thái Tông trên đây, có các từ đại ẩn, tiểu ẩn. Đại ẩn là sống giữa đời mà vẫn tu đạo và vui với đạo, đúng như lời của Trần Nhân Tông (cháu ruột Trần Thái Tông) trong bài thơ chữ Hán kết thúc bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” của Vua:

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,

Cơ tắc xan kề, khốn tắc miên”

        Dịch:

“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,

Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền”.

       Đó là lối tu ẩn dật lớn, còn tu ở chùa, lánh vào núi mà tu chỉ là tiểu ẩn, tức là lối tu ẩn dật nhỏ. Đúng như vậy, Phật Giáo chỉ cho chúng ta một phương pháp tu hành không cần phải cạo đầu vào chùa, không cần lánh lên núi sống cô độc một mình, mà sống ngay giữa đời như người bình thường mà vẫn giác ngộgiải thoát. Tôi tin rằng, chừng nào mà Phật Giáo còn hạn chế và khép mình trong chùa chiền và giới Tăng lữ, thì khó mà nói Phật Giáo có gốc rễ sâu bền trong một quốc gia xã hội.

       Hiện nay, những người Việt Nam bình thường kể cả một số người mác xít, chỉ cảm thấy có nhu cầu đến chùa thật sự khi có người thân thuộc qua đời, hay là khi có người ốm nặng. Chỉ trong những trường hợp như vậy, người ta mới tổ chức lễ cầu siêucầu an. Đó chính là tâm lý rất phiến diện cho rằng đạo Phật cần cho người chết và người ốm, chứ không cần cho người sống và khoẻ mạnh! Đây đúng là quan niệm tàn dư của Tống Nho hủ lậu, vẫn còn ảnh hưởng rơi rớt trong quần chúng nhân dân ta.

       Tôi tin là Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI phải là một Phật Giáo tiếp nối tư tưởng bình đẳngdân chủ, không những về tinh thần mà cả trong thiết chế và tổ chức nữa. Thí dụ: Chúng ta sẽ nghiên cứu lại quy chế“bát kính pháp” (xem chú thích I cuối bài), đặt Ni chúng vào một địa vị thấp kém hơn Tăng chúng rất nhiều. Chúng ta cần nghiên cứu bối cảnh xã hội-lịch sử của quy chế đó. Có người đặt câu hỏi: Phải chăng xã hội thời Phật là một xã hội phân biệt đẳng cấp và rất trọng nam khinh nữ. Do đó, Phật đặt ra quy chế bát kính pháp trên thực tế là để bảo vệ nữ giới khỏi bị nam giới quấy rối? Một lý do nữa là Luật tạng, trong Đại hội kiết tập lần thứ nhất ở thành Vương Xá đã được kiết tập theo tinh thần bảo thủ của Thượng tọa Bộ, lúc bấy giờ chiếm đa số trong số A La Hán tham gia cuộc kiết tập? Dù sao, thì một quy chế như vậy không còn thích hợp nữa trong thế giới hiện tại, đặc biệt là ở xã hội Việt Nam, với người phụ nữ “tay hòm chìa khóa”, nắm quyền tài chính trong gia đình (Lệnh ông không bằng cồng bà).

       Quan hệ nam nữ trong Chúng cũng như ngoài xã hội là một loại quan hệ thật sự bình đẳng, hai bên nam nữ phải thật sự tôn trọng nhau. Tôi nghĩ, quan hệ giữa tại giaxuất gia, giữa cư sĩtu sĩ cũng phải thấm nhuần một tinh thần bình đẳngdân chủ như vậy.

    1. Vị trí của tu sĩ và chùa trong thời đại mới

       Hiện nay, ở nước ta, vị trí của tu sĩ Phật Giáo nổi bật nhất là trong các lễ lạc ở chùa, đặc biệt là trong các lễ cầu siêucầu an. Cũng như nhà chùa chủ yếu là nơi tu sĩ tổ chức và chủ trì mọi lễ lạc tôn giáo, tất nhiên là có ngoại lệ, nhưng ngoại lệ ít lắm. Tôi không phủ nhận tác dụng an ủi tạm thời của các lễ lạc tôn giáo, trong đó có các lễ cầu siêucầu an. Nhưng tình hình sẽ thế nào, nếu trong tương lai, giáo lý về nghiệp của đạo Phật được phổ biến rộng rãi, trở thành kim chỉ nam cho mọi hành vi ứng xử của Phật tử. Đến khi ấy, mọi người Phật tử đều giác ngộ rằng, “con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là thai tạng… (Trung Bộ Kinh 3, Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, Bản dịch Thích Minh Châu), tất cả mọi chuyện hạnh phúc hay bất hạnh xảy ra trong đời mình, đều là do nghiệp, tức là do những hành động nơi ý, lời nói và thân của mình làm ra từ trước, chứ không do một Thượng đế hay quỷ thần nào an bài… Muốn có đời sống an vui, hạnh phúc thì chỉ có một cách là tạo nghiệp thiện, nghiệp lành, trừ bỏ mọi nghiệp ác, nghiệp bất thiện…Đúng theo lời dạy của Phật:

   “Chư ác mạc tác,

Chúng thiện phụng hành,

Tự tịnh kỳ ý,

Thị chư Phật ngôn”.

Nghĩa: Bỏ mọi điều ác,

Làm mọi điều lành

Tự làm trong sạch tâm ý,

Là lời dạy chư Phật”

                                        (Kinh Pháp Cú)

 

       Chỉ có bản thân mình, với ý nghĩ trong sạch, lời nói trong sạch, hành động trong sạch mới có thể làm trong sạch được bản thân mình, chứ không phải chỉ đi chùa, lễ bái, gọi Tăng bằng thầy và xưng con là có thể rửa sạch mọi tội lỗi mình đã phạm và tiếp tục phạm. Tu sĩ là biểu trưng sống động của giác ngộgiải thoát. Nhờ tâm của họ được giải thoát cho nên mọi hành động của họ, lời nói của họ cũng có đạo vị giải thoát. Nếu được như vậy, họ xứng đáng là bậc đạo sư tâm linh, có khả năng hướng dẫn mọi người trên con đường giác ngộgiải thoát. Đó là vị trí phải có, nên có của người tu sĩ Phật Giáo trong tương lai, ở thế kỷ XXI. Còn nếu họ không chịu học tập, không lo tu hành, chỉ lo đi cúng và được lợi dưỡng nhiều nhờ đi cúng, thì họ chỉ là thầy cúng, chứ đâu có phải là đạo sư tâm linh, đâu có phải là biểu trưng sống động của đạo giải thoátgiác ngộ. Chúng ta hãy để cho họ yên vị trong nghề thầy cúng. Nghề đó cũng cần thiết đối với những người bất hạnh, cần được an ủi, cần được giúp đỡ. Nhưng họ không được rao truyền rằng, mọi người hãy đến chùa, đến với họ, thì tự khắc mọi nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, mọi tội lỗi sẽ được rửa sạch! Rao truyền như vậy thì Phật Giáo bị đồng hóa với một số tôn giáo khác, và phải chăng là bật đèn xanh cho mọi tội ác, bởi lẽ, cứ phạm tội ác rồi đến chùa cúng lễ và mọi tội ác sẽ được rửa sạch, có khác nào bọn mafia quốc tế rửa sạch đồng đôla vấy máu qua các thao tác ngân hàng vậy! (Xem chú thích III cuối bài).

       Tôi nhắc lại là tôi không thể phê bình và phủ nhận tác dụng của lễ bái, mặc dù tác dụng đó là rất hạn chế và mang nhiều tính phương tiện hơn là cứu cánh. Tôi chỉ phê bình những ai, dù tăng hay tục, rao truyền rằng, cứ đi chùa, mời chư Tăng làm lễ cầu an, cúng đường trai tăng là mọi tội ác được tiêu trừ, mọi nghiệp chướng được xóa sạch. Nói như vậy, có khác nào nói, người gây nhiều oán thù, chỉ việc đi chùa Hương, đến suốt Giải Oan, múc nước ở suối giải oan uống, thì mọi oán thù đều xóa sạch! Một người có chút lương tri, chứ không cần có trình độ Phật học cao, cũng nhận thấy là muốn giải oan, thì phải thay đổi nếp sống, nghĩa là sống thiện, không tự mình gây oán thù thêm nữa, thêm bạn bớt thù… chứ không thể xuống tắm ở suối Giải Oan hay là uống nước suối Giải Oan là có thể giải trừ mọi oán thù do tự mình gây ra.

       Khi Phật còn tại thế, Ngài đã bác thuyết “tế đàn vạn năng” của Bà La Môn Giáo. Lẽ nào Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI lại vẫn đi lại con đường “tế lễ vạn năng” của Bà La Môn Giáo hay sao?

       Lễ bái ở chùa, lễ cầu siêucầu an đều trong chừng mựcan ủi tinh thần người chết cũng như người sống, nó nhắc nhủ mọi người dự lễ noi theo lời dạy của Phật làm mọi điều lành, tránh mọi điều dữ v.v… Chứ lễ bái đâu có khả năng rửa sạch tội lỗi nếu tâm vẫn còn bất thiện? Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI phải là Phật Giáo của lý trí, không thể dung túng những tập tục mê tín dị đoan có thể là nguồn lợi dưỡng đáng kể và người có trí không thể chấp nhận được. Ở đây, một lần nữa, chúng ta nhắc lại câu của nhà bác học Albert Einstein ca ngợi “Phật Giáo như một tôn giáo đáp ứng được những yêu cầu của khoa học hiện đại” (Xem chú thích II ở cuối bài). Đồng thời, Phật Giáo cũng là tôn giáo rất nhân bản, nó tôn vinh giá trị con người như là chủ nhân của cuộc sống của mình, chứ không phải là kẻ cầu xin quỷ thần ban ơn, ban phước.

       Vị trí của chùa Việt Namít nhất là các chùa tiêu biểu – cũng phải có sự thay đổi trong thời đại mới, ở thế kỷ XXI. Chùa Phật, vẫn là nơi tiến hành các khoá lễ giản dị, nhưng giàu ý nghĩa biểu trưng, đồng thời phải là một trung tâm Phật học, một cơ sở văn hóa lớn hoặc nhỏ, với thư viện có đầy đủ ba Tạng kinh điển, với những sách Phật học và thế học có giá trị, bằng tiếng Việt và bằng các thứ tiếng khác, một nơi giảng pháp, một nơi tọa đàm giáo lý, một nơi hành thiền và trao đổi kinh nghiệm hành thiền, một nơi làm các công tác văn hóa và từ thiện, một nơi có phong cảnh đẹp, có nhiều cây và hoa, một danh lam thắng cảnh. Nói tóm lại, chùa Phật là một nơi mà cảnh vật cũng như người (tu sĩ) đều toát lên đạo vị giải thoátgiác ngộ của đạo Phật.

       Đáng tiếc là hiện nay, trong Nam cũng như ngoài Bắc có một số chùa (không phải là số đông! Mong sao được như vậy) đã thật sự biến thành những nơi tấp nập cho người ra vào xin xăm, xin thẻ, nhờ thầy xem đất, xem tướng, bói toán. Những ngôi chùa trông bề ngoài khang trang to lớn, người ra vào như đi chợ, khói hương nghi ngút, nhưng thật ra chỉ là những chùa thiếu hương vị giải thoát, thiếu nhận thức đâu là phương tiện, đâu là cứu cánh của Phật Giáo. Ngôi chùa Việt Nam ở thế kỷ XXI không thể như vậy được.

       Ở đây, nhân tiện, tôi muốn nói đôi chút về “cái tệ” hái lộc chùa đầu xuân. Tệ này rất là phổ biến ở miền Bắc. Ở trong Nam, cũng có nhưng ít hơn. Cứ đến mùa xuân hàng năm người tấp nập đi chùa hái lộc để cầu phước, khiến cho sau đêm mồng một Tết ta là vườn các chùa đều xơ xác, nhiều cây cành lá bị bóc trụi. Nếu tục lệ hái lộc chùa là một truyền thống của Phật Giáo Việt Nam đi chăng nữa, thì truyền thống hái lộc đó phải được cải tiến, vì không, nó sẽ mâu thuẫn với truyền thốngđạo đức môi trường, vốn là một truyền thống tốt đẹp của Phật Giáo nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng. Dần dần nên thay thế tục lệ hái lộc bằng phong trào trồng lộc ở vườn chùa, mỗi năm vào ngày xuân đến. Tất cả mọi phật tử cần tranh thủ bảo vệ, tôn tạo và phát triển vườn chùa, biến mỗi vườn chùa thành một công viên quốc gia tầm cỡ nhỏ (miniature national park). Theo tôi, đây là một vấn đề cấp thiết, không nên chờ đợi đến thế kỷ XXI mới bắt tay làm, mà phải bắt tay làm ngay trong mùa xuân tới. Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI phải là một Phật Giáo bảo vệ môi trường, kể cả môi trường nhân văn và môi trường thiên nhiên, biến mỗi cảnh chùa thành một phong cảnh Bụt thật sự, đúng theo tinh thần của câu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”.

4. Phật Giáo Việt Nam tôn vinh con người, giúp cho con người sống hạnh phúc, hoàn thiện nhân cách và cống hiến tối đa

       Trong thế kỷ sắp tới, giá trị nhân bản phải là giá trị của mọi giá trị, là thước đo của mọi giá trị. Mọi phát kiến khoa học, mọi sáng tạo văn học nghệ thuật tôn giáo cần được đánh giá theo góc độ đó, dựa vào tiêu chuẩn nó đề cao giá trị nhân bản hay không, có đem lại thêm hạnh phúc cho con người hay không hay ngược lại chỉ là tang tóc, và bất hạnh, có hay không khích lệ ý chí vươn lên, và nỗ lực sáng tạo của con người, hay là ngược lại chỉ làm xói mòn ý chí của con người, khuyên con người cam chịu sự an bài của số phận.

       Lịch sử Phật Giáo Việt Nam ghi nhận nhiều lời của các nhà Phật học, hay các Thiền Sư khẳng định vị trí quý trọng của con người. Thí dụ các câu:

“Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” (Thiền Sư Vạn Hạnh đời Lý)

Dịch ý: Khéo léo vận dụng (quy luật) thịnh suy thì không còn sợ hãi,

(Nhưng đối với ta) thịnh hay suy cũng là (mong manh) như hạt sương trên đầu ngọn cỏ.

“Mê chi cầu Phật

Hoặc chi cầu Thiền

Thiền Phật vô cầu…!”

                                         (Diệu NhânNi Sư đời Lý)

Dịch ý :

Mê mới cầu Phật

Hoặc mới cầu Thiền

Không cầu Phật, không cầu Thiền”.

 

“Nam nhi tự hữu xung thiên chi,

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”

                                            (Thiền Sư Quảng Nghiêm đời Lý)

Dịch ý :

Làm trai có ý chí cao vọt đến trời,

Thôi, không đi lại con đường của Phật nữa.

 

       Chúng ta hỏi: Tại sao là Thiền Sư, là học trò Phật mà lại có những tư tưởnglời nói trái thường như vậy? Đó là vì, trước khi nhập Niết Bàn, Phật đã từng khuyên học trò rằng phải dựa vào bản thân mình, đừng có dựa vào cái gì khác, phải lấy mình làm ngọn đèn, phải tự thắp đuốc lên mà đi… (Xem các Kinh Đại Bát Niết Bàn - Trường Bộ Kinh I và Kinh Du Hành - Trường A Hàm I). Khác biệt với giáo chủ các tôn giáo khác, đức Phật Thích Ca luôn khuyên mọi người hãy tin tưởng vào khả năng của chính mình để thành tựu giác ngộgiải thoát. Ngài nói: “Ta là Phật đã thành, các người là những vị Phật sẽ thành”. Trên thực tế, Phật đã đặt chúng ta ở một vị trí bình đẳng với Phật, khi Ngài nói một câu như vậy. Trong bài Kinh: “Các vị ở Kesaputta”, thuộc Tăng Chi Bộ tập I, một lần nữa, Phật lại đặt niềm tin của mình vào con người có khả năng phân biệt đúng sai, thiện ác, chứ không cần dựa vào sách vở, dư luận, truyền thống, hay bất cứ một sức mạnh nào khác ở bên ngoài.

       “Này các Kalamas, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng, chớ có tin vì đó là lý luận siêu hình, chớ có tin vì điều đó đúng theo một lập trường, chớ có tin vào những dữ kiện được đánh giá hời hợt, chớ có tin vì điều đó phù hợp với định kiến của mình, chớ có tin vì điều đó được bậc đạo sư của mình nói ra. Nhưng này các Kalamas, khi nào tự mình biết rõ như sau: Các điều này là bất thiện, các điều này là có hại, các điều này bị những người có trí chỉ trích, các điều này thực hiện sẽ đem lại bất hạnh và khổ đau. Này các Kalamas, khi biết rõ như vậy, thì hãy từ bỏ các điều ấy đi” (Tăng Chi Bộ Kinh I. Kinh: Các Vị ở Kesapputa, trang 338).

       Bài Kinh trích dẫn trên đây có nhiều bản Hán dịch, Việt dịch và Anh dịch, nội dung chỉ có khác nhau đôi chút nhưng ý tứ chung của bài Kinhcon người có khả năng tự mình phán đoán, qua tư duy lô gíc và thực nghiệm đánh giá mọi điều thiện và bất thiện, đúng và sai, v.v…. Bài này tuy được phát biểu cách đây hơn hai nghìn năm nhưng đến nay vẫn mang tính thời đại nóng hổi. Nó có giá trị một thông điệp gửi cho cả loài người, ở ngưỡng cửa của thế kỷ XXI này, khi loài người đang còn xâu xé tàn sát nhau bởi những định kiến vô lý về sự khác biệt của tôn giáotư tưởng hệ, về sắc tộc và chủng tộc, những định kiến mà bất cứ một đầu óc lành mạnhtỉnh táo nào cũng nhận thấy là trái thường, phi đạo đức, làm sao mà vẫn lôi kéo được hàng vạn, hàng triệu người vào những cuộc chiến tranh và thảm sát, đôi khi mang quy mô diệt chủng, không phải chỉ xảy ra ở Châu Phi hay châu Á lạc hậu, mà ngay cả ở giữa lòng Châu Âu vốn tự xưng là văn minh và khai sáng!

       Đạo Phật ở thế kỷ XXI có nhiệm vụ đánh thức, khơi dậy niềm tin của con người ở khả năng phán xét phải trái, thiện ác của bản thân mình, nhất định không nghe theo kẻ cơ hội và giáo điều, dù chúng mang nhãn hiệu gì. Tôi rất tâm đắc với những lời phát biểu sau đây của hai ông Vua đầu đời Trần, cả hai đều là những nhà Phật học lỗi lạc, tức là Trần Thái TôngTrần Nhân Tông. Trần Thái Tông viết trong Khóa Hư Lục: “Ngã thân tức Phật thân thị, vô hữu nhị tướng”. Nghĩa: Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng!

       Rõ ràng, Trần Thái Tông nói câu trên, không phải là nói cho riêng mình mà là nói cho tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Ông viết trong Khóa Hư Lục: “Khái thức Bồ Đề giác tính, cá cá viên thành…” Nghĩa là “sao lại không biết tính giác Bồ Đề, mọi người đều có đầy đủ…” (Khóa Hư Lục – Bài “Khuyến Phát Tâm Văn”). Ý tứ là tất cả mọi người, tất cả chúng sanh đều có đầu đủ bản tánh giác ngộ ở trong mình, bản tính đó là Phật tánh, là cái khả năng vốn có của mỗi người chúng ta sẽ thành Phật trong tương lai.

       Trần Nhân Tông cũng nói lại tư tưởng đó của ông nội là Trần Thái Tông, nhưng với một giọng văn dân dã hơn:

   “Bụt ở trong nhà,

Chẳng phải tìm xa,

Nhân khuẩy bổn, nên ta tìm Bụt.

Chỉn mới hay chính Bụt là ta” (Cư Trần Lạc Đạo Phú – Hoàng Xuân Hãn dịch nôm)

Chữ khuẩy bổn là quên mất gốc.

       Có thể nói Phật Giáo Việt Nam đã tôn vinh con người lên địa vị Phật, địa vị của bậc Thánh giác ngộ tối cao, bậc Thánh đã đạt tới cảnh giới bất tử, an lạc tuyệt đối, giác ngộ hoàn toàn. Chúng ta vốn là Phật nhưng lại không tự biết, cho nên cứ đi tìm Phật ở đâu đâu, không chịu quay đầu lại tìm Phật ở trong bản thân mình. Nhân dân Việt Nam có câu: “Phật ở trong nhà, cầu Thích Ca ở ngoài đường”. Tôi xin phép thay ba chữ ở ngoàiđường bằng các chữ tại chùa. Vì chùa có tượng Phật, có ông Phật bằng gỗ, sơn son thếp vàng, nhưng ông Phật thật chính là ở trong chúng ta.

       Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học, của một Phật Giáo Việt Nam “đáp ứng mọi yêu cầu của khoa học hiện đại”. Thế kỷ XXI cũng là thế kỷ của những giá trị nhân bản, thế kỷ của con Người. Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI cũng phải là Phật Giáo tiếp nối truyền thống rất nhân bản, một Phật Giáo tôn vinh con ngườiphục vụ con người, đáp ứng những yêu cầu tâm linh cao đẹp nhất của con người.

       Hiện nay, có một vài nhà Thiền Việt Nam (họ là số ít, nhưng ảnh hưởng của họ không nhỏ) thường nhấn mạnh tính siêu lý trí của Thiền và coi nhẹ mọi thao tác tư duy lô gíc. Họ thích thú với những câu trái thường như ngày là đêm, đêm là ngày, cực ác là thiện, cực thiện là ác… Tôi rất tôn trọng lối tu của quý vị nhà Thiền đó, nhưng theo tôi, tuyên truyền rộng rãi một lối suy nghĩ trái thường như vậy là không có lợi, thậm chí còn rất là có hại nữa. Vì với lối tu và lối suy nghĩ như vậy, chúng ta sẽ mặc nhiên tự biến chúng ta thành những người trái thường, lập dị, đồng thời cũng biến đạo Phật thành một cái gì huyền bí, xa lạ với con ngườixã hội loài người. Đạo Phật đề cao trí tuệ thực nghiệm, mà sách Phật thường gọi là tu tuệ. Chữ tu ở đây, tôi hiểu là thực nghiệm. Bất cứ một chân lý nào, dù là siêu việt như là Niết Bàn Phật Giáo, hay là những chân lý tương đối của thế giới hiện tượng, đều phải qua thực nghiệm mới có thể nắm bắt một cách thấu đáo được. Thí dụ, chúng ta có thể nhờ tra tự điển mà biết được say rượu đại khái là do uống nhiều rượu, hơi men bốc lên đầu làm cho đầu óc người mất tỉnh táo… nhưng đích thực say rượu là thế nào thì chỉ có uống rượu đến say mới biết, nghĩa là phải tự mình thực nghiệm uống rượu mới biết. Nói cách khác, tu tuệ không phải là sự hiểu biết do xuất gia, ở chùa mà có, mà lo do thực nghiệm mà có. Thực nghiệm ở đây là sốngthực hành, chứ không có nghĩa gì khác. Einstein, khi nói tới đạo Phật tương lai, cũng nói tới thực nghiệm:

       “Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity” . Dịch: Bao quát cả (thế giới) tự nhiêntâm linh, nó phải dựa trên một ý thức tôn giáo, nảy sinh từ sự thực nghiệm mọi sự vật, tự nhiêntâm linh, như là một tổng thể có ý nghĩa.

       Đúng như là nhà bác học Einstein nói, tất cả mọi vấn đề, thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, cũng như thuộc lĩnh vực tâm linh, đều phải qua thực nghiệm mới có thể nắm bắt một cách thấu đáo. Tuy đạo Phật đề cao trí tuệ thực nghiệm, nhưng nó cũng không xem nhẹ trí tuệ học hỏitrí tuệ tư duy, mà sách Phật thường gọi là văn tuệ (học hỏi mà biết) và tư tuệ (tư duy mà biết). Chúng ta nhớ lại lời Phật nói với những người Kalamas, khi Phật nói đến “những điều bị những người có trí chỉ trích”thì đó là văn tuệ, còn khi Phật nói “tự mình biết rõ các điều này là bất thiện, là có hại…”, đó tức là tư tuệ, là hiểu biết do tự mình tư duy. Còn khi Phật nói “các điều này, nếu thực hiện sẽ đemlại bất hạnh và khổ đau” đó tức là tu tuệ, hiểu biết bằng thực nghiệm. Như vậy, khi có người nói chân lý tối hậu Niết Bàn (là siêu việt lý trí, tư duy lô gíc) thì họ nói đúng, nhưng khi họ phủ nhận mọi giá trị của văn tuệ và tu tuệ, mọi giá trị của học hỏitư duy lô gíc, thì họ phạm sai lầm. Nếu thế, thì Phật Thích Ca tán thán ông A Nan là “đa văn” tức là Phật sai lầm hay sao?

       Không phải như vậy, văn tuệtư tuệ đều có giá trị của nó. Chân giá trị con người chính là ở chỗ nó biết học hỏi những điều nó chưa biết, và ở chỗ có biết tư duy, lập luận một cách lô gíc. Tư duy lô gíc nhằm phân biệt phải trái, thiện, ác là một đặc sắc đáng quý của con người. Tại sao con người lại bỏ rơi đặc sắc đáng quý đó, để rồi nghe theo một số người đầu cơ, lập ra đủ mọi giáo phái kỳ quặc, tuyên truyền các thuyết về ngày tận thế, về sống buông thả tình dục để tìm những cảm giác siêu việt, tuyên truyền nam nữ sống khoả thân thành bầy! Chính lúc này, hơn lúc nào khác, Phật Giáo phải đề cao khả năng tư duy độc lập của con người để tìm ra lẽ phải, để phân biệt chính, tà, thiện ác. Vừa rồi, tôi nói người đầu cơ tôn giáo. Nhưng người đầu cơ chính trị cũng nguy hại không kém. Chính họ rao truyền những định kiến phân biệt tôn giáo, chủng tộc, sắc tộc và dân tộc hẹp hòi dẫn tới những cuộc chiến tranh và xung đột triền miên, đôi khi bột phát thành những cuộc tàn sát có quy mô diệt chủng!

       Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI phải thật sự và xứng đáng là Phật Giáo của trí tuệ, Phật Giáo của những người có trí, không có mê tíncuồng tín, tự mình nương tựa vào chính mình, không tìm một nơi nương tựa nào khác, tự mình thắp đuốc lên mà đi, tự mình lấy mình làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm ngọn đèn v.v… như Phật thường khuyên bảo.

       Nếu khônglý trí, không có khả năng tư duy, thì đúng như Blaise Pascal nói con người là một thứ lau sậy hèn yếu mà thôi, thế nhưng con người biết tư duy, và khả năng tư duy đó nâng cao con người lên địa vị tối linh giữa các loài động và thực vật (L’home n’est qu’un Roseau mais un Roseau pensant – Pascal. Người chỉ là một thứ lau sậy, nhưng là một thứ lau sậy biết tư duy).

5. Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI sẽ là một Phật Giáo biện tâm và hướng nội

       Thế giới hiện đạimột thế giới ồn ào, náo loạn, sôi động. Ngoại cảnh càng ồn ào, náo loạn và sôi động bao nhiêu thì nội tâm càng cần được yên tĩnh, bình lặng và trong sáng bấy nhiêu. Phật Giáo biện tâm và hướng nội sẽ giúp con người thành tựu được một nội tâm như vậy. Hướng nội là để cân bằng với hướng ngoại. Một tờ báo phương Tây đã dùng ảnh dụ sinh động ví von người hiện đại như một người có một chân buộc vào chiếc máy bay phản lực còn chân kia thì buộc vào một xe bò kéo! Một tờ báo khác viết, về mặc khoa học vật lý thì người Mỹ đang ở thời đại nguyên tử, nhưng về mặt tâm lý học thì người Mỹ đang ở thời đại đồ đá! Tâm lý học Phật Giáo có thể điều chỉnh tình trạng mất cân bằng đó của con người hiện đại. Có lẽ vì vậyThiền học Phật Giáo đã tỏ ra rất hấp dẫn đối với người phương Tây, trong gần một thập kỷ lại đây, và trong quyển sách “The Way of Zen” (Con Đường Thiền), tác giả, một người Tây Phương, Alan W. Watts viết: “Thiền là một trong những quà tặng quý báu nhất của châu Á cho thế giới” (Zen is one of the most precious gift of Asia to the world – The Way of Zen p.3).

       Nhưng xu thế hướng nội của Phật Giáo Việt Nam còn có một cội rễ sâu xa hơn: Tức là đối với Phật Giáo, chân lý không phải là năm ở bên ngoài mà là ở bên trong của mỗi người chúng ta. Tư tưởng đó xuyên suốt lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ khi Phật Giáo du nhập vào đất nước ta. Các phương pháp điều thân, điều tâm được áp dụng trong các phái Thiền Việt Nam chủ yếu là nhằm điều hòa nội tâm (điều thân hay điều hơi thở chỉ là phương tiện), nhằm chuyển dần nội tâm từ tán loạn trở thành định tĩnh, từ chỗ hướng ngoại, chạy theo thanh sắc v.v… chuyển thành hướng nội, từ chỗ mê mờ trở thành sáng suốt, từ chỗ thô động, bất kham trở thành nhu nhuyễn dễ sử dụng, hướng tâm đến đâu là tuỳ theo ý mình. Một người tu tập tâm và điều hòa được tâm như thế sẽ là một người có sức mạnh phi thường! Sớ giải Kinh Kim Cang có câu: “Tâm chế nhất xứ, vô sự bất biện”. Nghĩa là tâm được chế ngự vào một nơi thì không có việc gì mà không làm được!

Trong Kinh tạng Pali, thường ghi lời Phật khuyến khích học trò mình tu tập tâm, chế ngựđiều phục tâm:

“Khó nắm giữ, khinh động,

Theo các dụng quay cuồng,

Lành thay! điều phục tâm.

Tâm điều an lạc đến. (Pháp Cú. Kệ 35)

Kẻ thù hại kẻ thù

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm hướng tà

Gây ác cho tự thân.

Điều cha mẹ bà con

Không có thể làm được,

Tâm hướng chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn.

                                                 (Pháp Cú. Kệ 42-43)

 

Chỉ có hướng nội, thật sự tu tập tâm và điều phục tâm, chúng ta mới có thể đạt tới kết quả như vậy. Vì sao? Vì trong con người chúng ta, tâm là kẻ làm chủ. Tâm nghĩ ác, thì lời nói tùy theo cũng ác, thân hành động cũng ác. Trái lại, nếu tâm nghĩ thiện, thì lời nói cũng thiện và thân hành động cũng thiện. Trong Kinh Phật cũng thường nói tâm của Phật sáng suốt, thuần tịnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng, cho nên nếu Phật hướng tâm nhớ lại các kiếp trước của mình, thì Phật nhớ lại tường tận không phải là một, hai, kiếp sống mà vô lượng kiếp về trước. Quyền năng siêu nhiên nhớ lại các kiếp sống trước như vậy, sách Phật gọi là túc mạng thông, hay túc mạng minh. Với tâm sáng suốt, thuần tịnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng, Phật còn có nhiều quyền năng siêu nhiên khác nữa, mà sách Phật gọi là sáu quyền năng siêu nhiên hay sáu phép thần thông.

       Trên đây, tôi đã nói thẳng, nói thật tâm tư của tôi đối với Phật Giáo Việt Nam ở thế kỷ XXI. Ý kiến chân thành, nhưng lời văn có thể vụng về. Rất mong ban biên tập Giao Điểm lượng thứ và quý đọc giả gần xa thông cảm.

       Tôi cầu mong cho đến thế kỷ XXI này, (còn bao lâu nữa đâu) Tăng Ni Phật Tử trong nước hòa hợp, Phật tử trong nước và ngoài nước đều hòa hợp, Phật tử Việt NamPhật tử cả thế giới hòa hợp. Dưới ánh sáng của hạnh lục hòa của Phật Giáo, cả thế giớiPhật Giáo hay không phải Phật Giáo cũng hòa hợp, không khác gì một quốc gia thống nhất mà tất cả chúng ta đều là công dân, là thành viên. Giấc mơ muôn thuở “Bốn biển đều là anh em” (tứ hải giai huynh đệ) sẽ được thực hiện. Trên thế giới sẽ không còn chiến tranh nữa.

Minh Chi

(Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam,

Trưởng Ban Phật Giáo Việt Nam)

Phần chú thích

      1. Bát kính pháp là tám phép ứng xử của Ni đối với Tăng, trong đó có các phép như: Ni dù trăm tuổi, khi thấy Tỳ Kheo Tăng mới thọ giới, cũng phải đứng dậy đón tiếp, hỏi han, lễ bái, thỉnh ngồi.

  • Ni không được cử tội Tỳ Kheo tăng… nhưng Tỳ Kheo Tăng được nói lỗi Tỳ Kheo Ni v.v…

  • Đơn cử hai phép ứng xử trên, cũng đủ thấy những người cho rằng thuyết “Bát kính pháp” không được bình đẳng, cũng là có lý vậy.

II. Toàn câu của Albert Einstein nói về đạo Phật như sau (trong bài, tôi chỉ trích một phần, không trích dẫn hết):

       “The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcent a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would scope with modern scientific needs, it would be Buddhism”.

       Dịch: Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Nó phải vượt trên một Thượng Đế cá nhân, tránh giáo điềuthần học. Bao quát cả hai lĩnh vực tự nhiêntâm linh, nó phải dựa trên một ý thức tôn giáo, nảy sinh từ sự thực nghiệm của mọi sự vật, tự nhiêntâm linh, (được quan niệm) như một thể thống nhất có ý nghĩa. Phật Giáo đáp ứng một mô tả như vậy. Nếu có một tôn giáo thỏa mãn được những yêu cầu của khoa học hiện đại, thì tôn giáo đó là đạo Phật.

III. Tư tưởng tu sĩ có thể rửa tội cho tín đồ cũng bị phê bình ngay cả trong nội bộ của đạo Gia Tô. Chứng cớ là câu sau đây của Thomas Paine, trong cuốn “The Age of Reason” trang 100: “Tư tưởng cho rằng… tu sĩ có thể rửa tội, tuy là hình như nó không tồn tại nữa, đã gây tổn thương cho tình cảm nhân loại và chuẩn bị cho con người phạm đủ mọi tội ác”. The Age of Reason – Thomas Paine. Page 100. (The idea… that priests could forgive sins, though it seems to exist no longer, had blunted the feelings of humanity and prepared men for the commission of all crimes)

Tư liệu tham khảo chính:

  1. Thiền Học Đời Trần, Viện Nghiên Cứu Phật Học chủ biên và xuất bản 1991.

  2. Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông, Bản Hán. Bản Việt của Đào Duy Anh

  3. Cư Trần Lạc Đạo Phú, Trần Nhân Tông, Hoàng Xuân Hãn dịch nôm

  4. Tỷ Kheo Ni Giới - Giới Đàn Ni, Thích Minh Phát soạn dịch. Thành Hội Phật Giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản

  5. Trung Bộ Kinh III, bản dịch Thích Minh Châu

  6. Kinh Pháp Cú, bản dịch Thích Minh Châu

  7. Thơ Văn Lý Trần, Tập 1 và 3, Viện Văn Học xuất bản

  8. Trường Bộ Kinh I, bản dịch Thích Minh Châu

  9. Trường A Hàm I, bản dịch Thích Thiện Siêu

  10. Tăng Chi Bộ I, Bài Kinh: Các vị ở Kesaputta. Bản dịch Thích Minh Châu.

 

HỒNG NGỌC
NHỮNG ĐẠI PHÁP NẠN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 

       Viết bài cho tuyển tập “Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới” theo phương pháp Tứ Diệu Đế, như ban chủ trương Giao Điểm đề nghị, là một việc có phần khó cho tôi. Vì, trước hết, có một số vấn đề, lúc mô tả hiện tượng thì chính nó đã hàm chứa nguyên nhân tạo tác và cũng hé mở phương thức giải quyết rồi.

       Thứ hai, có những sự kiện, cứ để chúng ẩn ẩn, hiện diện, hay qua bóng dáng mờ mờ ảo ảo sẽ làm cho đọc giả có óc suy tưởngdiễn dịch dồi dào hơn, và do đó sẽ có nhiều sáng kiến độc đáo cho các phương thức giải quyết. Tôi nghĩ như thế sẽ tốt đẹp hơn là nói thẳng, nói thực, nhiều lúc sẽ thiếu tế nhị và thiếu ái ngữ.

       Điểm cuối cùng là, dẫu cố gắng đến đâu nhưng nếu có vài ý, vài câu, vài đoạn không được đẹp cho lắm thì quí “đọc giả” cũng hiểu được rằng trong một thời đại mà quyền tự do ngôn luận được công nhận như một điều kiện phổ quát thì vài câu nói thì thào của tôi cũng chẳng lấy đó làm quan trọng, mà tốt hơn là nên suy nghĩ những điều trình bày ấy có đúng hay không. Một thí dụ cụ thể là, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Mc Namara, viết cả quyển sách nói rằng, trong cuộc chiến trước đây, Việt Nam là kẻ chính nghĩa và Hoa Kỳ là kẻ phi nghĩa. Nói như thế, nhưng ông cũng chẳng bị bỏ tù hoặc bị chụp mũ là Cộng Sản bao giờ.

       Với vài nhận định nêu trên, tôi viết bài góp ý ngắn này tùy theo ngòi bút đẩy đưa, nhớ gì viết đó. Và cũng chỉ viết được vài khía cạnh nhỏ của một số vấn đề. Trong cách nhìn có tính “ham hố” vì có quá nhiều điều muốn viết muốn nói nhưng chua thể thực hiện, nên chỉ nêu ra một số “hiện tượng” để từ đó hi vọng chúng ta sẽ có biện pháp sửa đổi.

    1. ĐẠI PHÁP NẠN TẠI HẢI NGOẠI

   1. Người lãnh đạo không thể đi sau quần chúng

       Lúc bỏ nước ra đi từ năm 1975, đa số hàng tôn túc đều có mộng “lấp biển vá trời”, mang một hoài bão lớn lao cho một cuộc hành trình mới. Nhưng lúc được định cư một thời gian, các mộng ước lúc đầu dần dần trôi theo mây gió, mà nguyên nhân chính yếu là do hàng cư sĩ gây ra. Thay vì khuyến khích giúp đỡ tăng ni tu và học, các tín đồ đã góp tiền dựng lập chùa để có nơi tới lui học đạo, cầu an, cầu siêu, ký linh, ký tự. Đó là một việc làm cần thiết, nhưng lúc có chùa, đa số các hội viên đều bận rộn lo kế sinh nhai, nên tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ đều phó thác cho vị trụ trì. Như thế, người Phật tử đã biến vị thầy của mình thành người “nô lệ” cho cái cơ sở vật chất ấy, không còn thì giờ để tu và học thêm, ngay cả thiếu thì giờ để đọc sách, báo bằng Việt ngữ chứ chưa nói đến ngoại ngữ, hay học một môn ngoại điển nào, mà một người sống trên một quốc gia khác, nên biết ít nhiều ngôn ngữ của họ để giao thiệp.

       Hậu quả của vấn đề là, hơn 20 năm qua ở hải ngoại, trong lúc xã hội ngày càng phát triển, kiến thức con người ngày càng mở rộng, thì một số ít các vị lãnh đạo của chúng ta chỉ sử dụng mớ kiến thức học được từ trước năm 1975, mà nhiều lúc, có những điều hay, học được thì đã quên bớt, và có cái đã lỗi thời thì không biết để bỏ đi. Như thế, người Phật tử đã vô tình biến người lãnh đạo của mình tụt hậu, đi sau quần chúng, làm sao lãnh đạo có kết quả tốt được.

       Có người sẽ lý luận rằng, đức Khổng Tử, Phật Thích Ca đâu có học nhiều đâu mà cũng được tán tụng là vạn thế sư biểu, cũng được xưng hôthiên nhân chi đạo sư. Có thể nói rằng, hầu hết chúng ta không phải là Khổng Tử và chỉ là Phật sẽ thành. Do đó, trong xã hội ngày nay, đòi hỏi người lãnh đạo trước hết phải có tu và thứ đến là phải có học. Nếu sở học, nhất là phần nội điển thấp hơn quần chúng làm sao lãnh đạo được quần chúng.

       Trong lãnh vực Gia Đình Phật Tử (GĐPT) cũng thế. Các huynh trưởng kỳ cựu là những người rất tốt, gần suốt cuộc đời xã thân vì lý tưởng GĐPT, sống chết vì đạo, nhất là qua các thời kỳ nhiễu nhương của thế sự nhân tâm. Nhưng hoàn cảnh xã hộitrình độ nhận thức của thế hệ trẻ ngày nay, đòi hỏi thành phần huynh trưởng kỳ cựu phải cập nhật hóa tư tưởng của mình, chương trìnhphương pháp sinh hoạt cũng phải đổi mới cho thích hợp với thời đại tân tiến. Thí dụ, thời xưa, lúc khoa học còn thô sơ, con người phải dùng đến các tín hiệu để liên lạc với nhau, nhưng ngày nay, với điện thoại cầm tay không cần dây (cordless), chúng ta có thể liên lạc được với nhau một cách dễ dàng ngay cả giữa cảnh núi rừng hoang dã. Một bản tin quan trọng cách xa vạn dặm, từ Úc gởi qua Hoa Kỳ, chẳng hạn, chỉ cần vài phút là có thể gửi bằng máy fax, đâu cần phải thổi còi, phất cờ tín hiệu. Đây là một thí dụ trong muôn ngàn vấn đề cần phải cải đổi để phát triển và tồn tại còn không thì GĐPT chỉ còn là các lớp Việt ngữ, hoặc nơi gặp gỡ của giới trẻ với lứa tuổi dưới 18 mà thôi, vì lúc lên đại học, các đoàn sinh này cảm thấy GĐPT không phải là môi trường để họ có được những tiếp thu mới, và người huynh trưởng của họ về khả năng không làm cho họ học thêm được nhiều điều cần thiết. Bởi thế, chúng ta thấy, tại các đô thị, sự sút giảm số lượng đoàn sinh GĐPT có trình độ đại học. Nói rõ hơn, lúc vào đại học, có nhiều em thiếu niên thiếu nữ không còn tiếp tục đến với GĐPT nữa, mà nguyên nhân chính là nơi đây không còn cung ứng cho họ một số kiến thức mới như lúc còn là đoàn sinh oanh vũ.

       Tại chùa của H.T. Thích Đức Niệm miền Nam California, tháng 11, 1981, sau đám tang của huynh trưởng Phan Bản Cẩn, tôi có trình bày tình trạng này với một số anh chị em huynh trưởng cao cấp như anh Nguyễn Hữu Liêm (hiện tạiluật sư, ở San Jose, California), nhưng có lẽ quá sớm đối với nhiều vị ngoại trừ anh Nguyễn Hữu Liêm.

2. Nạn lạm phát chùa chiền

       Lúc người Phật tử trong nước đọc báo thấy người Việt hải ngoại lập được hơn 250 cảnh chùa. Họ nghĩ rằng tất cả các chùa đều có mái cong, có rồng, có phụng, có trúc, có mai, với cảnh trí u huyền lưng lưng thoát tục, nhưng thực tế không phải vậy. Hiện nay có khoảng trên 20 chùa xây cất có quy củ, số còn lại chỉ là một căn nhà nhỏ (và nhiều vùng cũng chỉ nên có như vậy thôi) với giá tiền mua khoảng dưới 100.000 Mỹ kim. Trả trước 20.000 (hai chục ngàn), số còn lại trả góp khoảng 30 năm, mỗi tháng khoảng 600 Mỹ kim, tiền lời 8% mỗi năm. Nếu trả không được ngân hàng sẽ tịch thu. Do đó, tháng nào vị trụ trì cũng lo nghĩ xoay sở cho đủ tiền trả nợ hàng tháng. Đó là chưa kể tiền điện, điện thoại, nước, gas (chất đốt), thuế và tiền bảo trì. Cũng có chùa, cơ sở nhỏ, nội dung sinh hoạt chưa có tầm cỡ, nhưng dùng danh từ hơi lớn hơn như Quốc Tế, Thế Giới… Danh và Thực chưa phải là một cặp xứng đôi.

       Mặc dầu khó khăn về tài chánh, nhưng nhiều nơi làm chùa không phải vì nhu cầu tín ngưỡng mà vi nhu cầu cá nhân. Có vài người làm chùa cũng để thỏa mãn cái ngã hơn là vì nhu cầu thực tế. Vì thế, có nơi, chùa cách nhau chỉ vài con đường mà số lượng tín đồ quá ít không phải có nhiều chùa như thế. Đó là chưa kể khoảng chừng 15 đến 20 năm nữa là tối đa, chùa sẽ không có bổn đạo, vì số Phật tử lớn tuổi đã qua đời, lớp trẻ thì ít đến vì nhiều lý do: ngôn ngữ bất đồng, thầy nói tiếng Việt mà Phật tử của thế hệ mới đa phần nói tiếng Anh, tiếng Pháp…, trình độ văn hóa chênh lệch, cách tổ chức và nghi lễ không đáp ứng với lối nhìn của thời đại. Đó là chưa nói đến đa số Phật tử ngoại quốc (gốc không phải là người Việt) lại là thành phần hoàn toàn bất đồng ngôn ngữ với nhiều vị thầy của Phật Giáo Việt Nam ở nước ngoài. Hơn 50 năm trước đây, người Nhật phần lớn ở Hạ Uy Di (Hawaii), và người Hoa tại California đã đi con đườngPhật Giáo Việt Nam tại hải ngoại đang nhầm lẫn ngày hôm nay. Kết quả là, hàng trăm ngôi chùa của hai cộng đồng Phật tử này bị xoá tên trên bản đồ Mỹ Quốc. Hoặc có vài chùa đồ sộ còn lại tại các đảo ở Hawaii, nhưng chỉ để làm cảnh trí cho khách du lịch hơn là chốn thanh quy tu học như trước đây. Rất tiếc, các gương trước mắt ấy, nhưng nhiều người Phật tử chúng ta không học được bài học đích đáng nào, mà cứ vẫn đi vào con đường thất bại của hai cộng đồng Nhật và Hoa nói trên. Tình trạng này, tôi cũng đã có dịp báo động trong buổi họp thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ năm 1980 tại Thiền Viện, số 928 S. New Hampshire, Los Angeles, California, USA, do cố H.T. Thiên Ân làm viện trưởng.

       Nếu nhìn vào lịch sử truyền bá Phật Giáo của các vị tổ sư Ấn Độ và Trung Hoa vào Giao Châu trong các thế kỷ trước, và các vị sư đem đạo Phật Việt Nam vào cộng đồng phương Tây ngày nay, chúng ta rất lấy làm tiếc, nhưng cơ hội vẫn còn, nếu hàng Phật tử xuất giatại gia ý thức được vấn đề và có chương trình cụ thể.

       Một con số ước lượng là, Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại mỗi năm phải tốn mất 6 triệu Mỹ kim (mỗi chùa tốn 2 ngànMỹ kim mỗi tháng, 250 chùa, nhân cho 12 tháng) để duy trì và trả nợ tiền mượn ngân hàng mua nhà làm chùa. Nếu số lượng 250 “ngôi” chùa giảm xuống chỉ còn một nửa thì Phật Giáo Việt Nam có thể dành được 3 triệu Mỹ kim mỗi năm để phát triển Phật Giáo trong nước và hải ngoại. Đó là chưa nói đến số lượng còn lại một nửa này (125 ngôi chùa), nếu không có lối truyền đạo nhắm vào người bản xứ, như các vị tổ sư Ấn Độ và Trung Hoa sang Việt Nam trong các thế kỷ trước, thì số chùa còn lại này sẽ bị vắng bóng tại hải ngoại như đã trình bày ở trên.

       Do đó, người Phật tử cúng đường tiền làm chùa thế nào để chánh pháp của đức Như Lai được lưu truyền, chứ không nên thiếu cân nhắc để như đem muối bỏ biển, có thể không được phước mà còn thêm tội, và người có trách nhiệm nên làm thế nào để pháp Lục hòa của Phật được áp dụng, tránh bớt một số việc làm không cần thiết.

3. Phe ta đánh phe mình

       Một cách tổng quát, tương đối hơn 20 năm qua các giáo phái Tin Lành Việt Nam tại hải ngoại hầu như không làm chính trị, nói rõ hơn là không chống Cộng. Do đó, hiện nay họ truyền đạo rất dễ tại Việt Nam, không ai để ý hoặc nghi ngờ. Trong khi đó cũng có tôn giáo không còn chống Cộng như trước, mà chuyển qua chiến lược ném đá dấu tay tinh vi hơn, xúi dục kẻ khác chống Cộng giùm để tạo áp lực trong nước.

       Về phía Phật Giáo, thì một số đã trúng kế, múc nước cho kẻ khác rửa chân mà cứ tưởng rằng mình là kẻ “anh hùng chống Cộng”. Một cách khách quan, có thể nói được rằng, vài vị trong hàng tôn túc, mấy năm qua làm quá nhiều về những công việc mà họ có kinh nghiệm quá ít. Bỏ sở trường, làm sở đoản. Sở trường của quí ngài là tu, học, làm tấm gương đạo hạnh cho thiên hạ soi chung. Nói như giáo sư Cao Huy Thuần “có tu thì có tất cả”, không tu thì mồ mả và nhang khói chẳng còn (HN). Nhưng buồn thay, một vài vị chống Cộng có tính hung hăng, mất tư cách, không nghiên cứu tường tận để biết cái nào nên chống cái nào nên bênh, nếu chống thì chống cách nào, bênh thì nên bênh ai bỏ ai, bênh cái đúng, chống cái sai. Chứ không thể làm chính trị theo kiểu con bò rừng, cứ thấy màu đỏ là húc. Mà điển hình là H.T. Thanh Từ, T.T. Khế Chơn, T.T. Phước Trí bị mấy thầy chụp cho cái mũ là Cộng Sản, là tôn giáo vận. Cũng như nhiều năm trước đây có hai, ba thầy ra thông báo lên án chụp mũ H.T. Trí Thủ và H.T. Đôn Hậu nhưng vài tháng sau đó chính mấy vị này lại cử hành lễ truy điệu. Có thể nói rằng, có vài người lợi dụng chiêu bài chống Cộng để chống nhau, tạo sự chia rẽ trong hàng tôn túc, tạo hố sâu giữa Phật tử trong và ngoài nước để có lợi cho ngoại nhân. Chống Cộng thiếu ý thức đã xé nát tập thể tăng tín đồ ra nhiều mảnh.

       Nếu để ý vào các vị “anh hùng chống cộng” này chúng ta sẽ thấy. Lần đại hội Thanh Niên Thiên Chúa Giáo tại Denver, Colorado, Hoa Kỳ bốn năm trước đây, có treo cờ đỏ sao vàng (để lấy lòng), nhưng chúng ta không thấy mấy vị “anh hùng” này chống. Hoặc có nhiều chức sắc Thiên Chúa Giáo từ Việt Nam ra quyên góp tiền tại các nhà thờ ở hải ngoại, chúng ta cũng không thấy mấy “anh hùng” nêu trên ra tuyên cáo chống mà chỉ thấy tình trạng phe ta chống phá phe mình. Đó là chưa kể một số viên chức trong một giáo hội hiện nay giả vờ chống Cộng để che đậy việc buôn bán đầu tư tại Việt Nam, hoặc có vị soạn “kế hoạch kinh tế” du lịch để đầu tư trong nước. Đưa ra hai dẫn chứng này, tôi không hàm ý chụp mũ hai vị là Cộng Sản, nhưng để cho thấy cái mâu thuẫn của vấn đề và cái khó của tình thế. Cũng có một vị khác trong hàng tôn túc hiện đang có chức vụ trong giáo hội, bị dư luận nghi rằng CIA đã móc nối, vì lúc tị nạn trong trại, chỉ ở lại có ba ngày thì được bốc ra ngay, mà không cần qua các thủ tục và qui chế của người tị nạn.

       Nếu ai không chống Cộng, thì bị vài tờ báo có khuynh hướng TCG chụp mũ là Cộng Sản, người đó phải viết bài chống Cộng để minh oan. Như thế, là trúng kế thêm một lần nữa. Thí dụ, hồi tháng 6, 1996, tại Colorado, một bài báo ký tên là Bạch Long đăng trong bản tin Chiến Hữu. Bái viết nói rằng Phật Giáo chống Cộng cò mồi, chống giả hiệu, H.T. Huyền Quang là tên Công Sản. Vì từ đầu năm 1996, GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ không chống Cộng hăng như trước. Lời lẽ của bài viết rất thiếu văn hóa, đáng lý ra, tự nó đã cho thấy giá trị của bài viết như thế nào rồi. Nhưng ngày 10.7.1996, thấy có bức thư của chùa Như Lai viết lên án Cộng Sản để minh oan.

       Người Phật tử rất đau lòng lúc thấy vài đài phát thanh và truyền hình thân TCG (như đài Little Saigon tại quận Cam) không phỏng vấn những vị tôn túc có đạo cao đức trọng, có tầm nhìn xa thấy rộng nhưng thường thấy họ phỏng vấn một vài vị mà tác phong còn thấp kémkiến thức thì giới hạn, để làm cho thính giả khán giả dèm pha. Tệ hại hơn, là vài vị trong số này lại thích xuất hiện trên đài.

       Bỏ sở trường, làm sở đoản, đi từ trúng kế này đến mắc mưu khác. Tâm của các vị nói đây rất tốt, nhưng sở trường về chính trị muôn mặt quá thô thiển, không biết áp dụng khế lý khế cơ chuyển phát luân vào thời đại mới. Việc làm thiếu nghiên cứu tường tận của vài vị này rất nguy hiểm cho Phật Giáo.

4. Phật giáo chưa có tầm vóc, vì đệ tử Phật chỉ còn một chúng

       Lúc Phật chuyển pháp luân 26 thế kỷ trước đệ tử của ngài có bốn chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc (nam cư sĩ), ưu bà di (nữ cư sĩ). Qua các thời đại, Phật Giáo thịnh hành như thời vua A Dục tại Ấn Độ, thời nhà Đường tại Trung Hoa, và thời Lý Trần tại Việt Nam, đệ tử Phật cũng còn bốn chúng hỗ trợ, tương tác lẫn nhau để truyền trì chánh pháp. Nhưng tại Việt Nam, nhất là sau 1963, vì thời cuộc nhiễu nhương, Phật Giáo đi vào con đường tục đế hơn thánh đế, nạn lạm dụng quyền hành, lợi dụng danh nghĩa của một thiểu số cư sĩ để tiến thân, nhất là qua các thời kỳ ứng cử bầu cử. Do đó, các tổ chức giáo hội rất thận trọng trong việc mời một số cư sĩ có khả năng đảm đương công việc của giáo hội. Tuy nhiên, cũng có một số quý thầy trong vài tổ chức Phật Giáo trong cũng như ngoài nước, thấy mấy ông cư sĩ “khó bảo”, nên bao quát tất cả các chức vụ ngay cả các công việc mà hàng tăng giới thiếu kinh nghiệm, như vấn đề chính trị, kinh tế và ngoại giao. Có nơi, hình ảnh của cư sĩ trong giáo hội là chỉ để “làm kiểng” hơn là cộng tác chia xẻ các trọng trách. Một vài tổ chức giáo hội hiện nay, trong nước cũng như hải ngoại, thậm chí có nhiều vị tăng cũng như tục nhận chức vụ, nhưng suốt một nhiệm kỳ (vài năm) công việc cũng chẳng thấy thực hiện được bao nhiêu điều đã được giao phó. Nhưng đến kỳ đại hội, cũng thấy có những bản tường trình “ngoạn mục”, những bài diễn văn “nảy lửa” mà nội dung và kết quả thì còn khiêm tốn.

       Vì thế, Phật Giáo cần phải điều chỉnh phương pháp tổ chức, sử dụng nhân sự đúng khả năng, qui định và theo dõi các chường trình đã đề xuất. Phật tử tại gia phải qui kính tam bảo, thực sự hộ trì chánh pháp. Bốn chúng đệ tử của Phật lúc nào cũng phối hợp chặc chẽ bổ túc cho nhau để bước vào thế kỷ mới.

      1. ĐẠI PHÁP NẠN TRONG NƯỚC

       Lúc gặp vài vị trong giáo hội nói rằng Phật Giáo tại Việt Nam gặp đại pháp nạn, tôi thăm hỏi quan điểm của các đại pháp nạn. Có vị đã trả lời tiền hậu bất nhất, rất xa rời với hiện thực. Tôi có đề nghị nên về Việt Nam để điều nghiên vấn đề tường tận, không nên phỏng đoán tình hìnhphản ứng theo cảm tính. Trăm nghe không bằng một thấy. Đối với Phật tử trong nước cũng thế, không nên có tinh thần trọng ngoại, vọng ngoại rất sai lầm. Không phải cái gì có nhãn hiệu nước ngoài là đều tốt đẹp cả. Có điều mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nhưng có thật, như cuộc thăm dò khoa học cho thấy trên 50% thế hệ trưởng thành của người Hoa Kỳ không biết quả đất quay quanh mặt trời, mỗi năm một lần, vì kinh thánh dạy rằng quả đất phẳng, có cột trụ chống đỡ do Chúa tạo ra, đứng yên một chỗ, mặt trời quay quanh quả đất, nên họ bị ám ảnh từ nhỏ đến lớn (Xin xem cuốn Ki Tô Giáo, Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại, và báo West Coast Times, 24.05.1996). Thí dụ: Pháp Quốc là trưởng nữ của tòa thánh Vatican, nhưng hiện nay có 5% Phật Giáo, 6% Tin Lành (theo tuần báoMai California) và chỉ có khoảng 15% Thiên Chúa còn thực hành tín ngưỡng (in a traditional Roman Catholic country where only about 15% actively practice their faith, Los Angeles Times, Friday, 20.09.1996).

       Tóm lại, vì thiếu nghiên cứu tường tận vấn đề, nên bên trong nạn nhân của bên ngoài, bên ngoài nạn nhân của bên trong, vấn đề có phần lệch lạc thiếu chính xác. Nói vậy, tôi không có ý cho rằng các vần đề đều sai mà có cái đúng. Nhưng nên biết cái nào đúng cái nào sai. Nên nhìn vấn đề trong tương quan tương duyên của khế cơ khế lý. Thực tế, Phật Giáo Việt Nam có mấy đại pháp nạn mà phần lớn là tại hải ngoại như đã nêu trên, và sau đây là vài pháp nạn trong nước.

  1. Nạn tăng ni lạm phát, lượng cao, phẩm thấp

       Sau 1975, số lượng tăng ni trẻ tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng, nhất là những năm gần đây, số Phật tử trẻ xuất gia đông đảo do vài nguyên nhân chính sau đây:

       Lúc thâm hiểu được phần nào giáo lý căn bản của Phật, hàng cư sĩ phát nguyện xuất gia để truyền trì chánh pháp, đem lại lợi ích cho quần sanh. Với cái sơ tâm xuất gia mạnh mẽ, ấp ủ trong lòng hoài bão cao quý ấy, nếu được giáo dưỡng đúng mức, thành phần đông đảo quý hóa này sẽ trở thành những bậc trưởng tử lỗi lạc của đức Như Lai, nắm giữ mạng mạch của Phật Giáo. Bên cạnh những tâm hồn quí báu ấy, cũng có một số rất ít vì hoàn cảnh kinh tế, hoặc vài lý do cá biệt khác nên muốn xa lìa cuộc đời trần thế. Dẫu động cơ nào đưa người Phật tử đến cửa Phật, mà nếu duyên may gặp được vị bổn sư chỉ dạy có phương pháp, gặp được môi trường đào tạo hữu hiệu, thì hàng sơ tâm xuất gia này sẽ là những viên ngọc quí cho Phật Giáo.

       Rất tiếc, một số ít quí vị trụ trì đã nhận chúng xuất gia thiếu cân nhắc, và thiếu nhiều phương diện. Một số ít trường Phật học lại thiếu các vị giáo thọ tài ba, và thiếu phương pháp sư phạm hiện đại, nên vấn đề tu và học của tăng ni thiếu hẳn chất lượng. Nhiều lớp học, mang nặng không khí buồn tẻ, chán nản, kéo dài nhiều năm nhưng kết quả không được như ý muốn. Thí dụ, cuốn kinh Tứ Thập Nhị Chương (có 42 chương rất ngắn), thay vì chỉ dạy mất 10 giờ là xong, có trường, thầy dạy mất từ bốn đến sáu tháng. Nếu tình trạng này không cải tiến kịp thời, thì đó là một đại pháp nạn cho tiền đồ Phật Giáo, vì số lượng tăng ni quá lớn mà phẩm chất vẫn còn khiêm tốn. Chôn vùi thời gian nhiều năm, trong trường lớp, nhưng kết quả thu thập thì còn quá ít.

       Nếu người xuất giađạo hạnh kém, kiến thức thô thiển, nhất là về Phật pháp, sẽ làm cho tín đồ ối đố dèm pha, thiếu kính trọng và người ngoài khai thác. Hệ quả của vấn đề là, thay vì quy y Phật Pháp Tăng, tín đồ sẽ quy y với ngoại đạo tà giáo. Tình trạng này không những ảnh hưởng tai hại cho cơ đồ Phật Giáo mà còn làm lung lay nền tảng đạo đức của quốc gia xã hội. Đây cũng là quốc nạn, nguyên nhân do pháp nạn nói trên. Một hôm viếng thăm ngôi chùa tại Long Thành, tỉnh Đồng Nai, tôi thấy số lượng quí chú mới xuất gia tăng từ bốn vị năm 1991, đến 42 vị năm 1995. Tôi phát biểu nửa đùa, nửa thật với vị trụ trì, cũng là chỗ quen thân, rằng thầy nhận người xuất gia quá nhiều là thầy phá Phật Giáo. Vị thầy hiền lành, cẩn trọng hỏi lý do. Tôi kính cẩn thưa rằng, một vị trụ trì lúc thu nhận người xuất gia phải có ba điều kiện tối thiểu:

       Một, có cơm áo để nuôi, nếu phải dùng phần lớn thì giờ để làm rẫy canh tác cho cuộc sống thì không có thì giờ để tu và học. Hai, phải có phương tiện để học cả nội điển lẫn ngoại điển. Ba, thầy phải có thì giờ để hướng dẫn đời sống nội tâm. Kinh nghiệm đời cho thấy, đa số con cái của các gia đình người Hoa (hay thành phần có cửa hàng buôn bán) rất hư hỏng. Vì cha mẹ lo buôn bán, con do người giúp việc nuôi và giáo dục trực tiếp. Như thế, người ở đóng vai làm cha làm mẹ và làm thầy giáo của các đứa bé. Điều đó cho thấy thì giờ cha mẹ dành cho con cũng như thì giờ thầy dành cho đệ tử rất cần thiết, ảnh hưởng đến tư tưởngnếp sống của thành phần son trẻ.

       Nếu thiếu ba điều kiện cần thiết nêu trên, một số đệ tử lớn lên, có thể sẽ trở thành hiện tượng mà tôi vô phép gọi là “Đường đường tăng tướng, dung mạo khả nghi” thì rất đại họa cho Phật Giáo. Một cư sĩ lúc có hành động thiếu “đạo đức” chỉ mang tiếng cho một gia đình. Nhưng một vị tu sĩ mô phạm thiếu hạnh, sẽ mang tiếng cho cả một tập thể.

       Người Phật tử được dạy rằng “y pháp bất y nhân” nhưng bên cạnh đó, họ cũng được giáo huấn “tăng đáo cũng như Phật Lai”, xem thầy như vị Phật sống. Nếu niềm tin hay thần tượng của họ bị sụp đổ thì cả vũ trụ trong lòng họ cũng sẽ đổ theo. Nói như ý của một triết gia, con người trụy lạc trong dục vọng, còn mất mát ít hơn là mất mát sự tin tưởng say sưa trong lòng họ.

  1. Chưa có một chương trình thiết thực đối với các Phật tử xa đô thị

       Nếu tại hải ngoại có vài nơi làm chùa không phải do nhu cầu tín ngưỡng mà vì nhu cầu cá nhân, thì ở trong nước cũng có vài nơi như thế. Một số tăng niđệ tử hay thân nhân ở nước ngoài, nên việc quyên góp tiền làm chùa hay tu bổ, nhiều lúc, trở nên một phong trào. Nhưng rất tiếc, là phong trào này chỉ chú trọng đến các tỉnh và đô thị lớn, còn các chùa làng, các nơi hẻo lánh xa thành phố rất ít được quan tâm, nhất là tại Bắc Việt, nơi đó tình trạng bị chiến tranh lâu năm và số người vược biên lại quá ít, nên sự cúng đường đóng góp của Phật tử nước ngoài, so với miền Trung và Nam, quả tình là quá cách biệt. Lục Tổ Huệ Năng dạy, Phật vô nam bắc, nhưng nhiều Phật tử Việt kiều chúng ta thích giúp tại địa phương mình hơn là các nơi khác. Vì thế Phật Giáo miền Bắc ít phát triển về mọi mặt.

       Tình trạng lập chùa mới, tu bổ chùa cũ thiếu sự phối trí đồng đều, thì thành phần nhân sự cũng không kém phần trở ngại. Số lượng tăng ni tại Việt Nam trên 20 ngàn, nhưng có được bao nhiêu vị đủ trình độ để làm trụ trìgiảng sư. Có được bao nhiêu vị chịu dấn thân đi đến các vùng quê để thuyết pháp độ sinh. Nhiều quận, xã thôn, 10 năm chưa thấy được bóng dáng một vị sư trong các buổi trong các buổi lễ, còn tại đô thị thì tình trạng tấp nập với những chiếc áo nâu, áo vàng tung bay phất phới.

      1. VÀI GÓP Ý CẢI THIỆN

       Để cải thiện các khuyết điểm nêu trên, tôi xin đề nghị vài ý kiến thô thiển.

       

  1. Tùy theo nhu cầu tín ngưỡng, phương tiện tài chánh, số lượng tín đồhoàn cảnh kinh tế của quần chúng địa phương, để giới hạn hoặc gia tăng số lượng xây chùa mới, sửa chùa cũ. Phật Giáo là một tôn giáo đem vui cứu khổ, do đó, không nên làm những ngôi chùa quá nguy nga đồ sộ trước sự nghèo đói của quần chúng, và kêu gọi tín đồ cúng đường đóng góp quá nhiều hoặc làm chùa dư thừa như một vài nơi tại hải ngoại. Số lượng chùa thì nhiều nhưng chẳng có bao nhiêu cái đáng giá.

  2. Phải có tiêu chuẩn tối thiểu về cơ sở vật chất, tài chánh và thì giờ của một vị trụ trì lúc thu nhận đệ tử mới, phải trắc nghiệm, tập sự một thời gian trước lúc cho xuống tóc.

  3. Mở các khóa tu huấn cấp tốc và định kỳ, để bồi dưỡng kiến thức sư phạm mới cho quí vị giáo sư, giáo thọ của các trường Phật Học.

  4. Mở khóa giảng dạy bằng phương pháp hiện đại, đào luyện cấp tốc hoặc tu huấn cho quý vị trụ trìgiảng sư để cung ứng cho nhu cầu phát triển Phật Giáo và thăng tiến quốc gia trong thời đại mới. Nếu không có các khoá huấn luyện tu học thì như đẩy người ra khơi mà không cung cấp hành trang.

  5. Mở lớp học hàm thụ cho các cư sĩ nhất là các vùng xa đô thị.

  6. Muốn phát triển mạnh, hài hòa, không gây đàm tiếu, Phật Giáo Việt Nam trong và ngoài nước có nên suy nghĩ một dòng tu mới bên cạnh dòng thanh tịnh xuất gia hiện có? Dòng này đặt tên là dòng Pháp Sư (Dharma teacher) hay nói nôm na là thầy giảng đạo như mục sư Tin Lành. Dòng pháp sư có quyền lập gia đình, giới luật, nhiệm vụy phục khác với giới thanh tịnh, xuất gia. Thật ra đây không phải là điều mới mẻ. Nếu đọc sử Phật Giáo đời Trần, chúng ta thấy, vua Trần Nhân Tông, sư tổ phái Trúc Lâm, không những gọi ngài Tuệ Trung là pháp sưxưng tụngThượng Sĩ (tức là Bồ Tát) mặc dầu ngài Tuệ Trung có gia đình vợ con. Phật giáo Nhật Bản mạnh, nhờ có sự cải cách. Nhiều vị thiền sư nổi tiếng của một môn phái thiền tại Nhật có gia đình, mà điển hình là thiền sư Suzuki, đạo hạnhtư tưởng của ngài nhất là bộ Thiền Luận đã dẫn hàng triệu người trí thức Tây Phương đến với đạo Phật. Hiện nay, Phật Giáo Tích Lan (tiểu thừa) tại Hoa Kỳ đang có khóa huấn luyện khoảng trên 20 vị pháp sư, và sư bà Karuna, đệ tử của cố H.T. Thiên Ân cũng làm lễ thọ giới cho vài vị (nam) pháp sư người Hoa Kỳ tại Los Angeles, California.

       Đây là một gợi ý mới mẻ đối với Phật tử Việt Nam trong nước, nhưng thời đại cũng cho thấy, cần phải uyển chuyển hợp khế lý khế cơ. Ai có thể thanh tịnh xuất gia càng quí, tấm gương mô phạm muôn đời, nhưng nếu không được trọn vẹn thì nên công khai. Và vị nào từ hàng cư sĩ vào thọ giới và theo dòng pháp sư một thời gian, nếu cảm thấy có thể thanh qui phạm hạnh được, thì giáo hội sẽ làm lễ thọ giới để tiến lên hàng thanh tịnh xuất gia. Như thế, còn hơn là một vài chú mới xuất gia vài năm, nằm trong thế kẹt, tiến thối lưỡng nan. Nếu không có lối thoát đã dự liệu, Phật giáo sẽ gặp trở ngại lớn.

       

  1. Phật tử tại gia trong và ngoài nước nên qui kính Tam Bảo nhiều hơn nữa, xóa bỏ tất cả các dị biệt, nếu có, từ trước, tham gia tích cực vào các cương trình hoằng dương Phật pháp vào thời đại. Ủng hộ các chương trình bổ ích, cụ thể, từ chối tham gia các công tác Phật sự thiếu nghiên cứu và không thích hợp với khế lý khế cơ mà Phật đã dạy.

       Hải ngoại có khoảng gần một triệu Phật tử, nếu tất cả đều ý thức được vấn đề, nỗ lựctích cực, thường xuyên mỗi năm, mỗi người đóng góp một Mỹ Kim (tổng cộng 1 triệu Mỹ kim mỗi năm) cho bảy chương trình trên. Như thế, Phật Giáo Việt Nam mới có tầm vóc để góp phần vào việc làm tốt đời, đẹp đạo.

       

  1. Điều kiện của một giáo hội mạnh theo kiểu tôn giáo Tây Phương: Ki Tô Giáo (Thiên Chúa và Tin Lành) mạnh nhờ áp dụng năm điều kiện sau: Huấn luyện, Tổ chức, Đoàn kết, Có tiền, Cuồng tín. Đưa ra năm điều kiện trên, tôi không hàm ý là Phật Giáo muốn mạnh thì phải bắt chước kẻ khác như những việc mà họ đã và đang làm:

    • Dẫn đường hoặc oa rập với các phong trào chiếm thuộc địa trước đây để có tiền

    • Dùng sự hăm dọa như Chúa đày địa ngục, hoặc “tẩy não” để tín đồ trở nên cuồng tín ngu muội cho dễ bảo,

    • Lúc đầu, giúp đỡ, nhưng sau khi đã tẩy não thì bảo phải đóng 10% lợi tức hàng tháng vào nhà thờ, nếu không “Chúa sẽ đày xuống địa ngục”(nhiều giáo phái Tin Lành ở Mỹ áp dụng).

       Thời đại này, họ áp dụng con đường xâm chiếm lãnh thổ qua cuốn kinh Thánh và qua lá phiếu. Chúng ta hãy nghe lời phát biểu thấm thía của vị lãnh giãi thưởng Nobel về hòa bình năm 1984 là giám mục Desmond Tutu, đã than thở cho số phận các nước Phi Châu của ông như sau:

       “Chúng tôi có đất, các giáo sĩ có cuốn Kinh Thánh. Chúng tôi tin họ và cầu nguyện với cuốn Kinh Thánh trong tay và hai mắt nhắm lại. Lúc mở mắt, chúng tôi có cuốn Kinh Thánh còn các giáo sĩ có tất cả đất đai của chúng tôi”. (We have our lands and they came with their Bible. We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands. Trích trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa trang 189, 1994).

       Ngoài ra một vài tổ chức có tính tôn giáo áp dụng sáu kế hoạch dài hạn và ngắn hạn như sau:

    1. Ném đá dấu tay, xúi dục kẻ khác chống Cộng để tạo mậu thuẫn. Mà tiếc thay nhiều người bị trúng kế, dọn cỗ cho họ xơi.

    2. Dùng phương tiện ngoại giao cấp cao làm giảm thiểu căng thẳng giữa đôi bên để bành trướng.

    3. Đút lót, hối lộ các cơ quan công quyền để phát triển.

    4. Đưa một số khoa bảng giúp việc cho các cơ quan nhưng thực chất là để lấy tin và làm nội gián.

    5. Tạo điều kiện, giúp phương tiện du học cho một số thành phần trẻ để trồng người, đợi chờ cơ hội chính trị lúc thời cơ đến.

      1. Thay đổi niềm tin người sắc tộc để lập các quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn.

       Phật Giáo không có và sẽ không bao giờ có các sách lược và kế hoạch thế tục nói trên, nhưng nêu ra để quí độc giả kiểm nghiệm.

       Nhìn vào các tổ chức Phật Giáo, chúng ta không tránh khỏi các điều buồn sau đây:

  • Người Tây Phương đang ồ ạt từ bỏ tín ngưỡng lâu đời của họ thì Phật Giáo thiếu người có tài đức để đáp ứng.

  • Mấy “cậu Ấm” (danh từ của GS Trần Chung Ngọc trong Phật Giáo Hải Ngoại) trúng kế ngoại đạo nhiều lần và cả tin về sách lược của ngoại nhân, quá hố nhưng vẫn chưa thức tỉnh.

  • “Thiên hạ” đi đến các hang cùng ngõ hẻm trên quê hương bằng hai chân, bằng xe đạp, xe gắn máy, ngay cả trực thăng và phi cơ phản lực, thì một vài đoàn thể nhỏ của Phật Giáo vẫn còn nhốn nháo, ngây thơ, đạp lên nhau, bỏ sở trường theo sở đoản. Thật đáng tiếc.

  • Khoa học vừa khám phá trên Hỏa Tinh, hàng triệu năm về trước có đời sống sinh vật. Điều đó nói lên rằng, quả đất không phải là trung tâm của hoàn vũ do Thượng Đế an bày, và điều đó cũng xác quyết lời đức Phật nói về tam thiên đại thiên thế giớithế giới hoa tạng được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm. Và mới đây, Giáo Hoàng John Paul II thừa nhận thuyết tiến hóa của Darwin, nghĩa là công nhận thủy tổ loài người không phải do ông A-dong và bà E-va sinh ra như thánh kinh dạy, và cũng một lần nữa xác định lời dạy của Đức Phật về thuyết tiến hóa. Phật nói “Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Câu nói này bao gồm đầy đủ nội dung và ý nghĩa thuyết tiến hóa của Darwin. Trước những khám phá mới của khoa học về đời sống sinh vật trên Hỏa Tinh, và sự công nhận sai lầm của Ki Tô Giáo về thuyết tiến hóa, người Phật tử rất hãnh diện mình là đệ tử Phật, nhưng cũng không khỏi bùi ngùi vì sự trì trệ của vài tổ chức Phật Giáo trong và ngoài nước hiện nay.

Hồng Ngọc

Nov. 15, 1996

***

PHẦN HAI
GIÁO DỤCĐÀO TẠO
THÍCH CHƠN THIỆN
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG HƯỚNG PHÁT TRIỂN 
CỦA PHẬT GIÁO

 

      1. PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO DƯỚI THỜI ĐỨC PHẬT

       Sau ngày giác ngộ, Đức Phật lên đưòng “Chuyển vận bánh xe Pháp” hay “xây dựng Vương quốc trí tuệ” (Dhammacakka – pavattana) vì hạnh phúc an lạc của số đông. Giáo hội Phật Giáo dưới sự lãnh đạo của Ngài gồm có bốn chúng: Tăng, Ni, Nam và Nữ cư sĩ. Tăng sĩ thì học Pháp, hành Pháphộ trì chư Tăng về đời sống vật chất (Thực Phẩm, áo mặc, chỗ ở và thuốc men). Có một Đoàn thể cư sĩ đặc biệt được thành lập để cùng tu họcgiới thiệu Pháp đến với đời. Đức Phật đã dạy riêng “Tứ Nhiếp Pháp” (Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi hành, Đồng sự) cho hai cư sĩ đắc quả A-na-hàm Hatthaka và Citta - để điều khiển các sinh hoạt của đoàn thể cư sĩ này. Như thế, Pháp đã được giới thiệu dưới ba hình thức:

    • Đức Thế Tôn và các đại đệ tử thuyết giảng;

    • Đoàn thể cư sĩ đặc biệt cũng đảm trách việc thuyết giảng Pháp;

    • Các Phật tử nói lại các Pháp đã nghe cho những người chung quanh.

       Mùa An cư mùa mưa là lúc chư Tăng phát triển việc học và hành pháp. Đây là hình thức “tu nghiệp” cho nghiệp vụ giáo dục. Đấy là con đường phát triển Phật Giáo, một đường hướng giáo dục con người, dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn.

    1. HƯỚNG PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO NGÀY NAY VÀ NGÀY MAI

       Xã hội ngày nay đã thay đổi nhiều. Đời sống của Tu sĩCư sĩ cũng theo đó đổi thay. Dù vậy, con đường phát triển Phật Giáo ngày nay và ngày mai vẫn cần đến mô hình cũ, thể hiện nguyên tắc “Tùy duyên nhi bất biến”, vẫn cần đến các điều kiện tất yếu như:

    • Có một đội ngũ tu sĩ thông rõ nội và ngoại điển, hành pháp sâu xa để chịu trách nhiệm các công việc nghiên cứu, dịch thuật, và hoằng dương.

    • Có một đội ngũ cư sĩ có kiến thức khoa học bác lãm, có kinh nghiệm tu tập để đi vào lãnh vực văn hóa, giáo dục dân tộc, từ mẫu giáo đến đại học và hậu đại học.

    • Các ngôi chùa là các tụ điểm văn hóa, giáo dục Phật Giáo

    • Do Pháp có giá trị vượt không và thời gian, nên con đường giáo dục của Đức Phật qua kinh tạng (nội dung, tinh thần, và kỷ luật) sẽ phù hợp với hướng phát triển Phật Giáo theo yêu cầu của thời đại.

    • Việc đưa Phật Giáo đến mọi tầng lớp quần chúng đô thị và ngoài đô thịPhật sự lâu dài.

    1. VAI TRÒ GIÁO DỤC VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO

       Từ các yêu cầu trên, hướng phát triển Phật Giáo thật sự cần dựa vào một đường hướng giáo dục được thực hiện quy mô, bao gồm các công tác Phật sự trọng điểm như:

  1. Kế hoạch đào tạo Tăng, Ni và Cư sĩ tài.

  2. Chương trìnhkế hoạch truyền Pháp đến với đời.

  3. Thể hiện thành truyền thống một nếp sống đạo cho hàng cư sĩ.

  4. Hình thành một hệ thống giáo dục Phật Giáo (cơ sở, thư viện, kinh sách giáo khoa, giảng dạy và ngân sách điều hành và phát triển).

  5. Cấp Giáo phẩm có đủ điều kiện lãnh đạo. Hàng cư sĩ đặc biệt đặc trách các công tác văn hóa, giáo dục, xã hội Phật Giáo theo hướng phát triển của xã hội.

  6. Kiết tập văn, sử và tư tưởng Phật học Việt Nam.

  7. Hình thành Đại tạng kinh tiếng Việt.

       Nếu các Phật sự trọng điểm trên được thực hiện thì điều kiện để tồn tại và phát triển của Phật Giáo sẽ liền có mặt. Xin trân trọng đóng góp một số thiển ý vào đề tài hội thảo. Xin cảm ơn Quí vị.

Thích Chơn Thiện

 

TRẦN TUẤN MẪN
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆC GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO TĂNG NI

 

      1. LỜI MỞ ĐẦU

       Bài này nêu một số nhận định về việc giáo dụcđào tạo Tăng Ni, được trình bày bởi một cư sĩ Phật tử chứ không phải một Tôn đức giáo phẩm. Do đó, các ý kiến trong nội dung có thể thiếu phần trang trọng và sâu sắc. Tuy vậy, với tấm lòng thành luôn luôn muốn đóng góp vào công cuộc phát triển đạo Phật, người trình bày có may mắn ở trong ngành sư phạm đã hơn 30 năm, trong đó có gần 10 năm tham gia vào việc soạn chương trình, vào ban giám hiệu và ban giảng huấn của Trường Cao Cấp Phật học Việt Nam; lại nữa, do cơ duyên gắn bó với nhà chùa từ nhỏ theo truyền thống gia đình, có nhiều người thân thuộc xuất gia, người trình bày bài này nghĩ rằng có thể đóng góp một số ý kiến về việc giáo dụcđào tạo Tăng Ni, và may ra được sự đóng góp, chỉ giáo của chư Tôn túc cũng như hàng Học giả.

       Người trình bày sẽ đề cập đến truyền thống giáo dụcđào tạo Tăng Ni từ thời Đức Phật và về sau, qua đó có minh họa tương đối kỹ hơn về việc giáo dụcđào tạo Tăng Ni tại Việt Nam.

      1. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ VIỆC GIÁO DỤCĐÀO TẠO TĂNG NI

       Kinh Itivuttaka có ghi lời Phật dạy rằng có ba hạng người xuất hiện ở đời đem lại hạnh phúc cho số đông, vì an lạc của Trời và Người, đó là Đức Như Lai, chư vị A-La-Hán và chư Tỳ-kheo hữu học. Ở đây, chúng ta chú ý rằng Đức Phật trỏ đến vị trí quan trọng của Tỳ-kheo hữu học, tức là những vị còn cần phải tu học, cần phải được huấn luyện và đào tạo. Lại nữa, cụm từ quan trọng là “đem lại hạnh phúc cho số đông”, tức là chức năng xã hội của người tu sĩ Phật Giáo. Qua đó chúng ta thấy Đức Phật đã khẳng định rằng chư Tăng Ni cần phải được học tập, rèn luyện để tự thăng tiến và giúp người khác thăng tiến đến mục đích giải thoát tối hậu.

       Trong thời Đức Phật, ngoài một số vị A-la-hán xin Đức Phật vào rừng sâu, sống biệt lập để tu tập, chư vị đắc Thánh quả cũng như chưa đắc Thánh quả hầu hết đều trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các Trưởng lão) thọ nhận sự giáo dục của Đức Phật. Khi giáo đoàn chỉ mới gồm 60 vị Tỳ-kheo đắc Thánh quả, Đức Phật đã nhấn mạnh đến chức năng xã hộichức năng giáo dục, đào tạo của chư vị mà dạy rằng chư vị hãy đi khắp nơi, vì hạnh phúc của số đông… Nhưng ý nghĩa giáo dụcđào tạo nổi bật từ khi giáo đoàn Tỳ-kheo gồm 1250 vị trú tại Tịnh xá Veluvana do vua Bimbisara (Tần-bà-sa-la) dâng cúng và sau khi lễ an cư kiết hạ được thiết lập. Cũng từ đó, khi nhiều trú xứ của chư Tỳ-kheo được thiết lập ở các vùng xa, vùng nông thôn (àvasa) hoặc thành thị (àrama), hoặc về sau các trú xứ được gọi bằng một số tên khác thường là do kiểu dáng kiến trúc như Lena, Vihàra, Addhaya, Pàsàda, Hammiya vv… thì bấy giờ người ta có thể xem là những cơ sở giáo dục nội trú theo nghĩa ngày nay.

       Cơ sở lớn và nổi tiếng nhất được xem như một đại học viện của Phật giáo là Nalanda ở Bắc Ấn Độ, vào thế kỷ thức 2 do ngài Long Thọ (Nagarjuna) làm viện trưởng. Về sau, Phật giáo bị suy vi tại Ấn Độ, thì lại phát triển sang Tây Tạng, Miến Điện, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam… và các cơ sở và hệ thống giáo dục Tăng Ni vẫn theo hình thức cũ, nhưng ở mức độ lớn nhỏ tùy theo từng địa phương, từng thời đại.

       Tại Việt Nam, Luy Lâu được xem là một Trung tâm nghiên cứutruyền bá đạo Phật đầu tiên lại khá đồ sộ nhưng đứng về mặt giáo dụcđào tạo Tăng Ni thì các ngôi chùa lại đóng vai trò cơ bản và quan trọng. Các ngôi chùa lần lượt được xây dựng, khởi từ vị khai sơn, vị trụ trì và một số ít Tăng chúng, sự giáo dục, truyền thọ hình thành trong từng chùa, biệt lập, đơn lẽ. Tuy thế, nhà chùa lại có thể được xem là những trường học đầu tiên của đất nước. Kể từ trước và suốt thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân lầm than cơ cực, bị áp bức đủ mọi mặt, chỉ riêng giới tu sĩ Phật giáo tương đối đỡ bị khổ ải vì sưu dịch do bấy giờ Phật giáo mới du nhập và phát triển ở Trung Quốc và giới tu sĩ ở đấy được kính trọng, có ảnh hưởng đến giới cai trị Bắc phương tại Giao Chỉ. Các vị sư Giao Chỉ được xem là những bậc trí thức vì ngoài kinh điển, chư vị còn học đủ môn ngoại điển của người Trung Hoa, từ đó một số chùa còn thu nhận con em của dân trong xóm làng đến học.

       Đến khi đạo Phật hưng thịnh ở Việt Nam, các chùa chiền, các Thiền phái và các Tông phái phát triển, việc giáo dục, đào tạo Tăng Ni cũng được phát triển nhưng vẫn mang tính cục bộ, chưa có hệ thống rõ rệt. Công cuộc giáo dụcđào tạo Tăng Ni có khởi sắc vào thời kỳ chấn hưng. Năm 1920 đến 1934, tại Nam Kỳ, Hòa Thượng Từ Phong ở đạo tràng Giác Hải Chợ Lớn dạy các Tăng sĩ. Ngài Khánh Hòa mở lớp Phật học tại Bến Tre. Ngài Chí Thành cũng mở trường Phật học tại Bến Tre, đặc biệt có một trường Ni tại Bạc Liêu. Ngài Huệ Quang, ngài Khánh Anh cũng mở trường tại Trà Vinh, Long An, Phật học đường Lưỡng Xuyên mở lớp Tăng, lớp Ni riêng biệt. Tại Bắc Kỳ bấy giờ có 2 lớp tiểu học cho Tăng và cho Ni ở Phúc Yên, Hải Hưng. Chùa Quán Sứ mở trường Trung Học Phật Học, chùa Sở ở Hà Đông mở trường Đại học. Giáo dục Phật giáo tại Bắc Kỳ bấy giờ đã có cấp Tiểu học, Trung học và Đại học ngoài các khóa học trong các kỳ An cư. Tại Trung Kỳ, ta thấy có trường Trung đẳng Phật học tại Bình Định (1937), trường Tiểu học Phật học tại Phan Rang, Phật học đường gồm 2 cấp Tiểu và Trung học tại Đà Nẵng, tại Huế, chùa Trúc Lâm mở trường An Nam Phật học sau đó là chùa Báo Quốc với chương trình học có hệ thống hơn gồm 6 năm Tiểu học, 3 năm Trung học. Cấp Đại học cũng được mở và thu nhận được 10 Tăng sĩ. Ngoài ra, các chùa Vạn Phước, Tường Vân, Từ Đàm đều có mở trường Phật học.

       Từ thời chấn hưng Phật Giáo, sự giáo dục vào đào tạo Tăng Ni đã đi dần vào hệ thống. Chương trình 3 cấp Tiểu, Trung và Đại ở các địa phương khác nhau cũng có nhiều nội dung giống nhau. Tuy vậy, số Tăng sinh mỗi trường lớp cũng chỉ từ vài ba chục đến một trăm; lại nữa, hầu hết các trường lớp không mở được lâu dài, phần lớn là do thời cuộc, do tài chánh, nhân sự. Từ những năm 50, 60, các Phật học viện, tu viện được tổ chức tương đối quy củ và có chất lượng, tuy vậy số Tăng Ni được đào tạo cũng rất hạn chế. Ta có thể kể: Phật học viện Việt Nam, tức Phật học viện Hải Đức Nha Trang (1956), Phật học đường Phước Hòa ở Trà Vinh (1956), Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định (1956), Ni học viện Tăng già ở Sài Gòn (1957), Ni học viện Từ Nghiêm ở Sài Gòn (1960). Sau đó, Phật học viện Pháp Hội, về sau chuyển sang chùa Xá Lợi, có một chương trình Đại học Phật học khá hoàn bị và khi Đại học Vạn Hạnh được thành lập năm 1968 tại Saigon thì giáo dục Phật giáo đã có cấp học cao nhất với nhiều phân khoa của Đại học đúng nghĩa.

       Công cuộc giáo dục Tăng Ni đến đây đã có bước tiến dài, nội dung Giới Định Tuệ được giảng dạy cụ thể, đầy đủ với tổ chức chặt chẽ, phương pháp sư phạm đúng đắn và lực lượng giáo sư, giảng viên khá mạnh. Cái mới nữa là Tăng Ni sinh còn được học nhiều môn ngoại điển, phù hợp với sự tiến triển của thời đại. Rõ ràng Đại học Vạn Hạnh ngoài số đông sinh viên nam nữ Phật tử gồm nhiều ngàn người, số Tăng Ni sinh ở phân khoa Phật học khá đông và ở các khoa khác cũng không phải là ít. Tuy nhiên, một hệ thống giáo dục Phật giáo đúng nghĩa vẫn chưa được hình thành về phần giáo dụcđào tạo cơ bản, tức là chưa thường xuyên và chưa có hệ thống tổ chức đối với các trường Sơ cấp, Trung cấp, Cao đẳng….

      1. VIỆC GIÁO DỤCĐÀO TẠO TĂNG NI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

       Từ sau ngày đất nước thống nhất, sau một thời gian khá dài vận động và chuẩn bị, đến năm 1981, Giáo hội PGVN được thành lập, thống nhất 9 tổ chức và hệ phái Phật giáo. Lại phải mất vài năm để củng cố, ổn định tổ chức và sinh hoạt, Giáo hội đã hoạt động khá mạnh mẽ và từ đó đến nay, đã đạt được nhiều thành quả khả quan. Nổi bật nhất là việc giáo dụcđào tạo Tăng Ni. Trong vòng 10 năm trở lại đây, hiện đã có 23 trường cơ bản Phật học trên toàn quốc, 2 trường Cao cấp Phật học và hai lớp Cao đẳng Phật học. Đó là chưa kể các lớp Phật học riêng lẻ tại các chùa, các khóa đào tạo giảng sư của ban Hoằng Pháp và một số khoá chuyên ngành khác như y tế, từ thiện xã hội v.v… Như vậy công cuộc giáo dụcđào tạo Tăng Ni được tiến hành khá đồng bộ trên khắp cả nước. Số Tăng Ni sinh tại mỗi trường từ khoảng 60 đến 100, thậm chí có 2, 3, hay 5 trăm Tăng Ni sinh ở nhiều trường cơ bản. Trường Cao cấp Phật học đã đào tạo được 3 khóa ở TP. Hồ Chí Minh và 2 khoá ở Hà Nội. Số Tăng Ni sinh tốt nghiệp Cao cấp Phật học (tương đương với Cử nhân) tính đến hết khóa hiện nay khoảng 500 người. Một số đang theo học các khóa Cao học, Tiến sĩ Phật học tại Đài Loan, Nhật Bản, Sri Lanka và nhất là tại Ấn Độ (riêng tại Ấn Độ, số Tăng Ni nghiên cứu sinh hiện khoảng 30 người). Chương trình học của các lớp cùng cấp, cách tổ chức điều hành, sinh hoạt của các trường tương đối giống nhau. Một ưu điểm nữa là các trường đều có dạy nhiều môn ngoại điển, phù hợp với xã hội, thời đại như văn, triết, sử, sinh ngữ, sinh thái, quản trị, văn minh, xã hội học. Đó là chưa kể các buổi ngoại khóa về một vấn đề thời sự, khoa học, văn học…

       Ngành giáo dục Tăng Ni chỉ trong vòng 10 năm, đã đạt được những thành tựu tốt đẹp, mở ra những triển vọng mới đầy khích lệ. Tuy vậy, trong giai đoạn đầu của phát triển, những khó khăn, tồn đọng không phải là ít. Khó khăn tồn đọng lớn nhất của ngành giáo dục Tăng Ni hiện nay cũng như các ngành khác là khó khăn về tổ chức, nhân sự và tài chánh. Ba mặt này có liên hệ mật thiết với nhau vì một mặt được phát triển, cải tạo thì các mặt kia cũng được phát triển, cải tạo.

       Tăng Ni về sau phải trải qua những thăng trầm, thậm chí trong một thời gian dài, có khi việc đào tạo Tăng Ni chỉ có tính cục bộ, một vị Thầy dạy cho một hoặc hai đệ tử, nội dung giáo dục lẻ tẻ, rời rạc có khi như tách biệt với cuộc sống bên ngoài, và từ đó, có những lúc Phật giáo suy vi trầm trọng.

       Dù những khó khăn, hạn chế nói trên, ngành giáo dục Tăng Ni tại Việt Nam vẫn phát triển mạnh. Sở dĩ như vậy là nhờ quyết tâm, nỗ lực toàn thể Tăng NiPhật tử, do sự ủng hộ của nhiều cơ quan, tổ chức thân hữu trong và ngoài nước và do một số Tôn túc, chuyên gia có tài năng, đức độkinh nghiệm trong ngành giáo dục. Nhưng thành quả của công việc giáo dụcđào tạo Tăng Ni sẽ lớn hơn nhiều nếu những trở ngại trên được giải quyết.

       Sau đây là sơ phác một số điểm trong phương hướng phát triển ngành giáo dụcđào tạo Tăng Ni tại Việt Nam.

  1. Cần vận động tài chánh đủ cho các sinh hoạt giáo dụcđào tạo: Trung ương giáo hội cần kêu gọi sự hổ trợ của các ban, ngành, viện cho giáo dục. Các trường tăng cường sự vận động tài chánh. Giáo hội cần có cơ sở kinh tài để chi phí cho giáo dục. Các Tăng Ni sinh trước khi vào trường cần vận động thầy Tổ, người thân, Phật tử đóng góp tài vật cho nhà trường đều đặn để chia xẻ các chi phí với nhà trường.

  1. Tăng cường số lượng và chất lượng của đội ngũ giảng dạy, hành chánh, tổ chức; tăng cường chương trình tu học, tu nghiệp và tham quan đến các cơ sở giáo dục Phật giáo ở nhiều nước bạn trên thế giới: mở các cuộc hội thảo, hội nghị giáo dục tại địa phương, trong nước và có tính quốc tế; mở rộng kế hoạch hợp tác, trao đổi văn hóa giáo dục các nước bạn.

  1. Soạn thảo, cải biến và thống nhất chương trình học cho các cấp, từ Sơ cấp đến Đại học (hiện nay chưa có chương trình Sơ cấp hay Tiểu học Phật giáo, các chùa đều phải tự lo đào tạo các chúng điệu, mức độ và nội dung không đồng bộ, còn tùy tiện theo hoàn cảnh của từng chùa).

  1. Cập nhật hóa chương trình học cho phù hợp với sự phát triển của đất nước và thời đại; cần chuyên môn hóa thành từng ban hay khoa để có sự chuyên sâu trong đào tạo; ví dụ, có khoa dạy về nghi lễ, về công tác xã hội, về sư phạm, về hành chánh v.v…. Chương trình ngoại điển cần thay đổi cụ thể cho phù hợp với thời đại để Tăng Ni sinh khi ra trường có thể dễ dàng truyền bá Chánh pháp, tham gia công tác xã hội, xây dựng đất nước và góp phần xây dựng hòa bình, hạnh phúc cho thế giới.

  1. Tiến hành việc đổi tên các trường Cao Cấp Phật Học thành trường Đại học Phật học với các tổ chức, sinh hoạt đúng nghĩa của một Đại học (hiện nay, năm 1996, Thừa Thiên Huế đang chuẩn bị xin mở một Đại học Phật học, như vậy có thể trong thời gian tới, cùng với hai Trường Cao cấp hiện nay, sẽ có 3 trường Đại học Phật học trên cả nước).

  1. Và trên hết, cần giáo dục đạo đức cho Tăng Ni sinh. Những sa đọa đạo đức xã hội, nếp sống văn minh vật chất hiện nay có ảnh hưởng đến giới tu sĩ. Trong Giới Định Tuệ, Giới được kể làm đầu và từ thời đức Phật, nội dung đào tạo Tăng Ni, trước hết là giới luật, là đạo đức của người xuất gia. Kinh nghiệm cho thấy giáo dục đạo đức khó hơn giáo dục kiến thức kỹ năng và phần lớn các tu sĩ trở lại với đời sống tại gia đều là những người được đào luyện khá tốt về kiến thức và kỹ năng.

      1. KẾT LUẬN

       Xây dựng một nền giáo dụcđào tạo Tăng Ni vững mạnh là bổn phận của tất cả những ai lưu tâm đến sự phát triển của Phật Giáo. Người tu sĩ Phật giáo hơn ai hết là những Sứ giả của đức Như Lai, đem Chánh pháp đến cho đời, thực hiện thông điệp giải thoát của Đức Phật. Người tu sĩ Phật giáo cần phải được giáo dụcđào tạo để xứng đáng với chức năng cao cả đó.

       Ngành giáo dục Tăng Ni nước ta đang phát triển nhưng những khó khăn vẫn còn rất nhiều. Vì giáo dụcgiáo dục con ngườicon ngườicon người đang sống với cộng đồng xã hội luôn luôn thay đổi, nên việc cải tiến nội dung giảng dạy, tổ chức, phương phápbiện pháp giáo dục phải được thực hiện không ngừng.

Trần Tuấn Mẫn

 

Thích Nữ Karuma Dharma
SỰ HUẤN LUYỆN TU SĨ TÂY PHƯƠNG

 

       Sư Bà Karuna Dharma (Thích Nữ Ân Từ), Tiến Sĩ Phật Học, cựu giáo sư trung học, là một trong những đệ tử người Hoa Kỳ của cố H.T. Thích Thiên Ân. Qua bài viết “Sự Huấn Luyện Tu Sĩ Tây Phương” (The Training of the Western Monk), chúng ta sẽ thấy những giai đoạn có quy củchương trình mà một sư bà người Hoa Kỳ qui y cho tín đồ, thu nhận đệ tử, cho thọ giới và cuộc sống hằng ngày của tu sĩ Phật Giáo. Một trong những điểm rất mới của Sư Bà là một nữ tu thọ kýtruyền giới cho nam tu sĩtùy theo căn cơ của đệ tử để cho thọ giới Tỳ Kheo hay giới Pháp Sư (Dharma Teacher). Bài viết bằng tiếng Anh, do đạo hữu Đoàn Văn Bình chuyển ngữ.

       Quốc Tế Thiền Viện Phật Giáo tọa lạc trung tâm thành phố Los Angeles, như ngôi chùa ở một thành phố tân tiến, phương pháp đào tạo cũng phải uyển chuyển để thích ứng với hoàn cảnh. Tôi sẽ đi vào vấn đề này với ý thức rằng nó sẽ có khác với những trung tâm khác.

       Trung tâm này đến nay đã được 26 năm do cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân sáng lập và là Viện Trưởng cho đến năm 1980, ngài viên tịch. Là đệ tử thâm niên của ngài, tôi trở thành người kế vị từ năm 1981 cho đến nay. Phương pháp huấn luyện và tu tập ngày nay so với lúc Hòa Thượng còn tại thế có đôi chút thay đổi. Tôi là giám viện, sau khi bị tai biến mạch máu cách đây mười ba năm, đã phải giao phó hầu hết công việc tại trung tâm cho vị thủ chúng là Sư Cô Thích Nữ Ân Tịnh (Sarika Dharma), cô cũng vừa mới qua đời sau một cơn bịnh. Bây giờ thì công việc huấn luyện tại Thiền Viện lại phải giao cho môn đồ trẻ của tôi là Đại Đức Kusala Ratana Karuna, vị này sẽ thụ đại giới trong tháng tới, thay vì phải đợi đến đại giới đàn tháng 12 năm 1997. Vì trung tâm cần phải có một vị Tỷ Kheo điều hành: tôi và Hòa Thượng Ratanasara đã quyết định như vậy. Thêm nữa, các vị sư đã được sự huấn luyện của vị Phó Viện Trưởng, Tỳ Kheo Sri Lanka, T.Tọa Havanpola Shanti, Viện Trưởng Buddhist College, sư trưởng Sinhalese và Hòa Thượng Havanpola Ratanasara. Tất cả đều là ban giáo thọ tại Thiền Viện này. Do đó học chúng ở đây gồm cả tiểu thừađại thừa.

       Vì là một Thiền Viện ở một thành phố lớn, phải tự lực cánh sanh, nên không phải tất cả chúng tăng đều ở tại Thiền Viện. Một số ở tại gia và đi làm. Đó là sự linh động mà cố Hòa Thượng Thiên Ân đã tùy duyên hành xử trong việc thu nhập đệ tử. Tôi là người đến thụ huấn đầu tiên, khi tôi đang là giáo sư trung học. Vị thủ chúng, Sư Cô Sarika Dharma lúc đó cũng ở ngoài, đi dạy để nuôi hai con. Bây giờ, hai học tăng của chúng tôi cũng ở ngoài, đến Thiền Viện tu học một tuần vài lần. Số còn lại đều thường trú tại trung tâm, hiến cúng cả cuộc đời cho đạo pháp. Tất nhiên các vị sơ tâm ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều tu tại gia.

       Những ai muốn trở thành tăng sĩ đều phải trải qua một chương trình tu học. Bước đầutín đồ, rồi ưu-bà-tắc (nam Phật tử), ưu-bà-di (nữ Phật tử), thọ tam qui, ngũ giới. Họ phải trải qua tối thiểu là sáu tháng nghiên cứuthực hành Phật pháp. Họ phải tham dự ít nhất một khóa Thiền tập cuối tuần để chúng tôi giám sát giới luật. Mỗi năm có ba khóa Thiền chính: Lễ Phật Đản (Cuối tháng 5), lễ Vu Lan (cuối tháng 8) và lễ Thành Đạo (tuần thứ hai tháng 12).

       Sau một năm thử thách và đã tham dự ít nhất là một khóa hè tu tập, họ có thể xin xuất gia để theo học một năm Phật học về lịch sử và sự truyền bá Phật Giáo, tại Buddhist College, khóa này do tôi và Hòa Thượng Ratanasara đảm trách, bắt đầu với những dữ kiện lịch sử Ấn Độ từ trước khi đức Phật xuất thế, cho đến sự bành trướng của đạo Phật suốt từ đó cho đến ngày nay. Qua khóa học này, học viên có thể hiểu được cách thức mà các tôn phái Phật Giáo được thành lậptồn tại, cũng như giáo ý và lễ nghi Phật Giáo ngày nay ra sao… Lúc bấy giờ, năm vị giáo thọ của Thiền VIện sẽ truyền tiếp thêm ba giới cho học tăng.

       Bước kế tiếp là lễ thọ đại giới. Tôi thường từ chối sự thỉnh cầu đầu tiên của giới tử, vì đó là một trách nhiệm nặng nề không biết tôi có thể gánh vác nổi không, sợ rằng tôi không có đủ thời giờ để theo sát đệ tử một khi họ sa ngã. Tôi phải cầm chắc rằng thí sinh đó đã có quyết tâm kiên cường, thì mới dám nhận. Có một số người xin thọ đại giới không chân chính, hoặc vì sự cung kính, hoặc tưởng rằng vị sư là người chỉ ngồi đó thiền định suốt ngày, hoặc bất mãn cuộc đời, thất tình yếm thế, hoặc cũng có người làm ăn thất bại. Cho nên tôi phải giám định tâm lý, khả năng của họ một cách cẩn thận. Một khi tôi thấy người đó tâm lý ổn định, có khả năng, không bị nợ chồng chất, với quyết tâm bất thối, tôi mới chấp thuận. Thiếu một trong các điều kiện đó, tôi sẽ từ chối ngay.

       Ai đã trải qua được hai năm huấn luyện, sẽ được thọ giới kế tiếp cao hơn. Đến đây, thí sinh (giới tử) có hai sự lựa chọn hoặc, thụ 250 giới Tỳ Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni hoặc thụ 25 giới làm Pháp Sư. Pháp Sư là một nhà truyền giáo, có thể có gia đình bình thường, có thể để râu tóc chút ít, trang sức nếu muốn. Trong trường hợp ấy người đó nhận một áo vàng có giải đeo cổ, và một saffron kesa (tọa cụ) trong khi các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni thì nhận y vàng có sọc phước điềntọa cụ.

       Sau khi thọ đại giới, Tỳ Kheo/Tỳ Kheo Ni rồi, thì phải hứa thân cận bên bổn sư ít nhất là năm năm, phải tham dự các khóa tỉnh tu cũng như các lớp đào tạo. Họ cũng được giao phó một số nhiệm vụ mới tại Thiền Viện, phải chấp tác chủ nhật, coi sóc thư viện, nhang, đăng, v.v… Cũng có thể họ được biệt phái đi ủy lạo các lao xá địa phương, viết thư thăm hỏi tù nhân, đi thăm bệnh viện, hay bất cứ việc gì thích hợp. Tất cả mọi ngườinhiệm vụ giữ gìn sạch sẽ giảng đường, chánh điện, vườn tược. Thiền Viện có sân trước, vườn sau, có cây ăn trái, có hoa cần chăm sóc thường xuyên.

       Tăng chúng ai cũng sử dụng được máy điện toán (computer) và hệ thống internet để tra cứu, và liên lạc với thế giới bên ngoài. Công việc tương lai của Phật Giáo cần thiết phải sử dụng kỹ thuật tân tiến của thời đại.

       Trong mấy tháng hè tôi đảm trách các lớp cao cấp, mỗi tuần một buổi và tối thứ ba. Ngoài ra, tôi vẫn chủ trì các lớp nghi thức; tôi dạy họ tụng kinh, đánh chuông, mõ, chiêng trống, cũng như vài bài kinh tiếng Việt, để họ có thể cử hành các khóa lễ. Chúng tôi tụng kinh tiếng Việt ít thôi, vì từ khi Hòa Thượng Thích Thiên Ân viên tịch, chúng tôi không còn làm lễ cho cộng đồng Việt Nam nữa. Trong vài khóa lễ, chúng tôi tụng bằng tiếng Việt vài bài kệ ngắn như Kệ Dâng Hương, Tán Phật. Phần còn lại chúng tôi tụng kinh bằng tiếng Anh. Nghi lễ có đôi chút thay đổi để phù hợpđồng thể với Hội Tăng Già. Tỷ dụ như bài tâm kinh, Heart Sutra, thì chúng tôi tụng là “Because The Bodhisattva Follows Prajnaparamita… There is no fear and far from all fantasy…” Ngoài các nghi thức tụng niệm, các học viên còn phải đọc và thảo luận một số kinh sách và chủ đề quan yếu Phật pháp. Mỗi học viên tự chọn một kinh/sách nào đó nghiên cứu thật kỹ rồi thuyết trình cho cả lớp nghe và cho biết họ tiếp nhận được gì.

       Hằng ngày Thiền Viện bắt đầu bằng khóa kinh sáng, tọa thiền từ 7 giờ đến 8 giờ 30. Tiếp đó, mỗi vị tự sửa soạn bữa điểm tâm của mình, rồi bắt đầu chấp tác lúc 9h sáng. Đến chiều, dự lớp học từ 6 giờ 30 cho đến 9 giờ tối. Và kết thúc mỗi ngày bằng một giờ tọa thiền từ 9 giờ 30 đến 10 giờ 30 tối. Chủ nhật, chúng tôi có khóa tụng kinh, tọa thiền từ 9 giờ đến 10 giờ 30, tiếp theo là khóa lễ chủ nhật vào lúc 11 giờ.

       Đến nay, sau 15 năm từ khi cố Hòa Thượng Viện Trưởng viên tịch, chúng tôi mới tổ chức được một Đại giới đàn đầu tiên, cách đây hai năm. Đó là một vinh hạnh lịch sử đối với Thiền Viện này, một Đại giới đàn do một phụ nữ tổ chức và truyền giớiHòa Thượng Ratanasara đóng vai giáo thọ. Hòa Thượng Ahangama Dhammarama, Sri Lanka, và Ni Sư Thích Nữ Diệu Từ, Sacramento đồng làm phó giáo thọ. Chức giám luật do Hoà Thượng Yin Hal, Trung Hoa và Ni Sư Inquon Lee Sunim, Đại Hàn, đồng thủ diễn. Tại Đại giới đàn này, có tám vị thụ Tỳ Kheo Ni giới trong giáo phái Tibet (Tây Tạng), bốn phụ nữ Việt Nam mà một vị là Ni Cô Tiểu Thừa (Theravada). Có hai vị thụ giới Tỳ Kheo, một Hoa Kỳ, một Việt Nam; hai vị được thụ phong Pháp Sư, hai vị Sramaneras (Sa Di), hai vị Sramanerikas (Sa Di Ni), tám vị Attha Sillas, tất cả là người Mỹ. Hòa Thượng Ratanasara và tôi chủ trì đại lễ, nói lên một biểu tượng cho một giới đàn liên tôn đầu tiên.

       Mỗi giới tử nhận pháp hiệu do bổn sư họ đặt cho và được viết lên chiếc áo cổ truyền của tôn phái họ. Do đó, họ đều được truyền thừa, bất kể là truyền thừa nào. Làm như thế, chúng tôi thừa tiếp các tôn phái Phật Giáo. Có Theravada (Tiểu Thừa), có Mahayana (Đại Thừa), có Vajrayana (Kim Cang thừa), tất cả đó đều là bản thể của Phật pháp, tượng trưng cho sự bình đẳng của Đại lễ.

       Tôi tin rằng Đại lễ đó là tiêu biểu đồng thể mà cả nước Mỹ sẽ trông vào. Thứ Nhất, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong Phật Giáo, không phải chỉ là Nam Pháp Sư, hay chỉ coi bếp núc. Nếu Phật Giáothành công ở đất nước này thì phải bỏ quan niệm về giới tính, và phải có sự bình đẳng giới tính. Thứ hai, đây là lần đầu tiên mà các Sư Hoa Kỳ truyền giới cho đệ tửtín đồ Hoa Kỳ, đó mới thực sự là hạt giống Phật pháp được gieo trồng vào trong tim của Mỹ quốc. Hòa Thượng Thích Thiên Ân đã dạy chúng tôi rằng Phật pháp chỉ thực sự được hoằng dương một khi mà đệ tử của ngài truyền giới cho đệ tử của họ. Các giới tửpháp hiệu theo bổn sư của họ: tận cùng bằng Karuna, Sarida hoặc Ratanasara. Thật là một Đại lễ đặc biệt, được đệm nhạc bởi Chrys, cô là đứa bé đầu tiên mà Hòa Thượng Thích Thiên Ân đã quy y cho.

       Trong khi chúng tôi diễn hành từ Zendo (thính đường), nơi mà các giới tử được bổn sư làm lễ thọ ký, đến Vinaya Hall (đại điện) trong một điệu nhạc trầm hùng, 100 bồ câu trắng được phóng sinh, bay lên trời cao. Khung cảnh đó thật đã làm cho người xem náo nức. Buổi lễ cũng được xen lẫn bởi các vũ điệu Trung Hoa và Sri Lanka cung nghinh Phật bảotăng bảo. Đại lễ kéo dài ba giờ đồng hồ theo nghi thức truyền thống trong sự tán thưởng của dân chúng địa phương.

       Một sự thay đổi khác là đường hướng đào tạo của trung tâm. Tôi không bao giờ quyết định một điều gì mà không tham vấn với các chức sắc các tự viện khác. Mọi quyết định liên hệ đến Tăng già đều được quyết định bởi tất cả các đoàn thể chúng tăng, tự viện, kể cả công việc hiệu đính các kinh sách tụng niệm, theo thể thức đầu phiếu.

       Thiền Viện rất chúng trọng đến cách thức huấn luyện tín đồ, và cộng đồng nếu nói rộng ra. Tại đây, những người thường trú lâu năm cũng tổ chức lễ Thanksgiving (lễ Tạ Ơn), chúng tôi vừa ăn những món truyền thống Thanksgiving, vừa ăn các món chay. Đã hai năm nay đa số họ về với gia đình trong lễ Thanksgiving, nên chúng tôi đã không tổ chức lễ tại đây. Viện cũng tổ chức lễ Giánh Sinh (với cây Giáng Sinh và các quà tặng) khi có nhiều em nhỏ cư trú, và chúng tôi giải thích cho các em tham dự rằng cây Giáng Sinh không phải là lễ của người theo đạo; nó tượng trưng cho một tinh thần yêu thương, quần tụ…

       Chúng tôi trở nên năng động trong một cộng đồng rộng lớn, tham dự lễ “Lotus Festival”, lễ “L.A. Asian”, lễ “Pacific Islanders Festival”, lễ “Mở Mắt Rồng”, lễ “Đua Thuyền Rồng” v.v… Chúng tôi dự lễ theo y phục của mình, và thường được giải “Y Phục Đẹp Nhất”. Năm đầu chúng tôi mặc y phục như ngài Tam Tạng thỉnh kinh, theo sau với các người ăn mặc như khỉ, lợn v.v…. Năm ngoái, chúng tôi hóa trang như những tên hải tặc trên con tàu với một nhà sư Trung Hoa đứng ở đầu tàu. Trên những hóa trang bằng T-shirt màu vàng có câu “Ai đã thực sự tìm ra Mỹ Châu?” Năm 458 nhà sư Trung Hoa pháp hiệu là Fa Sang đã du hành từ Alaska đến Mexico với năm vị Tỳ Kheo. Năm 1100 Erik In Red du hành đến bờ biển miền đông (East Coast). Ba năm qua, chúng tôi tổ chức lễ Halloween cho những người vô gia cư và trẻ em bất hạnh. Chúng tôi cũng đóng vai trò chính trong ngày “The Day of Hands Across L.A.” (nối lại vòng tay) biểu trưng cho một sự tự hào chống lại sự nổi dậy rối loạn của vùng Trung Nam… Chúng tôi còn đưa bàn tay tới các ngục thất trong vùng bằng cách viết thư thăm hỏi, biếu họ sách vở, và những đồ dùng khác, qui y cho họ bằng điện thoại một khi họ đã nắm được một số giáo lý căn bản. Đại Đức Kusala đến giảng cho phạm nhân ở khám Lancaster.

       Chúng tôi cũng rất hăng hái trong những công tác liên tôn và liên hữu Phật Giáo. Theo tôi, ở Hoa Kỳ, tất cả giáo phái phải đứng lên cùng một giới tuyến, cùng hiểu biết tương trợ lẫn nhau kể cả những bằng hữu không phải là Phật Giáo. Chúng tôi tích cực tham dự các buổi hội thảo “Phật giáo – Cơ Đốc Giáo” mỗi tháng một lần từ năm năm qua.

       Chúng tôi khuyến khích tăng tín đồ hãy hoà nhập và tham dự các hoạt động xã hội, song song với nỗ lực đem giáo pháp của Phật cúng hiến cho thời đại, và cho sự khủng hoảng trầm trọng về tín ngưỡng của người Tây Phương hiện nay.

Karuna Dharma

Oct. 1996

 

HUYỀN CƯƠNG LÊ TRỌNG CƯỜNG
DỊCH, TỤNG, GIẢNG KINH VÀ TIẾN HÀNH NGHI LỄ PHẬT GIÁO
BẰNG TIẾNG VIỆT

 

        Một Cuộc Cách Mạng Lớn Lao và Bức Thiết

       Sau ngày đất nước thống nhất, một người bạn cũ của tôi, nhà trí thức ở Sài Gòn, có hỏi tôi: “Hồi cuối thập kỷ 50 anh học Đại Học Bách Khoa Hà Nội thì học bằng thứ tiếng (ngôn ngữ) gì? Hẳn là không dùng tiếng Pháp, tiếng Anh. Vậy dùng tiếng Nga hay tiếng Tàu?”. Tôi trả lời: “Tiếng Việt”’. Anh bạn tròn mắt ngạc nhiên: “Không rỡn đấy chứ? Đại học Luật Khoa, Văn Khoa có từ thời Pháp, thì học bằng tiếng Việt còn có thể tin, chứ khoa học - kỹ nghệ thì tiếng Việt đâu có đủ từ để diễn đạt!”

       Ngang đây, có thể thấy rằng tầm nhìn của người lãnh đạo quả là quan trọng đối với nhịp độ phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tôi còn nhớ những ngày đầu Việt Nam hóa giáo dục đại học, không ít người thiếu tin tưởng vào sự thành công của sự nghiệp lớn lao, đầy khó khăn này. Nhà nước đã có chủ trương đứng đắn và truyền trao được quyết tâm của mình tới đội ngũ trí thức Việt Nam hồi đó, đã khơi dậy và nuôi dưỡng phong trào viết sách, giảng dạy và học tập bằng tiếng Việt trong các trường đại học, cả khoa học xã hội lẫn khoa học tự nhiên. Bước đầu bao giờ cũng đầy chông gai, gian khổ. Nếu ngại vất vả, thiếu tự tin, không mạnh dạn bắt tay tháo gở khó khăn thì chẳng thể có được thành tựu như ngày nay. Như đã thấy, theo thời gian, ngôn ngữ Việt Nam từng bước vượt qua bao thử thách gian nan, để hôm nay đây nhìn lại không khỏi tự hào. “Ngày nay đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập… Người Việt Nam đã có một thứ chữ (ngôn ngữ) riêng, đủ sức diễn đạt tư tưởng của dân tộc ta. Chữ quốc ngữ có khả năng phiên dịch các loại sách văn hóa, khoa học, triết học, tôn giáo… của nước ngoài. Đây là một vinh hạnh lớn lao cho xứ sở mình, mà tổ tiên ta chưa từng có” (HT Thích Thanh Từ - Diễn văn khai mạc lễ khánh thành Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt – 1994).

       Gợi nhớ đôi nét trong quá trình phát triển ngôn ngữ Việt Nam mấy chục năm qua theo đà vươn lên của đất nước, với lòng quyết tâm của cả dân tộc tự khẳng định mình trên trường quốc tế, là để tạo màu nền cho câu chuyển bàn về vấn đề tiếng Việt trong việc cập nhật hóa cách thái hoằng truyền đạo Phật ở nước ta hôm nay.

       Cũng như bất kỳ công cuộc truyền bá tư tưởng nào, sự nghiệp xiển dương Phật pháp ở nước ta xưa và nay đều vấp phải một trở ngại lớn lao và rất cơ bản. Đó chính là hàng rào ngôn ngữ. Điều này, có thể nói, là kết quả của một quá trình lịch sử nhiều thế kỷ dân tộc ta đã trải qua. Nhưng tư tưởng ngần ngại, khi phải thay đổi một thói quen huân tập bao đời “sính dùng kinh sách chữ Hán”, cũng là một nguyên nhân nổi rõ.

       Do hoàn cảnh lịch sử, hầu hết kinh sách Phật giáo truyền tới nước ta từ trước đến nay đều thuộc dòng Bắc truyền Hán tạng do người Trung Hoa phiên dịch từ chữ Phạn (Sanskrit) sang chữ Hán. Người Việt xưa chịu ảnh hưởng ngàn năm Bắc thuộc cũng quen dùng chữ Hán diễn đạt tư tưởng mình, nên các tăng ni và nho sĩ đọc kinh sách chữ Hán không gặp trở ngại đáng kể. Tuy nhiên trên giác độ hoằng pháp cũng dễ dàng thấy rằng những tư tưởng cao siêu trong kinh sách Phật giáo khó có thể thấm sâu trong quảng đại quần chúng phật tử bình dân do hàng rào ngôn ngữ này. Chính đó là kẽ hở để mê tín dị đoan có thể xen vào, làm méo mó hình ảnh phong trào Phật giáo nước ta, mà lịch sử đã hơn một lần ghi lại sự kiện Nhà Nước và những nhà hoạt động Phật giáo chân chính phải bận tâm giải quyết.

       Những chiến thắng quân sự vang dội thời Lý Trần chẳng những giữ vững nền độc lập chính trị của tổ quốc mà còn tạo điều kiện để dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu khẳng định nền độc lập về văn hóatôn giáo. Đời Trần không chấp nhận lệ thuộc nước ngoài về bất cứ phương diện nào, kể cả tôn giáo. Trong tinh thần tự chủ - tự cường lên cao đó, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử ra đời. Đó là dòng Thiền duy nhất do thiền sư Việt Nam thành lập, cô đọng những nét tinh túy nhất của Phật giáo Việt Nam thời ấy. Các nhà lãnh đạo đời Trần chủ trương học cái hay của người để biến thành cái hay của mình. Chính nhờ quá trình “biến thành” này mà lịch sử còn ghi lại những áng thơ, văn, luận, kệ Phật được sáng tác bằng chữ Nôm (tiếng Việt được viết theo kiểu chữ Hán). Tuy số lượng chưa nhiều nhưng sự có mặt của chung góp phần tạo thêm sức mạnh cho công cuộc hoằng truyền đạo pháp thấm sâu trong đại chúng, và Phật giáo đời Trần đã nổi lên như những trang rạng rỡ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

       Từ khi giao lưu với phương Tây, dần dần người Việt Nam đã có chữ viết theo bộ chữ cái La Tinh (chữ quốc ngữ). Vào quãng giữa và cuối thế kỷ 20, các nhà hoạt động Phật giáo Việt Nam đã cố gắng nhiều trong công việc dịch thuật kinh luận ra chữ quốc ngữ và dấy lên làn gió mới chấn hưng Phật giáo. Bước phát triển này với những gương mặt tiền phong đáng kính, như BS Tâm Minh Lê Đình Thám, cụ Tuệ Nhuận Văn Quang Thùy, cụ Thiều Chửu, và nhiều vị khác nữa, đã in một dấu son trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những bưới đi ban đầu trong sự nghiệp dịch thuật kinh sách ra tiếng Việt, nên không thể tránh khỏi những hạn chế của nó. Hầu hết trong các bản dịch kinh luận thời ấy tồn tại một tỷ lệ lớn các từ Hán Việt, và nhất là phong cách biểu đạt còn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của cấu trúc ngôn ngữ Hoa Hán. Vì vậy, nhìn chung chúng còn khá xa vời so với tiếng Việt phổ thông hiện đại. Có thể nói, phần lớn các bản dịch kinh luận Phật Giáo giai đoạn này vẫn gần giống như bản phiên âm Hán Việt viết bằng chữ quốc ngữ. Thực trạng đó làm giảm đáng kể sức mạnh hoằng truyền chính pháp trong đại chúng.

       Trong số các tăng ni, Phật tử đọc tụng kinh luận hằng ngày, không ít người có thể thuộc nằm lòng cả bản kinh dài dăm, bảy, có khi tới cả chục trang sách phiên âm Hán-Việt, hoặc những bản thần chú bằng tiếng Phạn, Pali, hoặc bằng phiên âm Hán- Việt, nhưng kỳ thực chẳng hiểu nội dung nói gì, nếu không muốn nói là hiểu sai. Trong lời nói đầu cuốn Bát Nhã Dư Âm, NXB Hà Nội – 1995, HT Thích Phổ Tuệ đã dũng cảm bộc bạch: “Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh chính là đoạn văn tâm điểm, thiết yếu… thường được trì tụng, nhưng tôi vẫn chưa hiểu nghĩa lý gì”.

       Khi được hỏi lý do vì sao ưa đọc kinh bằng âm Hán-Việt và trì chú bằng tiếng Phạn, Pali hoặc phiên âm Hán-Việt, một số Phật tử đã thật lòng trả lời. Dưới đây tôi xin được phép tóm tắt mấy ý chính trong các lời đáp ấy:

  1. Để tăng thêm tính trang nghiêm trong lúc tu hành. Nếu dùng tiếng Việt e giảm bớt sự nghiêm cẩn, vì xưa có câu “Nôm na là cha mách qué”.

  2. Tụng kinh, đọc chú bằng tiếng Việt sợ chư Phật-Tổ không hiểu, nên không gia hộ cho người tu chóng được quả Thánh.

       Ôi! Đêm dài nô lệ đã qua lâu rồi, mà tàn dư tư tưởng của nó vẫn còn hằn sâu trong tâm trí một số người, để đến bây giờ không ít người còn nghĩ rằng “Nôm na là cha mách qué”, rằng tụng kinh tiếng Việt giảm đi tính nghiêm cẩn! Đúng là “vô tình chúng ta bị lệ thuộc văn hóa nước ngoài một cách đáng tiếc” (HT Thích Thanh Từ, tlđd).

       Thử hỏi trong câu chuyện thường ngày giao tiếp ở những nơi trọng thị, trong các văn bản chính thức, Nhà Nước, trong các sách được dùng trên các giảng đường đại học về triết học, khoa học - kỹ thuật… ta đang dùng thứ ngôn ngữ gì, nếu không phải là tiếng Việt? Vậy mà có gì là “mách qué”, có mất đi chút nào tính nghiêm cẩn?

       Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”, Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma cũng từng nói: “Không có Phật ngoài tâm… Bỏ tâm, tìm Phật ở nơi ngoài là mê sảng… Không có sự giác ngộ nào ở ngoài tâm linh động”. Vậy thì tụng kinh, trì chú là để ai nghe, ai hiểu, ai huân tập, ai chuyển nghiệp, ai chứng ngộ, nếu không phải là chính người tu và các bạn cùng tu? Vậy “tại sao chúng ta không mạnh dạn thay đổi nghi lễ cúng tụng thành ra tiếng Việt cho mọi người dễ hiểu, dễ cảm thông?” (HT Thích Thanh Từ, tlđd).

       Thời chuyển pháp luân Đức Phật thường nhắc các đệ tử phải tự mình thắp đuốc mà đi, không ai có thể tu thay mình được. Nếu tin và ỷ lại vào sự gia hộ của chư Phật Tổhoàn toàn trông cậy ở sự trợ giúp từ bên ngoài (tha lực), người Phật tử sẽ mất dần lòng tự tin. Đây chính là môi trường thuận lợi cho các loại “trái độc” mê tín dị đoan sinh sôi nảy nở, cản trở bước đường tiến tu của hành giả.

       Mới đây Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo đã chỉ đạo việc phiên dịchấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam, cùng một số kinh khác. Nghi thức tụng kinh hai thời: buổi trưa (Tâm Kinh Bát Nhã) và buổi tối (Nghi Thức Sám Hối – Vua Trần Thái Tông) đã được dịch hoàn toàn ra tiếng Việt và được thực hành tại Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt. Những sự kiện ấy quả là những tấm gương sống động, đầy sức thuyết phục đáng để các chùa, các viện khác và những ai còn do dự noi theo.

       Bước đầu còn nhiều khó khăn nên không thể cầu toàn. Dù chưa thực hoàn hảo, thì sự có mặt các kinh luận tiếng Việt cũng là đáng khích lệ lắm rồi. “Điều đó giúp người đọc và người nghe dễ hiểu, dễ thâm nhập… Trong sự chuyển dịch buổi đầu không tránh khỏi chói tai người nghe (vì chưa quen tai) và còn nhiều thiếu sót, song chúng tôi bạo dạn tạo một cái nhơn nhỏ, mong sau này sẽ đâm chồi, nảy tược nhiều hơn… Chúng tôi cố làm sống lại những cái hay, cái đẹp của tổ tiên mình, đồng thời Việt hóa nghi thức tu hành để tránh cái lỗi tha hóa lâu nay chúng ta vấp phải” (HT Thích Thanh Từ, tlđd).

       Đó là những dấu hiệu đáng mừng, làm thay đổi quan trọng tình trạng trì trệ bấy nay trong việc dịch thuật kinh luận và tiến hành nghi thức tu hành, góp phần tạo thêm sức mạnh trong sự nghiệp hiện đại hóa Phật giáo Việt Nam. Phải chăng đó là những dấu hiệu mở đầu một cuộc cách mạng lớn lao và bức thiết đối với cách thái truyền bá Phật pháp, dấy lên một phong trào mạnh mẽ, sâu rộng trong giới Tăng Ni, Phật tử nay mai?

       Dịch thuật kinh luận Phật Giáo quả là một công việc thầm lặng và đầy khó khăn, gian khổ. Như trên đã nói, tuy nguồn gốc kinh luận là từ Ấn Độ, viết bằng chữ Phạn, nhưng phần lớn có mặt ở nước ta lại là kinh bản Hán tạng. Đặc điểm của ngôn ngữ Hoa-Hán là rất hàm súc, nhưng ngữ pháp thiếu chặt chẽ, vắng mặt các dấu ngắt câu, do đó nhiều khi khó hiểu và dễ gây lầm lẫn đáng tiếc cho người đọc. Người xưa thường nói ba lần chép lại coi như mất gốc (tam sao thất bổn), huống chi là dịch thuật. Hơn nữa, không phải chỉ dịch một lần, mà thực tế có thể là hơn hai lần. Ví dụ, từ chữ Phạn dịch sang chữ Hán, rồi từ chữ Hán chuyển sang âm Hán-Việt, cuối cùng dịch sang tiếng Việt. Vả lại trước đây không có nguồn tài liệu nào khác để đối chiếu, tham khảo ngoài nguồn Hán tạng.

       Trong dịch thuật, nhất là dịch kinh luận, số lượng nguồn tài liệu tham khảo nhiều khi đóng vai trò đáng kể, thậm chí quyết định, đối với chất lượng bản dịch. Trước đây do nguồn tư liệu hạn hẹp trong khuôn khổ Hán tạng, cho nên gặp chỗ khó khăn dịch giả thường tìm lối thoát bằng cách dịch âm Hán-Việt trong các bản dịch còn quá nhiều.

       Ngôn ngữ nói của người Việt cổ đã có từ xa xưa. Ngàn năm Bắc thuộc đẩy tiếng Việt xuống hàng thứ yếu, chỉ phát triển chậm chạp và tiềm tàng trong dân gian một cách tự phát. Khi có chữ viết La-tinh hóa, tiếng Việt mới được chấn hưng và phát triển có tổ chức. Vai trò tiếng Việt trong đời sống văn hóa Việt Nam ngày càng được củng cố và năng cao. Tuy nhiên giai đoạn đầu và giữa thế kỷ 20, vốn từ vựng tiếng Việt còn thiếu trầm trọng, nhất là mảng khái niệm trừu tượng. Thực tế lịch sử đó cũng là một nguyên nhân khách quan dẫn tới tình trạng một số bản dịch kinh luận không khác là bao so với bản phiên âm Hán-Việt.

       Bên cạnh hoàn cảnh khách quan đã mô tả ở trên, cũng phải kể đến nguyên nhân chủ quan người dịch. Nếu như người dịch thiếu một kỹ năng thành thạo, một thói quen dùng từ gốc Việt, hoặc chưa nhuần nhuyễn sử dụng cấu trúc câu tiếng Việt trong việc diễn đạt những tư tưởng, những khái niệm trừu tượng, vi diệu như trong kinh luận Phật giáo, và nhất là chưa xây dựng cho mình một quan niệm đúng đắn đối với vai trò tiếng Việt, một ý thức tự cường dân tộc, thì dù người ấy có trình độ nho học uyên bác đến đâu cũng dễ rơi vào tình trạng bê nguyên từ vựng và cấu trúc ngôn ngữ Hán vào bản dịch. Thật đáng tiếc, giờ đây hiện tượng này vẫn còn tồn tại!

       Dịch như thế tuy giúp cho người không biết chữ Hán “phát âm” kinh luận một cách dễ dàng, nhưng chẳng giúp gì cho việc tìm hiểu kinh luận; khác nào ngay khi giúp phá bỏ bức tường dày đặc, thì lại dựng một hàng rào thép chặn đứng, làm cho người tu khó bề vượt qua, nói chi tới việc thể nhập chân lý, thoát khỏi mê lầm.

       Như vậy, dịch thuật kinh luận Phật giáo đòi hỏi ở người dịch, ngoài tri thức uyên áo về Phật học, kỹ năng nhuần nhuyễn trong biểu đạt ngôn ngữ Việt và có nhiều nguồn tài liệu (thông tin) tham khảo, còn cần một tinh thần làm việc tự giác, giác tha cao cả, theo gương bi, trí, dũng của Đức Phật trong thời chuyển pháp luân.

       Nói theo ngôn ngữ thời đại, dịch thuật kinh luận theo tinh thần này thực chất là tiến hành một cuộc cách mạng lớn lao và bức thiết đối với công cuộc hoằng pháp, nhằm cập nhật hóa ngôn ngữ Phật giáo trong kinh luận, tạo ra công cụ sắc bén để phổ biến chính pháp, tránh được những hiểu lầm cho người tu, hạn chế những mê tín dị đoan đáng tiếc. Đối với bản thân người dịch, dịch thuật theo tinh thần này cũng có thể coi là một cuộc “lột xác” thực sự, để từ bỏ một quan niệm, một thói quen cố hữu, một lề lối dịch thuật đã có từ xưa, xây dựng một phong thái, một chất lương dịch thuật mới hoàn toàn Việt Nam, đầy sức thuyết phục. Chỉ theo tinh thần đó, nay mai Phật giáo Việt Nam mới mong có cơ hội đóng góp vai trò quan trọng của mình đối với sự nghiệp bảo tồn và phát triển nền văn hóa truyền thống của dân tộc trong bối cảnh đất nước mở cửa hiện nay.

       Một khi giao lưu giữa các dân tộc được phát triển thì hiện tượng thâm nhập giữa các ngôn ngữ là điều đương nhiên, nhất là ở những quốc gia láng giềng, có mối quan hệ lịch sử lâu đời, như Việt NamTrung Quốc. Chính hiện tượng thâm nhập ngôn ngữ giúp cho ngôn ngữ mỗi nước thêm phong phú. Tuy nhiên không vì thế mà ỷ lại, cứ bê nguyên văn hoặc phiên âm kinh luận chữ Hán để dùng.

       So với trước đây, công việc dịch thuật kinh luận Phật giáo ngày nay thuận lơi hơn nhiều nhờ những nguồn tài liệu khác ngoài nguồn Hán tạng. Trên thế giới đã có rất nhiều kinh Phật được dịch từ chữ Phạn, chữ Pali sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức… lưu hành rộng rãi. Như mọi người đều biết, các ngôn ngữ Ấn-Âu có đặc điểm là ngữ pháp chặt chẽ, sáng sủa, ít gây nhầm lẫn cho người đọc. Tham khảođối chiếu các nguồn tài liệu khác nhau sẽ giúp người dịch nắm đúng ý kinh, giải tỏa những khó khăn gặp phải trong lúc dịch. Ngoài ra, việc tham chiếu còn giúp người dịch chọn được cách biểu đạt hay nhất, đúng nhất, xứng hợp nhất.

       Dưới đây xin gợi ra đôi điều cần lưu ý trong công tác dịch thuật kinh luận để tham khảo:

  1. Chỉ nên dùng từ gốc Hán (hoặc gốc nước ngoài khác) trong trường hợp không có từ gốc Việt tương đương.

  2. Có thể dịch thoát những đoạn văn kinh luận được viết theo văn phong quá cổ. Có thể lược dịch những đoạn quá rườm rà, miễn sao không làm sai nghĩa của nguyên bản.

       Nhiều khi dịch từng từ một (mot à mot) làm cho câu văn trở nên ngớ ngẩn, thậm chí còn là phản lại tác giả. Trong trường hợp ấy không nên bám sát từng từ của chính văn, mà tốt nhất nên lược bớt, chỉ cốt giữ phần tinh yếu của đoạn văn. Thật ra cái gọi là chính văn trong kinh bản Hán tạng cũng chỉ là bản dịch tiếng Hoa-Hán mà thôi, chứ đâu phải là chính văn chữ Phạn. Vả lại, ngay cả nguyên bản chữ Phạn thực chất cũng chỉ là bản ghi chép từ những kỳ kết tập sau khi Đức Phật nhập diệt có khi tới hàng trăm năm.

       Đức Phật đã từng dạy: “Sau khi Như Lai diệt độ, người nào có thể biên chép, giữ nhận, đọc tụng, cúng đường, giải kinh cho người khác thời người đó được Như lai lấy áo chùm lên mình…”. Xem thế đủ biết Đức Phật đánh giá rất cao sự nghiệp hoằng truyền chính pháp. Đối với Phật giáo Việt Nam có lẽ công việc có ý nghĩa nhất hiện nay trong sự nghiệp hoằng pháp chính là phiên dịch kinh luận ra tiếng Việt.

       Trong niềm trăn trở về một kỷ nguyên mới của Phật giáo, như nhà vật lý nổi tiếng Albert Einstein tiên đoán: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần linh, giáo điều và thần học… Chỉ có Phật giáo mới đáp ứng đầy đủ các điều kiện ấy”, phải chăng trên đường học Phật và hoằng pháp, các nhà hoạt động Phật giáo VIệt Nam cần mạnh dạn bỏ lại phía sau mình những thói quen, sức ỳ và khuôn mẫu đã lỗi thời; với tinh thần bi, trí,dũng, quyết tâm thực hiện Việt hóa việc tụng, giảng, hiểu kinh và tiến hành nghi lễ Phật giáo; đưa Phật giáo Việt Nam tiến kịp thời đại.

       Để kết thúc bài này, xin mạn phép chép ra đây hiến quý vị một phỏng tác từ Tâm Kinh Bát Nhã, chúng tôi mới soạn nhân mùa Phật Đản Bính Tý vừa qua. Lần đầu tiên viết theo thể loại diễn ca nhằm chuyển dịch lý huyền từ một bản kinh cao siêu, vi diệu như kinh này ra tiếng Việt, quả thực là bạo gan và không tránh khỏi sai sót. Chân thành mong quí vị khoan dung, lượng thứ và chỉ dạy cho. Người viết bài này xin hết lòng biết ơn quí vị.

Huyền Cương Lê Trọng Cường

 

NGỢI CA TRÍ TUỆ TỘT CÙNG
(HAY LÀ BÁT NHÃ DIỄN CA)

 

  1. Tâm Nguyện: “Nương theo TRÍ TUỆ TỘT CÙNG (1)

            Cội nguồn Chính Pháp vô song nhiệm mầu”

  1. Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi vào sâu quán định

Trong TRÍ TUỆ TỘT CÙNG

Thấy sự vật trùng trùng

Vốn là KHÔNG TỰ TÍNH (2)

Nên đã qua khỏi hẳn

Mọi phiền não trong lòng

  1. Ngài liền nói pháp rằng:

“Nghe đây, Xá-Lỵ-Phất!

KHÔNG chẳng gì khác gì SẮC,

SẮC chẳng khác gì KHÔNG

KHÔNG chính thật là SẮC.

Cả THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC

Bản chất cũng là KHÔNG

Các pháp ấy đều mang

MỘT TÍNH KHÔNG xuyên suốt

Chúng chẳng sinh, chẳng diệt.

Chẳng thiếu, cũng chẳng thừa.

Chẳng sạch, cũng chẳng nhơ.

Bên trong TÍNH KHÔNG ấy.

Năm UẨN chẳng hề thấy (3)

Cũng chẳng thấy sáu TRẦN (5)

Cũng chẳng thấy sáu THỨC (6)

Chẳng có MÊ LẦM gốc (7),

Nên chẳng HẾT MÊ LẦM;

Cho đến chẳng LỤI TÀN (8),

Cũng chẳng HẾT TÀN LỤI.

Chẳng KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO;

Cả TRÍ, ĐẮC cũng không.

Soi kỹ mới TÍNH KHÔNG

Chẳng thấy pháp nào hết.

  1. Bởi chẳng có CÁI ĐƯỢC (9)

  Bậc Bồ Tác mới nương

  Theo TRÍ TUỆ TỘT CÙNG

  Trú niệm trong tự tại,

  Tâm chẳng bị ngăn ngại

  Do chẳng vướng mắc

  Nên chẳng phải sợ chi,

  Bậc Bồ-Tát lìa hết

  Huyễn Tưởng và ảo giác.

  Cuối cùngNIẾT BÀN (10)

  Thực chứng tại thế gian

  Tất cả các Đức Phật

Quá khứhiện tại

Cũng như trong tương lai

Đều nương TRÍ TUỆ này

Đạt GIÁC NGỘ SIÊU TUYỆT (11)

  1. “Bởi thế cũng nên biết

Chính TRÍ TUỆ TỘT CÙNG

Có đầy đủ công năng

TIÊU TAN HẾT SẦU KHỔ (12)

Khác nào một câu chú

Ngời sáng và thiêng liêng (13)

Một câu chú vô song (14)

Đúng thật, chẳng hư dối”

  1. Từ sâu trong vắng lặng

Nơi TRÍ TUỆ TỘT CÙNG

Với định lực thân tâm

Bồ-Tát liền nói chú:

“Qua rồi! Qua rồi!

Qua bên kia rồi!

    Cùng qua bên kia rồi!

    Cùng qua bên kia rồi!

    Vui thay SỰ TỈNH THỨC!” (15)

HUYỀN CƯƠNG

Phỏng tác Tâm Kinh Bát Nhã

Hà Nội, mùa Phật Đản,

Bính Tý – PL 2540

 

CHÚ DẪN

  1. Nguyên văn chữ Phạn (NVCP): Prajna Paramita

  2. Theo lý duyên sinhduyên khởi, mọi sự vật có tính vô thườngvô ngã. Mọi sự vật không thể tự sinh ra (hay mất đi); trái lại, do duyên hợp đủ mà hình thành, hết duyên thì lại trở về không; thực chất chỉ là giả hợp hay là huyền có mà thôi.

  3. Năm UẨN gồm SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC (phiên âm Hán-Việt)

  4. Sáu CĂN gồm NHÃN (mắt), NHĨ (tai), TY (mũi), THIỆT (lưỡi), THÂN (thân thể), Ý (ý thức).

  5. Sáu TRẦN gồm SẮC (hình sắc), THANH (âm thanh), HƯƠNG (mùi), VỊ (vị), XÚC (gợn), PHÁP (pháp).

  6. Sáu THỨC gồm:

  • Giới hạn nhận biết của mắt, hay là khả năng nhìn thấy (nhãn giới – phiên âm Hán Việt, PAHV)

  • Giới hạn nhận biết của tai, hay là khả năng nghe thấy (nhĩ giới – PAHV)

  • Giới hạn nhận biết của mũi, hay là khả năng ngửi thấy (tỵ giới – PAHV)

  • Giới hạn nhận biết của lưỡi, hay là khả năng nếm thấy (thiệt giới – PAHV)

  • Giới hạn nhận biết của do đụng chạm thân thể, hay là khả năng sờ thấy (xúc giới – PAHV)

  • Giới hạn nhận biết của ý thức, hay là khả năng ý thức được (ý thức giới – PAHV)

  1. PAHV: Vô minh căn bản

  1. PAHV: Lão tử

  2. PAHV: Sở đắc

  3. NVCP: Nirvana.

  4. PAHV: Vô thượng chính đẳng chính giác

  5. PAHV: Năng trừ nhất thiết khổ ách

  6. PAHV: Đại thần chú, đại minh chú

  7. PAHV: Vô đẳng đẳng chú

  8. NVCP: “Gate! Gate! Paragate! Parasamgate! Bodhi Svaha!”

PAHV: “Yết đế! Yết đế! Ba la yết đế! Ba la tăng yết đế! Bồ đề tát bà ha!”

Bản dịch tiếng Anh của Edward Conze

“Gone! Gone! Gone beyond! Gone altogether beyond! O what an awakening, all hail!”

Bản dịch tiếng Pháp của J. Bacot:

“Tous arrivent! Arrivent! Arrivent sur l’autre rive! Tous ensemble arrivent sur l’autre rive! Gloire à l’illumination!”

 

VÕ ĐÌNH CƯỜNG
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ TRONG CÔNG CUỘC
PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO

 

    1. CHỨC NĂNG, VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ

       Cư sĩ là một trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật. Cư sĩ gồm có số đông, trong khi các tu sĩ Phật giáo, là thành phần nổi bật, xuất thân từ Cư sĩ. Do đó giới Cư sĩ là lực lượng cần phải tu học, phải thăng hoa để trong hoàn cảnh thuận tiện trở thành tu sĩ. Đức Phật luôn dặn dò chư đệ tử “Vì lợi íchhạnh phúc số đông”, số đông ở đây nổi rõ nhất là thành phần cư sĩ. Như vậy, Cư sĩ là đối tượng để được xây dựngxây dựng một xã hội đúng theo Chánh Pháp của đức Phật. Đức Phật từng dạy Cư sĩ Anathapindika: “Này gia chủ, vị Thánh đệ tử hộ trì các Tỳ-kheo bằng cách cúng dường y phục, thực phẩm, sàng tọa và dược phẩm”. Lời dạy ấy đã thành truyền thống hộ trì chư Tăng Ni của các Cư sĩ kể từ 25 thế kỷ qua.

       Mặt khác, nhận giáo pháp của đức Phật, người cư sĩ có bổn phận phải nổ lực tu tập, thực hành và góp phần truyền bá giáo pháp, tức là góp phần chuyển pháp luân để đem ánh sáng giải thoát cho đời. Như vậy, chức năng, vị trí của người Cư sĩ vô cùng quan trọng trong việc phát triển Phật giáo trong ý nghĩa độ tha cũng như chuẩn bị hoàn cảnh tốt đẹp cho việc tự độ của mình.

    1. SỰ THAM GIA XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ

       Trong thời đức Phật, giáo đoàn Tỳ kheo phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, mang hình thức Giáo hội là do sự hộ trì, đóng góp xây dựng của quần chúng cư sĩ. Tên tuổi các vị vua như Bimbisara, Ajatasattu, Pasenadi…, các đại Cư sĩ như Anathapindika, Visakhà, Migaràmata, Jivaka, Mahanàma, Ambapàli… Cư sĩ Citta Machikasandika đứng đầu một hội chúng gồm nhiều ngàn người cùng học, cùng thảo luận pháp được đức Phật khen ngợi. Ngoài ra còn có nhiều Cư sĩ nổi danh về thuyết pháp như nam Cư sĩ Hathaka Alavaka, nữ Cư sĩ Suppavasà Koliyadhità, được đức Phật khen ngợi là đệ nhất thuyết pháp. Trong kinh điển Đại thừa, Ngài Duy Ma Cật được xem là vị Cư sĩ có tuệ giác bậc nhất trong thời kỳ đức Phật.

       Về sau, khi đức Phật đã nhập Đại Niết bàn, nhiều vị vua chúa ở Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam… đều ra sức ủng hộ Phật giáo, trong đó vị vua có công lao lớn nhất trong việc hoằng dương Chánh pháp là vua Asoka ở Ấn Độ. Ở Việt Nam, sự đóng góp của Cư sĩ trong công cuộc phát triển Phật giáo nổi rõ nhất là vào đời Trần, khi vua quan và cả hoàng tộc đều một lòng ủng hộ Phật giáo. Vua Trần Nhân Tông được xem như một Asoka của Việt NamTuệ Trung Thượng Sĩ có thể được ví như Duy Ma cật của Ấn Độ, như Bàng Uẩn ở Trung Hoa.

       Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến công lao xây dựng và phát triển Phật giáo của giới cư sĩ Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ chấn hưng Phật giáotrong suốt 5, 6 mươi năm tiếp theo cho đến ngày nay. Trước làn gió mới chấn hưng Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ, Phật giáo Việt Nam cũng chuyển mình và những cải cách mới xứng đáng để tạo thành một phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, trong đó lực lượng cư sĩ, đặc biệt là giới trí thức tân học đã có những đóng góp lớn lao.

       Tại Nam Kỳ, năm 1930, hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời với một lực lượng Cư sĩ khá mạnh gồm Phạm Ngọc Vinh, Huỳnh Văn Quyền, Trần Nguyên Chấn, Trần Văn Khuê, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Phổ, Nguyễn Văn Cần, lấy tạp chí Từ Bi Âm làm tiếng nói chính. Năm 1932, Phật học Tùng thư ra đời nhằm phổ biến kinh sách Phật học, do cư sĩ Đoàn Trung Còb đứng đầu vớI sự hợp tác của một nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Vật, Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Văn Thiện… Năm 1934, một số đông Cư sĩ với sự lãnh đạo của chư tôn Hòa Thượng, Thượng tọa thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật học. Năm 1936, các cư sĩ mở Hội Tịnh Độ cư sĩ có tầm họat động lớn khắp các tỉnh Nam bộ, đến các vùng xa xôi. Hội có tạp chí Pháp Âm làm tiếng nói, với các cư sĩ chủ đạo như Lê Văn Hậu, Trần Quỳnh… Đồng thời, Hội Phật học Kiêm Tế cũng hầu hết là cư sĩ, có khuynh hướng cải tiến xã hội với tạp chí Tiến Hóa. Năm 1950, Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền cùng một số cư sĩ Phật tử trí thức tân học, lập hội Phật học Nam Việt, tạo nên một sinh khí mới trong giới học Phật với những sinh hoạt sáng tác, nghiên cứu dịch thuật Phật học. Tạp chí Từ Quang của Hội ra đời từ năm 1950 đến năm 1973 đã giúp ích rất nhiều cho sự học hỏi của giới Phật tử. Hội có tầm hoạt động khá rộng rãi, gồm 40 tỉnh hội và chi hội khắp miền Nam.

       Tại Bắc Kỳ, năm 1935, Hội Phật giáo Bắc kỳ ra đời, nòng cốt gồm các cư sĩ giới trí thức Tân và Cổ học như Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Năng Quốc, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Cung Đình Bính, Trần Văn Giáp, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố… Tờ báo Đuốc Tuệ của Hội đã góp phần không nhỏ trong công cuộc truyền bá Giáo lý Phật giáo.

       Tại Trung kỳ, năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, mở đầu một giai đoạn phát triển mạnh của Phật giáo miền Trung và đóng góp lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo cả nước. Ngoài chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa sáng lập, các Cư sĩcông lao rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Hội cũng như cải tiến, chấn hưng Phật giáo như Bác sĩ Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Tần, Ưng Bàng, Bửu Bác, Viễn Đệ, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng, Nguyễn khoa Toàn, Bà Diệu Không… Tạp chí Viên Âm của Hội sớm có uy tín nhờ nỗ lực hiệu năng của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Năm 1940, Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục ra đời, sau đó là Gia đình Phật Hóa Phổ do cư sĩ Lê Đình Thám sáng lập, nhằm giáo dục, truyền bá Phật pháp cho thanh thiếu niên. Trong khoảng thời gian này, Cư sĩ Lê Đình Thám tham gia giảng kinh luận Phật học, đào tạo nhiều vị xuất sắc, sau này là những bậc Tôn túc nòng cốt trong giáo hội. Năm 1947, Gia đình Phật tử ra đời, như là một sự hóa thân và phát triển của Gia đình Phật Hóa Phổ, ban Hướng dẫn đầu tiên của Gia Đình Phật tử Thừa thiên gồm các cư sĩ Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chính Hựu, Phan Xuân Sanh, Hoàng Thị Kim Cúc, Đặng Tống Tịnh Nhơn, Lê Văn Dũng… Từ những GĐPT đầu tiên ở Huế, phong trào GĐPT đã phát triển ra nhiều tỉnh ở trong Nam và ngoài Bắc. Đến năm 1973 số Đoàn sinh Gia đình Phật tử lên đến 200.000 người.

       Song song với việc phát triển GĐPT, một đóng góp lớn khác của giới cư sĩ Phật tử là việc xây dựng và phát triển hệ thống trường Bồ Đề. Thành phần ban Giám hiệu, ban Bảo trợ, Văn phòng và nhất là lực lượng Giáo sư phần lớn đều là các Cư sĩ Phật tử. Chỉ tính đến năm 1963, đã có 163 trường Bồ Đề tại miền Nam.

       Một góp công khác cũng là một hy sinh to lớn của giới cư sĩ Việt Nam được thể hiện nổi bậtphong trào chống độc tài và kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm 1963. Các cư sĩ Phật tử, gồm đủ mọi thành phần trí thức, lao động chân tay, thương gia, tiểu thương… gồm nam nữ, già trẻ, dưới sự lãnh đạo chư Tôn đức trong Giáo hội, hoặc tự phát, đã đứng lên đấu tranh, vận động quần chúng và đã bị giết, bị tù đày, tra tấn không kể xiết.

       Thực ra, nếu không có sự đóng góp công sức của hàng Cư sĩ thì Phật giáo không thể nào phát triển được; vì như trên đã nêu về chức năngvị trí của người cư sĩ, chúng ta thấy Cư sĩ là đối tượng truyền bá, học tập, thực hành giáo lý của đức Phật, chính các Cư sĩ đang sống trong lòng xã hội, đang làm văn hóa, chính trị, đạo đức, cũng như đang thực hiện, đang cải tạo và đang sống trong các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng cũng như các kiến trúc thượng tầng của mọi sinh hoạt của con người.

    1. PHƯƠNG HƯỚNG ĐÓNG GÓP CHO PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHÂT TỬ TRONG HIỆN TẠI CŨNG NHƯ TRONG TƯƠNG LAI

       Sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật trong những thập niên cuối thế kỷ 20 đã tạo ra những vấn đề lớn cho xã hội loài người. Chiến tranh, suy thoái đạo đức, khủng bố bạo lực, ô nhiễm môi trường, sinh thái v.v… là những biểu hiện của tham sân si, điều này cũng có ý nghĩahạnh phúc con người bị giảm thiểu, trong khi đau khổ vẫn cứ tăng lên. Phật giáo luôn nêu cao thông điệp cứu khổcứu cánh giải thoát, cần phải nhập thế nhiều hơn và để được như thế, người Cư sĩ Phật tử với truyền thống đóng góp, xây dựng và phát huy đạo Phật, là những người đang sống trong lòng xã hội, nhạy bén với các vấn đề của thời đại, cần phảiphương hướng hoạt động cụ thể để hành động vì lý tưởng của Phật giáo, vì hạnh phúc của số đông:

  1. Trước hết là giới Cư sĩ cần phải tranh thủ được sự chứng minhlãnh đạo của chư vị cao Tăng, chư tôn túc trong Giáo hội. Được như thế, ý nghĩa Tam Bảo được trọn vẹn, tự bản thân Cư sĩ đang làm Phật sự cũng như quần chúng sẽ được khích lệ, niềm tin Phật sẽ gia tăng không ngừng.

  1. Người Cư sĩ phải không ngừng tu tập giáo lý của đức Phật để tự mình thăng tiến và lôi cuốn những người chung quanh. Nhiều nhóm Phật học Cư sĩ cần phải được thiết lập có tổ chức và mở rộng sinh hoạt trong từng chùa, từng địa phương, từng tỉnh, trong nước và tùy theo tầm cỡ hoạt động, có thể mang tính chất quốc tế. Người cư sĩ trong hội cần tham gia nghiên cứu kinh điển, giảng pháp, thảo luận. Do vấn đề tổ chức và quan điểm, không phải đặt vấn đề thống nhất các hội đoàn Phật học khi hoàn cảnh chưa thuận tiện. Càng nhiều hội đoàn, không khí sinh hoạt càng phong phú, đa dạng. Sách báo của từng hội đoàn cần phát hành đều đặn để khích lệ quần chúng nghiên cứu và học Phật.

  1. Cần thành lập các hội đoàn chuyên ngành để chuyên môn hóa sinh hoạt của các Cư sĩ Phật tử, ví dụ Hội hay Đoàn Phật tử nghiên cứu hay thực hiện kế hoạch phát triển xã hội, bảo vệ môi sinh, bảo vệ hòa bình, xây dựng và phát triển đạo đức, giáo dục, văn hóa Phật giáo. Thậm chí cần có những hội đoàn nghiên cứu khoa học kỹ thuật, thương mại, ngân hàng v.v…. Nói chung, cần thể hiện nếp sống Phật giáo trong tất cả mọi lĩnh vực sinh hoạt của xã hội.

  1. Xây dựng, giáo dục thế hệ trẻ có nếp sống năng động, phù hợp với thời đại nhưng lấy giáo lý Phật giáo làm chỉ nam. Người Cư sĩ có thể đứng ra mở trường, nhà giữ trẻ… tiến đến một hệ thống trường Bồ-đề như mấy chục năm trước đây ở Việt Nam. Tổ chức Gia đình Phật tử cần được xây dựng, phát triển và cải tiến về tổ chức và nội dung sinh hoạt cho phù hợp với thời đại, từng địa phương…

  1. Người Cư sĩcần phải giữ bổn phận đối với chư Tăng Ni, tham gia các công tác Phật sự tại chùa, thường xuyên đến chùa để nghe giảng kinh, sinh hoạt tôn giáo, cúng dường Tăng Ni, trong hoàn cảnh cho phép, người Cư sĩ cần tham gia vào ban lãnh đạo trong các tổ chức của giáo hội, cố gắng làm một thành viên trong tổ chức Giáo hội địa phương hoặc trung ương, thể hiện ý nghĩa tứ chúng đồng tu mà đức Phật đã thiết lập.

    1. KẾT LUẬN

       Vì đệ tử Phật gồm tứ chúng, trong đó có hai chúng là Cư sĩ nam và nữ, cho nên nếu khôngCư sĩ thì không thành ý nghĩa Giáo Hội Phật Giáo. Nếu khôngCư sĩ, những Cư sĩđiều kiện tốt để tu tập, để trở thành Tu sĩ sẽ không có, và do đó sẽ không có Tăng già. Xây dựng và phát triển Phật giáo là bổn phận của người Cư sĩ, thực tế lịch sử đã chứng minh Phật giáo muốn phát triển mạnh cần phải có sự đóng góp tích cực công sức của giới Cư sĩ.

       Những nét khái quát về phương hướng hoạt động trên chỉ là những gợi ý, cần được bổ sung, cần được lập kế hoạch cụ thể theo từng nội dung hoạt động. Và trước hết, để có thể thực hiện lý tưởng giải thoát, diệt trừ khổ đau, người Cư sĩ cần có lòng tin kiên cố đối với Tam Bảo, có trí tuệ và khả năng trong thực hành, có đức hạnh và có quyết tâm vì Đạo vì Đời.

 

Võ Đình Cường

 

BS BÙI MỘNG HÙNG
ĐẠO PHẬT CÓ THỂ ĐEM LẠI NHỮNG
GÌ CHO GIÁO DỤC NGÀY NAY?

 

       Giáo dục căn bảntruyền đạt. Thế hệ này truyền lại cho thế hệ khác kinh nghiệm sống của một cộng đồng. Những lý thuyết, những thực hành, những thủ thuật trong các nghề nghiệp để sinh nhai kiếm sống, đó là một phần rất thực tiễn, không thể thiếu của giáo dục. Nhưng chỉ là một phần mà thôi. Vì sống chính là quan hệ mình với mình, mình với người, mình với vạn vật với thiên nhiên. Chỉ một trong những quan hệ ấy không được hài hòa là cuộc sống mất an lành. Mình mà không yên được với chính mình thì có trốn tránh cách nào, bằng say sưa, bằng trác táng hay bằng hành động; có trốn đi đâu, vào rừng sâu, ra hải ngoại, thì ngày đêm vẫn không khỏi mặt đối mặt với chính mình. Kinh nghiệm sống làm sao cho yên vui, cũng thiết yếu chẳng kém gì cơm ăn, áo mặc. Cái đó cũng là giáo dục truyền lại. Mà kinh nghiệm này, nhà Phật có trên hai ngàn năm bề dày.

       Bài này không có tham vọng trình bày hệ thống giáo dục theo nhà Phật. Mà chỉ nêu lên vài nét lớn có thể bổ ích cho chúng ta ngày hôm nay. Nói vậy có nghĩa là chỉ bàn đến những nét khác với cái giáo dục mà bạn, mà tôi, mà con em chúng ta được tiếp thu.

    1. QUAN HỆ NGƯỜI VỚI NGƯỜI: CHỮ HÒA

       Cạnh tranh là một nguyên tắc trong xã hội, ở khắp nơi ngày nay; trẻ con ngay từ thuở thơ ngây đã tập tành tranh đua. Tranh đua, giành dựt, lấn áp để qua mặt người. Khôn khéo ra, thì bàn tay có thể bọc nhung, nhưng mà bên trong thường là bàn tay sắt.

       Nhà Phật khác thế, lấy chữ Hòa làm nguyên tắc sống chung. Nói hòa, là trước hết hàm ý khác biệt. Đường không phải là nước thì mới hòa với nước. Giống y như nhau thì gọi là “đồng’, rót nước lã vào nước lã thì đã chẳng dùng tới chữ hòa. Ý này ta thấy rất rõ trong câu “Hòa nhi bất đồng, đồng nhi bất hòa”, hòa mà không giống nhau, giống mà không hòa với nhau. Như vậy, nói hòa cũng là nói chấp nhận sự khác biệt của nhau. Chính vì tính cách khác biệt của các thành phần cho nên hòa hợp lại có thể nảy sinh những đặc tính khác lạ, mà đơn thuần cộng đặc tính riêng của các đơn vị thành phần lại không sao có được. Hòa cácbon với sắc thì ra thép, độ bền chắc, độ sắc bén khác hẳn với cácbon với sắt tinh chất. Cái quí của hòa cũng chính là ở chỗ đó. Chẳng những nhân khả năng lên mà còn tạo nên những khả năng mới, nên sức mạnh mới, hệ quả của sự tổng hợp thành công.

       Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống, những điều này vẫn giữ nguyên giá trị:

       Một là cùng ở một nơi, thân hòa đồng trú. Mới xem qua dường như là một ghi nhận thường tình. Nhưng chính vì không lưu tâm đến điểm thường tình này mà các khu chung cư chuồng thỏ chỉ để về ngủ ban tối, ban ngày phải bôn ba đi kiếm sống ở những đâu đâu đã đưa vào thế bế tắc khó xử cho nhiều ngoại ô các tỉnh lớn khắp nơi trên thế giơi, như Paris, Lyon ở Pháp ngày nay. Không nơi cùng nhau chia sẻ sinh hoạt thường ngày, làm lụng, ăn học, mua bán nhậu nhẹt, tán gẫu, thể thao, giải trí, vân vânvân vân, thì dù là đường phố dinh ốc có quy hoạch đẹp đẽ như Brasilia trước đây, người nào có điều kiện đi nơi khác cũng đều bỏ ra đi. Vì mãi mãi đó chỉ là những dãy nhà không hồn, không sao biến thành khu phố, thành thị xã, sinh động như những khu xóm cổ truyền bình thường. Đã gọi là sống chung thì phải có nơi có chốn thích nghi cho sự chung sống.

       Hai là không cãi cọ nhau, khẩu hòa vô tranh. Không cãi để mà cãi, nhưng cũng chẳng phải là cái tinh thần “ba phải”. Chẳng phải là cái hòa cả làng của “dĩ hòa vi quí”, sao cũng được, cũng cam chịu, chỉ có việc ngậm miệng cúi đầu, chẳng phải cái thái độ mà bề trên kẻ cả nhồi vào não cho đám thấp cổ bé miệng trong làng trong nước.

       Vì ba là đã khác nhau thì cách nhìn – “kiến” – không giống nhau được. Không cách nào khác là bàn bạc thảo luận – trong tinh thần hòa nhã – nhưng phải đến nơi đến chốn mới cùng nhau “giải”, nghĩa là vượt mâu thuẫn, đi tới một cái nhìn tổng hợp sự việc, đầy đủ hơn, phong phú hơn cái nhìn riêng của mỗi người. Ấy là nguyên tắc kiến hòa đồng giải.

       Bốn là có lợi thì phải chi đều với nhaulợi hòa đồng quân. Đối với các nhà tu hành nguyên tắc này đã là cần luôn luôn nhắc nhở, thì đối với người sống trong thế tục lại càng thiết yếu biết chừng nào.

       Năm là cần có luật lệ, có những qui định cho các quan hệ, được mọi người đồng thuận theo và ai ai cũng phải tuân thủ. Đối với người tu hành thì đó là giới luật chung cho Tăng già, câu chữ gọi là giới hòa đồng tu.

       Sáu là luôn luôn ý thức vui vẻ với nhauý hòa đồng duyệt.

       Chữ hòa nhà Phật với nội dung cụ thể của nó: chấp nhận khác biệt, bàn bạc thảo luận bình đẳng rốt ráo, công bằng phân chia quyền lợi, luật pháp công minh ai ai cũng phải tuân thủ, chữ Hòa ấy đáng được đề nghị làm giá trị cho xã hội chúng ta ngày nay.

    1. QUAN HỆ MÌNH VỚI MÌNH

       Xin bàn riêng về hai điểm độc đáo của nhà Phật; quan niệm về thân xác và về trí tuệ.

  1. Với Thân Xác

       Hơn bao giờ, ngày nay thân xác được trau chuốt. Thể thao được tôn vinh, cùng với các nhà vô địch mà truyền hình, mà quảng cáo nâng lên hàng thần tượng cho quần chúng. Lịch sử thể thao là hàng chuỗi kỷ lục với những bảng phong thần tên tuổi đi vào truyền thuyết. Ký ức chúng ta ghi nhớ những thân hình đẹp chẳng khác thiên thần trong những động tác tuyệt diệu, như thách thức như siêu thăng các qui luật thiên nhiên gò trói thân xác mỗi người chúng ta. Nhưng khi qua rồi các khoảnh khắc tuyệt vời và huy hoàng của thành tích, im đi cái hào nhoáng ồn ào của thông tin đại chúng, những thiên thần trong giây lát ấy về lâu về dài thành ra những con người như thế nào?

       Ngay trong thế vận hội Atlanta 1996 vừa rồi ta được thấy tận mắt hình hài của Mohamed Ali Cassius. Trong đầu nhiều người chúng ta còn nhớ như in một vô địch thế vận quyền Anh hạng nặng Cassius Clay dũng mãnh như bò tót, nhanh nhẹn như hổ báo, cú đánh sấm sét thôi sơn, di động uyển chuyển như bay trên võ đài tưởng rằng địch thủ không sao đánh trúng. Vị thiên thần Cassius Clay mới ngày nào ấy, hôm nay trên đài truyền hình là một Mohammed Ali già trước tuổi, thể xác đờ đẫn, hai bàn tay lẩy bẩy bệnh liệt rung Parkinson, hệ quả của những trận đấu những năm hào hùng.

       Cái câu hỏi sau đỉnh cao của thành tích, những nhà vô địch, những nhà thể thao cừ khôi của các nước sống như thế nào, thể xác, tâm thần ra sao, chẳng bao giờ được thấy thông tin đại chúng đề câp một cách nghiêm túc. Một trong nhiều sự kiện tỏ cho ta thấy rằng sự phát triển hài hòa của thân thểtâm thần, ít nhất là óc phê phán và trí xét đoán, chẳng phải là vấn đề quan tâm của quan niệm về thể dục thể thao hiện hành ngày nay. Mà cho có thật tình lưu tâm thì cũng chẳng biết phải làm thế nào. Vì thể xác là một đàng, tâm thần là đàng khác, mõi mắt trông tìm chẳng thấy đâu là nhịp cầu bắc ngang, một quan niệm mà thật ra thể thao chỉ rập theo triết học Tây phương. Nhưng là quan niệm chính thức hiện hành về thể dục và thể thao trên khắp toàn cầu.

       Nhà Phật thì khác. Thể xác và tâm thần là một, trong lý thuyết, phương pháp, kỹ thuật giáo dục con người. Với những phương pháp giản dị của nhà Phật bất cứ ai ai trong chúng ta cũng có thể cảm nhận trong thân xác ảnh hưởng của tình cảm, của tư tưởng xuất hiện và biến đi trong tâm thần. Và từ thân xác tác động ngược lại vào tình cảm vào tư tưởng. Tác động vòng tròn qua lại này là cơ sở cho một chương trình huấn luyện toàn diện thể xác, tình cảm tâm trí con người. Xin không bàn vào chi tiết của phương pháp cùng cơ chế sinh học của nó đã được đề cập trong bài Thân xác trong đạo Phật (Diễn đàn số 50,1.3.96; Hương Sen số 61, 2.6.96). Chỉ nói rằng với phương pháp nhà Phật, ai ai trong chúng ta, không cần một dụng cụ nào, chỉ mình với thân mình, bất cứ nơi nào, trong rừng sâu hay giữa đám đông thành thị, bất cứ lúc nào trong ngày, ở vào lứa tuổi nào, ai ai cũng có đầy đủ khả năng luyện cho thể xác tâm thần tráng kiện, minh mẫn, thanh thản.

  1. Trí Tuệ

       Trong một thời gian dài xã hội cổ truyền Việt Nam trọng cái học từ chương. Cái gì đã in trong kinh sách thánh hiền thì là chân lý, không luận bàn, bài bác, đặc lại vấn đề. Thui chột mất đi cái khả năng suy luận. Chúng ta đã bỏ cái lối giáo dục ấy. Dù rằng đâu đó đôi khi vẫn còn rơi rớt cái xu hướng tôn sùng lý lẽ của uy tín, nhưng chúng ta đã bỏ lối học từ chương, ít nhất là trên nguyên tắc.

       Và cũng đã từ nhiều thế hệ chúng ta học theo lối học của phương Tây. Phát huy suy luận, phát triển lý tính. Đó là một điều hay, nhất là cho chúng ta. Trọng lý trí là phải, điều đáng nói là cái giáo dục chúng ta học được theo khuôn mẫu Tây phương duy lý trí đến mức độ cực đoan, xem như sự thật chỉ có thể là kết quả cuối cùng của một quá trình tư duy. Quên rằng chỉ lạnh lùng lý trí là sẽ mù lòa trước những sự kiện, nhất là trong quan hệ người với người, mà chỉ con mắt của tấm lòng mới thấu đáo được. Quên rằng ngoài lý trí, con người còn tiếp xúc sự vật, tiếp xúc đồng loại bằng tình cảm, bằng trực giác. Chương trình giáo dục hiện hành chỉ chuyên trau dồi lý luận, không chút ngó ngàng đến trực giác. Chẳng mấy ai mà cái hồn nhiên trực giác chẳng bị quên lãng, sứt mẻ đến thui chột sau những năm dài học theo các chương trình giáo dục ngày nay. Nhưng thử hỏi có sáng tạo nào mà không có phần của trực giác chăng. Dù là trong nghệ thuật hay trong khoa học. Hãy nghe nữ triết gia Hannah Arendt tâm tình với cô bạn Mary MacCarthy: “Theo ý tôi, ảo tưởng lớn chính là chỗ nghĩ rằng Chân lý là kết quả cuối cùng của một quá trình tư duy. Trái lại, Chân lý luôn luôn là khởi thủy của Tư tưởng. Hành động tư duy bắt đầu sau khi một nghiệm sinh chân lý loé sáng”.*

       Nhận định phản ảnh kinh nghiệm sống chân tình của nhà nữ triết gia xuất sắc. Và chúng ta tiếc cho giáo dục hiện hành không lưu tâm đến quan hệ trực giáclý luận trong tiến trình đi tìm sự thật. Hầu như hoàn toàn bỏ qua một trong những phương tiện tri giác của sinh vật trong con người.

       Nhà Phật trân trọng phân biệt lý luận. Đọc Long Thọ bồ tác đủ thấy lý luận tinh tế tới mức nào. Tuy nhiên cái tri thức thấu đáo đến gốc rễ vấn đề, nhà Phật gọi là Tuệ chẳng phải là đơn thuần do lý luận. Theo Trường bộ kinh “Tuệ nảy sinh do suy luận, do những gì nghe được, do trau dồi tâm thần” (D III 219). Vậy yếu tố thứ nhất của tuệ là trí năng phân biệt, lý luận. Yếu tố thứ nhì là tri thức do học hỏi. Nhưng chẳng phải là cái học kinh sách thuộc lòng chất đầy bụng: “có những kẻ ngu xuẩn đi học thuộc lòng giáo lý…; họ chẳng tìm hiểu giáo lý bằng trí tuệ, và vì vậy chẳng bao giờ thấu hiểu giáo lý” (Trung bộ kinh, M I 133). Yếu tố thứ ba của tuệ là “trau dồi tâm thần” tạm dịch từ “bhavana” dùng cho các trường hợp tu luyện thiền quán. Đó là phần trực giác được phát huy bởi các phương pháp ấy.

       Tuệ, các trí thức nhạy bén, thấu đáo quan hệ, quy luật che lấp sau hiện tượng của sự vật và kết tinh hài hòa của học hỏi, suy luậntrực giác. Và những phương pháp, kỹ thuật nuôi dưỡng, phát triển trực giác của nhà Phật là kinh nghiệm quí báu trong kho tàng văn hóa chung của loài người.

       Tóm lại, với tiềm năng đem lại quan niệm, lý thuyết, phương pháp và kỹ thuật trong hai vấn đề: 1) phát triển hài hòa thể xác và tâm thần; 2) hài hòa lý trí với trực giác, chỉ riêng bấy nhiêu cũng đủ là những đóng góp đáng quý của nhà Phật cho giáo dục ngày nay.

    1. LÀM GÌ?

       Khi đặt vấn đề với hai chữ “có thể”, căn bản là nói chuyện xem ra chưa có gì. Chỉ mới là suy đoán. Nghĩa là nói nghe có hay đến đâu, trong thực tế còn gần với con số không.

       Một kinh nghiệm sống cá nhân, một thể hiện cụ thể dù là trong một nhóm nhỏ, trong một thời gian giới hạn, dù cho kết quả là một sự thất bại, những kinh nghiệm thực tế ấy còn có phần bổ ích hơn là những suy đoán dài dòng hào nhoáng. Vì chúng điểm ngón tay vào những chướng ngại thực tiển. Đương nhiên rằng bất cứ trong thực tế nào, trong điều kiện nào nhà Phật cũng trung thành với tinh thần “thí pháp” cố hữu của mình. Một hình ảnh đẹp, hình ảnh tung rải khắp bốn phương lời Phật dạy, như những cánh hoa đến với mọi người.

       Nhưng cho dù là cánh hoa, đã nói là cho, là tặng thì phải có người nhận, có cách rải. Mà điều kiện vật chất, tâm tư, đời sống của người nhận, mỗi thời mỗi khác, mỗi nơi mỗi khác, mỗi người mỗi khác. Vì vậy xin nêu lên một vài câu hỏi:

       

  1. Con người ngày nay tìm đến giáo lý đức Phật vì những động cơ, những lý do, nhu cầu gì? Có gì là đặc trưng theo lứa tuổi, thành phần xã hội, trình độ học thức, truyền thống gia đình, v.v….?

       

  1. Đi vào thực tế, giáo dục Phật giáo ngày nay gặp những thuận lợi gì, những khó khăn nào? những kinh nghiệm thu thập được qua sống thực tiễn hãy còn là dạng tản mạt vụn vặt hiểu biết cá nhân, hay đã được trao đổi, thu thập đúc kết thành kho kinh nghiệm chung giúp ích cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề đưa lời dạy của đức Phật đến với mọi người?

       Dĩ nhiên vấn đề không thu hẹp và giới hạn trong đất nước Việt Nam. Tại các nước xung quanh, đã có những thực hiện thích nghi Phật giáo với nhu cầu năng suất, hiệu năng vật chất của xã hội ngày nay như phong trào Won ở Cao Ly, các phái Soka Gakkai, Rissho Koseikai, Nipponzan Myohojl ở Nhật. Ta có thể tìm hiểu chăng và biết được những gì về các phong trào này? Chúng tatìm hiểu chăng và biết được những gì về các phong trào này? Chúng tatìm hiểu chăng trường phái Phật giáo mới Thái Lan phản ứng như thế nào trước xã hội đang hấp thụ lối sống Tây phương ngày nay; chúng tatheo dõi chăng cách giải thích tam tạng kinh điển theo lý thuyết khoa học ngày nay của các vị danh tăng Budhadasa bikkhu, Vichitr Ratna Dhiravamsa hay của phái Santi Asoke?

       

  1. Một trong những truyền thống nhà Phật là lòng tin vô biên nơi tâm Phật ở mỗi người, ở mọi nơi, vào mọi thời đại. Đó là căn bản của truyền thuyết cho rằng lời đức Phật từ đỉnh núi Linh Thứu mãi mãi vang vọng khắp thế gian. Nói như thế là có một câu hỏi cấp thiết: ngoài kinh điển lưu truyền chúng ta cần học thêm những gì trong kho tri thức từ tâm Phật sinh ra và không ngừng phát triển để thích ứng với thân phận không ngừng biến chuyển của con người? Trong kho tri thức ấy, những gì là các “pháp môn không kể xiết” mà người Phật tử ngày nay hằng “thệ nguyện đều tu học”? Lý thuyếtphương pháp của xã hội học, của thông tin đại chúng có chỗ đứng như thế nào trong tri thức, trong cung cách mình tự tìm hiểu lấy mình, trong phong cách “thí pháp” của nhà Phật ngày nay?

       Đó là một vài câu hỏi cụ thể liên quan đến giáo dục xin nêu lên để chúng ta suy ngẫm.

BS Bùi Mộng Hùng

(8-1996)

***

PHẦN BA
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

 

ĐÀO NGUYÊN
SỰ GẮN BÓ GIỮA PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC
VIỆT NAM NHÌN Ở GÓC ĐỘ VĂN HỌC

 

       Đạo Phật được du nhập vào Việt Nam khá sớm. Ngay từ buổi đầu, với truyền thống khế lý khế cơ vốn có, Phật Giáo đã tạo nên những liên hệ mật thiết trên con đường đi tới của dân tộc ta. Và trải qua hơn hai ngàn năm truyền bá, phát triển, tuy có lúc thịnh lúc suy, nhưng nhìn chung, Phật Giáo đã tạo được những gắn bó tốt đẹp với dân tộc thể hiện qua các mặt như phong tục tập quán, văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ tư duy v.v…. Bài viết này xin bàn về sự gắn bó ấy nhìn ở góc độ văn học.

       Trước hết xin nói rõ về khái niệm gắn bóchúng tôi dùng ở đây là để chỉ cho cái ảnh hưởng đậm đà của Phật Giáo đối với sinh hoạt văn học Việt Nam, tạo được những đặc điểm, những khai phá, những dấu ấn, đem lại cái phong phú, đa dạng, cùng những thành tựu không thể thay thế. Nói cách khác, nếu không có sự gắn bó kia, văn học Việt Nam sẽ trở nên nghèo nào, thiếu thốn. Có thể ghi nhận sự gắn bó ấy qua các điểm sau đây:

    1. TÍNH CHẤT MỞ ĐẦU, DẦN ĐƯỜNG

       “Bình minh của lịch sử dân tộc ta đã gắn với Phật Giáo”. Đây là ý kiến, không phải của một nhà Phật học hay một Phật tử trí thức, mà là của ông Trần Văn Giàu, giáo sư sử học lão thành, cũng là cây bút lý luận vào hàng số một của giới trí thức Mác Xít Việt Nam hiện đại.* Nhận định như thế là đúng, cho cả lịch sửvăn học, hơn nữa, trong một số trường hợp văn học, Phật Giáo còn tạo được những sự dẫn đường, ghi dấu.

  1. Hai nhà thơ mở đầu cho lịch sử văn chương thành văn của văn học Việt Nam chính là hai nhà sư. Đó là thiền sư Pháp Thuận (915-990) và thiền sư Khuông Việt (933-1011), với bài thơ Quốc Tộ và bài từ Vương Lang Quy. Sách Thiền Uyển Tập Anh đã cho chúng ta biết qua về hoàn cảnh ra đời của bài thơ Quốc Tộ như sau: Trong buổi đầu, khi mà Tiên Lê mới sáng nghiệp, sư (Pháp Thuận) có công dựng bàn hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức tước của triều định phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng… Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài, sư đáp:

      Quốc Tộ như đằng lạc

Nam thiênthái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.

(Thiền Uyển Tập Anh, Ngô Đức Thọ dịch, nhà xb văn học, H,1990, tr. 180-181)

Dịch:

Vận nước như dây quấn

Trời Nam ôm thái bình

Đạo đức ngự cung điện

Muôn xứ hết đao binh

(Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận T.1, nhà xb Lá Bối, S, 1974, tr. 146)

 

       Về phương diện văn học thiền, Quốc Tộ (Vận nước) cũng là bài thơ thiền đầu tiên do một thiền sư Việt Nam sáng tác. Bài thơ chỉ có hai chục chữ nhưng dung lượng và sức khơi gợi của nó rất lớn, không chỉ thâu tóm được truyền thống mà còn đủ sức mở ra cho hiện đại những kết luậngiá trị về vấn đề giữ nước và trị nước. Đây là một số đánh giá của giáo sư Trần Thanh Đạm: “Có thể nghĩ rằng phải qua hơn một ngàn năm mất nước và kiên trì đấu tranh giành lại nước, từ đó thâu thái tinh hoa của Thiền học, Thiền tông thì trí huệ Việt Nam mới nảy sinh được một tư tưởng uyên thâm và uyển chuyển, đồng thời lại chung đúc trong một hình thức súc tích mà hùng hồn như vậy. Theo tôi, hàm nghĩa và hàm ý của khái niệm thái bình, vô vi trong bài kệ này đòi hỏi sự thăm dò, phân giải sâu sắc của các nhà triết học Việt Nam hiện đại, không chỉ đơn thuần là những khái niệm có sẵn trong Tam Giáo (Nho, Phật, Lão). Ở đây đã có sự vận dụng sáng tạo, đã có sắc thái, phong thái Việt Nam”. (Trần Thanh Đạm, Hai Thiền sư – thi sĩ mở đầu lịch sử văn chương cổ điện Việt Nam, Tập Văn Phật Đản, số 29, tháng 5-94, tr. 41-42).

       Còn trường hợp ra đời của bài từ Vương Lang Quy thì cũng sách Thiền Uyển Tập Anh cho biết: “ Năm thứ hai niên hiệu Thái Bình (971), sư (Ngô Chân Lưu) được ban hiệu là Khuông Việt Đại Sư. Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều đình sư đều được tham dự. Năm Thiên Phúc thứ bảy (987) nhà Tống sai Lý Giác sang sứ nước ta. Khi Giác trở về, sư làm bài từ Ngọc Lang Quy đưa tiễn:

Tường quang, phong hảo, câm phàn trương

Thân tiên phục đê hương

Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang

Cửu thiên quy lộ trường

Tình thắm thiết

Đôi ly trường

Phan luyến sứ tinh lang

Nguyện tương thâm ý vị nam cương

Phân minh báo ngã hoàng

(Nắng tươi, gió thuận, cánh buồm giương

Thần tiên lại đê hương

Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương

Về trời xa đường trường

Tình thắm thiết

Chén lên đường

Vin xe sứ vấn vương

Xin đem thâm ý vì nam cương

Tâu vua tôi tỏ tường”.

                                                                              (Thiền Uyển Tập Anh, sđd, tr. 43-45)

 

       Cũng trong bài báo kể trên, giáo sư Trần Thanh Đạm còn nhấn mạnh đến việc thiền sư Khuông Việt đã sử dụng thể loại Từ, là một thể loại văn học rất được thịnh hành ở đời Tống, để sáng tác, mà sự việc ấy hầu như là trường hợp duy nhất trong lịch sử bang giao ở nước ta. Lê Quý Đôn (1726-1784) trong “Kiến Văn Tiểu Lục” đã khen bài từ ấy: “Văn từ của Ngô Chân Lưu vang tiếng một thời”. (KVTL, Phạm Trọng Điềm dịch, nhà xb KHXH, H. 1977, tr. 387). Còn giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) thì đứng ở góc độ sử học để nhận xét: “Đó là lời tửu chúc từ thân thiện đầu tiên trong lịch sử ngoại giao của nước Việt. Mà lại là của một vị sư!” (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, ĐH Vạn Hạnh xb, S, 1967, tr. 432).

  1. Lùi xa về trước, khi đất nước còn bị đô hộ, chính một số vị cao tăng Việt Nam ở thế kỷ thứ 7, 8 đã tạo được những giao hảo văn học đầu tiên hết sức tốt đẹp. Chính nhờ Lê Quí Đôn, đã tham khảo các sách Loại Hàm, Anh Hoa của Trung Quốc để ghi chép được bốn vị thiền sư Việt Nam là Phụng Đình, Duy Giám, Vô Ngại và Nhật Nam tăng (không rõ đạo hiệu) đã từng được các nhà thơ nổi danh đời Đường như Dương Cự Nguyên (cuối thế kỷ 7), Giả Đảo (788-843), Thẩm Thuyên Kỳ (đầu thế kỷ 8) và Trương Tịch (cuối thế kỷ 8, đầu thế kỷ 9) tặng thơ một cách hết sức trang trọng. Phụng Đình, Duy Giám là hai vị thiền sư thông bác kinh luận, đã được vua Đường mời sang tận kinh đô để giảng kinh, khi sắp lên đường về nước, thi sĩ Dương Cự Nguyên cũng như Giả Đảo đều có thơ đưa tiễn. Hai bài thơ của họ Dương và họ Giả đều làm theo thể ngũ ngôn bát cú. Bài thơ của Trương Tịch tặng thiền sư Nhật Nam tăng cũng được sáng tác theo thể ấy, riêng bài ngũ ngôn của Thẩm Thuyên Kỳ tặng thiền sư Vô Ngại gồm đến 16 câu với những câu mở đầu đầy tính chất ca tụng như sau:

“Đại Sĩ sinh Thiên Trúc

Phân thân hóa Nhật Nam

Nhân trung xuất phiền não

Sơn hạ tức Già Lam”.

                                            (Kiến Văn Tiểu Lục, sđd, tr. 384)

Dịch:

“Phật xưa sinh Thiền Trúc

Nay hóa thân Nhật Nam

Vòng não phiền ra khỏi

Dưới núi dựng Già Lam”.

                                                                       (Nguyễn Lang dịch, VNPGSL I, sđd, tr. 103-104)

       

  1. Thành tựu đầu tiên của lịch sử văn học Việt Namvăn học thời Lý Trần, ở đấy, Phật Giáo vừa là cái nền vừa có những đóng góp phong phú.

       

  1. Ảnh hưởng đậm đà của Phật Giáo đối với văn học đời Lý là điều đã được khẳng định và tiếp tục được soi sáng, phát hiện thêm. Chỉ cần nhắc lại một số tác phẩm của các thiền sư Huệ Sinh (?-1063), Mãn Giác (1052-1096), Không Lộ (?-1119)… để thấy rằng đấy mãi mãi là những đốm sáng tuyệt vời trong văn học Việt Nam. Đánh giá về ý nghĩa cành hoa mai trong thơ của thiền sư Mãn Giác, từ Ngô Tất Tố (1894-1954) trong Văn Học Đời Lý (nhà xb Khai Trí, S, 1960, tr. 52) đến Lê Văn Siêu trong Văn Học Thời Lý (nhà xb Hướng Dương, S, 1957, tr.66), Nguyễn Lang trong VNPGSL I (sđd, tr. 201), Ngô Đức Thọ trong bản dịch Thiền Uyển Tập Anh (sđd, tr. 17)… tuy sự diển đạt có những sắc thái cá biệt nhưng nói chung là nhất trí; và cho đến ngày nay, cành hoa mai ấy vẫn được xem là cành hoa mai đẹp nhất trong văn học của chúng ta.

       Còn cái hình ảnh “ánh trăng Lăng Già tịch tĩnh soi tỏ con thuyền trống không trên biển thời giankhông gian mênh mông vô tận” của thiền sư Huệ Sinh, cũng như cái âm thanh “kêu dài một tiếng lạnh hư vô” của thiền sư Không Lộ đều là những âm thanh, hình ảnh hết sức độc đáo, rất hiện thực lại rất siêu thoátPhật Giáo đã đem đến cho văn học Việt Nam.

  1. Hai nhà thơ nữ đầu tiên của văn học Việt Nam đã xuất hiện ở đời Lý, đều là người từ cửa Thiền hay có nhiều quan hệ với cửa Thiền. Đó là Ni Sư Diệu Nhân (1041-1113) và Ỷ Lan Nguyên Phi (?-1117), mẹ vua Lý Nhân Tông (1066-1128). Bài thơ ngắn của Ỷ Lan Nguyên Phi là sự khẳng định cho quá trình học đạo và hiểu đạo của bà (xem Thiền Uyển Tập Anh, sđd, tr. 91), còn bài kệ tám câu bốn chữ của Ni Sư Diệu Nhân (xem Thiền Uyển Tập Anh, sđd, tr. 235) là một bài thơ thiền xuất sắc cho thấy tác giả của nó là một nhà sư tu hành đạt đạo, đúng như đánh giá của giáo sư Nguyễn Đăng Thục: “Tác giả là một nữ hiền triết uyên thâm về thiền học đời Lý” (Thiền Học Việt Nam, nhà xb Lá Bối, S, 1967, tr. 308).

       

  1. Một tác giả đáng chú ý của văn học đời Lý, không phải xuất hiện từ những tư liệu sách vở mà là từ văn bia, đó là thiền sư Pháp Bảo (thế kỷ 12), tác giả các văn bia: Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (Văn bia chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn), Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi mình (Văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh), và theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, có lẽ ông cũng là tác giả văn bia chùa Hương Nghiêm núi Càn Ni, dựng năm 1124. (Lý Thường Kiệt, sđd, tr. 460). Một đoạn trong bài Minh của văn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn, đã đánh giá tổng quát về danh tướng Lý Thường Kiệt (1019-1105) như sau:

“Việt hữu Lý công

Cổ nhân chuẩn thức

Mục quận ký ninh

Chưởng quân tất khắc

Danh dương hàm hạ

Thanh chân hà vực

Tông giáo quy sùng

Cảnh phúc thị thực”

(Lý công nước Việt

Noi dấu tiền nhân

Cầm quân tất thắng

Trị nước yên dân

Danh lừngTrung hạ

Tiếng nức xa gần

Vun trồng phúc đức

Đạo Phật sùng tin”

(Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần I, nhà xb KHXH, H, 1977, tr. 360-365)

 

       Đây là lời đánh giá đầu tiên, chính xác, công bằng và có giá trị văn học nhất về tài ba cùng đức độ của Lý Thường Kiệt, hơn hẳn các nhà viết sử đi sau, dù là sử diễn ca hay đề vịnh. Những người biên soạn sách Thơ Văn Lý Trần I, nơi tiểu sử Lý Thường Kiệt, đã cho những dòng viết của thiền sư Pháp Bảo vừa dẫn trên “là sự đánh giá đúng đắn của nhân dân về tài đức của Lý Thường Kiệt” (sđd, tr. 318).

       

  1. Văn học đời Trần đã kế thừa và phát huy những thành tựu của văn học đời Lý

    1. Trần Thái Tông (1218-1277) là vị vua đầu tiên của nhà Trần, không chỉ có tài trị nước mà còn là một nhà thơ nổi danh, một nhà thiền học lỗi lạc, là “bó đuốc sáng của thiền học Việt Nam” (Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam Cổ Văn Học Sử, bản in 1970, S, tr. 165). Sách Khóa Hư Lục của ông là tác phẩm triết luận về Phật Giáo đầu tiên có một giá trị lớn về văn học, không chỉ là đỉnh cao của văn học đời Trần mà còn là đỉnh cao về lĩnh vực ấy trong văn học Việt Nam. (Xem thêm: Nguyễn Lang, VNPGSL I, sđd, tr. 242-271). Nhìn ở góc độ thi ca, học giả Đào Duy Anh (1904-1988) đã cho rằng: “Tất cả những bài Kệ- trong Khóa Hư Lục - đều là thơ, thơ thất ngôn, ngũ ngôn hoặc tứ ngôn; tất cả những bài khác đều là văn biền ngẫu chặt chẽ và đầy hình tượng. Khóa Hư Lục chữ Hán, về hình thức cũng như về nội dung là một tập thơ nghĩa rộng”. (Khóa Hư Lục, Đào Duy Anh dịch, nhà xb KHXH, H, 1974, tr. 11).

    1. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung (1230-1291), một nhà thơ lớn không chỉ của văn học đời Trần mà là của cả văn học Việt Nam, một gương mặt thiền học độc sảng, là nhà thơ Việt Nam đầu tiên đã di đến tận cùng nơi các con đường của Tam Giáo Nho Phật Lão: từ nẻo nhập thế hành động trong thực tiễn của Nho, đến cái nhàn dật phóng khoáng của Lão Trang, và cái siêu thoát, tự tại, phá chấp triệt để của Phật. (Xem: Nguyễn Lang, sđd, tr. 273-298; Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, Trúc Thiên dịch, ĐH Vạn Hạnh xb, S, 1969).

    1. Một số tác phẩm thơ chữ Hán của vua Trần Nhân Tông (1258-1308), thiền sư Pháp Loa (1284-1330), thiền sư Huyền Quang (1254-1334), Trần Quang Triều (1287-1325)… là những thành tựu đáng kể của văn học thời thịnh Trần. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên, trong sách “Ngô Thì Nhậm Trong Văn Học Tây Sơn” đã xem các bài thơ: Đăng Bảo Đài Sơn, Thiên Trường vãn vọng… của Trần Nhân Tông; Phiêm Chu, Yên Tử sơn am cư của thiền sư Huyền Quang là những đỉnh cao của sự kết hợp giữa văn họcthiền học mà ông gọi là “vùng khí quyển của mỹ học thiền” (Mai Quốc Liên, sđd, Sở VNTTN Nghĩa Bình xb, 1985, tr. 191).

    1. Về văn học chữ Nôm, theo sự ghi chép của sử thì được phát khởi từ đời Trần Nhân Tông với người mở đầu cho phong trào làm thơ phú bằng chữ Nôm ấy là Nguyễn Thuyên, đang giữ chức vụ Hình Bộ Thượng Thư đời đó. Nhưng hiện nay, tài liệu về văn học chữ Nôm thời Trần mà chúng ta có được gồm bốn bài: Cư trần lạc đạo phú (Bài phú nói về việc ở cõi trần mà vẫn vui với đạo), Đắc thú lâm truyền thành đạo ca (Bài ca nói về thú vui đạt đạo nơi chốn lâm tuyền) của vua Trần Nhân Tông; Bài vịnh Hoa Yên Tự phú (Bài phú vịnh chùa Hoa Yên, núi Yên Tử) của thiền sư Huyền Quang; và bài Giáo Tử Phú, tương truyền là của Mạc Đỉnh Chi (?-1346), đều là những tác phẩm được viết từ cửa Thiền. Về ba bài đầu, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Các tác phẩm Nôm của Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An hiện nay đều bị thất truyền. Nhưng Trúc Lâm điều ngự, người đã ban họ Hàn cho Nguyễn Thuyên đã để lại hai tác phẩm Nôm… Huyền Quang đã để lại một bài phú… Điều này chứng tỏ thơ phú bằng chữ Nôm đã được khởi đầu trong chốn thiền gia”. (VNPGSL I, sđd, r. 420).

       Riêng về bài Giáo Tử Phú, cho dù không phải là của Mạc Đỉnh Chi như có người đã ngờ, thì lại càng chứng tỏ bài phú ấy đã được sáng tác từ trong cửa Thiền với chủ đích nhằm khuyên dạy hàng tín đồ phải dốc lòng tu tập, thông qua một người đã tận mắt chứng kiến bao nỗi khổ nơi cõi địa ngục (Xem Hợp tuyển thơ văn Việt Nam T.2, thế kỷ 10-17, nhà xb VH, H, 1976, tr.173-179).

       Tóm lại, cho dù không hoàn toàn chia sẻ ý kiến của giáo sư Nguyễn Lang như đã dẫn, chúng ta cũng khẳng định được rằng: Bình minh của văn học chữ Nôm đã gắn liền với cửa Thiền. Xin trích dẫn một số câu phú Nôm tiêu biểu của thời kỳ mở đầu ấy:

       “Dứt trừ nhân ngã, thời ra tướng thực Kim Cương; đình hết tham sân, mới lảu lòng màu Viên giác.

       Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây Phương; Di Đà là tính sáng soi, nỡ phải nhọc tìm Cực Lạc…

       Biết Chân Như, tin Bát Nhã, chớ còn tìm Phật Tổ tây đông; chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiên nam bắc…”

       (Cư trần lạc đạo phú, Đinh Gia Khánh phiên âm, Hợp Tuyển Thơ Văn Việt Nam, T2, sđd, tr. 109-110).

       “Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng, vượn bồng con cời cửa nghe kinh.

       Nương am vẳng, Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu may nhè nhẹ;

      Ghé song thưa; thầy ngồi thiền định, trăng vằng vặc núi xanh xanh”.

       (Vịnh Hoa Yên tự phú, Đinh Gia Khánh phiên âm, sđd, tr. 164).

       e.  Đến đầu thế kỷ 15, câu thơ Nôm đang tiến dần đến sự trưởng thành, đánh dấu cho giai đoạn này chính là bài thơ Nôm “Cầu siêu cho Nguyễn Biểu” của nhà sư chùa Yên Quốc. Vị sư này chưa được rõ về tên họ, đạo hiệu, chỉ biết ngôi chùa Yên Quốc tọa lạc gần chỗ Nguyễn Biểu hy sinh vào năm 1413) (Nguyễn Biểu là sứ của vua Trần Trùng Quang sai đi thương thuyết với tướng nhà Minh là Trương Phụ) do cảm kích trước nghĩa khí của một sĩ phu yêu nước, nhà sư đã viết nên bài thơ Nôm bất hủ:

“Chói lọi một vầng tuệ nhật

Ùn ùn mấy đóa từ vân

Tam giới soi hòa trên dưới

Thập phương trải khắp xa gần

Giải thoát lan lan nghiệp chướng

Quang khai chon chon mê tán

Trần quốc xảy vừa mạt tạo

Sứ hoa bông có trung thần

Vàng đúc lòng son một tấm

Sắt rèn tiếc cứng mười phân

Trần kiếp vì đâu oan khổ

Phương hồn đến nỗi trầm luân

Tế độ dặn nhờ từ phiệt

Chân linh ngõ đuợc phúc thần”.

(Dẫn theo Thơ Văn Lý Trần T3, nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 515-516)

 

       Chúng ta nhận thấy nhà sư này đã thực hiện một cách trọn vẹn hai chức năng nơi con người thơ của mình: chức năng một nhà sư của đạo từ bi và chức năng một công dân yêu nước ngợi ca truyền thống bất khuất của dân tộc mình. Ở khía cạnh lịch sử, bài thơ Nôm trên chính là một đoản ca bi tráng, chứng nhân cho một giai đoạn đau buồn của đất nước ta.

       5. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 là thời suy kém của Phật Giáo Việt Nam, hơn nữa, còn bị giới Nho sĩ chịu ảnh hưởng của Tống Nho, kỳ thị, đả kích. Tuy vậy, chính trong thời kỳ này, thiền họcvăn học Việt Nam đã có được một sự gặp gỡ tuyệt diệu: người tạo nên sự gắn bó ấy chính là Nguyễn Trãi (1380-1442), một trong số các gương mặt lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam. Sau thời đại Lý Trần, Nguyễn Trãi là nhà Nho đầu tiên đã có những tiếp cận thấu đạt nhất với thiền học. Cảm hứng về thiền trong thơ của Nguyễn Trãi đã được thể hiện qua nhiều sắc thái; và với bài thơ Nôm “Cây Mộc Cận”, chúng ta có thể nói đến một sự ngộ đạo nơi Ức Trai:

“Ánh nước hoa in một đóa hồng

Vết nhơ chẳng bén, Bụt làm lòng

Chiều mai nở, chiều hôm rụng

Sự lạ cho hay tuyệt sắc không”

(Bài Cây Mộc Cận, Nguyễn Trãi Toàn Tập, nhà xb KHXH, H, 1976, tr. 471)

 

       Hoa mộc cận tức hoa Bông Bụt, một loại hoa dân gian quá đỗi quen thuộc đến độ ít người diễn tả, thế mà Nguyễn Trãi đã lãnh hội nó với một rung cảm thiền học hết sức phong phú. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã chuyên chở được hai luận điểm then chốt, cốt lõi của thiền học: Phật tức tâm (Vết nhơ chẳng bén Bụt làm lòng) và Bất nhị (Sự lạ cho hay tuyệt sắc không). “Sự lạ cho hay tuyệt sắc không” chính là sự yên lặng trên nẻo đường tiếp cận với thế giới vô ngôn nhiệm mầu khiến ta nhớ tới cái im lặng của ngài Duy Ma Cật đã được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tán thán: “Tốt lắm, tốt lắm, đến nỗi không cả văn tự ngôn ngữ mới thật là nhập vào pháp môn Bất Nhị”. (Kinh Duy Ma, HT Trí Quang dịch, bản in 1994, tr. 156).

       6. Tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” tương truyền của vua Lê Thánh Tông (1442-1497) tuy có chỗ cần bàn thêm (như thái độ đùa cợt đối với giới cô hồn thiền tăng) nhưng đây là tác phẩm chữ Nôm đầu tiên chịu ảnh hưởng của Phật Giáo về khía cạnh nghi lễ, cúng tế. Điều này chứng tỏ tục cúng và chẩn tế cô hồn, thường được tổ chức trong các ngày lễ lớn của Phật Giáo, nhất là vào ngày lễ Vu Lan rằm tháng bảy, đã có một âm vang đáng kể trong xã hội. Đó là những tiền đề thuận lợi để cho cửa thiềnvăn học Việt Nam sau này có được “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của thi hào Nguyễn Du (1765-1820).

       7. Bốn gương mặt lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam cũng lại là các nhà thơ có những tiếp cận sâu sắc nhất về Phật học. Đấy là Nguyễn Trãi (1380-1442), Lê Quý Đôn (1726-1784), Ngô Thì Nhậm (1746-1803) và Nguyễn Du (1765-1820).

      1. Chúng ta đã nói đến một Nguyễn Trãi đạt đạo với bài thơ Nôm Hoa Mộc Cận. Về phương diện chiêm bái, Nguyễn Trãi đã từng sang tận chùa Nam Hoa – còn gọi là chùa Bảo Lâm - gần dòng suối Tào Khê, từng là đạo tràng lớn của Tổ Huệ Năng (638-71), vị tổ thứ sáu của thiền tông Trung Hoa. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trãi ở đây là ngôn ngữ của một Phật tử thuần thành:

“Thần tích phi lai kỷ bách xuân

Bảo Lâm hương hỏa khê tiên nhân

Hàng long, phục hổ, cơ hà diệu

Vô thụ, phi đài, ngữ nhược tân

Điện trắc khởi lâu tàng bát Phật

Khảm trung di tích thuê chân thân

Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy

Tây tận nhân gian kiếp kiếp trần”.

(Gậy thần bay đến mấy trăm niên

Hương hỏa Bảo Lâm giữ trọn nguyên

Phục cọp, hàng rồng sao phép diệu

Chẳng đài, không thụ vẫn lòng truyền

Nơi tàng bát Phật lâu bền đấy

Dẫu lột xác phàm tháp giữ nguyên

Trước cửa Tào Khê dòng nước chảy

Lâng lâng gột sạch mọi trần duyên).

(Bài Thăm Chùa Nam Hoa, Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi Toàn Tập, sđd, tr. 383-384)

 

       Câu “Hàng long phục hổ cơ hà diệu” nhắc đến những truyền thuyết về các trường hợp hàng phục các loài thú dữ của các vị thiền sư, cũng như bản thân Lục Tổ đã từng hàng phục con rồng dữ nơi đầm rộng trước chùa (Xem: Sơ lược sự tích Lục Tổ, in trong Kinh Pháp Bảo Đàn, cư sĩ Diên Sinh dịch, Sen Vàng xb, S, 1961, tr. 12). Câu: “Vô thụ phi đài ngữ nhược tân” là nhắc lại hai câu đầu trong bài kệ của Lục Tổ: “Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài”. Hai câu kết, không chỉ là sự tôn vinh thiên cảnh Tào Khê mà còn gián tiếp đề cao tính chất nhiệm mầu của Phật pháp trong sứ mạng diệt mê khai ngộ cho chúng sinh. Nơi thơ Nôm, Nguyễn Trãi cũng còn nhắc tới Tào Khê:

“Núi láng giềng, chim bậu bạn

Mây khách khứa, nguyệt anh tam

Tào Khê rửa ngàn tắm suối

Sạch chẳng còn một chút phàm.”

       

      1. Lê Quí Đôn (1726-1784) là nhà bác học trong văn học cổ điển Việt Nam. Về mặt nghiên cứu, lý luận, ông đã dành một thiên Thiền Dật trong sách Kiến Văn Tiểu Lục để bàn về Phật Giáo, ở đây, ông đã lên tiếng phê phán và bác bỏ những thành kiến hẹp hòi thường có nơi một số nhà Nho đối với đạo Phật, biện dẫn về chất “tề gia trị quốc” của Phật Giáo, nêu lên một số điểm tương đồng giữa Nho-Phật, ca ngợi kinh Lăng Nghiêm v.v…. và nhất là bày tỏ một cách tóm tắt kiến giải sâu sắc của mình về Phật Giáo (Xem Kiến Văn Tiểu Lục, Phạm Trọng Điềm dịch, nhà xb KHXH, H, 1977, tr. 363-430).

       Đây là kiến giải của Quế Đường tiên sinh về đạo Phật: “Tôi thiết tưởng đây là đại khái của tông chỉ đạo Phật: vạn vật thế gianhư ảo, con người phải tu tập để đạt được giác ngộ chân chính mà thoát ra khỏi lục trần. Một khi đã thành được diệu đạo tột bực thì trở lại thương xót chúng sinh, thi hành nhiều phương tiện để cứu giúp, ai muốn học đạo chính giác thì giúp cho họ được thành người. Đâu phải là chối bỏ tình anh em họ hàng và dứt tuyệt luân lý cương thường”. (KVTL, Nguyễn Lang dịch, dẫn theo VNPGSL T2, nhà xb VH, H, 1992, tr. 263).

       So với phần trứ thuật, biên khảo hết sức dồi dào thì sự nghiệp sáng tác của Lê Quí Đôn không nhiều, nên tất nhiên là những tác phẩm viết về cửa Thiền của ông cũng ít. Tuy vậy, với bài Minh được khắc trên chiếc khánh đồng chùa Thanh Quang, chúng ta có thể nói đến một Lê Quí Đôn đạt đạo, hay nói như giáo sư Nguyễn Lang là: “ngôn từ - của bài minh ấy – có thể nói là có chất Phật rồi vậy”:

“Duy nhân chi tâm

Xuất nhập vô thì

Định cố tuệ bản

Văn diệc ngộ ky

Quyết chất tắc kim

Quyết danh tắc khánh

Tham thấu kỳ lý

Nhất động nhất tĩnh

Liễu ngộ tuần tỉnh

Nãi thức kỳ hạnh

Hình khí tuy thô

Ý thú tự thâm

Nhân quả không hoa

Vật đàm thiển cận

Ngã cáo chư nhân

Đản lực vi thiện”.

(Chỉ có lòng người

Vào ra không chừng

Nhờ Định có Tuệ

Nhờ Nghe, viên thông

Chất liệu là đồng

Tên gọi là khánh

Thấu đạt nghĩa ấy

Động tĩnh nhất tâm

Giác ngộ tự kỷ

Mới thấu hành tung

Hình chất tuy thô

Ý thú cao thâm

Hoa đốm nhân quả

Đừng bàn thiển cận

Ta khuyên mọi người

Làm thiện hết lòng”.

(Nguyễn Lang dịch, VNPGSL 2, sđđ, tr. 265-266).

       

      1. Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là gương mặt thơ tiêu biểu của văn học thời Tây Sơn và cũng là nhà thơ đạt đạo nhất trong cái xu hướng “tìm đến cửa Thiền” của phần đông các nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 18, từ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) đến chúa Trịnh Sâm (1739-1782), Trần Bá Lãm (thế kỷ 18), Lý Trần Quán (1735-1786), Nguyễn Gia Thiều (1741-1796), Ninh Tốn (1743-?), Vũ Huy Tấn (1749-1800), Phan Huy Ích (1751-1822), Đoàn Nguyên Tuấn (thế kỷ 18), Phạm Thái (1777-1814)…

       Ngô Thì Nhậm đã từng đến chùa tham thiền trong thời gian lánh nạn từ 1782-1786 dưới thời chúa Trịnh Khải nắm quyền:

      “Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên

Kim thu thôn tự nhất tham thiên

Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp

Bối diệp trùng niên bạch ngọc thuyên

Vãng sự kỷ hồi hòe quốc mộng

Cố ngô y cựu trúc lâu duyên

Linh am tự tại, linh quang tĩnh

Sảng nhập ngân câu tú thủy tiên”.

(Bấm đốt năm năm dạt khắp miền

Chùa quê thu lại bước tìm lên

Cánh vàng vừa tách xoè hoa cúc

Lá bối lần xem bén vị thiền

Chuyện cũ giấc hoè bao ảo mộng

Thân xưa lau trúc vẫn tiền duyên

Am thiêng còn đó, tòa sen lặng

Khí mát hồ trong mặt nước lên).

(Bài Cuối thu vào chùa tham thiền, Khương Hữu Dung dịch, Tuyển tập thơ Văn Ngô Thì Nhậm, 
T1, nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 127-128).

 

       Nhìn chung, cảm hứng về thiền học trong thơ Ngô Thì Nhậm khá đậm nét, đáng chú ý nhất là trong chuyến Bắc sứ vào năm 1793, ông đã ghé thăm chùa Hưng Long (Hà Bắc, Trung Quốc) bày tỏ những mến mộ của mình về cảnh và người ở đây. Bài thơ ấy có lời dẫn, và được viết theo thể tam ngôn - mỗi câu ba chữ, gồm 24 câu – là một bài thơ có giá trịhết sức độc đáo trong văn học Việt Nam: (Lời dẫn của bài thơ chỉ xin giới thiệu bạn đọc) “Thơ xưa có câu: Ngẫu nhiên viện trúc cùng sư chuyện, Lại được phù sinh nữa buổi nhàn; dịch: Vì được nhàn vốn đã khó, mà được gặp nhà sư nơi trúc viện lại càng khó, có phải thế chăng?”

       Lão pháp sư trụ trì chốn danh thắng này là nơi nhà vua thường ngự giá đến. Thiền viện nguy nga sáng sủa, những lão sư bền giữ đạo chân như, một chút bụi trần không nhiễm, chẳng khác gì tu khổ hạnh trong tĩnh viện chốn núi sâu, cái nét huyền của nhà sư lại càng đáng chuộng lắm thay! Tôi đang trong lúc bận rộn, được gặp lão sư trò chuyện, tưởng như lên núi báu mà trông tuyết nguyệt, nơi lòng trần bỗng thấy sạch lâng lâng, rất muốn cùng pháp sư bàn về lẽ huyền vi của đạo Phật suốt ngày, nhưng công việc rộn ràng quá thể, thế mới biết cái vui nơi trúc viện, đức Như Lai Thế Tôn không dễ cho người. Nhưng đến đây không thể không có lời tán tụng, nên tôi đành quên mình là người thiển lậu mà đề mấy câu thơ sau đây:

“Liên hoa vân

Ngũ hương huân

Đại pháp luân

Hiện kim thân

Cảnh trường xuân

Oánh vô trần

Hữu lão nhân

Tuyệt tham sân

Lưỡng hải ngân

Hội đạo chân

Mai tinh thần

Hảo ẩn luân

Xa lân lân

Mã phân phân

Danh lợi khuân

Địch thập phân

Phiên thời phân

Úy sở văn

Tương giảng luân

Hiện ân can

Từ bi tan

Quảng vô ngân

Ngã nguyện vân

Lão nhu quân”.

Dịch:

Mây hoa sen

Xông năm hương

Xe pháp lớn

Hiện thân vàng

Cõi trường xuân

Sạch bụi trần

Có ông già

Dứt tham sân

Dõi tròng mắt

Thấu đạo chân

Thần như mai

Khéo ẩn thân

Xe rầm rầm

Ngựa hí ran

Vòng danh lợi

Sạch mười phân

Thoáng gần gũi

Giải băn khoăn

Củng bàn luận

Rất ân cần

Bến từ bi

Rộng mênh mông

Tôi nguyện rằng

Được như ông”

(Ngô Linh Ngọc, Mai Quốc Liên dịch, 
Tuyển tập thơ Văn Ngô Thì Nhậm, sđd, tr. 520-522)

 

       Chúng ta cần nhớ rằng, chính Ngô Thì Nhậm là người đã góp nhiều công sức và trí tuệ giúp vua Quang Trung đánh tan đạo quân xâm lược đông đảo của nhà Mãn Thanh năm 1789. Nhưng đối với vị thiền sư chân tu người Trung Hoa nơi chùa Hưng Long này, ông đã hết mực ca ngợi, xem mình như một đệ tử. Rõ ràng là sức cảm hóa của đạo từ bi đã nâng ông lên tầm cao của một nhà văn hóa chân chính.

       Trường hợp Ngô Thì Nhậm, từ năm 1796, lui về lập thiền viện ở phường Bích Câu-Thăng Long, cùng với các thiện hữu như Ngô Thì Hoàng (1786-1814), hiệu là Hải Huyên, em cùng cha khác mẹ với Ngô Thì Nhậm, Vũ Trinh (1759-1828), hiệu là Hải Âu, em rể thi hào Nguyễn Du, Ngô Đăng Sở (1753-?), hiệu là Hải Hòa và Nguyễn Hành hay Nguyễn Đàm (1771-1824), hiệu là Hải Điền, cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, tham thiền học đạo, bàn luận, viết sách… là một hiện tượng học Phật hết sức đặc biệt, có một không hai trong sinh hoạt văn học Việt Nam. Tác phẩm “Trúc Lâm Tổng Chỉ Nguyên Thanh” đã ra đời trong hoàn cảnh ấy, là đỉnh cao trong nỗ lực dung hợp Nho-Phật của quá trình gần hai nghìn năm du nhập và phát triển ở đất nước ta của hai học thuyết đó. Đã có một số bài viết nhằm tìm hiểu cùng đánh giá tác phẩm kể trên, như: Mai Quốc Liên (Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn, Sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1985), Trần Đình Hượu (Bài tham luận, in trong: Mấy vấn đề về Phật giáolịch sử tư tưởng Việt Nam, Việt Triết học xb, H, 1986), Hà Thúc Minh (Lịch sử phật giáo Việt Nam, nhà xb KHXH, H, 1988)… nhưng khảo sát một cách quán xuyến thâu tóm, đánh giá công bằng, tham bác, có giá trị hơn cả vẫn là những trang viết của giáo sư Nguyễn Lang trong sách VNPGSL T2 (sđd, tr. 267-293).

      1. Nguyễn Du (1765-1820) là gương mặt thơ lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam, mà cũng là nhà thơ có những tiếp cận thấu đạt nhất về Phật học. Toàn bộ tác phẩm của ông đều chịu ảnh hưởng của Phật Giáo. Có thể nói đến một Nguyễn Du dung hợp một cách thành công ba yếu tố Nho-Phật-Lão, đã phổ thông hóa cụm triết lý nhân quả - nghiệp báo của Phật học. Chúng ta cũng có thể nói đến một Nguyễn Du Phật tử trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh với cái đạo tâmtín tâm đã được thể hiện rất rõ, rất đậm nét. Rồi trong khối lượng thơ chữ Hán gồm gần 250 bài, hơn bất cứ một nhà thơ nào trong văn học Việt Nam, Nguyễn Du đã bày tỏ những xót xa, những thao thức, trăn trở đối với bao cảnh vô thường biến đổi của vạn vật, cũng như tính chất hư ảo, bèo bọt của kiếp người, của vinh hoa phú quý… để tiến dần đến thiền học. Và với bài thơ “Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” (Đài đá phân kinh của Thái Tử Chiêu Minh đời Lương), nhà thi hào của chúng ta đã chính thức đặt chân lên vùng trời vô ngôn thênh thang của thiền học. Xin giới thiệu đoạn cuối:

“Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn

Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số

Nhân liêu thử tâm nhân tự độ

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Minh kính diệc phi đài

Bồ Đề bản vô thụ

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh

Cập đáo phân kinh thạch đài hạ

Tài trí vô tự thị chân kinh”.

(Ta nghe Linh Sơn đức Phật tổ

Thuyết pháp độ người nhiều như cát sông Hằng nọ

Người tu được tâm độ lay rồi

Linh Sơn chỉ ở lòng người thôi!

Chẳng có đài gương sáng

Chẳng có cây Bồ Đề

Ta đọc Kim Cương trên nghìn lượt

Lắm điều sâu kín hiểu không rành

Đài đá phân kinh nay được đến

Mới hay “không chữ ấy chân kinh”).

(Ngô Linh Ngọc, Mai Quốc Liên dịch, Nguyễn Du Toàn tập I, nhà xb VH, H, 1996)

 

       e. Trong văn học hiện đại, bài thơ Lửa Từ Bi của nhà thơ Vũ Hoàng Chương có một vị trí đặc biệt. Nếu ngọn lửa tự thiêu của HT Quảng Đức đã thắp sáng lên tinh thần vô úy, tỏa lên sức mạnh của từ bitrí huệ, góp phần đẩy bánh xe lịch sử dân tộc tiến lên phía trước, thì bài thơ Lửa Từ Bi là một chứng tích, một dấu ấn văn học đậm đà của một thời kỳ lịch sử, một khẳng định bằng ngôn ngữ thi ca cho sự gắn bó giữa Phật Giáo và dân tộc Việt Nam. Ngôn ngữ thơ ở đây đã là ngôn ngữ nhuần nhuyễn của một người hiểu Phật và tin Phật:

“ Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc

Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi

Chỗ người ngồi: một thiên thu tuyệt tác

Trong vô hình sáng chói nét từ bi

Rồi đây… rồi mai sau còn chi?

Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát

Với thời gian lê vết máu qua đi

Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ Tát

Đội hào quang xuống tận chốn A Tỳ ’’

(Lửa Từ Bi, dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL T3, 
nhà xb Lá Bối, Paris, 1985, tr. 361)

    1. TÍNH CHẤT DIỄN TẢ, TÔ ĐIỂM

       Phật Giáo, cũng như bất cứ một hình thái xã hội nào đã trụ thế với đất nước Việt Nam thông qua những hình thức quen thuộc của mình: ngôi chùa, các nhà sư, tiếng chuông mõ, kinh kệ, những sinh hoạt về lễ bái cúng kính v.v…. tất cả đã là những hiện thực gần gũi trong cộng đồng dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa. Từ những hiện thực phong phú trong cuộc sống, chúng ta đã được chuyển hóa thành những hiện thực sinh động trong văn học là chuyện hầu như tất nhiên.

  1. Trước hết là hình ảnh ngôi chùa, tiếng chuông chùa đã gắn bó với cả chiều dài chiều rộng của văn học Việt Nam, cả văn học dân gian, cổ điểnhiện đại.

      1. tục ngữ, ca dao, chúng ta sẽ luôn gặp ngôi chùa trong suốt cả cuộc đời của một con người:*

       Ngôi chùa làng quen thuộc: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”

       Ngôi chùa, tiếng chuông chùa của sự hẹn hò, thề ước.

“Bao giờ cạn lạch Đồng Nai

Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền”

“Tiếng chuông Thiên Mụ dặn dò

Em đi cảnh vắng, hẹn hò cùng ai”.

Ngôi chùa với ước nguyện của đôi lứa:

“Lên chùa lạy Phật quy y

Cầu cho bến nớ, bên ni kết nguyền”.

Ngôi chùa với tình yêu gắn bó của đôi vợ chồng trẻ :

“Đôi ta như tượng mới tô

Như chuông mới đúc, như chùa mới xây”.

Ngôi chùa thân thuộc trong sinh hoạt của người dân:

“Dù ai đi đâu về đâu

Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về”.

Ngôi chùa với quá trình lao động của dân chúng:

“Rủ nhau xuống biển câu cua

Lên non hái nhãn vô chùa nghe kinh”.

Ngôi chùa trên đường Nam tiến của dân tộc:

“Ra đi gặp vịt cũng lùa

Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”.

Ngôi chùa gắn liền với các lễ hội truyền thống:

“Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”

“Nhớ ngày mồng bảy tháng ba

Trở vào Hội Láng, trở ra Hội Thầy”.

“Mồng bảy Hội Kám, mồng tám Hội Dâu

Mồng chín đâu đâu trở về Hội Dóng”.

Ngôi chùa trong sự hiếu thảo của người con:

“Lên chùa thấy Phật muốn tu

Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đành”.

“Ngó lên trên trời thấy cặp cu đương đá

Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua

Anh về lập miếu thờ vua

Lập am thờ mẹ, lập chùa thờ cha”.

Ngôi chùa trong bóng xế của đời người:

“Thiếp về lựa chuối thiếp mua

Lựa hương thiếp thắp, lựa chùa thiếp tu”.

Ngôi chùa của tuổi già:

“Trẻ vui nhà, già vui chùa”.

      1. Một điểm đáng chú ý là trong tục ngữ ca dao Việt Nam, ngôi chùa còn được sử dụng qua ngả ẩn dụ, càng chứng tỏ sự gắn bó của hình ảnh ngôi chùa trong tư duy của người Việt Nam:

“Chùa rách Phật vàng”.

“Ăn xôi chùa ngọng miệng”.

“Bụt chùa nhà không thiêng”.

“Có vả thì phụ lòng sung

Có chùa bên bắc, bỏ miếu đông tồi tàn”.

“Tuy rằng ăn ở chùa này

Tiền lưng gạo bị cúng thầy chùa kia”.

“Công tôi đánh đá xây tường

Để ai đóng oản, dâng hương chùa này”.

“Thương thay thân phận con rùa

Ra đình đội hạc, lên chùa đội bia”…

       

      1. Trong văn học chữ Hán, hình ảnh ngôi chùa, tiếng chuông chùa đã là những nguồn cảm hứng lớn. Chỉ nói riêng về phần thi ca, chúng ta có thể kể ra hằng mấy trăm bài thơ viết rất đạt về ngôi chùa, tiếng chuông chùa, mỗi bài là một ghi nhận, một phát hiện, một soi sáng hay một khám phá. Đây là ý kiến của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791): “Sớm tối đánh vài hồi chuông cho lòng trần lắng sạch…” (Thượng Kinh Kỷ Sự, Bùi Hạnh Cẩn dịch, nhà xb Hà Nội, 1977, tr. 152). Kể cả một số tác giả từng có ác cảm với cửa thiền như Trương Hán Siêu (?-1354), Sái Thuận (thế kỷ 15), Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Phạm Quý Thích (1760-1825)… cũng đã có những ghi nhận đặc sắc về các cảnh chùa:

       Đó là những khám phá mang tính chất ân hận của Trương Hán Siêu:

“Trung lưu quang tháp ảnh

Thượng giới khải nham phi

Phù thế như kim biệt

Nhàn thân ngộ tạc phi”…

(Tháp in trên dòng sáng

Cửa động mở đầu non

Cuộc đời ta mây nổi

Biết ngay xưa lạc lầm)

(Bài Khắc Đá Núi Dục Thúy, Nguyễn Lang dịch, 
VNPGSL2, sđd, tr. 260)

Sái Thuận đã ghi nhận về chùa Phả Lại:

“Phù dạ chung quy hải

Hàm thu nguyệt trụy giang

Long ngâm môn ngoại thủy

Lộ quá vụ biên song

Ngư châu địch kỷ xoang”.

(Chuông tối vang ra biển

Trăng thu rớt giữa dòng

Rồng kêu sông trước cửa

Cò lướt khói bên song

Thỉnh thoảng còi ngư thổi

Khua tỉnh mộng sư ông”) 
(Bài Chùa Phả Lại, Hoàng Việt Thi Văn Tuyển, bd của nhóm Lê Quí Đôn, 
dẫn theo bản Ronéo của ĐHSP Sài Gòn, T3, tr.42-43).

       Ngô Thì Sĩ đã có những phát hiện khi ghé thăm chùa Trinh Sơn:

“Yên hà tam sổ tính

Kim tích kỷ thiên thu

Danh lợi nhân không nhiệt

Lâm tuyền cảnh tự u

Bồi hồi ngâm bất tựu

Tôn thạch khán giang lưu”.

(Mấy đỉnh khói mây phủ

Muôn thu ngày tháng trôi

Lợi danh người náo nức

Rừng suối riêng thảnh thơi

Trên đá nhìn sông chảy

Thơ không thành, bồi hồi)

(Bài Lên Thăm Chùa Trinh Sơn, Băng Thanh dịch, Ngô Thì Sĩ, 
Trần Thị Băng Thanh biên soạn, nhà xb Hà Nội, 1987, tr. 113-114).

       Phạm Quý Thích đã thực sự khám phá và cảm nhận chất thiền khi mô tả một số cảnh đẹp chung quanh chùa Trần Quốc:

“ Thanh thả liên y

Tây Hồ chi thủy

Bách ức liên phi

Nhứt thiết hoan hỉ

Bất cảm hà tịch?

Bất linh hà hư?

Quản bỉ thủy nguyệt

Tư kiến chân như”

(Sóng gợn trong vắt

Mặt nước Tây Hồ

Ngàn đóa hoa sen

Đua nhau vui nở.

Tịch nào không cảm?

Hư nào không thiêng?

Trăng lồng đáy nước

Soi tỏ chân như)

(Bài Minh của văn bia chùa Trần Quốc, Tuyển Tập văn bia Hà nội, T1, 
nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 37-38 dịch, tr. 138 Hán).

       

      1. Hầu hết các tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, từ Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (khuyết danh), Tư Dung Văn (Đào Duy Từ, 1572-1634), Phan Trần (khd), Nhị Độ Mai (khd), Bich Câu Kỳ Ngộ (khd), Quan Âm Thị Kính (khd), Quan Âm Nam Hải (shd)… đến Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái (1777-1814), Hoa Tiên truyện của Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)… đều có đề cập đến hình ảnh ngôi chùa hoặc đậm nhạt với những vị trívai trò không giống nhau, nhưng thấy cùng có một điểm chung là đều gián tiếp xác nhận rằng đó là những hình ảnh không thể thiếu. Xin giới thiệu đoạn tả cảnh chùa Kim Sơn là đoạn thơ đẹp nhất trong Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái:

“Đầu non vượn hót khỉ treo

Cây kê cửa động, hoa leo mái già

Chim rừng dóng dả tiếng ca

Nước tuôn khe biếc, khói pha lá vàng

Kinh Thủy Sám, kệ Kim Cương

Rẩy cành cam lộ, thét gươm Đại Hùng

Úm ma ni bát minh hồng

Kinh vang tiếng giác, cả giong giọng từ

Nguyện Di Đà, niệm Tỳ Lư

Bồ Đề là đạo, chân như ấy lòng”

(Dẫn theo Nguyễn Văn Xung, Phạm Thái và Sơ Kính Tân Trang, 
nhà xb Lửa Thiêng, S, 1972, tr. 123).

       

      1. Chỉ nói riêng về Phần Thơ Mới trong văn học hiện đại, mặc dù thời bấy giờ nhiều nhà thơ đã quá hăm hở trong việc đi hứng lấy luồng gió lãng mạn từ phương Tây thổi sang, hình ảnh ngôi chùa và tiếng chuông chùa vẫn có mặt một cách sinh động trong thơ của Nam Trân, Đoàn Văn Cừ, Nguyễn Nhược Pháp, J. LeiBa, Hồ Dzếnh, Anh Thơ, Bích Khê, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Ngân Giang, Xuân Tâm, Nguyễn Bính… Nếu ở thơ Nôm, Chu Mạnh Trinh (1862-1905) được xem là nhà thơ của chùa Hương với Hương Sơn Phong Cảnh, Hương Sơn Nhật Trình Ca, thì ở thơ Mới, cái tên gọi thân thuộc ấy có thể dành cho Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) với bài thơ dài viết về chùa Hương được nhiều người biết đến. Cũng trong ý hướng tìm về các lễ hội truyền thống, ngôi chùa đã gắn liền với tục lễ bái-hái lộc đầu xuân của người dân trong thơ Nguyễn Bính (1919-1966):

“Trên đường cát mịn một đôi cô

Yếm đỏ, khăn thâm trẩy hội chùa

Gậy trúc, dắt bà già tóc bạc

Lần lần tràng hạt niệm Nam mô”

(Bài Xuân Về, dẫn theo Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại
nhà xb Khai Trí, S, 1968, tr. 352).

 

       Và thử xem, “Bức Tranh Quê” của nữ sĩ Anh Thơ sẽ thiếu sót biết bao nếu như không có ngày Rằm tháng bảy, ngày Lễ Vu Lan và cũng là ngày Tết Trung Nguyên của dân tộc. Hơn thế nữa, đối với Nguyễn Bính, ngôi chùa quê đã trở thành một phần của quê hương thương nhớ của mình:

“Quê tôi có gió bốn mùa

Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm

Chuông hôm gió sớm trăng rằm

Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi!

Mai này tôi bỏ quê tôi

Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa!”

(Dẫn theo Mãn Giác, Phật Giáo và Nền Văn Hóa VN, 
ĐH Vạn Hạnh xb, S, 1967, tr. 58)

       

  1. Hoa, hương, ánh trăng gió nước, chim chóc, cây cỏ… là những hiện thực, những sự kiện đem lại nhiều ý nghĩa cho cuộc sống con người. Vì sinh hoạt trong Phật Giáo thường gắn liền với chúng, nên nhiều nhà thơ, từ cửa thiền hay đứng gần cửa thiền, đã diễn tả trong sự kết hợp với chất liệu thiền, đem lại cho thi ca Việt Nam những nét phong phú ít có.

    1. Sách Việt Nam Văn Học Sử Yếu của giáo sư Dương Quảng Hàm (1898-1946), phần bàn về kết cấu của ca dao, đã cho rằng bài ca dao “Trong đầm gì đẹp bằng sen…” được kết cấu gồm hai thể Phú và Tỷ:”… vừa tả hoa sen (phú), vừa ví quân tử với hoa sen (tỷ)” (sđd, bản in 1968, tr. 14). Ví người quân tử với hoa sen thì cũng chỉ là một lối suy diễn theo ảnh hưởng của Nho Giáo mà thôi. Theo chúng tôi, bài ca dao ấy có thể được giảng giải theo quan điểm Phật Giáo, vì đạo Phật đã từng thuyết minh rất nhiều về hoa sen, một trong số các bộ Kinh nổi tiếng của Phật Giáo Bắc TôngKinh Diệu Pháp Liên Hoa (Hoa Sen chánh pháp, chữ của HT Trí Quang), và hình ảnh các vị chân tu hết lòng vì đạo, vì nước, hình ảnh các vị Bồ Tát xả thân vì đời, lợi lộc không màng… mới đích thực là những con người “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bún”. Có thể xem lại những lời ca ngợi của Ngô Thì Nhậm đối với Liên Lão thiền sư chùa Hưng Long như đã dẫn trên, hoặc hai bài viết của cụ Phan Bội Châu (1867-1940) về thiền sư Thiện Quảng (1862-1911) (Xem truyện Nhà Sư Ăn Rau, trong Phan Bội Châu Toàn Tập, T3, nhà xb Thuận Hóa, 1990 ; Văn Thơ Phan Bội Châu, nhà xb Văn Học, H, 1961, truyện Đường Tăng Nước Nam, thiền sư Thiện Quảng).

    1. Trong văn học Việt Nam, có lẽ vua Lý Thái Tông (1000-1054) là nhà thơ đầu tiên đã nói đến sắc hoa, ánh trăng, trong sự kết hợp với chất liệu Thiền để diễn tả:

“Ung khai chư Phật tín

Viên hợp nhất tâm nguyên

Hạo hạo Lăng Già nguyệt

Phân phân Bát Nhã liên”

(Mở niềm tin đức Phật

Xa hợp một tâm nguồn

Trăng Lăng Già vằng vặc

Sen Bát Nhã thơm truyền)

(Bài Truy Tán Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, TUTA, 
sđd, tr. 167-168).

       Cùng thời với vua Lý Thái Tông, thiều sư Viên Chiếu (999-1091) trong một số “Thoại đầu thiền”* cũng đã kết hợp với những hình ảnh trăng gió hoa của thi ca:

“Trong tuyết mẫu đơn nở

Trời thu oanh hót vang”

(Thu thiên đoàn thử lệ

Tuyết cảnh mau đơn khai)

                                  (TUTA, sđd, tr. 61)

“Gió thổi sừng kêu xuyên rặng trúc

Vầng trăng vượt núi đến bên tường”.

(Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo

Sơn nham đái nguyệt quá tường lai)

                                        (TUTA, sđd, tr. 73).

       

    1. Chúng ta đã nói đến một cành Hoa Mai tuyệt vời của thiền sư Mãn Giác đời Lý. Chúng ta cũng có thể nói tới một Hoa Cúc tuyệt diệu của thiền sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần.

       Bàn về hoa cúc, những người quan tâm đến văn học cổ thường nghĩ tới Đào Tiềm (365-427) nhà thơ xuất sắc thời Đông Tấn, Trung Quốc. Ở Việt Nam, từ đời Trần đã có nhiều tác giả viết về hoa cúc, như Trương Hán Siêu (?-1354), vua Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Nguyên Đán (1325-1390) v.v… Một số nhà thơ nổi danh như Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, đều có nhắc tới loại hoa quen thuộc ấy trong thơ của mình và nhất là Nguyễn Khuyến (1835-1909) với hai bài thất ngôn bát cú Vịnh Cúc (xem: Thơ văn Nguyễn Khuyến, nhà xb VH, H, 1979), tr. 281-283), được xem là người chịu ảnh hưởng đậm của Đào Tiềm “Ở nước ta, thi nhân gần gũi với ông - chỉ Đào Tiềm - nhất là Nguyễn Khuyến” (Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Văn học sử Trung Quốc, T1, nhà xb NHL, S, 1964, tr. 09).

       Nhưng chỉ với thiền sư Huyền Quang, với sáu bài thất ngôn tứ tuyệt viết về Hoa Cúc, với sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và chất liệu Thiền, thì mới tạo được sự gắn bó đậm đà giữa loài hoa đó với cả chiều rộng - chiều cao của kiếp người. Xin giới thiệu bài 2 và bài 5:

“Thiên giang vô mộng cán khô trường

Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang

Lão khử sâu ngậm hon vị ổn

Thi biêu thực vị cúc hoa mang

Hoa tại trung đình, nhân tại lâu

Phân hương độc tọa tự vong âu

Chủ nhân dữ vật hôn vô cạnh

Hoa hướng quân phương xuất nhất đâu”.

(Ngàn sông không đủ thấm lòng già

Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa

Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn

Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta

Người ở trên lầu hoa dưới sân

Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông

Hồn nhiên người với hoa vô biệt

Một đóa hoa vàng chợt nở tung)

(Nguyễn Lang dịch, VNPGSL T1, 
sđd, tr. 371-372)

       “Một đóa hoa vàng chợt nở tung” chính là sự bừng tỉnh của một tâm linh đạt đạo trong cái giây phút nhiệm mầu.

       

    1. Chúng ta đã có một đóa Hoa Bông Bụt trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Ở đây, chúng ta cũng có thể nhìn thấy một đóa hoa sen luôn tươi nở trong cuộc sống của thiền sư Minh Lương (thế kỷ 17).

“Mỹ ngọc tàng ngoan thạch

Liên hoa xuất ư nê

Tu tri sinh tử xứ

Ngộ thị tức Bồ Đề”.

(Ngọc xinh ẩn trong đá

Hoa sen nảy tự bùn

Nên biết tìm giác ngộ

Nơi sinh tử trầm luân

(Nguyễn Lang dịch, VNPGSL T2, sđd, tr. 121)

       Hoặc một cánh chim Nhạn tự tại của Thiền sư Hương Hải (1628-1715):

“Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm”

(Nhạn bay ngang trời

Bóng chìm đầm lạnh

Nhạn không ý lưu lại dấu

Nước không tâm giữ lại hình)

                                             (Nguyễn Lang dịch, sđd, tr. 175)

       Hay một ánh mặt trời mãi tỏa sáng của thiền sư Chân Nguyên (1646-1726):

“Hữu thuyết giai thành báng

Vô ngôn diệc bất dung

Vị quân thông nhất tuyến

Nhật xuất lĩnh đông hồng”

(Nói ra là bị kẹt

Không nói cũng chẳng xong

Vì anh đưa một nét

Đầu núi ánh dương hồng)

                                                     (Nguyễn Lang dịch, sđd, tr. 14-15) 

       

    1. Với cụ Phan Bội Châu (1867-1940), chúng ta cũng có thể nói đến nhiều đóa hoa Sen và nhiều nụ Ngọc Lan:

Hoa Sen :

“Tròn lửng bóng in trăng đáy nước

Hồng tươi sắc khiếp ráng chiều hôm

Trên tây Phật Thích càng thêm thánh

Dưới gót Phan Thi chẳng kể phàm”

 (Thơ văn Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế, Trần Anh Vinh, Chương Thâu bs, 
nhà xb Thuận Hóa, 1987, tr. 119)

Sen tàn:

“Sắc ấy không chăng, không ấy sắc

Cây còn gốc đó, gốc còn cây

Chẳng bao lâu nữa đông sang hạ

Lá lục hoa hồng lớp lớp bay”

                                         (Sđd, tr. 120)

Vịnh Hoa Ngọc Lan:

“Tiền thân chúng xuất tự Bồng Lai

Di hướng Bồ Đề viện lý tài

Tố nhụy quan tranh đông dạ tuyết

Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu mai

Hương chân vương giả thiên thùy thưởng

Trang tỷ Hằng Nga nguyệt ám xai

Duy Phật trùng lai năng thức Phật

Ân cần huệ ngã thử hoa khôi”.

 

(Kiếp xưa sinh ở chốn Bồng Lai

Dời xuống trồng bên cạnh Phật đài

Nhụy trắng đêm đông tranh sáng tuyết

Phẩm thơm đầu núi át mùi mai

Hương như vương giả trời thương đến

Đẹp ví Hằng Nga nguyệt ghét hoài

Chỉ Phật mới hay thông rõ Phật

Ân cần tặng tớ một nhành mai)

                                                           (Trần Văn Tường dịch, sđd, tr. 212-213)

       Cần ghi chú thêm là bài thơ Vịnh Hoa Ngọc Lan, cụ Phan đã viết đề tặng HT Tịnh Khiết (1890-1973) chùa Tường Vân, Huế.

    1. TÍNH CHẤT CHUYÊN CHỞ, PHẢN ÁNH

       Phần được bàn sau cùng là sự gắn bó giữa Phật Giáo với văn học Việt Nam trong quá trình cung cấp cùng nâng cao những cái nhìn về nhân sinh, vũ trụ. Thực ra thì khi giới thiệu một số chi tiết ở phần hai, chúng ta đã ít nhiều nhận ra những cái nhìn như thế cho nên phần này được xem như là bổ sung cho phần trước.

    1. Đây là ý kiến của giáo sư Trần Quốc Vượng trong sách “Lịch Sử Việt Nam” tập I : “Thuyết nhân quả - nghiệp báo của Phật Giáo phù hợp với tín ngưỡng dân gian Việt Nam về việc ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp ban thưởng người lành. Thuyết luân hồi cũng phù hợp với quan niệm linh hồn tồn tại sau khi xác thân tiêu hoại và cũng phù hợp với nhận xét về sự tuần hoàn của cây cỏ của cư dân nông nghiệp…” (Sđd, nhà xb ĐH và TH chuyên nghiệp, H, 1983, tr. 396). Ý kiến này giúp chúng ta lý giải sự có mặt một cách phong phú cụm triết lý nhân quả - nghiệp báoluân hồi của Phật Giáo trong văn học dân gian Việt Nam, thông qua nhiều ngả:

      1. Ngả trực tiếp, hiện tiền:

Gậy ông đập lưng ông.

Tham thì thâm, Bụt đã bảo tham rằng chớ có tham.

Ở tinh gặp ma, ở quỷ gặp quái, gian tà gặp nhau.

Ngả báo ứng, thưởng phạt:

Gieo gió, gặt bão.

Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.

Ai mà phụ nghĩa quên công

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

Ngả nghiệp báo-luân hồi:

Làm kiếp trâu ăn cỏ

Làm kiếp chó ăn dơ.

Ai ơi hãy ở cho lành,

Kiếp này chưa gặp, hãy dành kiếp sau.

Trứng rồng lại nở ra rồng,

Liu điu lại nở ra giòng liu điu.

Ngả tu nhân, tích đức:

Hương Bụt thắp thờ Bụt.

Người trồng cây hạnh người chơi,

Ta trồng cây đức để đời về sau.

Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm…

       

      1. Truyện Tấm Cám là truyện điển hình nhất cho ảnh hưởng của triết lý nhân quả-nghiệp báo nơi Phật Giáo đối với mảng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong truyện, Bụt đã hiện ra đến bốn lần để giúp Tấm vượt qua những khó khăn ban đầu. Tính chất báo ứng được trộn lẫn với sự việc đầu thai hóa kiếp… để thể hiện một cách thích hợpsinh động theo hướng dân gian quen thuộc làm nên đặc điểm của nội dung truyện.

      1. Một số mảng giáo lý nhà Phật như lẽ vô thường, biến chuyển, tinh thần nhẫn nhục, từ bi, tính chất tu tâm, tuỳ duyên v.v…. cũng được tục ngữ, ca dao VN ghi nhận, phản ánh:

    • Mỗi năm một tuổi, như đuổi xuân đi

    • Người đời khác nữa là hoa

Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn

    • Dẫu xây chín bậc phù đồ

Sao bằng làm phúc cứu cho một người

    • Chữ nhân là chữ tương vàng

Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu

    • Đi với Bụt mặc cà sa

Đi với ma mặc áo giấy

    • Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài

    • Ăn cơm với cái thì ngáy o o

Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy…

       

    1. thi ca chữ Nôm, nhất là thi ca chữ Hán, trong khi viết về ngôi chùa, bên cạnh việc mô tả, ghi nhận về những giá trị thẩm mỹ của nó, chúng ta còn gặp khá nhiều những phát hiện, khám phá về nhân sinh, vũ trụ… mà chúng ta có thể gọi là giá trị triết lý của ngôi chùa.

  1. Đây là một phát hiện của Chu Văn An (?-1370):

“Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh

Bản chấm thanh phong thể ngoại tình

Phật giới thanh u, trần giới viễn

Đình tiền phút huyết nhất oanh minh”

(Thân nhàn tựa áng mây trôi

Gió trăng nửa gói, việc đời nhẹ thênh

Cõi trần xa, cõi Phật thanh

Sân hoa đỏ rực, chim oanh líu lường)

(Bài Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam, Đào Thái Tôn dịch, Thơ Văn Lý Trần 3, 
nhà xb KHXH, H, 1978, tr, 57)

       

  1. Nguyễn Phi Khanh (1355-1428) còn đi xa hơn khi nghe tiếng chuông chùa mà cảm nhận được tính chất bao la của đất trời:

“Viễn viễn tòng tăng tự

Sơ sơ lạc khách bồng

Triều sinh, thiên địa hiêu

Nguyệt bạch, hựu giang không”

(Vẳng tự chùa xa tới

Tiếng thưa lọt mui bồng

Triều dâng, trời đất rạng

Trăng bạc, sông mênh mông)

(Bài Tiếng chuông sớm ở Hóa Thành, Tiên Sơn, 
Huệ Chi dịch, sđd, tr.473)

       

  1. Từ tiếng chim quen thuộc, Nguyễn Trãi đã khám phá ra sự biến chuyển của vạn vậttính chất mộng ảo của cuộc đời:

“Quân thân nhất niệm cửu anh hoài

Giản quý, lâm tàm túc nguyện quai

Tam thập dư niên trần cảnh mộng

Số thanh đều điểu hoán sơ hồi”.

(Một dạ quân thân vướng vít hoài

Thẹn rừng, tủi suối ước xưa sai

Ba mưoi năm lẻ trong trần mộng

Và tiếng chim kêu tỉnh lại thôi)

(Bài Chùa Đông Sơn, Đào Duy Anh dịch, 
Nguyễn Trãi TT, sđd, tr. 331)

       

  1. Nguyễn Trực (1417-1474) đã nhìn thủng từ làn hương cúng Phậtnhận ra nẻo luân lưu của kiếp người trong thế giới bao la:

“Diệu khê tam sinh mộng

Do tồn nhất lũ yên

Lâu đài phi thế hữu

Hoa mộc đắc xuân thiên

Du mục phù vân ngoại

Mang mang thị đại thiên”

(Phải giấc mộng ba sinh

Khói hương còn phảng phất?

Lâu đài cảnh Nhược, Bồng

Cỏ hoa cùng khoe sắc

Cuộc đời mây nổi kia

Đại thiên trong tầm mắt)

(Bài Lên chùa núi Hương Lô, Hợp Tuyển Thơ Văn VN T2, 
sđd, tr. 346, ĐN dịch)

       

  1. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã đi từ trường hợp cái Đỉnh nổi tiếng ở Chùa Phổ Minh - một trong An Nam tứ khí đời Lý – mà nêu lên sự tương quan giữa vô hình và hữu hình:

Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại

Hương nhân do thuyết địa anh linh

Liêu liêu cô đỉnh kim hà tại?

Thức đắc vô hình thắng hữu hình”

(Pháp giới phải ngang trời rộng lớn

Người làng van nói đất anh linh

Vẳng không cô đỉnh rày đâu tá?

Mới biết vô hình thắng hữu hình)

(Bài thăm chùa Phổ Minh, Hữu Thê dịch, Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, 
nhà xb VH, H, 1983, tr. 233-234).

       

  1. Cũng có thể nói tới một phát hiện của Cao Huy Diệu (hậu bán thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nội tộc của Cao Bá Quát) trong lần đầu lên thăm chùa Tiên Sơn:

“Thiên hoa thắng cảnh cung bình nguyệt

Bát điệp tiền nhân tống phẩm đề

Cước hạ giang sơn kỳ bán cục

Thao thao lãnh tiêu trọc đô mê”

(Duyên xưa tám lá truy nguôn lá

Cảnh đẹp ngàn hoa lựa tứ hoa

Thế giới dưới chân cờ nửa cuộc

Cười ai bể trọc chửa nhìn ra)

(Bài thăm chùa Tiên Sơn lần trước, Ngô Linh Ngọc dịch,

Văn học Tây Sơn, Nguyên Lộc bs, 
sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1986, tr. 382-383)

       

  1. Hoặc một khám phá đầy tính tự hào của Cao Bá Quát (1809-1855), xem như là một khẳng định cho sự gắn bó muôn đời giữa ngôi chùa với sông núi quê hương:

“Thiên địa hữu tư sơn

Vạn cổ hữu tư tự

Phong cảnh dĩ kỳ tuyệt

Nhi ngã diệc lai thử”

(Trời đất có núi ấy

Muôn thuở có chùa này

Phong cảnh đã kỳ tuyệt

Lại thêm ta đến đây…)

(Bài Qua núi Dục Thúy, Ngô Lập Chi dịch, Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát, 
nhà xb VH, H, 1976, tr. 56-57).

       

  1. Cũng từ những phong cảnh kỳ tuyệt, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã hiểu thêm về cuộc sống:

“Tinh không thạch bích sinh hàn vũ

Dạ bán chung thinh lạc nộn triều

Lâm thử giang sơn kỳ thắng tuyệt

Tọa giao khôi lôi nhất thời tiêu”

(Trời quang vách đá dầm hơi nước

Đêm vắng hồi chuông rớt ngọn triều

Ngắm cảnh non sông kỳ tuyệt ấy

Nợ đời bỗng chốc chẳng còn đeo)

 (Bài lên núi Ngũ Hành Sơn lưu đề, Nguyễn Văn Khoa dịch, 
Thơ Văn Nguyễn Khuyến, sđd, tr. 225-226)

       

  1. Đào Tấn (1845-1907) sau hơn mười năm thăng trầm trên bước đường công danh, đã tìm ra chỗ dựa cho đời mình:

“Thập niên hồ hải quy lai mộng

Nhất kỉnh yên hà tự tại thiên”

(Khói hoa một mớ trời dành sẵn

Ao biển mười năm mộng trở về)

(Câu Đối làm ở chùa Linh Phong, Vũ Ngọc Liên dịch, Thư Mục Tư liệu về Đào Tấn, 
Sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1985, tr. 83)

       

  1. Cũng không quên nhắc tới cái khám phá của Chu Mạnh Trinh (1862-1905) nhà thơ Nôm của danh lam thắng cảnh Hương Tích:

“Giữa dòng đáy nước lồng gương

Mượn chèo ngư phủ đưa đường đào nguyên

Lạ cho vừa bén mùi thiền

Mà trăm não với nghìn phiền sạch không”

(Hương Sơn Nhật Trình Ca, dẫn theo VHS Giản Lược 3 
của Phạm Thế Ngữ, S, 1965, tr. 44)

    1. MỘT SỐ SUY NGHĨ, ĐỀ XUẤT THAY CHO KẾT LUẬN

       Xin được nhắc đến cái chân lý mà cũng là niềm tin của chúng tôi: con người, cá nhân hay cả một dân tộc, sẽ không thể có một tương lai tốt đẹp nếu không biết trân trọng và phát huy quá khứ. Như thế, vấn đề được đặt ra là: Phật Giáo đã có được những đóng góp lớn lao cho văn học Việt Nam trong quá khứ. Vậy, Phật Giáo Việt Nam sẽ đóng góp được những gì cho sinh hoạt văn học Việt Nam, hiện tại cũng như tương lai? Vấn đề này xin được xét ở cả hai phía:

       1. Về phía Phật Giáo: Phải thừa nhận rằng, ảnh hưởng của Phật Giáo trong văn học hiện đại Việt Nam - nhất là ở mảng sáng tác – không đậm đà bằng trong văn học cổ điển. Điều này có những nguyên nhân xa gần và có thể thâu tóm vào một số nét chính sau đây:

       -  Đối tượng sáng tác, đề tài sáng tác trong văn học hiện đại được mở rộng hơn so với văn học cổ điển.

       -  Phật Giáo Việt Nam, trong cái biến chuyển chung của đất nước và dân tộc, đã chưa có được những thời gianhoàn cảnh thuận lợi để phát huy bản sắc của mình. Nên nhớ rằng, thời gian từ 1965-1975 ở miền Nam trước ngày đất nước thống nhất, văn học Phật Giáo đã có một số thành tựu đáng chú ý. Các tập thơ của Huyền Không, Trụ Vũ, Trúc Diệp, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, kịch của Lê Văn Siêu (Quốc sư Vạn Hạnh, nhà xb Lá Bối, 1967)…, những tập truyện của Tâm Quán, Nhất Hạnh, Võ Đình Cường, v.v….. là những minh chứng. Tuy nhiên, mười năm chưa phải là thời gian đủ để cho nhân tốt trở nên quả tốt trong văn học.

       -  Từ sau ngày đất nước được thống nhất, Phật Giáo Việt Nam cũng chưa tìm được những hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của mình. Khoảng hơn năm, sáu năm trở lại đây, đất nước có những biến chuyển trong sự “đổi mới”, hoàn cảnh thuận lợi tương đối đối với Phật Giáo đã mở ra và Phật Giáo Việt Nam đã tạo được những bước phát triển, thành tựu ở các mặt. Tuy nhiên, nhìn chung, so với yêu cầu của thời đại, Phật Giáo VN còn khá nhiều điểm hạn chế cần khắc phục để vượt qua cũng như còn gặp phải nhiều khó khăn, cả mặt chủ quan và khách quan.

       -  Đội ngũ những người làm công việc sáng tác ở đây là những văn nghệPhật tử và các văn nghệ sĩ có cảm tình với đạo Phật - vẫn chưa có được thời gianhoàn cảnh tốt để phát huy sở trường của mình. Đấy là chưa kể, đã có một thời gian, một bộ phận của giới trí thức Việt nam đã hiểu lầm hoặc hiểu sai về Phật Giáo, hay thiếu những điều kiện để tạo được những đối thoại, tìm tòi.

       Như vậy, đặt vấn đề Phật Giáo VN sẽ đóng góp được những gì cho đời sống văn học Việt Nam, hiện tại cũng như tương lai, tức cũng là đặt vấn đề “sức sống đích thực của Phật Giáo VN trong hiện tại và mai sau”, đề cập đến nhiều vấn đề như Giáo dục, Hoằng pháp, Nghi lễ, sinh hoạt của gia đình phật tử, nghiên cứu Phật học, in ấn xuất bản, hoàn thành Đại Tạng Kinh Việt Nam trên cơ sở của Tạng Pali và Tạng Hán… Chúng tôi mong có được những ý kiến đóng góp của các vị có những hiểu biết chuyên môn cùng đạo tâm đối với các vấn đề trên, nhằm soi sáng để có được một cái nhìn tổng thể thì mới đưa tới một số kết luận có sức thuyết phục lớn.

       2. Về phía giới sáng tác: Như trên đã nói, giới này gồm các văn nghệPhật tử và các nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch ít nhiều có cảm tình với đạo Phật. Họ đã có, đang có và sẽ có ngày một đông hơn cùng với sự phát triển khẳng định sức sống đích thực của Phật Giáo Việt Nam hiện đại, Tất nhiên là những người làm công việc sáng tác luôn có tinh thần cầu tiến, ham tìm tòi, phát hiện, khám phá v.v…. Cho nên, Phật Giáo, với những vùng đề tài hầu như còn bỏ ngõ, sẽ là những mời gọi đầy lôi cuốn, hấp dẫn. Chúng ta đã có một Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940) với Cô Con Gái Phật Hái Dâu viết về cuộc đời của Ỷ Lan Nguyên Phi đời Lý; một Đoàn Trung Còn trong cố gắng dùng thơ lục bát để diễn thơ tác phẩm The Light of Asia của S.E. Arnold thành Ánh Sáng Á Châu; một Lê Văn Siêu với vở kịch Quốc Sư Vạn Hạnh; một Võ Đình Cường với Ánh Đạo Vàng, Thử Hòa Điệu Sống, Suối Từ - Mùa Gặt; có một Phạm Thiên Thư với Đoạn Trường Vô Thanh, với nỗ lực muốn thi hóa một số kinh Phật tiêu biểu v.v…. Đó là những tham khảo cần thiết cho những người sáng tác đi sau.

       Nhìn chung, cái mà cả hai phía đều cần, phía Phật Giáo Việt Nam và phía những người làm công việc sáng tác, chính là thời gianhoàn cảnh thuận lợi. Nhưng xét cho cùng thì yếu tố quyết định vẫn ở nơi con người, những con ngườitrình độđức độ biết làm chủ thời gianhoàn cảnh.

       Chúng tôi, với những hiểu biếttin tưởng từ quá khứ, chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện cho Phật Giáo Việt Nam đã và sẽ sản sinh ra nhiều những con người như thế.

Đào Nguyên

Mùa Vu Lan 96

 

QUÁN NHƯ
KINH TẾ PHẬT GIÁO

 

       Khi nói tới Kinh Tế Phật Giáo có nhiều người không khỏi ngạc nhiêne dè. Kinh tế tự túc của chùa nhiều lắm là mấy mẫu ruộng cho thuê, để tìm thêm một chút lợi tức. Chùa chẳng phải nhờ bá tánh hỷ cúng đó sao? Trên bình diện quốc gia, mấy nước Phật Giáo chẳng phải là mấy nước nghèo nhất thế giới: Tích Lan, Thái Lan, Miên, Lào, Việt Nam, Miến Điện. Tuy Phật Giáo ảnh hưởng sâu rộng trên văn hóa Trung Hoa nhưng vai chính vẫn là Khổng Khâu và đám môn sinh của Ngài. Còn Nhật? Phật tuy có đóng vai chính nhưng còn có Thần Đạo - Võ Sĩ Đạo kèm bên. Đại Hàn? Có lẽ nhờ viện trợ Mỹ và mấy ông tướng độc tài! Phật Giáo không có đóng vai trò nào trong yếu trong việc phát triển kinh tế. Gần đây Cao Huy Thuần trong một bài báo đăng trên Giao Điểm, cho là phát triển đi đôi với những giá trị Khổng Giáo hơn là Phật Giáo, hay nói rõ hơn phát triển dính liền lòng tự hào về truyền thống văn hóa. Phật Giáo chỉ góp phần vào cái sự phát triển thêm phần tốt đẹp hơn cho những người nào biết nghĩ đến mùa màng ngày mai. Cao Huy Thuần cho rằng vai trò của Phật Giáo là làm tốt xã hội hơn là phát triển kinh tế. Nhất là đừng có dính vào chính trịNhà chùa chỉ tu. Tu được, là có tất cả. Cao Huy Thuần còn cho là Đạo Phật không phải là triết lý xã hội. Như đã nói, có rất nhiều người nghi ngờ sự liên hệ giữa Phật Giáo và phát triển kinh tế, kể cả nhiều trí thức Phật Tử.

       Tuyên Ngôn về một nền kinh tế Phật Giáo

       Nhưng một nhà kinh tế Anh gốc Đức là Schumacher thì không nghĩ vậy. Tác phẩm Small is Beautiful, a Study of Economics As If People Mattered (Blond & Briggs, London, 1977) gây ngay một sự chú ý đặc biệt và nhiều nhà nghiên cứu kinh tế và Phật Học cho đó là một Tuyên Ngôn về Kinh Tế Phật Giáo, âm vang cũng giống như Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản của Marx vào thế kỷ trước. Mặc dù Schumacher nhấn mạnh là mình không phải là một Phật Tửtại vì tư tưởng Phật Học có sẵn đó cho nên ông đem ra mấy nguyên tắc căn bản do Đức Phật dạy để biện chính cho những phê bình của ông với trào lưu kinh tế hiện đại. Ông sinh ở Đức đến Anh vào năm 1930 do học bổng Rhodes Scholar tài trợ, theo học kinh tế tại New College, Oxford. Sau đó ông dạy kinh tế tại Đại Học Columbia, New York khi mới có 22 tuổi. Ông cũng đi vào con đường thực hành thương mại, khai thác nông trại và làm phóng viên. Trong Thế Chiến Thức Hai ông dạy tại Oxford và nhận vai trò cố vấn kinh tế cho chánh phủ Anh tại Đức vào những năm 1946 cho tới 1950. Ông được nhiều chánh phủ trên thế giới tham khảo về việc phát triển kinh tế nông thôn. Ông cũng là Chủ Tịch Sáng Lập Nhóm Phát Triển Kỹ Nghệ Trung Bình mà ông cho là thích hợp với các nước đang mở mang.

       Phát triển kinh tế và hòa bình

       Giải thích thông thường về chiến tranh là sự chênh lệch giữa các nước giàu và các nước quá nghèo, nguyên là thuộc địa của các đế quốc cũ. Sau khi giành được độc lập trong phong trào giải thực, các nước chậm tiến đua nhau đi học kỹ thuật và đường hướng phát triển là nền tảng của hòa bình. Khi giàu có rồi thì ai cũng muốn hưởng, đâu có ai muốn gây ra chiến tranh. Chỉ có các nước nghèo khó nhất, nếu có gây ra chiến tranh, họ không có gì để mất! Và các nước giàu, từ nếp suy nghĩ này, thỉnh thoảng cũng phải viện trợ các nước nghèo, vì đó là cách duy trì nguyên trạng hữu hiệu nhất, và đồng thời còn có cơ hội làm giàu thêm. Giàu hay nghèo, cả hai bên đều vui vẻ!

       Về phương diện cá nhân, tích tụ tài sản, làm giàu càng nhanh càng tốt, tham lam là điều hay (Greed is good!). Lòng tham thì không đáy, ít ai biết tri túc. Người nào tri túc thì không có tham vọng, không có tham vọng tức là phản lại nguyên tắc căn bản của kinh tế: làm giàu cho cá nhân cũng như cho quốc gia. Một trong những kinh tế gia tư bản đầu tiên như Keynes cũng không nói gì hơn là cứu cánh đáng quý hơn phương tiện và thích sản phẩm hơn là sự hữu ích. Keynes là một trong những cha đẻ của chế độ Tư Bản. Nói một cách khác cái mà các tôn giáo gọi là những nguyên tắc đạo đức, không những lạc điệu mà còn làm ngăn trở các phát triển kinh tế. Câu nói bất hủ của Keynes là công bằngngu dại, mánh mun là công bằng (fair is foul and foul is fair).*

       Ai cũng muốn phát triển, nhưng có một vấn đề mà không ai muốn hay dám đặt ra là, liệu tài nguyên của quả đất có đủ cho tất cả mọi người dùng để làm ra sản phẩm mãi mãi không?

       Ý niệm đủ không hiện diện trong kinh tế. Không có cá nhân nào, hay một quốc gia nào theo đuổi con đường phát triển chịu nói: tài sản của tôi đủ rồi, nước tôi giàu đủ rồi. Bởi không ai có thể định nghĩa thế nào là đủ như Lão Tử hay Nguyễn Công Trứ: tri túc. Schumacher xét cái cách khai thác bừa bãi tài nguyên địa cầu và nhận thấy rằng, vào năm 1966 dân số nước giàu chỉ chiếm 31% dân số thế giới nhưng tiêu dùng 87% tài nguyên, trong khi dân nhược tiểu (thường là nghèo) chiếm 69 phần trăm dân số chỉ tiêu thụ 13%. Tính theo đầu người thì dân giầu tiêu thụ 4.52 tấn nhiên liệu mỗi đầu người trong khi dân nghèo chỉ tiêu thụ 0.32 tấn mỗi đầu người. Schumacher dự phóng vào năm 2000 (là năm Sydney tổ chức Olympic Games) thì con số này là 9.64 tấn cho mỗi dân giàu và 1.43 cho mỗi dân nghèo. Số năng lượng tiêu dùng gia tăng một phần vì do dân số tăng gia, một phần vì do sự phát triển kỹ nghệ. Giả sử như một phần ba năng lượng sẽ được các lò nguyên tử cung cấp, số nguyên liệu dự trữ trong lòng đất không phải là vô tận. Cái thái độ chỉ lo làm giàu như vậy, tức là chủ nghĩa hưởng thụ vật chất, không thể nào tiếp tục mãi mãi, vì ý tưởng làm giàu khiến con người không bao giờ biết dừng, ** sẽ làm môi sinh tổn hại một cách không còn cách nào cứu chữa nổi. Những con sông ở Âu Châu mà thế giới biết qua bằng những bài thơ hay bài hát lãng mạn, hiện đang là những con sông chết: thay vì là dòng sông xanh bây giờ chúng chỉ còn là những con kinh nước đen đầy các chất hóa học phế thải kỹ nghệ.

       Schumacher cho rằng cái triết lý tăng trưởng kinh tế vô hạn định phải được đặt lại trong một nhãn quan mới, qua hai câu hỏi căn bản: Khả năng cung cấp nhiên liệu của địa cầu và sự tổn hại môi sinh gây ra do sự phát triển một cách không kiểm soát. Tiến bộ kinh tế chỉ có thể có được khi bản năng tham lam của con người được kích thích và đó là điều mà phần lớn các tôn giáo đều muốn đề kháng lại. Schumacher không nói gì nhiều hơn điều Đức Phật đã dạy từ 25 thế kỷ trước:

       Nếu tật xấu như tham lamđố kỵ được cổ võ, kết quả đương nhiên là đưa đến sự sụp đổ của trí tuệ. Một người lúc nào cũng hành động do lòng tham lamsân hận, sẽ mất khả năng nhận thức sự vật đúng theo bản chất của chúng… Một xã hội đầy dẫy tội ác, họ có thể thực hiện được những tiến bộ đáng kể, nhưng trong khi đó họ lại không có khả năng giải quyết những vấn đề căn bản nhất trong cuộc sống hàng ngày. (Schumacher, Sách đã dẫn, trang 27).***

       Thánh Gandhi đã nói: Quả đất có thể đủ cung ứng cho nhu cầu của tất cả mọi người, nhưng không thỏa mãn đủ lòng tham của tất cả mọi người. Chúng tôi ghi lại câu tiếng Anh vì nó hiện rõ thủ thuật sử dụng ngôn ngữ: Earth provides enough to satisfy every man’s need, but not for every man’s greed.

       Cổ vỏ lòng tham là đi ngược lại con đường trí tuệ, chỉ làm cho con người càng thêm chấp thủ vào của cảisợ hãi kẻ khác sẽ cướp tài sản của mình. Giảm thiểu nhu cầu tức là làm giảm sự căng thẳng gây ra xung đột trên bình diện cá nhân và chiến tranh trên bình diện quốc gia.

       Kinh tế và siêu hình

       Kinh tế đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành mọi sinh hoạt trong thế giới hiện đại. Nó kiểm soát hành vi cá nhân, tập thể và chính quyền. Các kinh tế gia thường dùng tiêu chuẩn giá trị về mặt kinh tế hay thiếu giá trị về mặt kinh tế để đánh giá mọi việc. Có giá trị nghĩa là có lời, thiếu giá trị kinh tế nghĩa là lỗ. Lời lỗ trở thành tiêu chuẩn tuyệt đối để đo lường các hoạt động kinh tế.

       Những từ ngữ như tiến bộ kinh tế, tăng trưởng kinh tế, bành trướng kinh tế trở thành ám ảnh của mọi người. Những yếu tố nào không có giá trị về kinh tế phải cần gạt bỏ ngay, vì nó làm ngăn cản tiến bộ kinh kế. Ai cản trở tiến bộ thì, hoặc là một kẻ phá hoại, hoặc là những người khùng, bịnh hoạn. Nhiệm vụ của các nhà kinh tế giống như nhiệm vụ của một bác sĩ: định bịnh kinh tế và khi thấy được bịnh, sẽ tìm cách loại trừ chứng bịnh đó. Dĩ nhiên là người ta nghe các nhà kinh tế cải nhau như mổ bò về các chứng bịnh kinh tế, nói chi là chữa cho lành mạnh. Cái gì không đem lại lợi nhuận cho một số người đang nắm các hoạt động chính trong lĩnh vực kinh tế đều là đồ bỏ. Chỉ có một số người nào đó (thường là thiểu số), chứ không phải ai cũng được hưởng tiện nghi hay lợi lộc khi kinh tế phát triển. Và nhiều khi một nhóm này hưởng lợi nhiều, thì nhóm khác phải chịu thiệt thòi. Không phải ai cũng cảm thấy mình giàu thêm khi nghe sở thống kê loan báo là tổng sản lượng quốc gia tăng thêm?

       Kinh tế chỉ để ý tới giá trên thị trường (Market value) chứ không để ý tới giá thực. Người mua muốn mua rẻ, người bán muốn bán giá cao. Ai cũng muốn có lợi xứng với công lao và vốn liếng bỏ ra. Ai cũng có trách nhiệm bảo vệ chính mình, chứ không ai lo đến quyền lợi kẻ khác. Nếu một thương gia hạ giá hàng hóa cho một khách hàng vì người đó nghèo quá, thì sẽ bị chê là không biết…buôn bán. Và nếu người mua vì tinh thần quốc gia chỉ muốn mua sản phẩm do nước mình sản xuất, dù là giá thành đắt hơn, sẽ bị xem là… thiếu kinh tế. Nếu có khách hàng nào không chịu mua sản phẩm do những người bị cưỡng bách lao động làm ra (như tù nhân trong các nhà tù Trung Hoa), thì người đó cũng bị chê trách là thiếu óc thương mại. Ngoài chính bản thân ra, không ai chịu trách nhiệm cho ai. Lời thì hưởng, lỗ thì rán chịu. Hàng nào cũng có giá và người nào cũng có thể … mua được. Tất cả mọi sinh hoạt kinh tế đều dựa trên yếu tố vốn-lời-lỗ (Cost-benefit-analysis). Tất cả yếu tố khác ngoài kinh tế đều không đáng kể.

       Schumacher cho rằng trong khuôn khổ đó, hoạt động kinh tế đã vô hình chung làm tổn thương đến văn hóa nhân loại, vì cho rằng cái gì cũng có giá của nó và đồng tiềngiá trị vạn năng. Kinh tế có giá trị nào đó trong khuôn khổ giới hạn của ngành mình, nhưng kinh tế không thể tự đứng một mìnhcần phải có một tư tưởng siêu hình hỗ trợ (meta-economics). Nếu các nhà kinh tế cứ giả đò như môn học của mình là một thứ khoa học độc lập, họ đã phạm một lỗi lầm như các nhà thần học thời Trung Cổ đã cố gắng giải thích các hiện tượng vật lý bằng cách dẫn lại các lời trích trong Thánh Kinh. Thực ra kinh tế hiện nay cũng có một số tư tưởng siêu hình đứng đàng sau, đó là dựa trên giả định về bản tính thiên nhiên của con người: lòng tham lamghen tỵ, trong khi Mạnh Tử cho bản tính con người là nhân (bất nhẫn chi tâm) và Phật Giáo cho rằng mỗi người đều có Phật Tính (Trực chỉ chân tâm, kiến tính thành Phật).

       Nhắc đến siêu hình có nhiều người vội nói ngay, đó là phạm vi của triết lý và tôn giáo, mắc mớ chi tới kinh tế. Mượn một hình ảnh Gandhi đã dùng, triết lý giống như con rắn quấn quanh mình chúng ta, muốn tránh cũng không tránh được. Schumacher đề nghị là, vì kinh tế liên hệ đến hoạt động của con người trong môi sinh, nên có hai yếu tố phải được nghiên cứu để xây dựng nền tảng siêu hình: đó là phần nghiên cứu về con người và một phần nghiên cứu về môi sinh. Nói một cách rõ hơn, trong khi nghiên cứu về con người, kinh tế phải rút ra được mục đíchmục tiêu của ngành học và khi nghiên cứu về thiên nhiên, kinh tế có thể rút ra được phần lớn các phương pháp nghiên cứu* Vì hiện nay chỉ chú ý đến thị trường, các nhà kinh tế đã quên bẵng là con người phụ thuộc vào thiên nhiên.

       Kiểm điểm những tác hại của một loại kinh tế thiếu nền tảng siêu hình, Giáo Sư Phelps Brown trong bài diễn văn Những Khiếm Khuyết của Kinh Tế Học trước Hội Kinh Tế Hoàng Gia Anh đã phát biểu là, cho dù đã phát triển trong khoảng một phần tư cuối của thế kỷ này, khoa kinh tế không đóng góp gì đáng kể trong việc tìm ra giải pháp cho những vấn đề cấp thiết hiện thời và ông liệt kê bốn vấn đề chính như sau: ảnh hưởng nguy hại lên môi sinh, phẩm chất đời sống trong xã hội kỹ nghệ hóa, tăng trưởng dân số và quá trình đô thị hóa.”** Schumacher còn nặng lời hơn khi cho là kinh tế, theo cách cấu trúc và thực hành hiện nay, không những không có đóng góp gì mà còn là một hàng rào hữu hiệu nhất ngăn chặng chúng ta hiểu biết về vấn đề này, vì chỉ dùng các phương pháp phân tích định lượng và vì cái thái độ rụt rè không chịu nhìn thẳng vào bản chất sự việc. ***

       Nếu có người nào hỏi là sự tăng trưởng về tổng sản lượng quốc gia (GNP) là điều tốt hay xấu, nhà kinh tế sẽ gạt ngang. Đối với họ, việc gia tăng này đương nhiên là một điều tốt và không cần biết là ai và có bao nhiêu người sẽ hưởng được sự tăng trưởng đó. Phân chia tài sản quốc gia là phần vụ của nhà chính trị, không phải nhiệm vụ của một nhà kinh tế! Và nếu có người hỏi là trái đất này có thể chịu đựng đà tăng trưởng đó trong bao lâu nữa, họ sẽ dùng những ước đoán thống kê định lượng để làm hỏa mù cho câu trả lời.

       Vì muốn phát triển không ngừng, muốn tạo ra sản phẩm càng nhiều càng tốt, con người đã hung hãn tàn phá thiên nhiên. Các nhà khai thác kỹ nghệ làm như thể là các tài nguyên như than, dầu, chất đốt, uranium là vô tận. Trong khi có những tài nguyên có thể tái tạo được (như rừng) mức tàn phá nhanh hơn là mức rừng được trồng lại. Đó là tại các nước tân tiến, còn tại các nước đang phát triển thì khỏi phải nói. Nam Mỹ, Việt Nam, Thái Lan, Cam Bốt, Nam Dương bao nhiêu rừng cây đã bị đốn rụi chỉ còn là đồi trọc. Ngay cả những nước hạng trung như Úc cũng không tránh khỏi nạn rừng cây bị đốn để làm bột giấy và đũa cây bán cho Nhật, các rừng nhiệt đới (rain forests) bị phá hủy để khai mỏ. Đến cả biển san hô ở ven biển miền Bắc Úc, một kỳ quan của thế giới cũng bị đe dọa vì nguy cơ khai thác dầu hỏa. Công viên quốc gia Kakadu đang được thăm dò để khai thác uranium. *

       Vấn đề thứ hai là phẩm chất của nếp sống trong xã hội kỹ nghệ. Điều này không cần mô tả dài dòng vì hiện nay có hơn 2 triệu người Việt tỵ nạn đã sống và chứng kiến tận mắt phẩm chất của đời sống trong những xã hội kỹ nghệ. Tuy hưởng được những tiện nghi vật chất, nhưng con người trong xã hội hiện đại cũng phải đối đầu với nhiều… vấn đề: tội ác, bịnh tâm thần, những bịnh của nước giàu mà nước nghèo không có, căng thẳng thần kinh…

       Vấn đề thứ ba: dân số toàn cầu tăng trưởng. Trong năm qua, hội nghị về dân số được tổ chức ở Cairô. Các nước giàu, ngay cả ở các nước Tây Phương theo Thiên Chúa Giáo cấm ngừa thai và phá thai, tỷ lệ sinh sản cũng ít hơn các nước nghèo. Trong hội nghị này người ta thấy sự liên minh kỳ quặc giữa Hồi GiáoThiên Chúa Giáo về việc phản đối các biện pháp kiểm soáthạn chế sinh sản. Với thuyết Duyên Khởi và nhất là chủ trương Trung Đạo, Phật Tử không cảm thấy một khó khăn nào trong việc bảo vệ an sinh của cộng đồng nhân loại đối với các biện pháp kiểm soát nhân số.

       Vấn đề đô thị hóa: kinh nghiệm phát triển của Thái Lan, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, là một vấn đề đáng quan tâm. Nó tạo ra một nền kinh tế song đôi (dual econmy) trong đó có hai lối sống khác nhau một trời một vực. Đây không phải chỉ là đơn giản hai lớp người nghèo và giàu sống bên cạnh nhau. Đó là hai lối sống hoàn toàn cách biệt nhau như từ hai thế giới. Thường thì có chừng 15% sống trong các đô thị lớn trong khi 85% còn lại sống trong các vùng quê. Người ta hy vọng là đến một lúc nào đó các đô thị sẽ bành trướng và sẽ chứa nổi số dân còn lại. Hy vọng này thật mong manh vì ngay cả nước giàu cũng còn sự phân phối dân số thiếu quân bình này. Và chúng ta sẽ thấy gì? Sự phát triển đô thị tàn phá cơ cấu kinh tế nông thôn và nông dân không còn có cách nào khác hơn là di dân chuyển hàng loạt về các thành phố đầy ánh sáng. Nó làm cho một số nông dân bị mất gốc rễ, quy tựu về các thành phố lớn hy vọng tìm việc làm và họ dần dần trở thành một thứ lưu dân, sinh vô gia cư tử vô địa tang.

       Và đây là một trong những ý tưởng chính của Schumacher: thay vì đô thị hóa một cách đại quy mô, dựa vào việc phát triển của các kỹ nghệ nặng, các nước kém mở mang nên phát triển thành nhiều vùng kỹ nghệ hạng trung (đó là lý do tại sao tựa sách là Small is Beautiful), không lập lại lỗi lầm của Tây Phương khi phát triển thả ga theo kinh tế thị trường, đến mức tàn phá môi sinh lẫn tàn phá con người. Nó không khiến con người phải làm những công việc vô nghĩa trong guồng xích quá lớn của các cơ xưởng kỹ nghệ hiện đại. Từ Homo Erectus đến Homo Sapiens con người đã sử dụng hai tay và trí óc để thành con người hiện đại. Không nên cổ võ cho một triết lý Greed is Good và Foul is Fair để biến con người thành con người máy móc sống một đời thiếu sáng tạo và thiếu phẩm giá.

       Kinh Tế Phật Giáo

       Sau khi đã phân tích lối phát triển kinh tế dựa trên lòng ham muốn tích lủy vật chất, Schumacher dùng một vài nguyên lý của Phật Giáo để thử kiến tạo nền móng siêu hình cho kinh tế. Ông nói việc chọn lựa tư tưởng Phật chỉ là một sự tình cờ mà thực ra tư tưởng của các tôn giáo lớn đủ có thể dùng để xây dựng cơ sở này.

       Chính Mệnh là một trong những khâu của Bát Chánh Đạo. Thời Đức Phật còn tại thế, nền kinh tế khá đơn giản, tuy nhiên Đức Phật đã khuyến cáo các đệ tử không được làm môt số nghề như bán thịt, bán vũ khí, bán rượu, ma túy… Trong nhiều đoạn kinh, Đức Phật còn khuyến cáo chi tiết làm thế nào để có một cuộc đời hạnh phúc như phải tiêu dùng lợi tức như thế nào mặc dù là cuộc sống đầy đủ vật chất này chỉ là một phương tiện để đạt tới một đời sống tâm linh giải thoát. Chúng ta cũng không quên Hoàng Đế A Dục là người tạo ra một hệ thống an sinh sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng Phật Giáo thường được mọi người biết tới qua con đường giải thoát tâm linh nhiều hơn.

       Các nước Á Châu theo Phật Giáo sau khi giành chủ quyền dân tộc thường bắt chước theo kiểu mẫu kinh tế Tây Phương để phát triển quốc gia và thường nhờ các cố vấn ngoại quốc giúp chánh phủ hoạch định chương trình kinh tế. Hình như không có nhà lãnh đạo nào chịu nghĩ là lối sống của Phật Tử có thể làm nền tảng cho một nền kinh tế Phật Giáo, cũng như lối sống vật chất hiện đại của Tây Phương đã đưa đến một nền kinh tế thị trường. Như đã nói, các kinh tế gia thường thiếu một nền tảng siêu hình, và thường nghĩ kinh tế là một khoa học tuyệt đối chỉ đi tìm sự thực. Họ quên là nền tảng của nền kinh tế tư bản là do nền đạo đức Tin Lành (Protestant Ethics) như Max Weber đã chứng minh.

       Ai cũng đồng ý là, một trong những yếu tố tạo ra tài sảnnhân lực. Kinh tế hiện đại xem lao động không khác gì hơn là một sự xấu cần thiết (a necessary evil). Chủ nhân chỉ muốn giảm thiểu phí tổn lao động, giảm nhiều chùng nào tốt chừng đó. Nếu dùng được các máy móc tự động (automation) càng tốt hơn nữa. Đối với nhân công làm việc có nghĩa là ít có thì giờ nghỉ ngơi giải trí, nên họ xem lương bổng là một hình thức đền bù sự hy sinh đó. Chủ nhân chỉ muốn sản xuất hàng hóa mà không cần đến nhiều công nhân, và công nhân muốn lãnh lương mà khỏi phải làm việc (ở trong một chế độ an sinh hoàn hảo như Úc, cái tinh thần muốn có tiền nhưng không chịu làm việc còn tệ hơn nữa). Hệ quả của quan niệm này có tầm mức quan trọng hơn chúng ta tưởng. Về phần công nhân họ xem làm việc là một cực hình và nếu phải làm việc, thì gắng giảm thiểu công việc nhiều chừng nào tốt chừng đó. Về phần chủ nhân, nếu tiết kiệm được nhiều nhân lực thì lợi càng nhiều. Phương pháp dây chuyền là một thí dụ điển hình. Công nhân làm việc từng phần, công việc làm không có ý nghĩa nào, chỉ còn là những cử động máy móc, không đòi hỏi kỹ năng đặc biệt nào cả.

       Các nhà sư thuộc Phật Giáo Đại Thừa bỏ đời sống cô lập trong tu viện của Tiểu Thừa và một Thiền Sư tuyên bố là bất tác bất thực. Bổ củi, xách nước, thực tập thiền, rửa bát và nhiều hoạt động khác tập cho thiền sinh cái thói quen chính niệm* Nếu hành giả nào phải làm việc để mưu sinh, Phật Giáo xem làm việc là một cơ hội cho cá nhân phát triển các năng khiếu riêng của mình, cho cá nhân bỏ bớt ngã chấp khi làm việc trong tập thể (Lục Hòa) và dĩ nhiên là tạo ra sản phẩm tiêu dùng cần thiết và có lợi tức để sống. Chia vụn các công việc ra thành từng mảnh nhỏ vô nghĩa, các hoạt động kinh tế chỉ nhắm lời lỗ mà quên mất khía cạnh con người. Ngược lại công nhân chỉ muốn làm chơi mà không chịu làm thiệt, cũng là một hình thức lãng phí đời người. Lao động và giải trí là môt quá trình liên tục không thể tách rời nhau: có ăn-có làm-có chơi. Phật Giáo phân biệt hai loại dụng cụ giúp con người sản xuất: dụng cụ giúp con người phát triển khả năng và tăng thêm mức sản xuất (thí dụ như khung dệt của các nhà tiểu công nghệ) và cái máy dệt khiến người thợ khéo chỉ còn là một người điều khiển máy, ai làm cũng được.

       Một điểm khác biệt nữa là Phật Giáo không có khuyến khích lòng ham muốn, tăng gia nhu cầu hưởng thụ. Phật Giáo khác với Mác Xít, không xem tư hữuxấu xa vì nó không ít thì nhiều có liên hệ tới nghiệp quả của từng cá nhânmiễn là lợi tức này làm ra bằng các phương tiện chánh đánghợp pháp. Nhưng Phật dạy là không nên khư khư giữ lấy tài sản mà phải biết cách tiêu dùng.** Thủ tức là lại rơi vào vòng luân hồi, xả tức là giải thoát. Những ai theo Bồ Tát Đạo biết là lời nguyện thức nhất là bố thí. Làm giàu bằng mọi cách chỉ khiến cho con người bị lẩn quẩn trong tam độc: Tham-Sân-Si. Vì việc làm có thể phát triển khả năng sáng tạo và khả năng này cũng cần thiết cho tâm linh cũng như thức ăn đối với cơ thể. Một người không có việc làm không những không có lợi tức, mà còn không có được thức ăn cần thiết để nuôi dưỡng tâm linh cũng như thức ăn đối với cơ thể. Một người không có việc làm không những không có lợi tức, mà còn không có được thức ăn cần thiết để nuôi dưỡng tâm linh. Các nhà kinh tế tư bản có thể lo lắng kiểm soát lạm phát và nếu cần thì phải hy sinh từ 2% cho đến 5% công nhân, vì không có thể cung cấp việc làm cho tất cả (thời khủng hoảng con số này lên tới 8%-10% công nhân thất nghiệp như ở Úc). Nhà kinh tế bảo thủ Galbraith trong quyển The Affuent Society cho rằng vì không thể nào cung cấp việc làm cho tất cả mọi người, guồng máy kinh tế phải hy sinh một số công nhân để giữ lấy sự quân bình, và an ủi rằng nếu không thể nào cung cấp được việc làm cho mọi người thì qua hệ thống an sinh, tìm cách cho các người thất nghiệp cũng được hưởng mức sống tiện nghi tối thiểu* Theo Phật Giáo một xã hội không cung cấp cho tất cả mọi người công ăn việc làm để phát triển toàn diện con người, mà chỉ chú trọng đến nhu cầu tiêu thụ, đó là một xã hội đứng ngược đầu. Đó là một xã hội xem sản phẩm tiêu thụ quan trọng hơn con ngườitiêu thụ quan trọng hơn hoạt động sáng tạo. Cho nên kinh tế Phật Giáo chú ý đến công nhân (Schumacher chọn cái tựa phụ là Economics As If People Matter) chứ không phải chỉ chú ý đến sản phẩm. Nền kinh tế Phật Giáo phải cung cấp công ăn việc làm cho tất cả người còn đủ sức lao động. Không tưởng? có thể lắm, nhưng nếu nhà kinh tế khi hoạch định các kế hoạch chỉ cần bớt lo lắng cán cân lời lỗ chừng vài phần trăm, thì có nhiều người có cơ hội làm việc và sống một đời tự tin và có nhân phẩm (tỷ lệ thất nghiệp thường xuyên mà xã hội tư bản chấp nhận được là 2%).

       Dĩ nhiên là một vài đề nghị của Schumacher không phải là không gây ra tranh luận. Thí dụ như ông cho phụ nữthiên chức làm mẹ và lo cho gia đình, cho nên phụ nữ có con nhỏ không cần phải có một công ăn việc làm bên ngoài. Tuy nhiên hai yếu tố kinh tế Phật Giáo mà ông nhấn mạnh là : giản dị và không bạo động. Giản dị và không bạo động gắn liền nhau. Các nhà kinh tế hiện đại gắng làm sao sản xuất cho nhiều và tạo ra một nhu cầu tiêu thụ giả tạo (mọi hình thức quảng cáo), trong khi một nhà kinh tế Phật Giáo làm sao cho mọi người sống thoải mái, an lạchạnh phúc, chứ không phải kích thích nhu cầu tiêu thụ của quần chúng. Sở hữu hay tiêu thụ chỉ là một phương tiện để đạt đến một đời sống thoải mái. Kinh tế Phật Giáo nghiên cứu một cách có hệ thống những phương cách làm thế nào nhằm đạt đến những mục tiêu định sẵn (một cuộc đời an lạcgiải thoát) với một số phương tiện tối thiểu.**

       Một điểm khác biệt nữa giữa kinh tế hiện đại và kinh tế Phật Giáo là cách thức sử dụng tài nguyên. Con người Tây Phương được Bertrand de Jouvenel mô tảcon người phung phí tài nguyên và tệ hơn nữa giết hại những sinh vật trong môi sinh một cách không thương tiếc (cây rừng, thú, chim…). Họ không nhận thấycon người tùy thuộc vào môi sinh nếu muốn tồn tại*** Ví dụ như nước và cây. Giả sử hai tài nguyên này kiệt quệ thì không ai có thể sống còn. Trong khi Phật dạy phải kính trọng đời sống của mọi chúng sinh (các nhà sư khất thực phải nhìn xuống mỗi bước chân để khỏi dẵm lên các côn trùng, mùa mưa thì phải vào hạ vì côn trùng bò lên mặt đất nhiều). Phật tửtruyền thống trồng cây và săn sóc cây cho tới khi cây có thể tự tồn. Nếu chỉ cần tôn trọng truyền thống này, các nước Phật Giáo có thể phát triển mà không cần đến ngoại viện nhiều.

       Một điểm nữa là kinh tế hiện đại không phân biệt giữa tài nguyên có thể tái tạo (như nước, cây, gỗ…) và các tài nguyên chỉ dùng một lần như than đá, dầu, nhiên liệu… Các nhà kinh tế chỉ lo tính xem nguyên liệu nào tổn phí ít. Dùng các tài nguyên không tái tạo lại được một cách phung phí là một hành vi bạo động với môi sinh. Dĩ nhiên không thể nào đạt tới mức bất bạo động hoàn toàn trong cuộc sống, nhưng chúng ta phải xem bất bạo động như một lý tưởng cần thực hiện. Dùng tài nguyên không tái tạo như thế chẳng khác nào trong thương nghiệp đem vốn (capital) ra mà xài, chứ không phải xài lợi tức. Ai đi buôn cũng biết là xài vốn hòai thì thế nào cũng có ngày sạt nghiệp.

       Có nhiều người cho rằng xã hội lý tưởng đó không thể nào thực hiện trên thế gian. Nhưng ít nhất các nguyên tắc căn bản của Phật Giáo phải được chiêm nghiệm trước khi các nhà lãnh đạo hối hả áp dụng một chính sách kinh tế thị trường theo Tây Phương. Cứ thử nhìn quá trình đô thị hóa tại Thái Lan chẳng hạn, chúng ta thấy gì? Kinh tế nông thôn sụp đổ, nạn thất nghiệp lên cao ở thành phố cũng như ở nhà quê, giai cấp bần cố nông ở thành phố ngày càng nhiều, họ thiếu thức ăn cho cơ thể cũng như cho tâm linh.* 

       Còn xã hội kỹ nghệ Tây Phương? Giáo Sư Harrison Brown trong tác phẩm The Challenge of Man’s Future nhật xét là xã hội kỹ nghệ Tây Phương từ căn bản là một xã hội bất ổn… Những điều kiện mà trong đó tự do cá nhân được nuôi dưỡng không ổn định nên không có khả năng ngăn chặn các nguy cơ sinh ra các tổ chức cứng rắn và độc tài. Thật vậy nếu chúng ta xét tất cả những khó khăn đe dọa sự sống còn của văn minh kỹ nghệ, rất khó thấy được sự hòa hợp giữa việc thực hiện ổn định xã hộiduy trì tự do cá nhân.** Tuy tự do cá nhân được xem như là nhân tố chính, nhưng nếu nhìn toàn bộ cấu trúc xã hội, thế lực kiểm soát thường nằm trong tay một thiểu số (tài phiệt, các kỹ nghệ quốc phòng, các vua báo chí và truyền hình…)

       Vì không hiểu giáo lý cặn kẽ, hoặc choáng ngợp với những thành công về kỹ thuật của Tây Phương, vì thiếu tự tin vào khả năng đóng góp của Phật Giáo, không phải chỉ có người đứng ngoài ngưỡng cửa đạo Phật cho Phật Giáotiêu cực. Có bao nhiêu Phật Tử chỉ muốn ngồi thiền để đạt tới định huệ. Định Huệ chỉ là hành trang để người Phật Tử hành trì con đường Bồ Tát. Nếu Đức Phật sau khi thành đạo chánh đẳng chánh giác rồi lẳng lặng nhập niết bàn thì Phật Giáo sẽ không còn là Phật Giáo như chúng ta thấy ngày hôm nay.

       Trước sự bế tắc của chủ nghĩa vật chất Tây Phương, Phật giáo có thể góp phần tạo ra những giá trị dẫn đạo các phát triển kinh tế, mà Schumacher gọi là siêu hình-kinh tế, để tạo ra một nền kinh tế giản dị và bất bạo động, tránh được sự tàn phá môi sinh và con người mà các nước kỹ nghệ Tây Phương đang theo đuổi, và các nước nghèo, đang lẽo đẽo theo sau, miệng cứ tụng niệm kinh tế thị trường như một là đại thần chúnăng trừ nhất thế khổ!

GS Quán Như

LÊ VĂN TÂM

ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN

LÂU BỀN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

       LTS: bài viết sau đây của Tiến sĩ Lê Văn Tâm, đại học Gottingen (CHLB Đức), là một trong 12 bài trình bày tại buổi Hội thảo “Phật Giáo và Thời Đại”, được tổ chức tại Trúc Lâm Thiền Viện (Pháp) vào tháng 9 năm 1995. Là một chuyên viên về Bảo vệ Môi Trường, lại là Phật tử, ông đã vận dụng một phần của lời Phật dạy (Kinh Từ Bi) để mô tả và dự báo về những tác hạicon người, trong quy trình phát triển xã hội, đã tàn phá thiên nhiên và các động vật hữu hình khác không những một cách vô minh mà còn phi kinh tế nữa.

       Quy chiếu về Việt Nam, và cũng từ những cơ sở của Kinh Từ Bi, ông đã đề nghị một định hướng bốn điểm làm nền móng cho một phương án “Phát triển lâu bền” trên hai lãnh vực Kinh tế và Xã hội, mà vẫn bảo tồn được sức sống và sự hài hòa giữa thiên nhiêncon người. Đây là những gợi ý tâm huyết và có chất lượng cao mà Tuyển Tập Giao Điểm xin giới thiệu với bạn đọc bằng tất cả lòng trân trọng. (Hai mươi lăm cước chú về các nguồn trích dẫn dữ kiện đã không được in kèm theo bài viết này vì khuôn khổ giới hạn của tuyển tập. Giao Điểm thành thật xin lỗi bạn đọc và tác giả).

       Hiện nay thế giới đang đứng trước nhiều sự việc và hiện tượngtác động toàn cầu. Chúng cũng là những thách thức lớn đối với Đạo PhậtPhật tử chúng ta.

       Về mặt tiêu cực, nạn nhân mãn và suy dinh dưỡng tại nhiều nơi trên thế giới, bạo lực tàn phá mạnh mẽ các tài nguyên thiên nhiên – có khi đến độ không thể phục hồi -, cường độ bão lụt gia tăng và quả đất bị hâm nóng dần là một vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, hiện tượng suy tôn vật chất và các tiện nghi máy móc đang lan tràn. Sự xói mòn lòng tin đối với những giá trị truyền thống ngày càng mạnh mẽ. Đất nước Việt Nam cũng đang trực diện với những vấn đề tương tự. Phật tử chúng ta không thể không phân vân tự hỏi: “Mình đã đóng góp đủ bổn phận vì thế hệ mai sau chưa?”. “Mình đã áp dụng đúng lời Phật dạy trong sự xây dựng một nếp sống quân bình giữa vật chấttinh thần trong hoàn cảnh mà mình đang có mặt?”

       Ngược lại, thế giới cũng đang đứng trước nhiều thuận lợi mới. Sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nỗ lực hợp tác giữa những nước đã từng thù nghịch với nhau, sự lớn mạnh của phong trào giải phóng phụ nữ; sự bành trướng bảo vệ môi trường và sự truy tầm một nội dung mới cho vấn đề “phát triển lâu bền”, đang làm tiền đề cho những thao thức và cố gắng mới trong sự xây dựng “một thế giới chung” tốt đẹp hơn. Người Phật tử có thể đóng góp được gì nhằm hỗ trợ và triển khai những việc tích cực ấy?

       Các câu hỏi vừa đặt ra cho người Phật tử có lẽ không thừa. Bởi vì Phật tử nào cũng biết câu: “Phật pháp không lìa thế gian pháp” và ý thức rằng giáo lý của Đức Phật không là những gì trừu tượng đứng ra ngoài cuộc đời. Do đó, sự tìm hiểu hoàn cảnh và những sự việc hiện thực, cũng như xu thế phát triển của chúng, với chủ đích làm sống động mối tương quan giữa Đạo Phậtđời sống thực tại, là một điều tất yếu. Qua đó, người Phật tử vừa thực hiện được một trong bốn lời nguyện lớn: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, vừa nhận thức rõ hơn, thế nào là những hành động hợp với “khế lý” và “khế cơ” trong sự xây dựng một nếp sốngsự giải thoát của mình và vì sự an lành của chúng sinh.

       Sau đây xin gợi ý về “Đạo Phật đối với vấn đề phát triển lâu bền và bảo vệ môi trường”, nhằm góp phần vào cuộc thảo luận chung quanh chủ đề “Đạo Phật và Thời Đại”.

       “Phát triển” là vấn đề trung tâm của mỗi quốc gia. Xưa nay chưa có một nội dung thống nhất về “phát triển”. Bởi vì quốc gia nào cũng có suy nghĩưu tiên riêng. Hơn nữa, khi hoàn cảnh chuyển biến thì quan niệm về “phát triển” cũng phải thay đổi để hợp với những yêu cầu mới. “Phát triển” thường được hiểu qua nghĩa hẹp là “phát triển kinh tế”, là “xây dựng và phát huy mọi tiềm năng sản xuất toàn quốc, nhằm phục vụ dân chúng với hàng hóa và dịch vụ”.

       Vào những thập niên 50, 60 phát triển được quan niệm là “sự tăng trưởng hàng năm về thu nhập quốc dân”. Sau đó, nội dung “giảm nghèo, giảm chênh lệch và giảm nạn thất nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế” đã được đề cao. Phát triển cũng được hiểu như “sự thay đổi toàn bộ hệ thống xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của khối lớn quần chúng đang cảm thấy thiếu thốn về vật chất và tinh thần”. Nói chung, dầu với nội dung nào đi nữa, vai trò sản xuất hàng hóa, phân phối và tiêu thụ hàng hóa, vẫn luôn luôn giữ vị trí ưu tiên hàng đầu trong sự phát triển. Biểu tượng của sự phát triển từ trước đến nay là số lượng ngày càng tăng của sắt thép được chế tạo, của sự sản xuất cùng tiêu thụ năng lượng và hàng hóa, là tốc độ bành trướng đô thị, là tốc độ di chuyển và thông tin.

       Con người đã không ngừng thi đua nhau trong việc sản xuất. Chỉ tiêu “ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã được thần thánh hóa. Nhu cầu về nguyên liệu và chất đốt tăng vòn vọt. Thiên nhiên đã trở thành nguồn vật liệu không ngừng bị khai thác và khống chế. Thiên nhiên cũng là nơi tiếp nhận miễn phí mọi loại rác dơ bẩn và chất thải độc hại.

       Để đạt chỉ tiêu phát triển, bao nhiêu người đã không quan tâm đến hệ quả của sự khai thác quá độ và sự tiêu diệt các sinh vật “không ích lợi”. Đối với họ, sự ô nhiễm và hủy hoại môi trường chỉ là những sự kiện nhỏ, không phải là đề tài thảo luận. Điều này đã phản ánh qua những cố gắng liên tục suốt hai thế kỷ qua, nhằm phát triển ngày càng tinh vi những phương pháp và công cụ kỹ thuật phục vụ cho sản xuất. Ngược lại, những gì cần thiết và hữu hiệu cho việc ngăn chặn sự phá hoại môi trường và sự giảm thiểu phế liệu, rác và chất độc… chỉ mới được quan tâm từ hai thập niên sau này. Chúng là những thứ gây thêm phí tổn sản xuất, nên bị loại ra ngoài trong bài tính: làm sao đạt được lợi nhuận tối đa, làm sao mau được giàu có!

       Họ không những không chú ý đến sự ô nhiễm môi trường và sự sát hại sinh thể khác mà còn quên cả bản thân. Họ không còn ý thức rằng mình đang sống hối hảcăng thẳng, đang bị cuốn hút vào guồng máy cạnh tranhthúc cùi chỏ” vì lợi nhuận. Họ không còn hay biết rằng những giá trị tâm linh đang bị xói mòn, đang bị hào quang của phát triển và tiện nghi vật chất che lấp. Hiện tượng lẫn lộn giữa hạnh phúc với sự đua đòi nâng cao mức tiêu thụ, giữa ý nghĩa cuộc sống với của cải ngày càng chồng chất, đã trở nên phổ biến.

       Đối với Đạo Phật, sự phát triển như vậy là sự phát triển bị “tham, sân, si” chi phối. Phật tử không thể thản nhiên chấp nhận nó. Huy chương nào cũng có hai mặt: mặt phảimặt trái. Sự phát triển cũng vậy. Chúng ta không thể không quan tâm theo dõi, phát hiện và mổ xẻ mặt trái, mặt tiêu cực của nó, để nhận thức tường tận hơn, đâu là ranh giớicon người phải dừng lại và chuyển hướng, nếu không, tất phải rước đại họa. Hơn nữa, qua đó chúng ta có thể duyệt lại tinh thần và nguyên tắc hành động nào mà Đức Phật dạy có thể đóng góp tốt cho sự xóa bỏ tiêu cựcgiảm thiểu tham sân si.

       Đứng giữa lòng thủ đô phồn vinh của một nước phát triển, con người khó mà không tin cậy con đường phát triển từ 200 năm qua. Những thành tựu của nó thật huy hoàng. Để minh họa điều ấy, xin nêu ra đây một số thành tựu của ba lãnh vực điển hình: nông nghiệp, y học và công nghiệp.

       Thứ nhất, trên lãnh vực nông nghiệp, mặc dù đó đây vẫn còn nạn đói và suy dinh dưỡng, nông nghiệp, nói chung, đã nuôi nổi số nhân khẩu tăng lên gấp năm lần trong vòng hai thế kỷ qua. Từ năm 1850 đến nay, dân số thế giới, chủ yếu tại những nước đang phát triển, từ 1,15 tỷ tăng lên 5,7 tỷ. Tại Đức, năm 1950, mỗi nông dân có thể nuôi được 8 người và năm 1989 có thể nuôi đến 58 người. Nhóm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế CGIAR (Consultative Group on International Agricultural Research) vừa lai tạo được giống lúa hiện tại, mở ra một viễn tưởng lạc quan trong việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm trên thế giới.

       Thứ hai, trên lãnh vực y học, nhờ nhiều cải thiện tốt về phương pháp trị liệu và vệ sinh, nên các bệnh tật khủng khiếp, giết người hàng loạt, như dịch tả, dịch hạch, đậu mùa, ho lao v.v…. đã bị đẩy lùi. Tỷ lệ tử vong của trẻ con sơ sinh đã giảm từ 30% vào năm 1870, xuống còn 6% vào năm1960 và hiện nay, tại nhiều nơi còn thấp hơn 4%. Thọ mạng con người được kéo dài hơn 11% trong vòng thời gian ấy. Tại Âu Châu, tuổi thọ trung bình năm 1870 là 38, đã tăng lên 70 vào năm 1965 và hiện nay đã vượt cao hơn.

       Thứ ba, sự công nghiệp hóa đã trở thành đầu tàu của phát triển mà quốc gia nào cũng muốn đạt đến. Công nghiệp vừa tạo ra công ăn việc làm và những khả năng kiếm nhiều tiền; vừa cung cấp vô số mặt hàng và tiện nghi vật chất. Ti vi, tủ lạnh, xe hơi, máy điều hòa nhiệt độ, máy nói, đó là vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, mạng lưới đường sá giao thông hiện đại với tốc độ cao, cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giúp con người đến tận mọi địa điểm trên quả đất.

       Công nghiệp và các hệ thống giao thông đã làm bàn đạp cho sự đô thị hóa. Năm 1800 thế giới chỉ có 21 thành phố lớn và không thành phố nào có được 1 triệu dân. Một trăm năm sau, con số này đã nhân lên gấp 15 lần. Lúc ấy đã có 22 thành phố tập trung hàng triệu người. Năm 1950 thế giới đã có 964 chùm đô thị với hơn 422 triệu người ở; năm 1980 tăng lên 1.866 với hơn 1,1 tỷ dân cư. Thật là kỳ diệu, với một mặt bằng hạn hẹp, đô thị luôn luôn dung nạp được số dân cư khổng lồ ngày càng tăng lên. Những cao ốc của chúng ngày càng trở nên đồ sộ, ngất ngưỡng chọc trời. Công nghiệpđô thị không ngừng phát triển, không ngừng chuyển đổi bộ mặt của quả đất và để lại dấu ấn sâu sắc của nó trên cảnh quan, trong đời sống kinh tế, xã hộivăn hóa của một nước.

       Ba ví dụ nêu trên đã tô son đánh bóng cho sự phát triển vừa qua; đã gieo vào lòng bao nhiêu người niềm tin sâu sắc về sức mạnh vạn năng của sự phát triển. Nhưng đó chỉ là mặt tích cực. Nếu nghiêm túc quan sát kỹ, chúng ta phát hiện ngay mặt trái với nhiều tì vết giữa lớp son bóng lộn của nó. Những tì vết này chính là những hiểm họa không lường được.

       Nông nghiệp và y dược, tuy đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự nuôi sống và bảo dưỡng sức khoẻ con người, song chúng ta cũng hỗ trợ cho sự gia tăng dân số. Chính đà gia tăng dân số một cách nhảy vọt không ngừng, đã mang đến cho nhân loại những khó khăn lớn lao.

       Chúng ta thử theo dõi vấn đề này. Dân số thế giới mặc dầu đang đi vào chiều hướng ổn định, song sự tăng nhảy vọt từ hai thế kỷ qua, đã tạo ra những vấn đề khó giải quyết. Theo dương lịch, dân số thế giới năm thứ nhất lên đến 250 triệu người; năm 1650, 550 triệu; năm 1850, 1,15 tỷ; năm 1940, 2,25 tỷ và năm 1980 4,34 tỷ người: Theo đó, lần nhân đôi dân số thế giới thứ nhất kéo dài 1.650 năm; lần nhân đôi thứ hai hạ xuống còn 200 năm; lần thứ ba, 90 năm và lần thứ ba, 90 năm và lần thứ tư chỉ còn 40 năm.

       Tại Việt Nam, nhịp độ nhân đôi dân số còn ngặt hơn. Theo thống kê từ đầu thế kỷ thứ 19, kể từ năm 1802, lần nhân đôi thứ nhất kéo dài hơn 80 năm, lần thứ hai còn 40 năm, lần thứ ba, 34 năm và lần thứ tư chỉ còn 24 năm. Eigen, nhà hóa học vật lý được giải Nobel, đã gọi nhịp độ nhân đôi dân số trong vòng tuổi thọ một đời người là nhịp độ “phù thủy một nhân một” trong định luật phát triển, tiềm tàng bao hiểm họa khó lường.

       Thực vậy, nếu chúng ta áp dụngduyên sinh” của Phật Giáo vào sự suy nghĩ (Khi cái này có thì cái kia có ; Khi cái này hiện, cái kia hiện. Khi cái này không, cái kia không; Khi cái này mất, cái kia mất. Mn,III,63), chúng ta thấy được dễ dàng một chuỗi hệ quả và những nguy hiểm do sự gia tăng dân số nhảy vọt sinh ra. Ai cũng biết, khi dân số tăng lên thì những nhu cầu về lượng thực, nơi trú ngụ, trường học, bệnh xá v.v…. tương ứng tăng lên. Những đòi hỏi về diện tích sản xuất lương thực, về mặt bằng xây dựng và chế biến, về giao thông và tiếp liệu v.v…. cũng phải tăng theo. Để thỏa mãn những nhu cầu và đòi hỏi này, con người đã tăng cường sự tiến công vào môi trường và thiên nhiên một cách dữ dộisâu rộng. Nhưng, quả đất chúng ta chịu giới hạn về diện tích và sức tải. Nó không thể đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi và sự bành trướng vô tận của con người. Con người càng tăng sức ép vào quả đất thì càng tạo ra nhiều mâu thuẫnhậu quả tiêu cực mà chính con người phải gánh chịu. Sau đây là vài ví dụ:

       

  1. Về mặt nông nghiệp, một khi dân số tăng thì diện tích sản xuất lương thực cũng phải được mở rộng. Từ 1980 đến 1995, tổng diện tích canh tác thế giới đã tăng 6,3% từ 1,26 lên 1,34 ha. Song trên thực tế, diện tích canh tác cho mỗi đầu người, trong vòng thời gian ấy đã hẹp lại 24,1% từ 0,29 ha giảm xuống còn 0,22 ha. Hoàn cảnh của Việt Nam cũng tương tự. Diện tích cung cấp lương thực cho mỗi đầu người ngày càng thu hẹp lại theo đà dân số tăng, từ 0,2 ha năm1940, đã giảm xuống 0,15 ha năm 1970 và chỉ còn 0,12 ha năm 1988.

       

  1. Thông thường, khi cần mở rộng diện tích canh tác, con người đã đốn rừng. Tại Việt Nam, hàng năm rừng bị mất khoảng 200.000 ha, trong đó khoảng 50.000 ha là do khai hoang để trồng trọt. Rừng càng thu hẹp chừng nào thì diện tích còn lại càng bị đốn nhanh chừng nấy, để kịp tiếp tế củi, gỗ và nguyên liệu sản xuất giấy và văn hóa phẩm cho nhu cầu tăng lên theo sự phát triển dân số. Và hậu quả gì phải xảy ra khi rừng bị hủy diệt?

       

  1. Rừng mất sinh nạn lụt lớn và đất không được che chở nữa. Mưa gió tấn công trực tiếp vào mặt đất, rửa trôi, xói mòn lớp phân màu mỡ, khiến cho đất ngày càng thoái hóacuối cùng biến thành sa mạc. Hàng năm, các nước đang phát triển bị mất đi 6 triệu ha đất nông nghiệp do sa mạc hóa. Theo ước tính của Ngân Hàng Thế Giới, 2/5 diện tích canh tác tại Phi Châu, 1/3 tại Á Châu và 1/5 tại Châu Mỹ La Tinh bị đe dọa trở thành sa mạc do hậu quả đốn rừng, hoặc do chăn nuôi, do dẫn thủy sai lầm và khí hậu thay đổi. Tại Việt Nam, hơn ¼ - (tính theo một tài liệu khác: 1/3 ) - diện tích đất đai toàn quốc đã bị thoái hóa, mất hết sức sản xuất. Đồi trọc, bãi hoang đang tiếp tục mở rộng, xóa bỏ địa bàn sinh sống ngày càng cần thiết cho dân số ngày càng đông đảo!

  1. Khi rừng mất, lớp thảm mục điều hòa dòng chảy cũng bị tiêu diệt theo. Lũ lụt và cường độ phá hoạt hoại của nó cũng tăng lên. Qua kết quả nghiên cứu tại Ấn Độ, sự phá rừng đã khiến cho diện tích bị ngập lụt mở rộng thêm 40 triệu ha trong vòng 25 năm (1960-1984). Mùa màng và đời sống của hàng triệu người bị đe dọa trầm trọng hơn.

  1. Sự hủy diệt rừng cũng kéo theo sự hủy diệt trú quán của động và thực vật hoang dã. 0-90% các loài này đang tập trung tại rừng mưa nhiệt đới và bán nhiệt đới. Hàng ngàn loài trong số 1,4 triệu đã được kiểm tra, là dược liệu quí hiếm hoặc là nguồn “gen” cần thiết cho sự sống con người. Theo tốc độ phá rừng hiện nay, với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất đi từ 17% đến 35% loài trong số 10 triệu. Vào năm 2040, hàng ngày sẽ có từ 20-70 loài bị tuyệt chủng.

  1. Cây xanh, qua hiện tưởng quang hợp, hấp thụ hàng ngày khí cacbonic CO2. Khí CO2 là một trong những loại khí gây ra hiệu ứng nhà kính, hâm qua đất nóng dần, làm tan các khối băng tại Bắc cực, khiến mực nước biển dâng cao và tràn ngập, phá hủy đồng bằng thấp ven biển. Sự phá rừng đã làm mất đi một nhân tố rất quan trọng có khả năng hấp thụtích lũy lâu dài một số lượng khổng lồ khí cacbonic CO2, và gián tiếp làm giảm bớt mực nước biển dâng lên.

       Các nhà nông nghiệp hiện đại không cần phá rừng nữa. Để giải quyết nhu cầu lương thực, họ đã áp dụng các biện pháp thâm canh, như trồng cây thuần loại, cơ giới hóa, phun tưới, dẫn nước, bón phân, dùng thuốc diệt sâu rầy và diệt cỏ dại, lai tạo giống mới v.v…. Nhưng, những gì xảy ra cho môi trường và con người với những phương pháp canh tác hiện đại ấy? Nó có đưa lại một chuỗi hệ quả tiêu cực có hai cho con người không? Đôi ví dụ sau đây trả lời cho câu hỏi ấy.

  1. Sự trồng cây thuần loại, một mặt đã đẩy lùi hoặc tiêu diệt những loài “không hữu ích”. Mặt khác, nó đòi hỏi phải sử dụng thuốc diệt họa chống sâu rầy và nấm bệnh. Những thuốc này sát hại luôn những loài côn trùng và chim chóc hữu ích khác. Các cặn thuốc có chứa những chất độc như thủy ngân và arsenic, theo mưa thâm nhập và đầu độc ao hồ, suối sông và thủy sinh vật. Với diện tích rộng lớn của mình nông nghiệp là nguyên nhân quan trọng làm nghèo sự đa dạng sinh học, đem lại sự mất cân bằng cho nhiều thế hệ sinh thái, và qua chuỗi thức ăn, làm hại cả sức khoẻ con người. Hiện tượng bị dị ứng và ngộ độc do thức ăn còn chứa thuốc diệt sâu rầy, đã xảy ra tại nhiều nơi và tại Việt Nam.

  1. Sự cơ giới hóa, đặc biệt trên lãnh vực thủy lợi với các máy công cụ năng dùng để đào xới, đã phá hủy trú quán và tiêu diệt các loài động và thực vật hoang dã. Hơn nữa, nó tạo hiện tượng xì phèn, hóa sình và hóa mặn, giết hại cỏ cây. Riêng năm 1986, sự hóa mặn đã làm tổn hại khắp thế giới khoảng 60 triệu ha đất nông nghiệp. Nước ngọt luôn luôn chứa một lượng muối nhỏ. Nồng độ muối này tăng dần sau mỗi lần tưới và một ngày nào đó hóa mặn đất đai. Sự hoang mạc hóa, sự hóa mặn, hóa sình cũng là những nguyên nhân quan trọng gây ra nạn đói và suy dinh dưỡng cho 800 triệu người trên qua đất hiện nay. Ngoài ra, sự dẫn nước vào ruộng, cũng làm bành trướng các khuẩn gây bệnh đường ruột và sốt rét rừng.

  1. Chất phosphate và nitrat của phân bón làm tăng độ phú dưỡng của thủy vực, kích thích sự phát triển nhanh của rong rêu. Rong rêu cướp mất dưỡng khí và giết hại tôm cá và thủy sinh vật khác tại ao hồ. Qua đó, khả năng làm sạch nước tự nhiên và sự sống của ao hồ cũng bị diệt theo.

       Nói tóm lại, việc thâm canh để tăng sản lượng lương thực và sự đốn rừng nhằm thỏa mãn nhu cầu nhảy vọt về củi, gỗ, về diện tích trồng trọt và định cư, đều là những hoạt động chính đáng nhằm phục vụ cho cuộc mưu sinh. Trong rất nhiều trường hợp, hệ quả dị thời của những hoạt động chính đáng này từ 10 hoặc 20 năm trước, lại trở thành sự tàn phá những điều kiện mưu sinh!

       Trước những bằng chứng nêu trên, người Phật tử không thể không suy nghĩ, thế nào là “chánh nghiệp”?, thế nào là nông nghiệp trong sáng theo quan niệm “ngũ minh”? Phật tử phải hành động và kinh doanh ra sao để thiên nhiên không bị mang hại tương tự như “ong hút phấn hoa mà không làm hại hoa”, như Đức Phật đã nhắn nhủ (Pháp Cú, kệ 49)?

       Trong lãnh vực công nghiệp hóa thì thế nào? Với những thành tựu huy hoàng của nó, nó có đạt được tiêu chuẩn “minh” theo quan niệm “công xảo minh” chăng? Có lẽ là không! Nền công nghiệp từ hai thế kỷ qua cũng gây ra hàng ngàn hiện tượng tiêu cực cho môi trường và con người. Sự ô nhiễm không khí và nước, rác rến, dơ bẩn, tiếng ồn ào nhức óc v.v…. là những mối nguy hại thường trựcphổ biến. Đất nước chúng ta đang đi trên đà công nghiệp hóa, không thể không đối diện với những tiêu cực có tính phổ quát này. Sau đây xin nêu vài ví dụ cụ thể:

  1. Công nghiệp – và sự đô thị hóa – đã trực tiếp phá hủy thiên nhiên để lấy mặt bằng xây dựng và phát triển. Công nghiệp đã biến đổi cảnh quan và các hệ sinh thái một cách sâu rộng, đã làm đảo lộn những chu trình vật chất và dòng năng lượng trong sinh quyển, gây khó khăn cho quá trình phục hồi và thanh lọc tự nhiên. Về mặt khí hậu, trong vòng 40 năm qua, từ 1949-1989, mặt nước biển vùng nhiệt đới đã nóng hơn 0,5 độ C và ẩm hơn 16%. Mưa lục địa tăng 5% (Riêng khu vực Sahel tại Phi Châu thì ngược lại. Nơi đây, mưa giảm xuống và hạn hán tăng lên). So với 20 năm trước, tốc độ gió toàn cầu hiện nay thổi nhanh hơn 5-10% tại nhiều nơi thuộc khu vực nhiệt đới, thậm chí đến 20%. Điều này cắt nghĩ vì sao cường độ tàn phá của bão tố đã trở nên dữ dội khác thường.

  1. Các nhà máy, trong quá trình sản xuất, đã không ngừng thải những chất ô nhiễmđộc hại vào không khí, vào đất và nước. Những khu công nghiệp lớn, ví dụ nhưng vùng Ruhr nước Đức, đã thải ra hơn 300 chất. Trong số đó, nhiều chất gay nên bệnh tật và ung thư. SO2 và NO2 chẳng hạn, chúng là nguyên nhân gây ra sương mù nguy hiểm (London-smog), từng làm thiệt mạng hàng ngàn người trong quá khứ (hơn 4.000 người chết tại Luân Đôn năm 1952). Với nồng độ cao, SO2 và NO2 phá hủy chất diệp lục và ngăn chận sự quang hợp, cũng như sự hấp thụ khí CO2. Dưới dạng mưa acit, chúng làm chua đất và thủy vực, giết hại tôm cá và những sinh thể khác. Chúng ăn mòn các công trình kiến trúc và xây dựng, gây ra những thiệt hại phi thường. Tại Đức, sự thiệt hại này được ước tính từ 2 đến 3.5 tỷ Đức Mã mỗi năm. Khí CO2 làm giảm năng suất lao động và gây chứng nhức đầu, chóng mặt. Các kim loại cũng nguy hiểm không kém. Chì làm yếu bắp cơ, có thể đưa đến liệt bại và biến đổi chức năng của gan, thận và não. Cadmium gây bệnh Itai-Itai làm méo mó thể dạng của xương v.v….. Để lọc sạch những chất độc trong nước, Tây Đức phải bỏ ra 780 triệu Đức mã hàng năm. Để giải độc cho đất, cần phải có một kinh phí khổng lồ khoảng 60 tỷ Đức mã. Tại thành phố Hồ Chí Minh nước và không khí cũng chứa nhiều chất độc và hàm lượng đã vượt lên tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Hàm lượng bụi và chì đã vượt quá từ 3 đến 11 lần.

  1. Công nghiệp đông lạnh, điện tử và cả những bình xịt thuốc cho tóc, đã sử dụng rộng rãi khí CFCI. Khí này làm mỏng tầng khí Ozon và đục thủng nhiều nơi. Tầng Ozon được xem như là cái màn lọc tia cực tím có hại cho sức khỏe và mùa màng. Tầng Ozon bị mỏng hoặc bị đục thủng đã để lọt nhiều tia cực tím tấn công vào con người và sinh vật, làm tăng bệnh ung thư da.

  1. Trong vòng 200 năm nay, than, dầu được sử dụng thật rộng rãi. Qua quá trình đốt cháy, chúng ta thải môt lượng khí cacbonic CO2 làm tăng vọt hàm lượng CO2 trong khí quyển, tạo ra hiệu ứng nhà kính, hâm nóng quả đất. Các khu công nghiệp thế giới thải hàng năm 24 tỷ tấn CO2 – 80% xuất phát từ những nước công nghiệp. Trong tương lai, số lượng này còn cao hơn nữa. Theo ước tính của các nhà khoa học, trong vòng 50 năm tới, nhiệt độ trung bình thế giới sẽ tăng thêm 1,5 độ C. Trong khi tại Úc Châu và Tây Phi Châu giảm bớt 1 độ C, tại Việt Nam, Ấn Độ và Âu Châu tăng thêm 3 độ C và Bắc cực tăng thêm 5-7 độ C.

       Sự tăng thêm nhiệt độ này trước hết đã mang đến sự biến đổi thời tiết, quan trọng hơn nữa là làm băng tan và khiến mực nước biển dâng cao. Từ năm 1973 đến nay, lớp băng tại Bắc cực mất đi 8% và trên núi Alpe chỉ còn ½. Đến năm 2050, mực nước biển có thể năng lên từ 0,2-0,4m. Điều ấy có nghĩa là nước mặn sẽ phủ ngập các vùng duyên hải thấp và sẽ phá hủy đồng bằng phì nhiêu và sự sống tại đó. Nó sẽ đưa đến một cuộc di dân ồ ạt lên những vùng cao, nơi mà diện tích khả canh bị thu lại vì xói mòn và hoang mạc hóa. Nếu con người không sớm tìm biện pháp đối phó, có lẽ khó tránh khỏi một cuộc cạnh tranh sinh tồn gay gắt giữa người và người và một cuộc phá hủy tàn bạo vốn tài nguyên thiên nhiên còn sót lại!

       Những ví dụ tiêu cực nêu trên, đã phơi bày nhược điểm và hiểm họa của sự phát triển vừa qua. Tính tham dụcngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã cổ võthúc đẩy sự phát triển lòng tham ái, khiến con người xa rời nếp sống tĩnh thức, xa rời và đối nghịch với thiên nhiên, đã xô con người vào sự phá hoại những nhân tố mà mình dựa vào để sinh tồn và phát triển. Sự say mê quyền lợi vật chất đã khiến cho nhiều người quên đi những lợi ích lâu dài của nhân loại. Những kẻ tiếp tục bảo vệ cho sự phát triển này sẽ nhún vai lãnh đạm trước những tiêu cực và hiểm họa. Song một ngày nào đó, biết đâu chính họ và con cháu của họ sẽ trở thành nạn nhân của nghiệp báo đau thương. Chúng tacảm tưởng rằng họ đi giữa cuộc đời với thái độ khá phổ biến của kẻ lái xe trên đường. Kẻ lái xe thường không nghĩ rằng mình là người có thể gây ra tai nạn hoặc chịu tai nạn. Trong tiềm thức họ, vấn đề tai nạnvấn đề của người khác. Chỉ có người khác mới gây ra tai nạn hoặc thọ nạn. Đến khi lâm cảnh tai bay họa gởi thì đã muộn rồi. Lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú thấm thía làm sao!: “Kẻ ngu vì tham giàu, hại mình và hại người” (kệ 355) và ’’Ác nghiệp chưa chín muồi, người ngu nghĩ là ngọt. Khi ác nghiệp chín muồi, người ngu chịu khổ đau” (kệ 69).

       Sớm thức tỉnh về “ác nghiệp” của sự phát triển đã qua, Schumacher, nhà kinh tế học Anh, giữa thập niên 1970, đã đề nghị một mô hình “Kinh Tế Phật Giáo”, một mô hình kinh tế phi bạo lực, không bóc lột, song hợp tác với thiên nhiên, dựa trên những nguyên tắc sinh thái lành mạnh và trên một nền công nghiệp có khuôn mặt con người. Mô hình kinh tế này cổ võ con người nên sống theo “chánh nghiệp”. Rất tiếc, đến nay chưa có Phật tử nào triển khai áp dụng hoặc lấy đó làm bàn đạp suy nghĩ tiếp về một đường hướng phát triển vừa hợp với những phạm trùxu thế của thời đại, vừa hợp với hoàn cảnh của đất nước và vừa hợp với tinh thần Đạo Phật. Schumacher là một bậc trí tuệ lớn, một nhà tiên tri của phong trào sinh thái từ hai thập niên qua.

       Trong cùng trăn trở và nỗ lực truy tầm một nội dung phát triển mới, không ngầm chứa đại họa cho nhân loại, Meadows đã công bố năm 1972 “Phúc trình thứ nhất” cho “Câu lạc bộ Rome” về “Những giới hạn của phát triển”. Phúc trình này đã được dịch ra 29 thứ tiếng, là tiếng chuông đầu tiên vang dội khắp toàn cầu, đánh thức con người phải suy nghĩ lại và đặt lại vấn đề phát triển. Tiếp theo đó “Global 2000” – “Phúc trình lên tổng thống Mỹ” 1980, Mô hình Thế giới Brundtland 1987, v.v… đã đề nghị những nội dung phát triển bền vững, không phá hoại những cơ hội phát triển của thế hệ mai sau. Hội nghị Thượng đỉnh về quả đất 1992 của 178 nước trên thế giới tại Rio de Janeiro, có thể xem như là một cuộc tổng kết chung, với khẳng định rằng, để “phát triển lâu bền”, phải “bảo vệ môi trường”.

       Hội nghị thượng đỉnh Rio 1992, tuy gặp phải nhiều ngờ vựcchỉ trích, song đó là một cố gắng lớn, nhằm tạo khúc quanh mới cho sự phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường. Nó đã trở thành biểu tượng của một ý thức mới sự hợp quần chung lãnh trách nhiệm xây dựng cho “một thế giới” (xóa bỏ sự phân chia “thế giới thứ nhất”, “thế giới thứ hai” và “thế giới thứ ba”).

       Sự “phát triển lâu bền” được quan niệm như là một sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thầnvăn hóa cho cả thế hệ hiện tại lẫn thế hệ tương lai. Một mặt, nó đòi hỏi phải cải thiện những điều kiện sống trên lãnh vực kinh tế và xã hội sao cho phù hợp với sự bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, nó đòi hỏi một sự quan tâm và chịu trách nhiệm chung về những vấn đề môi sinh, kinh tế, văn hóaxã hội, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. “Sự phát triển lâu bền” được nhất thể hóa với “sự bảo vệ môi trường”. Trong sự nhất thể hóa này, nội dung của “sự phát triển lâu bền” bao gồm 4 điểm cơ bản:

  1. Đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của người dân,

  1. San bằng hố sâu cách biệt giữa giàu nghèo và hoàn cảnh xã hội,

  1. Bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiêngìn giữ sự trong sạch của môi trường,

  1. Tạo những điều kiện tốt giúp con người nhận thức được giá trị làm người, hiểu rõ được những vấn đề chung của nhân loại và biết rõ những gì ưu tiên cần phải thực hiện trước, cũng như giúp con người đạt được quyền tự quyết trong cộng đồng.

       Về mặt “bảo vệ mội trường”, chúng ta không thể hiểu một cách hạn hẹp rằng đó chỉ là chống ô nhiễm không khí, đất đai, sông suối hoặc bảo vệ những loài hoang dại trước sự diệt chủng. Nội dung của thuật ngữ môi trường, trên mặt xã hội, được hiểu là hoàn cảnh của con người, của gia đình và của tập thể. Về mặt không gian, môi trường là địa bàn, là khu vực sinh sống của con người dù cho rộng hẹp như thế nào chăng nữa. Đó là những công trình xây dựng. Đó là làng xã, huyện tỉnh, quốc gia và sinh quyển. Về mặt sinh vật và sinh thái học, môi trường bao gồm giới vô sinh (đất, nước, không khí) và hữu sinh (con người, giới động và thực vật). Bởi vậy “bảo vệ môi trường”, trên khía cạnh sinh thái, không chỉ giới hạn trong mục tiêu bảo vệ thiên nhiên và quy hoạc cảnh quan. Nó còn bao gồm mục tiêu làm thanh lịch quê hương, đất nước, các nơi giải trí, du lịch và mạng lưới cây xanh trong thành phố. Về mặt vệ sinh và công nghiệp, mục đích của “bảo vệ môi trường” bao gồm sự giữ sạch môi trường không khí, nước và đất đai, cũng như xử lí rác và những chất độc hóa học, làm giảm sự gay gắt của thời tiếtngăn ngừa các tia độc hại.

       Để thực hiện “sự phát triển lâu bền” gắn liền với “sự bảo vệ môi trường”, cần phải thi hành triệt để hàng loạt biện pháp, chủ yếu là ổn định dân số, tăng hiệu năng của sự sử dụng năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời và sức gió, sử dụng tiết kiệm các nguồn nguyên liệu, ổn định hệ sinh thái nông và lạm nghiệp, phân phối kỹ nghệ, giảm thiểu và xử lý ô nhiễm. Về mặt tinh thần, con người phải thay đổi quan niệm đánh giá thiên nhiên một cách hời hợt, nhất là phải thay đổi thói quen tiêu dùng.

       Nội dung của quan niệm “phát triển lâu bền” trong nhất thể với “bảo vệ môi trường” trên đây, gặp gỡ rất nhiều điểm trong nội dung con đường sống Bi Trí Dũng mà Đức Phật chỉ dạy cho những “ai không ngoan muốn tìm hạnh phúcước mong sống với an lành”. Nội dung này, một phần đã được mô tả qua Kinh Từ Bi. Thiết nghĩ cũng nên ôn lại vài điều:

       Thứ nhất, mục đích tối thượng của con đường Bi Trí Dũng là “Đem an vui đến cho muôn loài”. “An vui” là ý nghĩa chân thật của cuộc sống. Ý nghĩa này không nằm trong giàu sang, địa vị, quyền bính hoặc danh vọng. An vui chỉ đạt được, khi ba điều kiện tối thiểu sau đây được thỏa mãn: đó là nhu cầu vật chất tối thiểu được đáp ứng, đó là ô nhiễm, đe dọa và hiểm họa của môi trường được tiêu trừtâm hồn được sung mãn với những giá trị Chân Thiện Mỹ. Nhưng an vui không chỉ dành riêng cho con người mà phải lan rộng đến “muôn loài”, đến chúng sinh, đến tất cả mọi tình thế.

       Để phục vụ “muôn loài” trước tiên phải đạt đến một trình độ nhận thức rất cao. Đó là sự thấy rõ tính bình đẳng của sự sống và giá trị bình đẳng của sự sống trong mọi sinh thể. Nền tảng của nhận thức này là sự hiểu biết rõ ràng về đời sốngđiều kiện sống của các sinh thể, về tác động qua lại của chúng, về nguyên nhân và hệ quả thiện ác, đồng thời hoặc dị thời của mạng lưới duyên sinh trong dòng sinh thành di diệt vô tận. Kế tiếp là phải mở rộng con tim, một con tim biết thương yêu và quí trọng sự sống tràn đầy khắp nơi nơi, bất luận trên địa bàn nào, tại sinh cảnh và trú quán nào, dù “ở gần ta hoặc ở xa ta “ (Kinh Từ Bi), trên không, tại mặt đất, dưới đất, trong nước v.v…. (“Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa”, Kinh Từ Bi, Thích Thiện Châu dịch Việt).

       Thứ hai, sự đem an vui đến cho muôn loài đòi hỏi một ý thức về giá trị bình đẳng của sự sống xuyên thấu thời gian, từ thế hệ này đến thế hệ khác (“Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra”, Kinh Từ Bi). Cuộc sống và sự phát triển của chúng ta hôm nay, không thể cướp mất những điều kiện sống và cơ hội phát triển của con cháu ngày mai, không thể để lại ô nhiễm và hiểm họa cho hậu duệ và phó mặc chúng giải quyết như thế nào cũng được. Đạo Phật đã không ngừng khuyên nhủ Phật tử phải thực hiện hạnh tinh tấn: “Cố gắng tiêu trừ những điều ác đã sinh. Cố gắng đè nén những điều ác có thể phát sinh. Cố gắng làm cho những điều thiện phát sinh. Cố gắng phát huy điều thiện đã sinh”. Tinh thầnsức mạnh chuyển đổi bền bỉ, có khả năng tiêu trừ tiêu cực và mang chất lượng của Chân Thiện Mỹ đến cho đời.

       Thứ ba, sự đem an vui đến cho muôn loài, đòi hỏi một quyết tâm nhận lấy trách nhiệm vì muôn loài. Trách nhiệm này cần được thể hiện một cách rốt ráo, với tất cả con tim và dũng lực của một bà mẹ thương đứa con duy nhất, “dám hy sinh bảo vệ cho con” (Kinh Từ Bi).

       Ba điều vừa nêu trên trong con đường Bi Trí Dũng có thể giúp Phật tử chúng ta khỏi chạy quanh tìm kiếm những nội dung và nguyên tắc hành động khác, hầu đóng góp tốt hơn cho đường hướng phát triển lâu bền gắn liền với sự bảo vệ môi trường hiện nay. Vấn đề còn lại là Phật tử có thể làm gì một cách cụ thể? Dĩ nhiên mỗi người có thể tự tìm câu trả lời riêng và hành động thích ứng với khả năng và hoàn cảnh của mình; song, Phật tử cũng có thể chung nhau tìm những việc cụ thể vừa hợp với khế lý và khế cơ, vừa có khả năng cổ động sự trợ lực của nhiều người. Sau đây xin nêu vài gợi ý:

  1. Trước hết, mỗi người phải tự bắt đầu từ bản thân trong cuộc sống hàng ngày. Đức Phật đã đề nghị trong Kinh Từ Bi rằng Phật tử nên “sống giản dị”, “vui với đời giản dị”. Cuộc sống giản dị giúp chúng ta giới hạn nhu cầu của mình trong chừng mực cần thiết. Thói quen tiêu dùng và lòng ham thích xa hoanguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp khiến cho các nguồn tài nguyên bị khai thác và lạm dụng dữ dội, khiến cho nhiều nhân tố phục vụ sự phát triển ngày mai bị mất đi. Sống thiểu dục và biết đủ, theo lời Phật dạy, là đóng góp tích cực cho sự ổn định dân số, tiết kiệm nguyên liệu và năng lượng và làm giảm sức ép vào môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên.

       Sống giản dị không có nghĩa là sống không có chất lượng. Chất lượng của Đạo Phật là “an vui”, thay vì tham lam “bận rộn”; là cố gắng bảo vệ muôn loài, thay vì thờ ơ giết hại, sinh mạng và hủy diệt điều kiện sinh tồn của chúng sinh; là hợp tác vì lợi ích chung (“đồng sự và lợi hành”) thay vì cạnh tranh giành giựt cho quyền lợi riêng; là siêu vượt mình để thể nhập cuộc sống toàn diện, thay vì tách rời và đối nghịch lại thiên nhiên.

  1. Quý vị tăng nicư sĩ quan tâm đến sự bảo vệ môi trường, có thể tiếp tay trong các công tác giáo dục và gây ý thức bảo vệ môi trường, hạn chế sinh đẻ, nâng cao vai trò phụ nữ để thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi thuận lợi cho hoàn cảnh chung v.v…. đặc biệt là giúp Phật tử mở rộng kiến thức, phân biệt rõ đâu là lý luận do tham sân si chi phối, đâu là hành động hợp với tinh thần Bi Trí Dũng trong nghiệp vụ và sinh hoạt hàng ngày.

  1. Để đóng góp cụ thể cho sự bảo vệ môi trường, đặc biệt trên khía cạnh bảo vệ cảnh quan và sinh cảnh (biotope), có thể kiến tạo những cảnh chùa, tại nơi có mặt bằng thuận lợi, thành những điểm cảnh quan thanh lịch. Ngoài cây cảnh, cây ăn quả, cần trồng thêm một số cây rừng bản địa. Lý tưởng nhất là xây dựng nhiều tu viện cạnh rừng (“Chùa Đại Tòng Lâm”, “Chùa Lâm Viên”). Tại đây, nhà chùa lãnh trách nhiệm bảo vệ rừng và biến cải rừng thành khu bảo tồn thực và động vật hoang dã. Tại những vườn rau thuộc khuôn viên chùa, nên thử nghiệm phương pháp trồng tỉa sinh học. Từ đó rút kinh nghiệm đóng góp cho cơ hội chuyển đổi phương pháp canh tác dùng quá nhiều phân hóa học và thuốc diệt sâu bọ. Ngày xưa, Đức Phật đã động lòng thương xót những côn trùng quằn quại sau lưỡi cầy, thì ngày nay, số người áp dụng phương pháp canh tác không đào quốc, tránh giết hại sinh vật trong đất và tránh phá hủy trú quán của chúng của chúng, ngày càng đông đảo.

  1. Quí vị tăng ni nên nên vận động Phật tử “trồng cây phước đức”, “trồng cây trí đức” thay cho tục lệ “hái lộc”, “bẻ lộc” hoặc cổ võ Phật tử đóng góp tiền cho việc xây dựng “chùa lâm viên”, vượt thêm một bước xa hơn sự bố thí tiền gạo hoặc phóng sinh chim cá. Cũng có thể khuyến khích Phật tử xây dựng một môi trường sống thanh lịch bằng cách làm “sạch và đẹp từ bàn thờ, trong nhà, ra ngoài sân, đến đường đi và cùng khắp đất nước”. Lòng tôn kính Đức Phật, tình yêu quê hương nhờ đó phát triển mạnh mẽ hơn.

       Cuộc phát triển vừa qua không phải chỉ đem lại cho con người và quả đất toàn những thuận lợi. Nó cũng gây ô nhiễm, làm hủy hoại thiên nhiên và để lại mầm mống hiểm họa cho ngày mai. Nhiều học giả đã gọi đó là cuộc khủng hoảng sinh thái. Nhưng, xưa nay thiên nhiên và môi trường vẫn im lặng, không hề la hét phản đối bất cứ một sự gây ô nhiễm và đầu độc nào, không hề đi biểu tình đòi quyền sinh tồn. Những tiếng kêu cấp bách “phải đặt lại vấn đề phát triển”, “phải bảo vệ thiên nhiên và môi trường”, “đại họa” có thể xảy ra, “phải thay đổi thói quen tiêu dùng”, “phải chuyển đổi tư duy”… tất cả đều phát xuất từ con người, từ mối âu lo cho sự tồn vong của con người. Ô nhiễm và hiểm họa đều là hậu quả của tư duyhoạt động của con người. Cuộc khủng hoảng được gọi là “khủng hoảng sinh thái”, thực chất là cuộc khủng hoảng văn hóatâm linh, phát sinh từ Tham Sân Si của con người. Đức Phật đã trao tặng cho Phật tử chúng ta vũ khí Bi Trí Dũng để đối trị Tham Sân Si, để xây dựng nếp sống an vui, giải thoát cho mình, cho người và cho muôn loài. Đạo Phật không ngừng gieo hạt giống lành trong con tim và khối óc của Phật tử, không ngừng nhắc nhở Phật tử phải Tinh Tấn. Nếu chúng ta tinh tấn vun rồng cây thiện, chắc chắn chúng ta, nếu không hôm nay thì ngày mai, sẽ gặt hái cho mình, cho con cháu mình và cho đời những quả thiện.

TS Lê Văn Tâm

***

PHẦN BỐN
DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

 CAO HUY THUẦN
TA VỚI TA

 

       Thuở 1948-50, lúc tôi bắt đầu “quay một vòng hát mà chơi” trong gia đình Phật tử, anh Võ đình Cường đã cho xuất bản quyển Ánh Đạo Vàng mà thiếu niên chúng tôi hồi đó đều say mê. Từ đó đến nay, dù chẳng khi nào ở gần anh, tôi lúc nào cũng có cảm tưởng như anh em cùng sống với nhau dưới cùng một mái nhà- một mái chùa. Vì vậy, lúc thầy Thiện Châu đề nghị tôi làm chủ tọa để tiếp anh Cường trong buổi hội ngộ hôm nay, tôi vừa hân hạnh lại vừa bỡ ngỡ? Tại sao tôi lại phải “tiếp” anh Cường? Tôi là chủ, anh Cường là khách? Tôi là “chủ tọa”, anh Cường là “khách tọa”? Rốt cuộc, cả anh và tôi đều là chủ tọa, và điều đó gợi đề tài cho bài mở đầu của tôi. Tôi sẽ nói lăng nhăng về hai chữ khách, chủ.

       Tự xét mình, tôi chưa bao giờ là chủ của một cái gì, kể cả cuộc đời của tôi, kể cả thân xác của tôi.Tôi muốn tóc cứ xanh, nó cứ bạc. Tôi muốn ngủ, mắt không muốn nhắm. Tôi đâu nghĩ có ngày phải sống xa nước, vậy mà rồi cũng bèo dạt mây trôi. Luật Việt Nam ngày xưa bảo tôi là chủ gia đình. Có ai trên đời này dám vỗ ngực xưng mình là chủ của bà vợ? Vay nợ để mua nhà, tôi là chủ của cái nhà, hay cái nhà là chủ của tôi? Buồn, vui, thương, yêu, giận ghét, cứ đến cứ đi, có thể xin phép gì tôi đâu? Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử khi Hà Nội thất thủ, ông là chủ của cái cổ hay quan niệm về danh dự là chủ của chiếc dây? Ý nghĩ mà tôi đang nói ra đây, tôi đang làm chủ nó hay nó đã bắt đầu đưa đẩy tôi đi đến chỗ nào tôi chưa biết? Không ai là chủ của một cái gì cả, vì lẽ giản dị không có cái gì là khách.

       Anh Cường là khách của tôi? Còn lâu! Khi anh bước chân vào chùa này, khi anh nhìn thấy Phật, tôi cam đoan anh không nghĩ anh là khách. Làm sao anh là khách của Phật! Rất nhiều người trong chúng ta, nếu không muốn nói là tất cả, khi đặt chân lên đất nước của chính mình, bỗng thấy mình là khách. Từ cái hộ chiếu phải cầm, cho đến cách đối xử trong việc ăn ở, đi lại, giao tế, tất cả đều dồn chúng ta đến cái cảm giác lạ lùng rằng mình là khách. Nhưng sức mấy mà tôi là khách đối với đất nước tôi! Khi tôi mở cửa sổ và bất chợt thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”, có cắt lưỡi, tôi cũng phải nói rằng tôi không là khách của ông Hàn Mạc Tử. Tôi không là khách của con trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn tre; tôi đang thầm thì nói với nó, cũng như tôi đang thầm thì nói với tiếng giọt mưa rơi trên tàu lá chuối: “em đã là tôi tự thuở nào”.

       Mà tôi cũng không phải là khách của nước Pháp, của nước Mỹ. Thời 1973-74, lần đầu tiên tôi đến nước Mỹ, giữa lúc chiến tranh quyết liệt, sắp đến hồi kết thúc. Tôi đến thăm một trường đại học để hô hào chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, và tôi thấy gì? Một cái chuồng cọp, y hệt cái chuồng cọp ở Côn Đảo, với các cậu sinh viên thay phiên nhau ngồi chồm hổm trong đó. Tôi là khách sao được của những tình cảm thắm thiết kia? Không người trí thức nào thuộc thế hệ anh Cường nói mình là khách của vường Luxembourg khi lần đầu tiên nhìn lá vàng rơi trên những pho tượng trắng. Không có chủ, không có khách, bởi vì chủ hay khách là tự trong lòng, chỉ một khoé môi là chủ thoắt biến thành khách, chỉ một ánh mắt là khách vụt trở thành chủ. Cũng anh Thúc Sinh đó thôi, nhưng khi “trăm nghìn đổ một trận cười như chơi” thì là quen, mà khi đờ mặt ra nghe Kiều đàn với bà Hoạn Thư thì người đâu mà lạ thế!

       Ngày trước, tôi thường hay bâng khuâng với hai chữ “nhị hỷ” trong truyền thống cưới hỏi của chúng ta. Đưa dâu là ngày hôm trước, đưa vợ mới cưới về thăm nhà cha mẹ là nhị hỷ hôm sau. Nhị hỷ là nỗi vui thứ hai; thế thì nỗi vui thứ nhất hẳn là ngày cưới. Thế mà có người con gái nào không khóc sướt mướt khi lên xe hoa! “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật”, đố ai biết nước mắt đó buồn hay vui. Có người bị ép uổng, khóc đã đành. Các cô gái trong Nguyễn Bính đâu có lên xe hoa, chỉ qua đò, sang ngang. Cách một con sông, trời ơi, chỉ còn có cái cửa sau để ngóng về quê mẹ. Nhưng có người vui cũng khóc. Khóc vì tình cảm khách chủ ngổn ngang. Ra đi, bỗng nhiên là khách, khách của tất cả những gì đã tạo ra mình, từ cái mái nhà, mái hiên, đứa em út đang ngẩn ngơ nhìn chị cho đến con chó đang ngoe nguẩy đuôi. Có phải nhị hỷ là để khách ngày hôm qua trở lại là chủ của ngày hôm sau? Đố ai nói được! Khi cô dâu hôm trước bước vào nhà, đứa em gái đã thay chiếc khăn nơi giường của chị. Nó đã xoay lại chiếc bàn học, cắm một đóa hoa, làm dỏm một bức rèm. Cha mẹ cô mừng rỡ, nhưng trong dáng tiếp con không phải như mừng con đi học về ngày hôm qua. Có một cái gì lạ trong tất cả những cái đều quen. Ấy, đứa em gái vừa rót mời chị một ly nước. Sao bây giờ nó bỗng rót nước mời chị! Đưa dâu, chưa hẳn là ra đi vì trong lòng người con gái chưa rời được nhà cũ. Nhị hỷ, lúc trở về, đó mới là lúc người con gái thấy mình đã cất bước, con chim đã rời tổ.

       Những chuyện lăng nhăng, vớ vẩn như vậy trong đời đã đưa tôi vào đạo Phật lúc nào không hay. Người con gái trở về nhị hỷ là khách thật chăng? Không hẳn. Là chủ chăng? Cũng không. Anh Cường không phải là khách, không phải là chủ. Tôi đối với tấm thân này của tôi, đối với cuộc đời của tôi cũng thế. Không có cái gì là một, không có cái gì là hai. Nhìn một sẽ không thấy hai. Nhìn hai sẽ không thấy một. Phật dạy cho tôi sự biết rốt ráo, vượt lên trên một, vượt lên trên hai. Có lẽ chỉ có con cú, con chuột chù mới chỉ thấy đêm, không thấy ngày. Có lẽ chỉ có anh triết gia gàn ngày xưa mới thắp đuốc đi chơi đêm để nuôi ảo tưởng chỉ có ngày, không có đêm. Thói thường, ai cũng biết rằng mọi sự vật ở trong đời đều có đôi, có cặp: ngày đêm, tả hữu, cao thấp, trên dưới, lạnh nóng, xa gần, tĩnh động… Từ đó, trong ý niệm cũng nảy sinh ra từng cặp, từng đôi: vui buồn, thương ghét, âm dương, thiên đường địa ngục, tâm vật, và rắc rối hơn nữa duy vật duy tâm. Nhưng có ai là khách của ai đâu? Không có thấp, làm gì có ý niệm về cao; không có xa, biết thế nào là gần? Bao nhiêu triết gia đã thử định nghĩa thế nào là vui, nhưng đố ai biết vui là gì nếu không có buồn, đố ai biết thiện là gì nếu không có ác? Ông Mạnh Tử bảo: tính người là thiện: thế thì thiện là gì chứ? Ông Tuân Tử bảo: tính người là ác; thế thì thiện là khách?

       Mỗi lần ăn một bát phở ngon, tôi thấy Phật. Thấy thực sự, rành rành trước mắt, chứ không phải chỉ thấy qua triết lý, tôn giáo. Tôi thấy Phật từ từ đi ra bờ sông, tôi thấy Phật nhúng mình trong nước, tôi thấy Phât đi lên bờ, ngồi dưới gốc cây. Và đẹp quá, tôi thấy cô thiếu nữ mặc áo xanh thắm kính cẩn dâng lên Phật một bát cháo náo với sữa và mật của hoa rừng. Chưa bao giờ Phật nếm một thức ăn ngon như vậy sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già. Bát cháo làm Phật hồi sinh. Phật ngồi nghỉ, rồi Phật đứng dậy, đi qua bờ bên kia sông, ngồi dưới gốc cây bồ đề. Tất cả triết lý của Ấn Độ thời ấy nhắm vào việc chế ngự thân xác để làm sáng ra sức mạnh siêu nhiên của tâm linh. Thân này là khách, tâm linh kia mới là chủ. Đuổi khách đi thì người chủ mới làm chủ trọng ngôi nhà. Bát cháo của cô thiếu nữ đã làm tan biến ý niệm khách chủ giữa thân xác với tâm linh. Cũng vậy, tôi ăn bát phở và tôi thấy khoan khoái cả trong dạ dày lẫn trong tư tưởng. Cũng như khi tôi nhìn thấy đóa hoa hồng trong vườn: không phải chỉ mắt mũi tôi ngây ngất với sắc hương, cả tâm linh của tôi phơi phới.

       Kinh và chuyện thiền đã mang lại cho tôi cả một kho tàng hình ảnh, ẩn dụ để khước ý niệm khách chủ, một hai. Trên đầu ngọn núi cao ngất kia, mây trắng kết thành một vòng. Cái hình ảnh đẹp trước mắt là đỉnh núi với vòng mây. Trong cái trực nhận đầu tiên về cái đẹp, trong một thoáng rất nhanh mà cảm quan bắt chợt được cái đẹp như là cái đẹp, đâu có sự phân biệt đây là núi, đó là mây. Hai bàn tay vỗ vào nhau đánh bộp. Bàn tay trái bảo: tiếng bộp đó là tao. Đâu phải! Bàn tay mặt bảo: là tao, không phải mày. Đâu phải! Là hai bàn tay chăng? Sai nốt ! Bằng chứng là nếu tôi đặt lòng bàn tay này lên lòng bàn tay kia mà không vỗ thì chẳng nghe tiếng bộp nào. Thế thì tiếng bộp đó là do sự vỗ chăng? Có tất cả trong tiếng bộp, nghĩa là có một, có hai, có nhiều, có vô vàn yếu tố. Bồ Đề Đạt Ma đã nói một câu tuyệt vời: “muốn thấy cá phải nhìn nước”. Chỉ cần chiêm nghiệm một câu đó thôi, là thấy cả chân lý và phong thái sống trong đời. Thấy cá là thấy một, thấy nước là thấy một. Thấy hai cũng trật, mà thấy một cũng sai. Cho nên tất cả lý thuyết nào nói rằng do một mà sinh ra tất cả, tôi cười. Không có một ông thượng đế nào sinh ra vạn vật. Tôi sống trong cuộc đời không đóng đinh chữ một vào óc. Tôi không quỳ lạy trước Một, cho nên tôi tan hòa trong Tất Cả. Mà làm sao tôi thấy Mộtđược khi ngây ngất với đóa hoa hồng của tôi? Màu hồng thắm nơi cánh hoa do đâu mà có? Nếu cánh hoa khoe rằng nó là chủ của sắc màu thì mặt trời sẽ giận: không có ánh nắng, hoa lấy sắc thắm ở đâu? Nếu mặt trời đắc thắng vỗ ngực bảo nó là chủ của màu hồng, thì hạt mua sẽ không bằng lòng: không có mưa làm gì có hoa? Nhưng ai dám bảo mưa là chủ: không có mây làm gì có mưa? Tất cả vạn vật sẽ đi kiện nhau, nếu ai cũng cho mình là chủ: sông nước kiện mây, bởi vì không có hơi nước thì làm gì có mây: không khí chuyển động kiện hơi nước, bởi vì hơi nước làm sao bốc lên trời được nếu không có chuyển động không khí?

       Trong chuỗi kiện cáo liên miên bất tận không đầu không đuôi đó, nếu có một ông thượng đế tự đứng ra làm quan tòa tối cao để phân xử và cười khà phán rằng ta đây mới thật là chủ, thì vụ kiện vẫn chưa yên đâu, bởi vì có kẻ sẽ đứng ra kiện ông thượng đế: kẻ đó là tôi. Tôi kiện, vì nếu không có tôi thì làm gì có ông? Không có tôi run sợ, khép nép, làm gì có ông là giải pháp tối cao? Tôi là chủ, ông là khách. Lịch sử ở phương Tây này có gì khác nhau đâu là lịch sử kiện cáo giữa con người với ông. Có nhiều lúc con người ngạo nghễ: “thượng đế chết rồi!” Có lúc ông hát khải hoàn ca: “Thượng đế phục thù!” Thế thì ông là chủ, người là khách? Tôi thấy quan hệ đấu tranh giữa con người với ông ở phương Tây này mệt quá, trong đóa hoa hồng trong vườn tôi bình yên nở cánh. Mời ông xem, nơi nó có tất cả vạn vật, và tất cả vạn vật tụ lại trên nó. Nó không là chủ của ai, không ai là chủ của nó, mà cũng không ai là chủ của ai.

       Vứt hết ý niệm một, vứt hết ý niệm hai, vứt luôn cả ý niệm vừa một vừa hai, vứt hết, rồi hãy tưởng tượng mà xem: không có sự giao tế nào đẹp hơn giữa người với người, bởi vì ai cũng là chủ và không ai là khách. Đó là sự giao tế giữa trăng với nước.Trăng lên, và nước không mời, trăng cũng đến chơi, trăng là nhà của nước, nước là nhà của trăng, nước xao thì trăng vỡ, nước lặng trăng tròn. Ném hòn sỏi xuống nước, một tia nước rơi vào lá cỏ: trong hạt nước đọng trên lá vẫn có nước. Trăng nhởn nhơ trong nước, nhưng trăng không ướt; về khuya, nước cũng không làm trăng lạnh.

       Anh Cường đến chơi với chúng ta, áo anh khô và người anh ấm. Tiếp anh, tôi xin đọc một bài thơ mà chúng ta đã học từ thuở lớp nhì, lớp nhất. Thuở ấy, thầy giáo cắt nghĩa cho tôi khác, bây giờ tôi hiểu với một tinh thần khác. Tôi lăng nhăng nói trăng nói cuội nãy giờ cũng chỉ để đọc bài thơ kia với tinh thần này mà thôi. Bài thơ của Nguyễn Khuyến mà ai cũng thuộc:

Đã bấy lâu nay bác đến nhà

Trẻ thời đi vắng chợ thời xa

Ao sâu lưới cạn khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà

Cải chửa ra hoa cà chửa nụ

Bầu vừa rụng rốn mướp đang hoa

Đầu trò tiếp khách trầu không có

Bác đến chơi đây ta với ta.

       Nguyễn Khuyến là nhà nho, chưa chắc ông đã thông Hoa Nghiêm với Bát Nhã. Nhưng bài thơ là một chữ Không láu lỉnh trong một chứ  tài tình. Là chủ, ông vứt hết tất cả những gì khiến ông là chủ, khiến bạn là khách, vứt hết ý niệm tiếp đãi, lễ tân, khiến đó là đó, đây là đây. Trẻ con, chợ búa, cá mú, gà lợn, cải cà, bầu bí, cau trầu, càng lo lắng chu toàn những phiền hà đó bao nhiêu thì khoảng cách khách chủ càng xa bấy nhiêu. Tiếp bạn đâu không thấy, chỉ thấy xa bạn, bạn chưa đến mà đã ra đi rồi. Vức khoảng cách đi thì chẳng còn ai tiếp ai nữa, chỉ thấy phơi phới ta với ta, chẳng biết ta nào là ta nào, hai ta đấy chăng hay chỉ một ta hóa hai, hai ta nhập một. Tinh túy của Lão Trang bắt chợt gặp tinh túy của Thiền: vứt đi hết để đến cái rỗng không thì thấy được cái tự nhiên trong đó con người ung dung, thảnh thơi, tiêu dao, phóng khoáng, rong chơi như gió thổi qua nhà trống.

       Tôi xin chắp tay nhờ các bậc cao minh chỉ giáo cho tôi hướng đi của Phật Giáo vào thế kỷ mới. Riêng tôi, tôi không mơ tưởng chuyện lớn; tôi ước ao sống với Phật trong từng chuyện vặt. Chuyện anh Cường đến chơi. Chuyện bài thơ Nguyễn Khuyến. Tôi thấy chuyện vặt nhiều khi làm tôi gần Phật hơn là đại ngôn. Từ ba chữ ta với ta của ông Nguyễn Khuyến chẳng hạn, tôi suy ra được khối chuyện. Ví dụ: hãy “ta với ta” trước hết với ta. Trong cuộc sống cam go giữa xã hội phiền toái này, tôi không phải chỉ một tôi mà trăm ngàn tôi, nghĩa là trăm ngàn cái lưng, trăm ngàn cái lưỡi, trăm ngàn nụ cười ruồi. Cười trung cười nịnh một hồi, riết rồi tôi biến thành tôi của người, không thấy đâu nữa tôi của tôi. Đối với chính tôi, tôi đã là khách rồi, làm sao tôi khỏi là khách đối với anh Cường ? Anh Cường cũng vậy, anh đã là khách của anh, làm sao anh khỏi là khách đối với tôi? Và cứ như vậy, chúng ta chỉ là khách của mình và khách của nhau; ngồi ở đây chỉ toàn là khách với khách. Khách với khách bàn chuyện “phát triển Phật Giáo”, hoá chẳng phải là bàn về chuyện của một khách khác hay sao? Tôi đề nghị thế này: cứ mỗi lần chúng ta uốn lưng, uốn lưỡi, uốn nụ cười ruồi, hãy tưởng tượng ra rằng Phật đang dùng tuệ nhãn nhìn chúng ta và cười khì. Không chừng nghe Phật cười khì mà mình chợt tỉnh ra và bắt đầu tống khứ người khách ra khỏi lòng để trở lại làm ta của ta. Ai cũng biết chuyện con khỉ Tôn Hành Giả: nó nhổ một sợi lông, thổi một cái, biến thoắt ra trăm ngàn con khỉ đánh nhau với yêu quái. Cái hay của con khỉ họ Tôn là từ một sợi lông, nó biến ra trăm ngàn con khỉ rồi lại trở về với một con khỉ, là chính nó. Nó là trăm ngàn bởi vì nó là nó. Ta nhổ hết lông cũng chẳng hạ được con yêu nào, bởi vì ta chẳng là ta. Hiện tại, sao mà ai nấy lăng xăng làm đủ mọi chuyện, trừ có mỗi một chuyện thôi là chuyện tu. Nói phát triển làm gì cho mệt, khi từ cái bước đầu ta đã tự mình xa mình nghìn trùng!

       “Ta với ta”, thứ hai, là với gia đình. Đó là chuyện tôi cố gắng làm hằng ngày với vợ con, và thú thực không phải lúc nào cũng thành công. Nhưng làm hoài, ngã rồi đứng dậy, làm nữa.

       Thứ ba, tôi đang “ta với ta” với anh Cường và với tất cả các bạn ở đây. Và thưa anh, giá như các Giáo Hội của chúng ta cũng “ta với tavới nhau thì vui biết mấy!

       Cứ thế, trong tinh thần đó, hãy “ta với ta” với những vấn đề cao siêu nhất của thời đại. Lý thuyết về nhân quyền chẳng hạn. Quan niệm cá nhân như một chủ thể tối thượngquan niệm của Tây phương. Người chủ thể tối thượng là một người đơn độc, bởi vì đứng cao nhất thì đương nhiên là đứng một mình. Tôi không muốn đứng trên, tôi muốn đứng với. Không có ai nhào nặn ra tôi rồi chỉ vào tôi tuyên bố: nó là tối thượng. Từ bản thân, tôi đã là một mớ tương quan chằng chịt, làm sao tôi quan niệm được tôi ngoài những tương quan, nghĩa là ngoài chữ với? Không có triết lý nào dạy tôi hiểu ý niệm bình đẳng hơn là đạo Phật. Phật không dạy tôi chữ trên, Phật dạy tôi chữ trong: chân lý là ở trong tôi, chỗ đứng xã hội của tôi là ở trong mọi người. Tôi không ở trên, cho nên tôi không đi ra; tôi ở trong cho nên tôi đi vào. Vào trong tôi và vào với mọi người. Đi ra thì mất, thì là khách. Đi vào là được, thì là chủ. Tất cả đều đi vào với nhau, ở trong nhau, và không ai ở trên ai. Đó là mối tương quan giữa con ngườiquyền lực.

       Tôi nghĩ đó không phải là nói suông cho vui miệng. Lý tưởng của mọi người cầm quyền há chẳng phải đừng là khách mà cũng đừng là chủ của nhân dân đó sao?

       Và nếu bây giờ anh Cường hỏi tôi: vậy thì tương quan giữa Phật giáolãnh đạo chính trị hiện tại nên như thế nào? Tôi sẽ nói với anh: thì ta với ta!

GS-TS Cao Huy Thuần

 

 

TRẦN CHUNG NGỌC
PHẬT GIÁO VIỆT NAMVẤN ĐỀ GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY
NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC

 

       Trong bài thuyết trình về đề tài “Sứ Mệnh của Người Phật Tử Đối với dân tộc” tại Tổng Vụ Thanh Niên, Saigon, 1968, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận có nói: “Nói riêng về dân tộc Việt Nam thì đạo Phật đã thể nhập vào dòng sống của dân tộc này không thể tách rời ra được nữa… Việt Nam còn, Phật Giáo còn. Phật Giáo còn, dân tộc còn… Phật Giáo đối với dân tộc Việt Nam được coi như một thứ vũ khí tinh thần hiệu nghiệm nhất để vừa đối kháng với nền văn hóa vĩ đại Trung Hoa, vừa thâu thái những tinh hoa của nền văn hóa đó, rồi dung hòa cả hai nền văn hóa Ấn Độ - Trung Hoa với tinh thần phải chăng của dân tộc, làm thành một nền văn hóa VIệt Nam sống động trong tâm tư mỗi người và trong cuộc sống dân tộc” . Trong bài “Vài Nét về Phật Giáo Dân Gian Việt Nam”, Bông Sen số 19, tháng 9, 1994, Giáo Sư Trần Quốc Vượng viết: “Đạo Phật đã ngấm vào lòng người dân như nước ngấm vào lòng đất”. Cùng một nhận định, trong bài “Về sự hội nhập của Phật Giáo vào nền văn hóa Việt Nam”, Giao Điểm số 21, tháng 12 1995, Giáo sư Minh Chi viết “… Phật giáo từ Ấn Độ hay từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam đã có đầy đủ điều kiện để thành tựu một sự hội nhập thật sự vào nền văn hóa Việt Nam, vào cuộc sống của dân tộc Việt Nam.” Hội nhập, theo giáo sư Minh Chí đến mức như “Nước hòa với sữa, đến nỗi không thể phân biệt được đâu là nước đâu là sữa”.

       Nhận định của một bậc xuất gia đạo cao đức trọng như Hòa Thượng Thích Đức Nhuận và của hai vị giáo sư có tên tuổi như Trần Quốc Vượng và Minh Chi cho chúng ta thấy, cái nền văn hóa Việt Nam dính liền với lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam mà con dân Việt Nam ai cũng lấy làm hãnh diện, đã dung hợp rất nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo. Cho nên, Phật Giáo ắt đóng một vai trò quan trọng nhiệm vụ gìn giữ và phát huy nền văn hóa dân tộc, một nhiệm vụ chung của mọi người dân Việt. Gìn giữ và phát huy như thế nào? Theo thiển ý, nhiệm vụ này gồm có hai phần:

  1. Ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa của những ý thức hệ không tương hợp với nền văn hóa Việt Nam. Điều này không có nghĩa là bài ngoại một cách mù quáng, không tiếp nhận những cái hay cái đẹp trong các nền văn hóa khác. Vấn đềchúng ta phải ngăn chặn sự xâm nhập của những ý thức hệ không hợp với dân tộc tính và đã chứng tỏ trong lịch sử nhân loại là không có căn bản đạo đức, tự do, dân chủ, cũng như tinh thần từ bi, khoan dung của Phật Giáo, những đức tính đã thấm nhuần trong lòng dân tộc Việt Nam từ bao nhiêu thế kỷ.

  1. Gìn giữ, phát huy nền văn hóa dân tộc bằng cách luôn luôn cải tiến cho ngày càng tốt đẹp và hợp với thời đại mới, thời đại của khoa học và kỹ thuật, nhưng không xa lìa dân tộc tính, đạo đứctinh thần từ bi hỉ xả của Phật Giáo; lọc lựa để tiếp nhận những cái hay cái đẹp trên thế giới để cho nền văn hóa dân tộc ngày càng phong phú hơn, củng cố tinh thần yêu nước, giữ nước và xây dựng nước, truyền thống của dân tộc Việt Nam. Điều này chỉ có thể thực hiện được qua chính sách mở mang dân trí để cho người dân biết tới những sự thực lịch sử, lấy đó làm kinh nghiệm, và cập nhật hóa kiến thức về những tiến bộ trên thế giới.

       Trước ngưỡng cửa Thế Kỷ 21, khi mà các cuộc xâm lăng quân sự chuyển sang xâm lăng văn hóa, người dân Việt Nam phải ý thức được tầm quan trọng của vấn đề gìn giữ nền văn hóa dân tộc, nếu chúng ta không muốn một ngày nào đó trong tương lai, con cháu chúng ta không dám ngẩng mặt lên vì đã mất đi niềm hãnh diện của dân tộc, hay nói khác đi, đã bị nô lệ hóa, một hình thức nô lệ tệ hại và mất phẩm cách con người nhất.

       Thật vậy, lời khuyên nhủ sau đây của Giáo Hoàng Gia Tô La Mã John Paul II sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề: Trong một bài diễn văn tại Maribor, Slovenia, ngày 19 tháng 5 năm 1996, Giáo Hoàng Giatô La Mã John Paul II than phiền về sự suy thoái của niềm tin tôn giáo và kêu gọi các quốc gia phải bảo tồn nền văn hóa dân tộc, nguyên văn như sau: “Sự suy thoái của các lý tưởng đã phá ngầm nhân văn thế tục và mang tới lòng hoài nghi. Niềm tin tôn giáo phải lấp khoảng trống này và tạo ra một kết nối với khoa họcCác quốc gia PHẢI GÌN GIỮ NỀN VĂN HÓA CỦA HỌ như là MỘT BIỂU THỊ CỦA PHẨM CÁCH QUỐC GIA”. (The warning of ideologies, he (the Pope) said, has undermined secular humanism and brought on skepticism. Religious belief must fill the void and create a bond with science. Countries must preserve their culture as an _expression of national dignity. (“Wisconsin State Journal”, May 20, 1996, Daniel J. Wakin, Associated Press). Trong cái thế giới đa dạng, đa tôn giáo này, John Paul II đã ngộ được một điều: phẩm cách quốc gia chính là nền văn hóa dân tộc. Trước câu nói này, cả thế giới hân hoantin tưởng rằng, trong tương lai gần, John Paul II sẽ ra lệnh cho tín đồ của Ngài chấm dứt những hành động xâm lăng văn hóa vào các quốc gia ở Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh v.v…, nơi đây những nền văn hóa địa phương có bản chất rất xa lạ nếu không muốn nói là đối ngược với nền văn hóa Gia Tô Tây Phương.

       Riêng đối với Việt Nam, một người uyên bác như Ngài chắc cũng biết rằng, nền văn hóa dân tộc của Việt Nam tuyệt đối không tương hợp (incompatible) với nền văn hóa Gia Tô của Tây Phương, và dân tộc Việt Nam cũng đã ý thức được thế nào là phẩm cách quốc gia từ ngàn đời nay rồi. Cho nên, trong suốt mấy trăm năm truyền đạo với sự hỗ trợ của chính quyền đô hộ Pháp, cộng với 9 năm cầm quyền ở miền Nam của ông Tổng Thống GiaTô Ngô Đình Nhiệm, dù các giáo sĩ và chức sắc GiaTô đã làm đủ mọi cách, từ dùng bả vật chất cho tới cưỡng bách vào đạo, mà số người theo GiaTô Giáo chưa bao giờ lên quá 7% của tổng số dân số. Cho tới bây giờ, một số giáo dân Việt Nam vẫn sống trong những làng mạc riêng biệt, với nếp sống riêng, xa lạ với phong tục tập quán của người Việt, như người ngoại quốc sống giữa chính đồng bào của mình” (Nguyễn Văn Trung: “Nhận Định 1, Nam Sơn, Saigon”, Thích Nhất Hạnh trích dẫn trong “Lotus in a Sea of Fire”, trg. 24). Những sự kiện này cho thấy dân tộc Việt Nam trên thực tế đã từ chối, không chấp nhận một nền văn hóa GiaTô mà từ cấu trúc, tư tưởng, tín điều, nghi lễ v.v… đều không hợp với nền văn hóa Việt Nam.

       Nhưng những kinh nghiệm trong quá khứ đã cho chúng ta thấy rõ, “lời nói đi đôi với việc làm” là chuyện hiếm hoi trong lịch sử GiaTô Giáo trên toàn cầu. Qua những lời phát biểu của John Paul II ở những nơi khác, người ta thấy rõ là trong thâm tâm Ngài vẫn ấp ủ một niềm tin của thời Trung Cổ: chân lý GiaTô là chân lý chân thật duy nhất, và một nền văn minh xứng đáng với con người phải là nền văn minh KiTô. Ở đây giáo hoàng đã lấy cái nền văn minh Tây Phương vào làm nền văn minh KiTô trong khi thực ra thì lịch sử đã chứng minh rằng bản chất của KiTô giáo là phản văn minh, phản tiến bộ (tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một đoạn sau). Niềm tin này đã đầu độc những tín đồ kém hiểu biết từ khi họ còn nhỏ, nhất là ở trong các nước chậm tiến, dân trí còn thấp kém.

       Bởi vậy, trong khi Tây phương đã thấy rõ bản chất của GiaTô La Mã giáo và dần dần từ bỏ tôn giáo này, hay ít ra cũng không còn tin vào những tín lý huyền hoặc hay những huyền thoại trong Thánh Kinh nữa, thì ở Mỹ, ông Nguyễn Văn Chức, niềm hãnh diện của giới trí thức GiaTô, Tổng Thư Ký Liên Đoàn GiaTô Hải Ngoại, vẫn sống trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là “bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã” (The thick darkness of Romanism) và phát biểu trong bài thuyết trình ở Denver, Colorado ngày 13/08/1993, một câu có tính cách mạ lỵ cả một dân tộc như sau: “Quyển Thánh Kinh sẽ là cẩm nang trong sứ mạng phục hưng con ngườiđạo lý tại Việt Nam”. (“Tạp chí ngày nay, số 144, trang 17, tháng 9/1993, Kansas”; Chu Văn Trình: “Văn Sử Địa 1994, tập I”; và Đỗ Mậu: “Tâm Thư”). Thật vậy, ông Chức đã đồng hóa một số người mà có thể ông đã thù hận trên căn bản đối nghịch ý thức hệ với cả một dân tộc trong câu nói trên, chưa kể đến chuyện quyển Thánh Kinh sẽ phục hưng con ngườiđạo lý tại Việt Nam như thế nào, điều mà chúng ta phải nghiên cứu, phân tích cẩn trọng.

       Vì sự thực thi điều này có thể ảnh hưởng tới tương lai dân tộc, tới nền văn hóa cổ truyền của Việt Nam, phản ánh một ý đồ xâm lăng văn hóa theo sách lược của các cha cố và thực dân Pháp ngày xưa, ngược hẳn với tư tưởng cấp tiến của John Paul II đã nêu ở trên, cho nên đứng trên cương vị của một người dân Việt Nam, đặt quyền lợi tổ quốc trên hết, đặt việc công trên tình quen biết riêng tư (tôi và ông Nguyễn Văn Chức vốn là bạn cùng khóa, nằm cùng phòng với nhau suốt 10 tháng trời trong trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định), tôi không thể không thắp lên một ngọn đèn nho nhỏ để soi sáng sự thật:

       Đức Khổng Tử đã chẳng nói: “Thay vì ngồi nguyền rủa bóng tối, tốt hơn là thắp lên một ngọn đèn nhỏ” hay sao? Cái hạnh nguyện của người cư sĩ Phật Giáo là với tinh thần vô úy, với từ bi tâm, phải dấn thân vào làm những việc không thể không làm, nói những điều không thể không nói, làm và nói trong tinh thần không chấp trước, tôn trọng sự thực, không gian dối, không bịa đặt, không xuyên tạc, hy vọng mang lại phần nào ích lợi cho quốc gia đồng bào, dù biết rằng những việc làm hay lời nói của mình có thể đưa tới những thiệt thòi cho chính bản thân.

       Sự dấn thân này tuyệt đối không bắt nguồn từ lòng thù hận mà từ lòng mong muốn một sự cải tiến để tốt đẹp hơn qua chánh kiếnchánh tư duy, kết quả của nghiên cứusuy luận. Có nhiều người cho rằng: “Chúng ta không bao giờ nên phê phán, chỉ trích tôn giáo của người khác,” dù nhiều khi những cái gọi là “phê phán” hay “chỉ trích” chỉ là những sự kiện lịch sử không ai có thể phụ nhận. Tôi tôn trọng những tình cảm cao quý trên của họ. Nhưng sống trong một xã hội mà mọi sự đều liên hệ tới nhau, thái độ này có hại nhiều hơn là có lợi. Thật vậy, trong cuốn “Nền Tự Do của Mỹ và Quyền Lực Gia Tô” (“American Freedom and Catholic Power”, The Beacon Press, New York, 1950, trg. 4-5) Paul Blanshard viết như sau:

       “Anh không bao giờ nên chỉ trích tôn giáo của người khác,” cái giáo lý vô hại đó, sinh ra từ những tình cảm cao quý, thật là nguy hại cho lối sống dân chủ. Nó không biết đến bổn phận phải bênh vực sự thực trong mọi ngành tư duy của mọi công dân tốt. Nó không xét đến sự kiện là phần lớn cái mà con người gọi là tôn giáo cũng là chính trị, lành mạnh xã hội và kinh tế. Giữ yên lặng về “tôn giáo của người khác” có thể đưa đến nền y tế hạng hai, nền giáo dục thấp kém, và chính quyền phản dân chủ.

       Tôi tin rằng mọi công dân Mỹ - Gia Tô và phi GiaTô - đều có bổn phận phải nói lên vấn nạn Gia Tô, vì những vấn đề liên hệ tới Gia Tô đi vào trọng tâm của nền văn hóa và quốc tịch của chúng ta. Nói thẳng về nền văn hóa và quốc tịch của chúng ta. Nói thẳng về vấn nạn này có thể bị nhiều nguy hiểm cay đắng, hiểu lầm và ngay cả sự cuồng tín, nhưng những nguy hiểm của sự yên lặng lại còn lớn hơn. Bất cứ người nào phê phán về những chính sách của hệ thống quyền lực Gia Tô đều phải gồng mình lên đội cái mũ “chống Gia Tô”, vì đó là một phần trong sách lược chống đỡ của hệ thống Gia Tô: chụp cái nhãn hiệu này lên những người đối lập; và họ cũng phải cam chịu mang danh hiệukẻ thù của dân GiaTô, vì hệ thống GiaTô luôn luôn đồng hóa những tham vọng của giới giáo sĩ với những cái mà họ cho là ước muốn của tín đồ.” (“You should never criticese another man’s religion”, that innocent-sounding doctrine, born of the noblest sentiments, is full of danger to the democratic way of life. It ignores the duty of every good citizen to stand for the truth in every field of thought. It fails to take account of the fact that a large part of what men call religion is also politics, social hygience and economics. Silence about “another man’s religion” many mean acquiescence in second-rate medicine, inferior education and anti democratic government.

       I believe that every American – Catholic and non-Catholic – has a duty to speak on the Catholic question, because the issues involved go to the heart of our culture and our citizenship. Plain speaking on this question involves many risks of bitterness, misunderstanding and even fanaticism, but the risks of silence are even greater. Any critic of the policies of the Catholic hierarchy must steel himself to be called “anti-Catholic”, because it is part of the hierarchy’s strategy of defense to place that brand upon all its opponents; and any critic must also reconcile himself to being called an enemy of the Catholic people, because the hierarchy constantly identifies its clerical ambitions with the supposed wishes of its people).

       Ý thức được những điều trên và chấp nhận những nhãn hiểu có thể chụp lên đầu và cả những lời trách cứ của những người không muốn dính vào “tôn giáo của người khác”, sau đây tôi sẽ cố gắng phân tích vấn đề GiaTô, dựa theo những tài liệu khả tín hiện hữu, và dựa theo hiểu biết hạn hẹp cá nhân.

       Vấn đề đầu tiên được đặt ra là chúng ta phải nghiên cứu kỹ càng nội dung ý kiến của ông Nguyễn Văn Chức: dùng Thánh Kinh GiaTô làm “cẩm nang mang sứ mạng phục hưng con ngườiđạo lý ở Việt Nam” đề từ đó dựa vào đâu mà chấp nhận hay loại bỏ? Thiết tưởng không còn cách nào hơn là mang vấn đề này ra mổ xẻ và phổ biến trong quảng đại quần chúng vì nó liên hệ đến tương lai của cả một dân tộc. Bài khảo luận nho nhỏ này, dựa trên sự kiện chứ không dựa trên cảm tính, viết ra không ngoài mục đích trên, và với hy vọng sẽ cho chúng ta một giải đáp hợp lý.

       Vì đây là một chủ đề liên hệ đến Thánh Kinh Gia Tô, mà Thánh Kinh lại là căn bản ý thức hệ GiaTô, cho nên tôi không thể tránh được việc bàn luận đến cuốn sách này cũng như đến GiaTô Giáo. Chúng ta biết rằng, trong những xã hội dân chủ tự do như ở Mỹ, cuốn Thánh Kinh được bày bán khắp nơi, và được những người truyền đạo hăng say đứng ở đầu đường phát không cho những người đi qua đi lại ở nhiều trường đại học, do đó không phải là một vật thiêng liêng bất khả xâm phạm của một tôn giáo, và nếu tôi có luận trên cuốn sách này thì cũng chỉ là đi theo gót hàng trăm học giả, giới chức tôn giáo đã xuất bản những công cuộc nghiên cứu, phân tích của họ về cuốn Thánh Kinh. Thời buổi này, trong những xứ văn minh tiến bộ Âu Mỹ, không có ai còn sử dụng cái quyền “Cha Nhà Thờ, tha hồ nói, và người ngoại đạo chỉ có quyền tha hồ nghe” (mượn ý của Giới Tử) để lên án những chuyên gia, học giả nghiên cứu về Gia Tô Giáo cũng như về Thánh Kinh là “chống phá tôn giáo”, “chia rẽ tôn giáo”, “đụng chạm đến quyền tự do tín ngưỡng riêng tư”, hay ngớ ngẩn hơn nữa là “thiên CS”, “làm tay sai cho CS”, “theo sách lược chống phá tôn giáo của CS” v.v… Những luận cứ như vậy nghe có vẻ khôi hài, phản trí thức, và phản tiến bộ một cách đáng thương, phản ánh những đầu óc cuồng tín và không đủ kiến thức, khả năng để thảo luận nghiêm chỉnh một vấn đề, cho nên chỉ còn biết lên án vu vơ bất cứ ai viết đụng đến GiaTô Giáo hay Thánh Kinh, dù rằng họ chỉ viết ra những sự thực bất khả phản bác.

       Trước hết, nhận xét đầu tiên của tôi là câu của ông Nguyễn Văn Chức phản ánh một niềm tin tôn giáo, một niềm tin đặc thù GiaTô mà chúng ta thường thấy còn sót lại ở một phần các xứ Nam Mỹ, Phi Châu, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân, và buồn thay, ở một thiểu số trên đất nước Việt Nam, chứ không phải là một sự hiểu biết về Thánh Kinh, hay lịch sử của Gia Tô La Mã giáo. Bởi vì bất cứ người nào, với một sự lương thiện trí thức tối thiểu, khi đã đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và biết về lịch sử Gia Tô Giáo trên toàn cầu, thì không thể nào thốt ra một câu như vậy mà không cảm thấy ngường ngượng với chính lương tâm của mình. Tôi sẽ chứng minh điều này bằng một số tài liệu, tuy ít ỏi nhưng cũng có thể gọi là tạm đủ, để quý vị đọc giả có thể biết được những điều cần thiết về lịch sử Gia Tô Giáo trên hoàn cầu và nội dung cuốn Thánh Kinh. Tôi hy vọng với sự hiểu biết này, quý độc giả sẽ có một nhận định nghiêm chỉnh về cái gọi là “phục hưng con ngườiđạo lý ở Việt Nam” bằng quyển Thánh Kinh.

       Thứ đến, nhiệm vụ gìn giữ và phát huy nền Văn Hóa Việt Namnhiệm vụ gìn giữ và phát huy tinh thần dân tộc. Do đó, Phật Giáo, một tôn giáo của đa số người dân Việt Nam, ắt phải góp một phần quan trọng trong nhiệm vụ này.

       Với nội dung như trên, bài khảo luận này gồm có ba phần: 1. Lịch sử Gia Tô La Mã Giáo; 2. Nội Dung Thánh Kinh và 3. Phật giáo với Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc.

    1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ GIA TÔ LA MÃ GIÁO

       Khảo sát về lịch sử Gia Tô La Mã giáo, một số học giả đã đồng ý ở một điểm: đó là một lịch sử đẫm máu của gần 2000 năm đầy tội ác, phi luân lý, phi đạo đức; một lịch sử đã mang quá nhiều bất hạnh to lớn tới nhân loại so với những việc từ thiện bác ái nhỏ nhoi, thường là thực hiện với chủ đích dùng bả vật chất để thu nhặt tín đồ, mà Giáo Hội Gia Tô thường vẫn thổi phồng để cho thế giới quên đi, không nghĩ đến cái lịch sử đen tối của Giáo hội. Tôi sẽ trở lại thực chất của những hoạt động từ thiện của Gia Tô giáo trong một đoạn sau. Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một nhận định tổng quát của B.S. Rajneesh trong cuốn “Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn” (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul”, The Rebel Publishing House GmbH, Cologne, West Germany, 1987, trg. 25): “Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào KiTô giáo, đặc biệt là Gia Tô giáo. Những trường học, nhà thương và viện mồ côi của họ chẳng qua chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Gia Tô” (If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics).

       Hiện nay số tài liệu khảo cứu về Gia Tô La Mã Giáo rất là phong phú. Đã có những công cuộc nghiên cứu và viết thành sách với đầy đủ tài liệu xác tín về mọi khía cạnh của tôn giáo này: từ tổ chức quyền hành toàn trị cho tới phương pháp truyền đạo; từ các triều đại dâm loại của các Giáo Hoàng cho tới các cuộc Thánh Chiến để tiêu diệt những người ngoại đạo; từ những hành động đàn áp, giết chóc khoa học gia, ngăn chặn sự tiến bộ của khoa học để bảo vệ những điều sai lầm trong Thánh Kinh cho tới những toan tính diễn giải lại Thánh Kinh để cho phù hợp với những sự kiện khoa học; từ mưu toan thống trị hoàn cầu cho tới những sự dẫn đường hay liên kết với các chế độ thực dân; từ những cuộc săn lùng “phù thủy” cho tới những tòa hình án tra tấn dã man những người bị kết án là “dị giáo” (những người không có cùng quan niệmlòng tin tôn giáo như các tín đồ Gia Tô); từ sách lược tiêu diệt dân Do Thái cho đến mưu toan tiêu diệt tất cả các nền văn hóa không phải là Gia Tô; từ sự sa đọa tinh thần của một số không nhỏ lãnh đạo tinh thần Gia Tô, rượu chè trai gái cho tới cưỡng bách tình dục trẻ em và nữ tín đồ; từ những phương cách vơ vét của cải tài nguyên của các giáo hội địa phương cho tới những kế hoạch kinh tài phi luân; từ những liên kết chính trị với Phát xít Đức, Ý cho tới những hoạt động che dấu tội phạm chiến tranh trong các tu viện và qua các cơ quan từ thiện; từ những hành động ve vuốt ngoài mặt cho tới những âm mưu lũng đoạn cơ cấu chính trị và kinh tế của các nước thuộc Xã Hội Chủ Nghĩa; từ những ngụy tạo phép lạ cho tới việc buôn bán các Thánh tích giả mạo hay phong Thánh từng loạt để mê hoặc, chiêu dụ đám tín đồ kém hiểu biết v.v….; thật quả là không thiếu một phương diện nào.

       Lẽ dĩ nhiên, đa số tín đồ Gia Tô không hề biết tới những sự kiện lịch sử kể trên, và dù có biết cũng không tin, vì họ được nhồi vào đầu óc từ nhỏ là: nghi ngờ sự cao quý và chân thực của đạo Chúa là có tội, phải đày đọa xuống hỏa ngục; và mọi phê phán về Giáo Hội GiaTô là do lòng ghen ghét cái tôn giáo cao quý và đầy tình thương của Chúa. Họ không hề để tâm suy nghĩ và dùng đầu óc suy luận để thấy rằng: Xưa nay con người thường ngưỡng mộ và kính phục những gì cao quý, nhân áiđạo đức chứ có ai lại đi ghen ghét những cái gì cao quý và đầy tình thương? Họ không hề biết là đa số các công cuộc khảo cứu về Gia Tô Giáo lại do chính những người trong Giáo hội viết ra, những người đã biết rõ những sự thực của Giáo hội mà những tín đồ hay người ngoại đạo không bao giờ có thể biết đến, những tác giả nghiên cứu này gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, Linh Mục, nhà Thần Học, và học giả Gia Tô, chưa kể đến các giáo sư đại học chuyên về tôn giáo.

       Hiển nhiên, trong khuôn khổ một bài khảo luận, tôi không có cách nào trình bày đầy đủ về các chi tiết trên, do đó, trong phần khảo sát về lịch sử này tôi xin tự giới hạn trong vài điểm chính: “Giáo Hội Gia Tô La Mã phát triển ra sao, đã có những ảnh hưởng gì trong sự phát triển con người, và đã mang lại bao nhiêu phúc lợi cũng như bất hạnh cho nhân loại?”.

       Đại cương thì, đọc lịch sử Gia Tô La Mã Giáo, chúng ta thấy rằng trong suốt gần 2000 năm nay, tôn giáo này chưa bao giờ hòa hợp với bất cứ một tôn giáo nào khác, kể cả những tôn giáo cũng thờ một Chúa KiTô. Khi ở vị thế có thể nắm quyền thế gian thì tôn giáo này đã làm đủ mọi cách, dùng mọi quyền lựcthủ đoạn, thường là bất nhân tàn ác, để bành trướng bằng sắt máu, tiêu diệt các tôn giáo khác. Đi tới địa phương nào, tôn giáo này cũng tự cho là cao quý khai phóng nhất, phỉ báng các tôn giáotruyền thống dân tộc địa phương và tìm cách tiêu diệt nền văn hóa địa phương để thay vào đó bằng một nền văn hóa hẹp hòi, tàn độc của Gia Tô giáo Tây phương. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, giáo sĩ Alexandre de Rhodes, khi tới Việt Nam truyền đạo, đã xuyên tạc, mạ lỵ cả ba tôn giáo lớn ở Việt NamPhật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo, gọi đức Phật, Khổng Tử bằng những danh từ thiếu văn hóa (Xin đọc “Phép Giảng 8 Ngày” của Alexandre de Rhodes).

       Chính sách truyền bá đạo bằng bạo lực và sách lược tiêu diệt các nền văn hóa khác đã được chứng minh bởi những lời xin lỗi của John Paul II với các nước trong Thế Giới thứ Ba (nhưng quên mất Việt Nam) trong nhiều cuộc công du gần đây, và lời kêu gọi giáo dân phải sám hối về những tội ácbất hạnhgiáo hội Gia Tô đã gây ra cho nhân loại. Giáo Hoàng hi vọng thế giới sẽ quên đi những trang sử đen tối của Giáo hội GiaTô với các khẩu hiệu (motto) như sau:

       “Xin lỗi nhé! Nhân danh Chúa của chúng tôi, chúng tôi đã nô lệ hóa các người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã giết các người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã chia rẽ, xâu xé, tàn phá quốc gia của các người. Bây giờ các người có thể tin tưởngchúng tôi được rồi.” (Sorry! In the name of our God, we enslaved you. Sorry! We killed you. Sorry! We screwed up your country. You can trust us now. (A Freethinker on Vietnet).

       Nhưng thế giới nói chung có lẽ không bao giờ có thể quên được những bất hạnh mà Gia Tô Giáo đã mang tới cho nhân loại, vì càng ngày ta càng thấy nhiều sách báo viết về cái lịch sử tàn bạo này, và Việt Nam nói riêng, có lẽ không bao giờ có thể quên được cái giai đoạn lịch sử cay đắng gần 100 năm nô lệ và 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn của dân tộc mà Gia Tô La Mã giáo đã dự phần không nhỏ gây nên với sự phụ giúp của một số không nhỏ tín đồ bản xứ nhưng vong bản.

       Sau đây chỉ là sơ lược những điểm chính trong lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo này, dựa trên những công cuộc khảo cứu nghiêm túc của một số chức sắc Gia Tô và học giả Âu Mỹ. Trước hết, về lịch sử Gia Tô La Mã Giáo chúng ta cần biết rõ một sự kiện: lịch sử Ki Tô Giáo (Christianity), cho tới Thế Kỷ 16, cũng là lịch sử GiaTô La Mã giáo (Roman Catholicism), như Joseph L. Daleiden đã viết: “Khi chúng ta ôn lại lịch sử của KiTô Giáo chúng ta cần phải nhớ rằng, trước công cuộc cải cách (Thế Kỷ 16; TCN), KiTô Giáo như là một tổ chức đồng nghĩa với Giáo Hội Gia Tô và Giáo Hoàng là người cai quản giáo hội đó, cho nên mọi việc xấu ác của KiTô giáo từ lúc đầu cho tới công cuộc cải cáchtrách nhiệm, trực tiếp hay gián tiếp, của Giáo Hoàng triều”. (As we review the history of Christianity, bear in mind that prior to the Reformation, Christianity as an institution was synonymous with the Catholic Church, and the pope was in charge of that church. Therefore, all the evils of Christianity from its inception to the reformation were directly or indirectly the responsibility of the Papacy - “The Final Superstition”, Prometheus Books, New York, 1994, trg. 52).

       Nghiên cứu về lịch sử KiTô Giáo chúng ta thấy rằng, trong ba thế kỷ đầu, KiTô giáo tương đối hiền hòabản chất cũng siêu thoát, trong đó có một phái theo chủ thuyết tự chứng, đạt giải thoát qua kiến thức và sự hiểu biết sâu xa về thực tại, cùng kinh nghiệm tu chứng bản thân. Đó là Phái Ngộ Thuyết KiTô (Gnostic Christianity). Tên này lấy từ gốc Hi Lạp, Gnosis, có nghĩa là kiến thức. Những người trong môn phái này đã chê tráchnhững người tự xưng là Giám Mục và Trợ Tế, làm như họ đã được Thượng Đế ban quyền cho và gọi những người tự xưng một cách trơ tráo này là “những con kênh không có nước”. (The Christian sect known as the Gnostics childed those who “call themselves bishops and also deacons, as if they had received their authority from God…” and called those who made such audacious claims “waterless canals”, (Joseph L. Daleiden, Sđd, trg. 52). Nhưng môn phái này bị giáo hội tự phong là chính thống KiTô (nghĩa là Gia Tô La Mã Giáo cho tới thế kỷ 16), kết ándị giáo và khi giáo hội Gia Tô liên kết và nắm được quyền lực thế gian, thì tìm cách tiêu diệt môn phái này và tất cả những tín ngưỡng không thuận theo ý hệ GiaTô. Khi đại đế Constantine theo KiTô Giáo và lập KiTô Giáo làm quốc giáo thì tôn giáo này nắm được địa vị và quyền hành tuyệt đối trên thế gian.

       Và từ đó đạo Gia Tô đã phát triển lên đến “đỉnh cao trí tuệ của loài người”, kết quả là đưa Âu Châu vào 1000 năm đen tối, từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15, được gọi là thời đại đen tối (Dark Ages), vì đó là “thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức” (The ages of barbarism and intellectual darkness, Grolier Electronic Publishing 1995), thời đạigiáo hội Gia Tô đã đốt tất cả sách vở, sử liệu thuộc mọi tín ngưỡng khác, thay thế vào đó bằng ý hệ đen tối trí thức của GiaTô Giáo bằng những tư liệu ngụy tạo; cấm mọi thảo luận triết lý trong dân gian, chủ xướng những cuộc Thánh Chiến tàn bạo nhất; lập ra những tòa hình án xử dị giáo với những hình cụ tra tấn ác độc dã man nhất trong lịch sử nhân loại, gây khủng bố chết chóc cho nhiều triệu người ở khắp Âu Châu, kéo dài qua thời đại đen tới cho tới giữa thế kỷ 19; làm tiền phong hay theo gót những đoàn quân thực dân để truyền đạo trên khắp năm châu v.v…. Chúng ta hãy sơ lược duyệt qua cái lịch sử hình thành và phát triển của Gia Tô giáo kể trên qua một số tài liệu điển hình sau đây.

       Chủ trương tiêu diệt tất cả những tín ngưỡng khác của GiaTô giáo bắt đầu bằng một chính sách man rợ và phản tiến hóa nhất của nhân loại là đốt tất cả mọi sách vở, tài liệu, chứng tích lịch sử liên hệ đến các tín ngưỡng khác và liên hệ đến những sự thật về KiTô giáo và nhân vật Giê-Su… Về sự kiện này, trong cuốn “Những dối trá và huyền thoại của Thánh Kinh” (Deceptions and Myths of the Bible, The Citadel Press Book, Carol Publishing Group, New York, 1995, trg. 444, Lloyd M. Graham đã viết như sau:

       “Sự hủy diệt mọi chứng tích về phái Ngộ Thuyết KiTô và những nguồn tài liệu về đa thần là “tác phẩm đầu tiên” của KiTô giáo. Chính các nhà truyền giáo đã khởi sự, ở Antioch, như được nói đến trong sách “Công Vụ các Sứ Đồ” (Acts)… Do lệnh của giáo hội, tất cả kinh sách của những người ủng hộ phái Ngộ Thuyết đều bị đốt, cũng như 36 cuốn của Porphyry (Porphyry là một triết gia (232-305) A.D.; Lloyd M. Graham giảng A.D. là A(fter) D(elusion), chủ trương triết lý là phương tiện giải thoátnhấn mạnh đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết hóa con ngườI- TCN).

       Giáo hoàng Gregory VII đốt thư viện Apollo chứa đầy kiến thức cổ xưa. Hoàng đế Theodosius đốt sạch 27,000 tài liệu về học phái huyền bí vì những tài liệu này chứa những căn bản giáo lý của ngũ Kinh. Bằng cách ban trọng thưởng, Ptolemy Philadelphus gom góp 270,000 tài liệu cổ và đốt sạch chúng vì cùng lý do như trênSự hủy diệt văn hóa này vẫn tiếp tục sau khi những nhà lập giáo đã qua đời; những tín đồ cuồng tín mà họ đào tạo ra tiếp tục công việc này: đoàn Thập tự quân đốt tất cả sách vở mà họ có thể kiếm ra được, kể cả những cuộn nguyên bản Thánh thư Do Thái. Năm 1233 những tác phẩm của Maimonides (một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204; TCN) bị đốt đi cùng với 12,000 cuốn của Kinh Talmud. Năm 1244, 18.000 cuốn sách đủ mọi loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã đốt 80,000 bản văn của Ả Rập ở công trường Granada. Ở Tân Thế Giới (châu Mỹ), toàn bộ kiến thức cổ xưa bị những người KiTô Tây Ban Nha phá hủy cùng với đền đài chứa đựng những kiến thức này.

       Sau khi đã phá hủy mọi chứng tích, những nhà lập giáo KiTô đầu tiên đã có thể thay thế những kiến thức cổ xưa này bằng những điều vô nghĩa của họ. Và để chứng minh những điều vô nghĩa này, họ đã thay đổi lời lẽ và gài vào đó những câu không có trong những nguyên bản… Về cùng một chủ đề này, Massey viết như sau: “Trong bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những tài liệu quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết trung thực về nguồn gốc thực của sự mê tín trong KiTô giáo. Những huyền thoại được viết và in ra như là lịch sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ hay cưỡng bách phải chấp nhận sự gian dối”…

       Theo giáo lý của họ thì “máu của Chúa KiTô đã rửa sạch tội lỗi của thế giới”, vẫn còn với chúng ta ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch là sự lành mạnh của thế giới. Với thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm thức Tây phương mê mẩn đến nỗi Agibard ở Lyon phải viết như sau: “Cái thế giới bất hạnh này nằm dưới sự chuyên chế điên rồ, những điều mà người KiTô tin, nó vô nghĩa đến độ từ xưa tới nay không ai có thể làm cho người ngoại đạo tin được”. Nếu độc giả không tin và muốn có một thí dụ thì chúng tôi xin cống hiến một chuyện trong KiTô giáo về Thánh John trong phúc âm. Theo lịch sử các Thánh thì John, khi đã rất già, làm cho hoàng đế Domitian giận. Để trừng phạt John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc chứa dầu và nhựa thông. Và khi người ta châm lửa, dầu bắt đầu sôi thì đám đông ở ngoài nghe một tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn hết thì John vẫn còn sống và không hề hấn gì. Jerome, Eusebius, Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ này và những điều hoang đường trong đó. Và nay, nếu những tín đồ KiTô xuất sắc có thể tin được sự vô lý này thì họ có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả Thánh Kinh”.

(The destruction of all evidence of Chirstianity’s Gnostic and pagan source was “the first work”. It was the evangelists themselves who started it, in Antioch, as stated in Acts… By order of the Church the books of the Gnostic Basilides were burned, likewise Porphyry’s thirty-six volumes. Pope Gregory VII burned the Apollo library filled with ancient lore. Emperor Theodosius had 27,000 schools of the Mysteries paprus rolls burned because they contained the doctrinal basis of the Gospels. By offering rich rewards Ptolemy Philadelphus gathered 270,000 ancient documents; these too were burned for the same reason. As someone has said, the early Christians heated their baths with the Ancients Wisdom. And what knowledge they may have contained. Nor did the destruction end with the Founders; the fanatics they made carried on the work: the Crusaders burned all the books they could find, including original Hebrew scrolls. In 1233 the works of Maimonides were burned along with twelve thousand volumes of the Talmud. In 1244 eighteen thousand books of various kind were destroyed. According to Draper, Cardinal Ximenes “delivered to the flames in the square of Granada eighty thousand Arabic manuscripts”. On finding similar lore in the New World, the Spanish Christians destroyed it and the temples that contained it.

       All evidence of source destroyed, the Christian Fathers could now substitute their own absurdities. And to substantiate them they altered words and inserted verses that did not exist in the original texts… On this same subject Massey wrote thus: “They had almost reduced the first four centuries to silence on all matters of the most vital importance for any proper understanding of the true origins of the Christian superstition. The mythos having been at last published as a human history, everything else was suppressed or forced to support the fraud.”

       According to their teaching “the blood of Chirst washed away the sins of the world” still with us. What is actually washed away was the sanity of the world. In due time its doctrines so bedeviled the Western mind that Agobard of Lyon wrote thus “The wretched world lies now under the tyranny of foolishness; things are believed by Christians of such absurdity as no on ever could aforetime induce the heathen to believe”. Should the skeptical reader wish a samples, we offer another tale of Christian martyrdom, this time about the precursor of the curse, John of the Gospels. According to the saints, John, when very old, incurred the anger of the Emperor Domitian. To punish him, the latter had this holy man thrown into a caldron of oil and resin. A fire was lit, and when the liquid began to boil the jeering crowd heard a voice singing in the flames – the Christian Shadrach, etc. When the caldron boiled dry, there was John still alive and quite unharmed. Jerome, Eusebius, Tertullian all relate this miracle and partically all hagiographies contain it. And now if these eminent Christians could believe this absurdity, they could believe anything even the Gospels).

       Cũng như Tần Thủy Hoàng ở bên Trung Quốc, không thể nào đốt hết được sách vở của thiên hạ, Giáo hội GiaTô, dù đã dùng mọi nỗ lực để hủy diệt những chứng tích lịch sử của các tong phái Kitô khác cũng không có cách nào thành công hoàn toàn. Do đó, vẫn còn những tài liệu còn sót lại, và ngày nay người ta đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ xưa về sự thực của KiTô giáo và con người thực của GiêSu. Những tài liệu mới tìm thấy của phái Ngộ Thuyết về GiêSu cho ta một cái nhìn khác hẳn về con người của GiêSu, không có những đức tính thần thánh hóa như những nhà lập giáo GiaTô đã quảng bá. Nhưng vấn đề này không thuộc nội dung của bài viết này nên tôi xin được miễn đi vào chi tiết.

Sau đây là một tài liệu khác về một số những hành động của giáo hội GiaTô khi giáo hội nắm được quyền lực thế gian (Joseph D. Daleiden, Sđd, trg. 60):

       “Không có một trích dẫn thống kê đơn thuần nào có thể nói lên hết những sự xấu ác mà giáo hội GiaTô La Mã đã làm nhân danh ngài (Thần GiaTô; TCN). Từ khi mà giáo hoàng triều cấu kết quyền lực với chính quyền trong thế kỷ 5 cho tới công cuộc Phục Hưng, cái áo vô minhmê tín đã phủ lên Âu Châu. Ánh sáng tự do đã tắt ngấm, dân La Mã cổ xưa đã có những thư viện chứa 500,000 cuốn sách, trong thời từ năm 500 tới năm 1000 của Âu Châu KiTô không có một thư viện nào có được hơn 600 cuốn sách. Sự tiến bộ khoa học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn ngưng trệ. Văn hóa con người thoái hóa đến mức tàn bạo.

       Thật là mỉa mai, chính những cuộc Thánh Chiến chống dân Hồi giáo đã rọi một tia sáng trí thức qua cái mờ tối của vô minhmê tín. Không như những dân KiTô tìm cách tiêu diệt mọi kiến thức không hợp với thần thuyết của họ, những người theo Hồi giáo đã gìn giữ trí tuệ của dân Hy Lạp cổ xưa. Hơn nữa, họ đã có nhiều tiến bộ đáng kể về toán học, triết học, và khoa học. Khi những thập tự quân trở về từ miền Đông, họ đã mang về cùng với những chiến lợi phẩm những hạt giống kiến thức mà sau này đưa đến công cuộc Phục Hưng. Song song với hàng đống những đồ cướp đoạt được và những thành tích giả mạo, những thập tự quân cũng mang về theo nghệ thuật và văn học của cổ Hi Lạp. Những tác phẩm của các triết gia Hi Lạp mà giáo hội đã dẹp đi từ nhiều thế kỷ trước, nay lại xuất hiện. Một vài triết gia như Plato và Aristotle được đưa vào trong giáo thuyết của giáo hội. Thật vậy, những tác phẩm của Thomas Aquinas, đặc biệt là những chứng minh về sự hiện hữu của thần GiaTô, căn bản là của Aristotle được sửa lại thành mới. Nhưng quan trọng hơn là, về sau này, triết lý nhân bản của Hi Lạp đã nảy nở trong đầu óc của những người đau lòngnhận ra sự vô ích của những suy đoán thần học cùng sự xấu ác của những tín điều của giáo hoàng đưa ra. Kết quả là chính cái nền tảng trí thứcđộc tài về đạo đức của Giáo hội bắt đầu lung lay.

       Với sự gia tăng kiến thức và suy tư phân tích, lòng khao khát tự do là điều không thể tránh được. Giáo hoàng triều và thể chế quân chủ ở Âu Châu, cả hai đều nhận ra sự đe dọa nghiêm trọng này. Cho nên, ta không lấy làm lạ khi một cuộc chiến toàn diện được phát động để chống những người muốn giải phóng nhân loại khỏi cặp cùm của vua chúa và giáo hoàng. Đó là mục đích thực sự của tòa án xử dị giáo”.

       (No mere recitation of statistics can convey the immeasurable evel that the Roman Catholic Church dispensed in Your name. From the time that the papacy cemented its power with the state in the fifth century until the Renaissance, the cloak of ignorance and superstition was draped over Europe. The light of freedom was extinguished. It is no longer fashionable to call them the Dark Ages, but indeed they were. The ancient Romans had libraries of 500,000 volumes, there was not a library of over 600 volumes in Christian Europe the period of 500 to 1000. Scientific advance, especially in medicine, came to a screeching halt. Human culture regressed to a more brutal level.

       Ironically, it was the initiation of the Crusades against the Muslims that shed a ray of intellectual light through the gloom of ignorance and primitive superstitions. Unlike the Christians who sought to destroy all knowledge that contracdicted their theology, the Muslims had preserved the wisdom of the ancient Greeks. Moreoeer, they had made significant advances in Mathematics, philosophy, and science. When the Crusaders returned from the East they brought with their spoils of war the seeds of knowledge which, eventually, gave birth to the Renaissance. Along with the pile of plundered Eastern artifacts and phony relics, the Crusaders also brought back the art and literature of ancient Greece. The writings of the Greek philosophers, which the Church had suppressed centuries before, reappeared. Some of the philosophers such as Plato and Aristotle were accommodated in Church doctrine. Indeed, the writings of Thomas Aquinas, especially his demonstrations for the existence of God, were basically a rehash of Aristotle. But more importantly in the long run, Greek humanistic philosophy found fertile ground in the minds of those who were painfully aware of the futility of theological speculation and the evil of papal dogmatism. As a result, the very foundation of the Church’s intellectual and moral despotism would begin to shake.

       With the growth in knowledge and critical thinking, inevitably came the desire for more freedom. Both the papacy and the monarchies of Europe recognized this grave threat. It is no wonder, then, that an all-out war was declared on those who sought to free humankind from the twin shackles of king and pope. This was the true purpose of the Inquisition).

       Như đã nêu ở trên, sau khi liên kết và nắm được quyền lực thế gian thì GiaTô giáo đã nhận chìm Âu Châu vào trong một thời đại 1000 năm đen tối (The Dark Ages), từ thế kỷ 5 tới thế kỷ 15, trong đó có những cuộc Thánh Chiến và những tòa hình án xử “dị giáo” tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại. Riêng những tòa hình án xử dị giáo còn kéo dài tới giữa thế kỷ 19 mới được bãi bỏ, nhưng cái bản chất đàn áp mọi sự bất đồng với giáo hội vẫn còn tiếp tục cho tới ngày nay, dưới một hình thức khác.

       Thánh chiến và các toàn án xử dị giáo là hai “vết son đậm” (“son” ở đây nên hiểu là màu của máu) trong lịch sử GiaTô La Mã giáo ngoài vô lượng số vết son khác. Viết về lịch sử GiaTô La Mã mà không nhắc đến hai vết son chính này có nghĩa là không viết gì cả. Cho nên, sau đây tôi xin lược qua lịch sử các cuộc Thánh chiến, Thánh chiến thứ thiệt chứ không phải thuộc loại “cưỡng từ” của Lữ Giang áp đặt trên các cuộc tranh đấu một cách hòa bình của Phật Giáo, và các toà hình án xử dị giáo.

       Trong lịch sử GiaTô La Mã giáo lớn, nhỏ có tất cả 8 (hoặc 9, tùy theo quan niệm) cuộc Thánh chiến (nhà trí thức GiaTô Võ Đức Hạnh đã gọi cuộc xâm lược Việt Nam của các giáo sĩ thừa sai Gia Tô, sát cánh với thực dân Pháp, là “cuộc Thánh Chiến thứ 9”). Đại cương thì phần lớn các cuộc Thánh chiến là do các giáo hoàng phát động hoặc khuyến khích, và kết quả là những cuộc tàn sát tập thể người Do TháiHồi Giáo để giành lại vùng đất hứa, Jerusalem, mà người GiaTô tin là thuộc về họ theo lời hứa của Chúa, hoặc tàn sát tập thể những người KiTô giáo không đồng thuận và không chấp nhận quyền lực của giáo hoàng. Trong những cuộc Thánh chiến này chúng ta không thể bỏ qua hai cuộc Thánh chiến quan trọng nhất vì chúng phản ánh trung thực nhất ảnh hưởng của GiaTô giáo lên đầu óc con người, từ già tới trẻ. Đó là cuộc Thánh chiến Albigense (The Albigensian crusade) và cuộc “Thánh chiến” của các trẻ em vị thành niên (The children’s crusade).

       Sau đây là sơ lược diễn tiến của cuộc Thánh chiến Albigense (“Holy Blood, Holy Grail”, Michael Baigent, Richard Leigh, and Henry Lincoln, A Dell Book, 1983, trg. 49-50):

       “Năm 1209, một đoàn quân khoảng 30 ngàn người, gồm các kỵ sĩ và bộ binh, như một cơn gió lốc từ miền Bắc Âu Châu tràn xuống Languedoc – vùng chân núi phía Đông Bắc của dãy núi Pyrenees, ngày nay là miền Nam nước Pháp. Trong cuộc chiến tranh này, toàn vùng bị tàn phá, mùa màng phá hoại, các thành phố và thị trấn thành bình địa, cả một dân tộc bị chém. giết. Cuộc tiêu diệt này rộng lớn và khủng khiếp đến độ ta có thể coi đó như là trường hợp đầu tiên của chính sách “diệt chủng” trong lịch sử Âu Châu hiện đại. Thí dụ, chỉ nguyên trong thành phố Béziers, ít nhất là có 15 ngàn người: đàn ông, đàn bà, trẻ con bị tàn sát, nhiều người bị giết ngay chính trong cung Thánh đường của họ. Khi một sĩ quan hỏi vị đại diện của Giáo Hoàng: ‘làm sao phân biệt được ai là tín đồ và ai là tà đạo?’ thì câu trả lời là : “Giết hết đi. Chúa trời (God) sẽ nhận biết ai là tín đồ của Người.” Sau đó, chính vị đại diện trên hãnh diện báo cáo với Giáo hoàng Innocent III ở La Mã là: “Không một ai, bất kể thân phận, tuổi tác, hay trai gái, được sống sót”.

       Sau Béziers, đoàn quân xâm lăng tràn qua toàn vùng Languedoc. Các vùng như Perpignan, Narbonne, Carcassonne, Toulouse lần lượt rơi vào tay đoàn quân này. Và bất cứ nơi nào đoàn quân đi qua cũng để lại dấu vết của cảnh tàn sát, máu đổ, chết chóc. Cuộc chiến này, kéo dài trong 40 năm, ngày nay được biết dưới tên “Cuộc Thánh Chiến Albigense”. Đây là cuộc Thánh chiến theo đúng nghĩa của nó. Chính Giáo hoàng đã huy động cuộc Thánh Chiến này. Đoàn Thánh Chiến-binh (Thập ác quân) mang dấu thập ác trên quân phục, như những Thánh-Chiến-Binh ở Palestine. Phần thưởng cho họ cũng giống như phần thưởng cho những Thánh-Chiến-Binh trong vùng đất Thánh - được tha mọi tội lỗi, được giải tội, được bảo đảm một chỗ trên Thiên Đàng, và được làm chủ tất cả những tài vật có thể chiếm đoạt được.

       (In 1209 an army of some thirty thousand knights and foot soldiers from northern Europe descended like a whirlwind on the Languedoc – the mountainous northe eastern foothills of the Pyrenees in what is now southern France. In the ensuing war the whole territory was ravaged, crops were destroyed, towns and cities were razed, a whole population was put to the sword. This extermination occurred on so vast, so terrible scale that it may well constitute the first case of “genocide” in modern Europe history. In the town of Béziers alone, for example, at least fifteen thousand men, women, and children were slaughtered wholesale- many of them in the sanctuary of the church itself. When an officer inquired the Pope’s representative how he might distinguish heretics from true believers, the reply was, “Kill them all. God will recognize His own”… The same papal representative, writing to Innocent III in Rome, announced with proud that “neither age nor sex nor status was spared.”

       After Béziers the invading army swept through the whole of Languedoc. Perpignan fell, Narbonne fell, Carcassonne fell, Toulouse fell. And wherever the victors passed, they left a trail of blood, death, and carnage in their wake. This war, which lasted for forty years, is now known as the “Albigensian Crusade”. It was a crusade in the true sense of the word. It had been called by the Pope himself. Its participants wore a cross on their tunics, like crusaders in Palestine. And the rewards were the same as they were for crusaders in the Holy Land – remission of sins, an expiation of penances, and assured place in Heaven, and all the booty one could plunder).

       Đó là những sắc thái và đặc tính của một cuộc Thánh Chiến, và Thánh Chiến là sản phẩm đặc thù của GiaTô Giáo ở Âu Châu, khi các giáo hoàng ở vị thế nắm quyền thế gian, dùng quyền hành và lòng mê tín dị đoan của các tín đồ, gây ra những cuộc tàn sát khủng khiếp xương chất thành núi, máu chảy thành sông, để truyền bá cái đạo “Tình Thương” của Chúa.

       Chúng ta hãy đọc tiếp lời tường thuật sau đây về cuộc Thánh Chiến của các trẻ em vị thành niên trong cuốn “Các Cuộc Thánh Chiến” (“The Crusades”, Henry Treece, A Mentor Book, New York, 1964, trg. 182-185). Thực ra đây là không phải là một cuộc Thánh Chiến theo đúng nghĩa của nó mà chỉ là một thảm trạng bắt nguồn từ một niềm tin tôn giáo sai lầm, mang tinh thần Thánh chiến, của những trẻ vị thành niên bị đầu độc tư tưởng bởi những huyền thoại trong Thánh Kinh.

       “Năm 1212 một sự việc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử thế giới đã xảy ra: trẻ em Pháp và Đức đã tổ chức một cuộc Thánh chiến, không được sửa soạn kỹ càng, không có vũ khí và không có gì giúp chúng ngoài sự ngay thẳng ngây thơ của chúng.

       Vua Pháp Philip, đang ở St. Denis, thì một em bé trai chăn cừu 12 tuổi, Stephen ở vùng Cloyes, gần Orleans, đến yết kiến ngài với một lá thư mà em nói rằng do chính Chúa Kitô gửi cho em, bảo em tổ chức một cuộc Thánh chiến tiến vào Jerusalem. Vua Pháp ra lệnh cho em nhỏ trở về nhà cha em, nhưng Stephen đang ở trong sự say mê điên cuồng tôn giáo. Hắn dám bất tuân ngay cả lệnh vua, tuyên bố rằng, trong một kiến giác (vision) (ngày nay chúng ta gọi là ảo giác (delusion), Chúa Kitô đã hứa là biển sẽ khô cạn để cho Stephen và tất cả những ai theo hắn có thể an toàn đi trên biển như đi trên bộ tới Jerusalem, giống như ngày xưa Hồng Hải đã mở ra cho cái người chăn cừu kia, Moses.

       Một vài giáo sĩ thất kinh về cái sự phỉ báng của đứa trẻ - nhưng, kỳ thay, Giáo hoàng Innocent III tuyên cáo là “chính những đứa trẻ đặc chúng ta vào sự ô nhục” (một lời khuyến khích có ý là lòng tin của những đứa trẻ mãnh liệt hơn của chúng ta), và, chắc hẳn Stephen có một khả năng thuyết phục làm cho người ta ngỡ ngàng trước một người còn quá trẻ và vô học như Stephen. Trẻ em từ nhiều vùng trong nước Pháp tụm lại quanh Stephen, mang theo cờ xí trên có dấu cờ hiệu của Vua. Đến tháng 6, 1212, ở nơi họp, Vendôme, có tới 30,000 đứa trẻ tập họp lại để bắt đầu cuộc tiến quân lâm ly tới vùng đất Thánh, không có bản đồ và không có ngay cả lương thực. Họ sắp sửa dự phần trong cái mà ta chỉ có thể gọi là một niềm tin thống thiết.

       Chúng ta không thể biết được có bao nhiêu em lẩn tránh được sự ngăn cấm của bố mẹ: có thể các bậc cha mẹ, nghe lời tán thán của Giáo hoàng, sợ không dám tranh đua với sự chấp thuận của Giáo hoàng, có thể họ không có mấy quyền trong những địa hạt mà chính họ đã đi theo Boniface và Dandolo (hai tư lệnh trong cuộc Thánh chiến thứ 4; TCN); và có thể vì cái khả năng quyến rũ của Stephen đã khiến cho đám trẻ trai gái này trở thành điếc trước mọi lời khiển trách. Dù sao thì, đám trẻ này đã lên đường mùa hè năm đó, có nhiều người lớn thuộc loại ăn bám nhập bọn, kể cả những linh mục bị lôi cuốn bởi cái sự ngây ngất truyền nhiễm này, và đi qua những vùng Tours, Lyons xuống tới Marseilles, dọc đường kiếm ăn ở nơi nào có thể kiếm được.

       Nhưng mùa hè năm 1212 nóng một cách bất thường, mùa màng chưa gặt, thực phẩm và nước uống hiếm hoi vì hạn hán. Nhiều em chết ở dọc đường trong khi một số khác tìm đường quay trở về quê. Sau cùng, khi số còn lại tới được Marseilles thì chúng bị thất vọng lớn vì thấy biển không khô cạn như đứa trẻ chăn cừu Stephen đã hứa để chúng đi tới vùng đất Thánh. Sau vài ngày sống cực khổ ở hải cảng này, chúng được hai người lái buôn vô lương tâm đến tiếp xúc. Hai người này, tên là Hugh the Iron và William the Pig đề nghị chở đoàn trẻ này tới Palestine bằng bảy chiếc tàu, hoàn toàn miễn phí. Stephen vui vẻ nhận lời, coi đó như là cách tay của Chúa cứu vớt chúng một cách huyền bí. Những tàu này ra khơi nhưng đi xướng phía Nam chứ không đi tới vùng đất Thánh. Nơi tới là hải cảng Bougie của An-giê-ri, nơi đây tất cả các đứa trẻ Pháp này đều bị bán đi làm nô lệ. Người ta cho rằng trong số 30.000 trẻ em phát xuất từ Vendôme, chỉ có một người duy nhất, một linh mục trẻ, trở về được nước Pháp, sau 18 năm bị làm nô lệ.”

       Cái cơn sốt Thánh Chiến này lan tới các trẻ em Đức. Chúng bị kích động bởi lời thuyết giảng của một em trai tên là NicholasNicholas cũng nói với chúng về biển cả sẽ mở ra để chúng có thể an toàn bước qua tới Jerusalem. “Quân đội” của Nicholas ước lượng khoảng 20,000 đứa trẻ và những kẻ ăn bám, tốt và xấu. Cái đoàn trẻ tả tơi này vất vả đi qua dãy núi Alps và, hao hụt một cách đáng buồn bởi chết chóc và đào ngũ, sau cùng cũng tới được Genoa. Ở đây chúng bị một ông thống đốc, vì không muốn dung dưỡng một đám trẻ lộn xộn đói khát và bệnh tật, đuổi đi không cho vào thành. Thế rồi, như những sinh vật trong giấc mộng chết chóc, chúng lê lết xuống phía Nam, những viễn tượng về sự giải thoát Thánh địa đã bị quên đi trong đói khát và hấp hối.

       Giáo hoàng Innocent III đã nói: “Chính những đứa trẻ đã đặc chúng ta vào vòng ô nhục”. Ngài đã nói đúng như thực, dù có thể trong một nghĩa khác với ý định của ngài. Sự ô nhục thuộc chính Giáo hoàng vì đã không ngăn cấm sự phí phạm độc ác nào; thuộc các bậc cha mẹ vì đã để cho con cái ra đi; và thuộc các nông dân vì đã từ chối không cho bọn trẻ ăn, ở, hoặc thuộc các những người chấp chứa chúng chỉ để kiếm lời trên sức lao động nô lệ của chúng. Người ta ước tính trong số 20,000 trẻ em dự cuộc hành trình để cứu những nước KiTô, không quá 2000 trở về được nhà. Kể ra chúng còn tốt số hơn là những đứa trẻ Pháp.”

       (In 1212 an event took place which has no resemblance to any other in world history: the children of France and Germany went on a crusade, ill-prepared, unarmed and with nothing but their innocent integrity to aid them.

       King Philip of France was at St. Denis when a twelve-year-old sheperd boy, Stephen of Cloyes, near Orleans, came to him with a letter which the peasant lad said had come from Chirst himself, bidding him organize a crusade to march on Jerusalem… The French king ordered the boy to return to his father’s house; but Stephen was under the spell of religious mania. He even dared to disobey his king, announcing that, in a vision, Chirst had promised that the sea would dry up and allow Stephen, and whoever followed him, to walk dry-shod to Jerusalem, just as the Red Sea had opened for that other shepherd, Moses.

       Certain clerics were appalled by the simple lad’s blasphemy – but Innocent III, curiously, announced that “the very children put us to shame” and, undoubtedly, Stephen had amost bewildering power of persuation for one so young and unlettered. Children from many parts of France flocked round him, carrying banners bearing the sign of Oriflamme. By June, 1212, at the meeting place, Vendôme, it is estimated that 30,000 young people had assembled for this pathetic march to the Holy Land, without maps and even without food supplies. They were about to participate in what can only be called a pathetic fact of faith.

       How so many children avaded the prohibition of their parents cannot be known: perhaps the parents, hearing of the Pope’s admiration, where afraid to contest papal approval; perhaps there was little parental authority exertable in those areas where the fathers themselves were away with Boniface and Dandolo; and perhaps the hypnotic power of Stephen’s words had transported these boys and girls in such a way that they were invincibly deaf to any remonstrance. At any rate, they set off that summer, joined by many adultes hangers-on, including priests who found themselves caught up by this infectious ecstasy, and marched through Tours and Lyons down to Marseilles, finding food and shelter where they could.

       But the summer of 1212 had been unusually hot, graincrops had not thrived, and food and water were scarce because of the drought. Many of the children died by the wayside, while others turned back and tried to find their way home once more. When the remainder at last reached Marseilles they found to their great disappointment that the sea did not dry up as the shepherd-lad Stephen had promised, to let them walk to the Holy Land. After a few days of misery in the port, they were approached by two unscrupulous merchants, later to be hanged by two unscrupulous merchants, later to be hanged for attempting the kidnap of the Emperor Frederick on behalf of the Saracents. These men, called Hugh the Iron and William the Pig, offered to transport the horde of children to Palestine in seven ships, free of all charge.

       Stephen of Cloyes saw in this offer the hand of God, who works in a mysterious way, and accepted gladly… The ships sailed on, but now southwards and not towards the Holy Land. Their destination was the Saracen port of Bougie, in Algeria, where all the French children where sold into slavery. It is alleged that of the 30,000 children who set forth from Vendome but one, a young priest, ever returned to France – and that only after 18 years of slavery.

       This crusading fever spread among the German children, who were excited by the preaching of a boy named Nicholas. Nicholas told the same story of the sea opening to let the faithful walk dry-shod to Jerusalem. His estimated “army” was of 20,000 children and hangers-on, good and bad. This ragged horder struggled over the Alps and, sadly depleted by death and desertions, at last got as far as Genoa. Here they were turned away from the city walls by a governor who would not tolerate such a hundry and sickly rabble. Then, like creatures, in a dream of death, the shuffled on southwards, their visions of relieving the Holy City forgotten in their hunger and agony.

       “The very children put us to shame” had said Pope Innocent III. He spoke truly, through perhaps in a different sense from his intention. The shame was on the Pope himself for not forbidding this cruel wastage; on the parents for letting their children go; and on the peasants whoe denied them food and shelter all along the route, or who took them in only to profit by their slave labour. It is estimated that of the 20,000 German children who set out to save Christendom not more that 2,000 ever reached their home again. In this they were more fortunate that their French counterpart).

       Có lẽ tôi cũng nên ghi thêm ở đây là, Joseph L. Daleiden (Sđd, tr. 55) đã có một nhận định như sau về những cuộc Thánh chiến: “Càng suy nghĩ về vấn đề này tôi càng thấy cả 9 cuộc Thánh chiến đều là những cuộc Thánh chiến của trẻ con. Tất cả những người lính nông dân chất phác đó đều ngu tối như đám trẻ, mù quáng tuân theo sự cổ võ của các giáo hoàng để đi giết dân Ả Rập, những người đang bảo vệ đất đai của họ” (The more I reflect on the matter, all nine crusades were Children’s Crusades. All those simple peasant soldiers was as ignorant as children, blindly following the exhortations of the popes to kill those Arabs who were defending their land).

       Đó là đại cương vết son đậm thứ nhất của GiaTô giáo. Vết son đậm thứ hai là những Tòa Án Dị Giáo, được sơ lược trình bày qua tài liệu sau đây trong cuốn “Đại Diện của Kitô” (“Vicars of Chirst”, Crown Publisher Inc., New York, 1988, trg. 162-166), tác giả là Tổng Giám Mục GiaTô Peter de Rosa:

       “Khủng bố thực sự bắt đầu với Gregory IX, lên ngôi Giáo hoàng năm 1227. Hai năm sau, tại Cộng Đồng Toulouse ở Languedoc, Gregory ra sắc lệnh giải giao những người “dị giáo” cho chính quyền dân sự trừng phạt. Ông nói: “Bổn phận của mọi tín đồ GiaTô là phải truy tố những kẻ dị giáo”.

       Năm 1232 Giáo hoàng đã đi một bước quyết định. Ông ra chiếu chỉ thành lập Toà Án Dị Giáo. Những Giám mục thì quá lơi là, thực ra là, họ không có thì giờtài năng để hoàn thành công việc một cách chu đáo. Những người dị giáo, nghĩa là những người chống bất cứ lời tuyên bố nào của giáo hoàng, đều phải giải giao cho chính quyền dân sự thiêu sống (sau khi bị Tòa Hình Án tra tấn, thẩm vấn và kết tội; TCN). Nếu họ sám hối họ sẽ bị tù chung thân. Chưa có giáo hoàng nào thích thú hơn trong việc giương lên ngọn đuốc khủng bố.

       Tháng 4, 1233, giáo hoàng chỉ chọn những quan tòa hình án trong dòng tu Dominic và chẳng bao lâu các linh mục dòng Dominic được cái vinh dự chọn lựa đó cho chính họ. Ngày 17 tháng 7 năm 1233 là ngày lễ của giáo hoàng: hai quan toà hình án toàn thời gian đầu tiên được bổ nhiệm – Peter Seila và William Arnald. Họ là hai người đầu tiên của một đoàn dài những công tố viên của nhân loại, thanh thảntâm hồn yên ổn. Khi bức màn hình án được kéo lên, năm 1239, hai năm trước khi Gregory chết, linh mục dòng Dominic Robert le Bourge đi tới Champagne để điều tra một giám mục tên là Moranis. Ông giám mục này bị kết tội là để cho những người dị giáo sống và lan ra trong giáo phận của mình. Ngày 29 tháng 5, le Bourge đưa 180 người, kể cả ông giám mục, lên giàn hỏa thiêu sống. Đây là sự trở lại thời man rợ.

       Lịch sử không ủng hộ quan điểmgiáo hội GiaTô luôn luôn giật giải quán quân về vấn đề nhân quyền. Trong thế kỷ 13, giáo hội vẫn đưa ra giáo điều như thuở ban sơ: dị giáo không có một nhân quyền nào. Họ có thể bị tra tấn không chút đắn đo, ngại ngùng, Giống như những kẻ phản bội quốc gia, họ tự đặt mình ra ngoài sự thương xót của luật pháp. Họ phải chết. Trải qua 3 thế kỷ không có một giáo hoàng nào chống đối cái giáo điều trên do đó cái giáo điều này đã trở thành một phần thường trụ trong giáo lý GiaTô. Dựa vào đó, quyền năn của tòa hình án đã lên tới mức chưa từng thấy. Kết quả là sự đàn áp toàn diện những người không hề có một sự bảo vệ nào trước những sự buộc tội hoặc chỉ bị nghi ngờdị giáo.

       Tòa hình án có thể làm bất cứ gì. Những quan tòa hình án dòng Dominic, được giáo hoàng bổ nhiệm, không ở dưới quyền bất cứ ai ngoài Thượng Đế và Giáo hoàng. Họ đứng ngoài vòng xét xử của các giám mục và luật dân sự. Trong những quốc gia thuộc quyền giáo hoàng họ chính là luật lệ, vừa đóng vai công tố viên vừa đóng vai quan tòa xử án. Nguyên lý chỉ đạo của họ là: “Thà giết oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do”. Họ hoạt động một cách độc đoántrong vòng bí mật. Bất cứ người nào hiện diện trong cuộc tra hỏi - nạn nhân, thư ký, người tra tấn – mà tiết lộ thì sẽ bị khiển trách mà chỉ có Giáo hoàng mới có thể tha cho. Những quan tòa hình án, giống như giáo hoàng, không thể phạm một lỗi lầm nào và không thể làm sai…

       Tra tấn được dùng thả dàn. Mới một trăm năm trước đây, người ta trưng bày trong cái nhà ở góc đường của giáo hoàng cuốn Sổ Đen dùng làm chỉ đạo cho những quan tòa hình án. Cuốn sổ có đánh số trang này thuộc trách nhiệm của Quan Trưởng Tòa hình án. Cái tên phổ thông của nó là Cuốn Sổ của Thần Chết. Sau đây là một phần trong đó:

       “Hoặc bị cáo thú tội và như vậy là có tội theo sự thú tội của chính hắn, hoặc hắn không thú tội nhưng vẫn là có tội dựa theo chứng cớ của các nhân chứng. Nếu một người nhận tất cả các tội đã gán cho hắn, đương nhiên hắn hoàn toàn có tội; nhưng nếu hắn chỉ thú có một phần các tội trạng, hắn vẫn phải bị coi như là phạm tất cả các tội, vì phần mà hắn đã thú tội chứng tỏ rằng hắn có khả năng phạm tất cả các điểm khác trong bản cáo trạng..

       Sự tra tấn thân xác đã chứng tỏ đó là phương cách có ích và hửu hiệu đưa tới sự sám hối tinh thần. Cho nên, sự chọn lựa một hình cụ tra tấn thích hợp nhất là trách nhiệm của quan tòa hình án, ông ta sẽ quyết định dựa trên tuổi tác, phái nam hay nữ, và sự cường tráng thân thể của tội nhân. Nếu, trong trường hợp đã dùng đủ mọi cách mà cái người xấu số kia vẫn không chịu nhận tội, phải coi hắn như là một nạn nhân của quỷ; và, như vậy, không được hưởng sự thương xót nào của các đầy tớ của Thượng Đế (các tín đồ), hoặc sự thương hại hay khoan hồng nào của giáo hội Mẹ Thánh Thiện. Hắn là đứa con của sự đày đọa. Hãy để cho hắn chết rục cùng với những kẻ đã bị đày đọa vĩnh viễn xuống hỏa ngục”.

       Thật khó mà có thể kiếm được văn kiện nào mà trái với những nguyên tắc công lý thiên nhiên như vậy. Theo cuốn Sổ Đen, một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phản bội đứa con. Không làm như vậy là một “tội lỗi đối với Tòa Án Thánh” và đáng bị tuyệt thông. Nghĩa là, không được hưởng các bí tích và, nếu khôngtu chính án, không được lên thiên đàng.

       Những ông Tòa hình án chưa bao giờ thua một vụ nào. Không có sử liệu nào về một phán quyết vô tội. Khi phán quyết của tòa hình án là Không Đủ Chứng Cớ, trường hợp này rất hiếm, không ai được công nhận là vô tội. Nếu bị cáo không có tội là dị giáo thì cũng vậy. Các ông tòa hình án tin rằng trong trăm ngàn người rút cục cũng chỉ có một linh hồn là thoát được sự đọa đày xuống hỏa ngục”.

       “The terror began in earnest with Gregory IX, who ascended the papal throne in the year 1227. Two years later, at the Council of Toulouse in Languedoc, Gregory decreed that heretics had to be handed over to the secular arm for punishment. “It is the duty of every Catholic” he said, “to persecute heretics”.

       In the year 1232 he made his decisive move. He published a Bull establishing the Inquisition. Bishops were too lax and, in any case, they lacked the time and talent to do a thorough ob. Heretics, that is, all opposed to any papal pronouncement, were to be handed over to the civil authorities for burning. If the repented, they were to be imprisoned for life. No pope ever took up the torch of terror with more enthusiasm.

       In April 1233 he restricted inquisitors to members of the mendicant orders; soon, the Dominicans had the honor to themselves. The 27th day of July 1233 was a red-letter day for the pontiff: the first two full-time inquisitors were appointed – Peter Seila and William Arnald. They were the first in a long line of serene untroubled persecutors of the human race. As a curtain-raise, in 1239, two years before Gregory died, the Dominican Robert le Bourge went to Champagne to investigate a bishop named Moranis. He was accused of allowing heretics to live and spread in his diocese. On 29 May he sent 180 people, including the bishop, to the stake. This was a return to barbarism.

       History does not support the view that the Catholic church has always championed the rights of man. In the 13th century, it went so far as to teach what the early church condemned: heretics have no rights. They can be tortured without scruple. Like traitors to the state, heretics have put themselves outside the mercy of the law. They must be put to death. No one pope for over three centuries opposed this teaching which should therefore by rights be a permanent part of Catholic doctrine. By means of it, their Inquisition achieved unprecedented power. The result was wholesale intimidation of those who had no protection against the charge of even slightest suspicion of heresy.

       To the medieval Inquisition, everything was permitted. The Dominican Inquisitors, being the pope’s appointees, were subject to no one but God and his Holiness. They were outside the jurisdiction of bishops and of civil law. In the Papal States they were a law unto themselves, acting as prosecutors, and judges. Their guiding principle was: “Better for a hundred innocent people to die than for one heretic to go free”. They operated arbitrarily and in secrecy. Anyone present at the interrogation – victim, scribe, executioner – who broke his silence incurred a censure that only the pope could lift. The inquisitors, like the pope, could make no mistake and do no wrong…

       Torture was freely used. Only a hundred years ago, there was on display in the pope’s House on the Corner the Black Book, or Libro Nero, for the guidance of inquisitors. This manuscript in folio form was the charge of the Grand Inquisitor. Its popular name was the Book of the Death. This is part of what it said: Either the person confesses and he is proved guilty from his own confession, or he does not confess and is equally guilty on the evidence of witnesses. If a person confesses the whole of what he is accused of, he is unquestionably guilty of the whole; but if he confesses only a part, he ought still to be regarded as guilty of the whole, since what he has confessed proves him to be capable of guilt as to the other points of the accusation…

       Bodily torture has ever been found the most salutary and efficient means of leading to spiritual repentance. Therefore, the choice of the most befitting mode of torture is left to the Judge of the Inquisition, who determines according to the age, the sex, and the constitution of the party... If, notwithstanding all the means employed, the unfortunate wretch still denies his guilt, he is to be considered as a victim of the devil: and, as such, deserves no compassion from the servants of God, nor the pity and indulgence of Holy Mother Church: he is a son of perdition. Let him perish among the dammed.

       It would be hard to find any document so contrary to the principle of natural justice. According to the Black Book, a child must betray his parents, a mother betray her child. Not to do so is a “sin against the Holy Office” and merits excommunication, that is, exclusion from the sacraments and, if there is no amendment, exclusion from heaven…

       The inquisitors never lost a single case. There is no record of an acquittal. When, rarely, the verdict was Not Proven, no one was declared innocent. If the accused was not actually guilty of heresy, no matter. Inquisitors believe that only one in every hundred thousand souls would escape damnation anyway).

       Đó là sơ lược, hết sức sơ lược, về những tòa hình án của GiaTô Giáo, cơ quan thực thi “công lý GiaTô” trong lịch sử loài người. Tôi không muốn đi vào chi tiết mô tả những hình cụ tra tấn và cách thức tra tấn của những người tự nhận là con Chúa. Độc giả nào tò mò muốn thấy tận mắt một số những hình cụ này thì tôi xin mời họ hãy đến thăm một bảo tàng viện có tên là “Medieval Dungeon” ở trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, thành phố San Francisco, Cali. Trong bảo tang viện này có trưng bày hơn 40 hình cụ mà các tòa hình án dùng để tra tấn những người bị tố cáodị giáo. Ở ngoài cửa bảo tàng viện có đề:

       “Trưng bày hơn 40 hình cụ man rợ để tra tấn và hủy diệt con người trong thời đại Trung Cổ ở Âu Châu. Đằng sau những cánh cửa này là sự khủng khiếp thực sự của thời đại Trung Cổ ở Âu Châu. Những ngày đen tối nhất của cái quá khứ nhơ nhớp của họ” (More thatn 40 barbaric exhibitions of torture and annhiliation from European Medieval days. Beyond these doors lies the true horror of the European Medieval days. The darkest days of its sordid past).

       (Trong một vài bài tôi đã đọc qua trước đây tôi thấy có người viết rằng những hình cụ tra tấn này được trưng bày trong bảo tàng viện “Believe it or not”. Hiện nay thì bảo tàng viện “Believe it or not”, cũng ở trên đường Jefferson, cách “Medieval Dungean” mấy nhà, không phải là bảo tàng viện trưng bày các hình cụ tra tấn của tòa hình án mà là bảo tàng viện”Medieval Dungeon”. TCN)

       Ngoài ra, trong một số sách đã xuất bản, chúng ta cũng có thể thấy những hình ảnh của những hình cụ tra tấn này, kèm theo lời mô tả cách tra tấn.Tôi xin để cho quý độc giả tùy nghi nhận định về cái ảnh hưởng của một tôn giáo “cao quý, thiên khải” như GiaTô La Mã giáo trên đầu óc con người, già cũng như trẻ, qua những sự kiện lịch sử nêu trong những tài liệu kể trên.

       Người ta thường viện câu: tôn giáo nào cũng tốt cả, cũng đều dạy con người làm lành tránh ác, để tránh né vấn đề. Nhưng trên thực tế thì có phải như vậy không? Nếu cùng tốt cả, cũng dạy con người làm lành tránh ác cả thì tại sao lại có tôn giáo không hề làm đổ một giọt máu trong quá trình truyền đạo hơn 2500 năm như đạo Phật, và tại sao lại có cảnh xương chất thành núi, máu chảy thành sông trên vai lịch sử của Gia Tô giáo? Sự khác biệt này nằm trong chính giáo lý của mỗi tôn giáo. Giáo lý Phật Giáo thì khỏi cần bàn tới vì trong suốt hơn 2500 lịch sử của Phật Giáo chúng ta không thấy một cuộc chiến tranh tôn giáo nào cũng như chưa từng thấy khi nào Phật Giáo dùng đến bạo lực để tra tấn, hành hạ, thiêu sống những người không cùng quan điểm với Phật Giáo. Người ta chỉ thấy Vua A Dục buông gươm xuống và chinh phục chư hầu bằng lòng từ bi theo giáo lý Phật Giáo, sau khi được giáo lý Phật Giáo cảm hóa. Nhưng còn giáo lý KiTô giáo thì sao? Nó nằm ngay trong hai cuốn Cựu Ước và Tân Ước, gọi chung là thánh Kinh. Sau đây tôi sẽ đi vào nội dung Thánh Kinh.

    1. NỘI DUNG THÁNH KINH

       Có thể nói cuốn Thánh kinh là cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới. Trong phương trời Âu Mỹ hầu như mỗi nhà tín đồ KiTô giáo nói chung đều có ít nhất là một cuốn Thánh Kinh, thường được dùng làm vật trang trí hay vật hứng bụi (dust collector) vì chẳng có mấy ai đọc nó. Nhưng đây cũng là một cuốn sách mà người ta đã đưa lên bàn mổ để nghiên cứu phân tích, thẩm định giá trị khả tín v.v…. kỹ nhất và đầy đủ nhất. Người ta đã phân tích từng câu từng chữ trong Thánh Kinh, tìm hiểu xuất xứ, ai viết và viết bao giờ? Thí dụ, một nhóm khoảng 200 học giả chuyên về Thánh kinh (Bible experts) thuộc mọi tông phái trong KiTô giáo đã cùng nhau nghiên cứu Thánh Kinh trong nhiều năm, từ 1985, và có những phiên họp định kỳ để bỏ phiếu về những câu mà người ta cho rằng Giê-Su nói ở trong Thánh Kinh và những phép lạ Giê-Su làm được kể trong Thánh kinh.

       Thể thức bầu phiếu của họ là đưa ra 4 loại nút màu khác nhau: Nếu nhà khảo cứu cho rằng lời nói hay phép lạ đó “đúng” là GiêSu nói hay làm thì bỏ nút màu đỏ, “không đúng” thì nút màu đen, “có thể đúng” thì nút màu hồng, “có thể đúng, có thể không” thì nút màu xám. Kết quả? Giêsu KHÔNG NÓI 80% những điều ghi trong Thánh kinh và GiêSu CÓ THỂ chỉ có khả năng chữa lành một số bệnh tâm thần liên hệ đến sự cử động của thân thể (psychosomatic) hay mẩn da (skin rashes). Ngoài ra, GiêSu không hề thực hiện một phép lạ nào như đi trên nước, làm yên một cơn bão tố ngoài biển, hay cứu người chết sống lại, biến nước thành rượu v.v…, tất cả chỉ là vay mượn từ các huyền thoại Hi Lạp (The Seminar scholars believe the Gospel writers borrowed from the Greek poet Homer), hoặc phóng đại quá mức để nhấn mạnh đến quyền năng của Giê-Su (The Seminar fellows suggest that the Gospel writers exaggerated the stories in order to emphasize Jesus’s power). Tôi xin nhắc lại, đây là công việc nghiên cứu trí thức của các chuyên gia KiTô giáo, không phải của những người ngoại đạo, dựa trên rất nhiều tài liệusự kiện lịch sử.

       Ngoài ra, cũng đã có những công cuộc nghiên cứu và xuất bản những tác phẩm về mọi khía cạnh của Thánh kinh, thí dụ như: liệt kê những chuyện dâm ô trong Thánh Kinh (The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scriptures”, Ben Edward Akerley, AA Press, Austin, Texas, 1989); những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v.v… trong Thánh kinh (The Bible Handbook”, W.P.Ball, G.W. Foote, John Bowdenm, Richard M. Smith etc. Revised Edition, AA Press, Austin Texas, 1986; “The Born Again Skeptic’s Guide to the Bible”, Ruth Hurmence Green, Freedom From Religion Pub., Wisconsin, 1979); phân tích và phê bình những chuyện trong Thánh Kinh (“The Bible Unmasked” (Lột Mặt Nạ Thánh Kinh), Joseph Lewis, The Freethought Press Assocition, New York, 1941); phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh (“Chirstianity Cross-Examined” (Thẩm vấn KiTô giáo), William Floyd, Arbitrator Press, New York, 1941); phân tích và phê bình từng câu một trong Tân Ước (The Bad News Bible: The New Testament” (Cuốn Thánh Kinh mang tin xấu: Cuốn Tân Ước), David Voas, Prometheus Books, New York, 1995) v.v. và v.v….

       Điều chắc là những tín đồ Gia Tô hầu như rất ít người đọc cuốn Thánh Kinh, khoan nói đến chuyện đọc những tác phẩm nghiên cứu kể trên. Cũng vì vậy họ chỉ biết tới một vài đoạn chọn lọc được giảng với ý nghĩa nằm ngoài toàn bộ Thánh Kinh (Out of context) bởi những chức sắc GiaTô, những người đã được huấn luyện rất kỹ về “nghệ thuật” trích dẫn và giảng Thánh Kinh. Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đã đưa ra một thách đố: ông sẽ tặng một giải thưởng là $100 (năm 1890) cho vị linh mục hay mục sư nào dám lên bục giảng giải những đoạn mà chính Ingersoll trích dẫn từ Thánh Kinh. Trong nhiều năm, không có một người nào nhận lời thách đố này cả. Một người có óc suy luận tối thiểu có thể mường tượng ngay ra là nội dung những đoạn đó trong Thánh Kinh nó như thế nào.

       Ira Cardiff, một khoa học gia đã đưa ra nhận xét sau đây: “Hầu như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến ở trên (một tín đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh Kinh, có thể là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó - đừng nói là đọc cả cuốn. Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi” (Virtually no one really read the Bible. The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it – much less read all of it. If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it).

       Và David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New Mexico State University), trong cuốn “Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước” (The Bad News Bible: The New Testament”, Prometheus Books, New York, 1995, trg. 1-2 ) đã viết như sau:

       “Vấn đề là người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh Kinh có những gì, hoặc ít nhấtThánh Kinh chứa loại tài liệu gì. Hầu hết đều lầm, họ chỉ quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ ngàng khi thấy không những Thượng Đế trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của Thượng Đế (nghĩa là Gie-Su, TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới mức hòan hảo khá xa. Thông điệp của Giê-Su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn. Xét về toàn bộ thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu” (The problem is that people think they know what’s in the Bible, or at least what kind of material it contains. Most of them are wrong: they are only familiar with a few church-approved extracts, and are astonished not just how awful God is in the Old Testatment, but also at how much less than perfect his son seems in the New. The message of Jesus isn’t all good news; paradise is an uncertain prospect at best. Taken as a whole, it could well be The Bad News Bible).

       Trên đây chỉ là hai nhận định rất tổng quát của hai học giả. Qua hai nhận định trên chúng ta không thể biết gì về nội dung của cuốn Thánh kinh. Muốn biết rõ về nội dung cuốn Thánh kinh chúng ta cần trích dẫn nhiều đoạn trong đó. Nhưng tôi xin phép quý độc giả cho tôi được miễn phần này, vì thực sự tôi không muốn vi phạm thuần phong mỹ tục, và vì nếu bài này được phổ biếnViệt Nam thì ban kiểm tục sẽ phải bôi bỏ hết phần trích dẫn này. Thay vì trích ra để dẫn chứng, tôi chỉ xin nêu sau đây ba tài liệu, qua ba tài liệu này quý độc giả có thể ít ra là mường tượng được nội dung cuốn Thánh kinh ra sao.

       

  1. Trong cuốn “Quyển Ruth” (“The Book of Ruth”, Freedom From Religion Foundation, 1982, trg. 6-8 & 59-60), Ruth Hurmence Green, một phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình GiaTô và trong nền giáo dục GiaTô, đã viết như sau:

       “Không có cuốn sách nào mà trong đó mạng sống con người, thật ra là mọi mạng sống, lại rẻ rúng như vậy. Cái vị Chúa ác ôn của Cựu Ước ra lệnh cho dân Do Thái giết, cưỡng hiếp, và tra tấn không thương xót toàn thể nhiều quốc gia, “trẻ thơ và sơ sinh, thiếu niên và trinh nữ, và người già cả”. Nếu họ không tuân lệnh thì chính họ sẽ chịu sự thịnh nộ thù hằn của Chúa. Những con cưng của Chúa đã vâng lời tàn sát nhiều ngàn người, xé xác những phụ nữ đang mang thai, quật con nít vào đá, để các đầu lâu vào trong những sọt rác và chặt chân tay những nạn nhân của họ. Cái kẻ tội phạm vô tiền khoáng hậu này (Chúa) đã nhận chết đuối toàn thể nhân loại trừ gia đình của một tên say rượu (Noah). Hắn đã khiến cho trái tim của Pharaon thành trai đá nên đã giết tất cả các trẻ sơ sinh ở Ai Cập. Vì sự tái sinh của hắn trên trái đất (nghĩa là sự sinh ra của Giê-su) mà trong một vùng rộng lớn mọi bé trai dưới hai tuổi đều bị giết (bởi Herod). Có thể bảo tôi được chăng là mạng sống con ngườithiêng liêng đối với Chúa?

       Cuốn Tân Ước cũng không ủng hộ gia đình như là một ưu tiên của dân KiTô Giáo. Giê-Su không những khinh khi chính gia đình mình, mà trong một trường hợp, còn từ chối nói chuyện với gia đình của mình (Mathew 12: 46-49) nhưng lại đòi hỏi những người theo mình phải từ bỏ gia đình họ, nói rõ rằng kẻ nào muốn làm đệ tử thì phải bỏ tất cả những gì kẻ đó có (Luke 14:33).

       Cuốn Thánh Kinh đã được dùng trong nhiều thế kỷ để sát hại nhiều triệu mạng người, và KiTô giáo đã phá nát gia đình, như GiêSu đã hứa hẹn: “Ta sinh ra để làm cho con nghịch với cha, con gái nghịch với mẹ, con dâu nghịch với mẹ chồng, và những người trong nhà thành kẻ thù của nhau” (Matthew 10:35-36). Trong Ngày Phán Xét các gia đình sẽ bị tan nát. Vậy ai là kẻ còn có thể cho rằng cuốn Thánh Kinh ủng hộ gia đình hay đời sống của con người?

       Không có một trang sách nào trong Thánh Kinh mà không làm tôi bất bình về một phương diện nào đó. Thật ra, sau mỗi lần tìm hiểu Thánh Kinh tôi lại muốn đi tắm rửa sạch sẽ với xà bông “lye” của bà nội. Và khi tôi thấy Thánh Kinh coi thường phụ nữ thường là tôi muốn quẳng nó ra cuối phòng. Tôi nguyện không bao giờ còn cầm cuốn Thánh Kinh một cách lộ liễu trên tay ở nơi công cộng. Thomas Paine, đấng cứu rỗi thực sự của thế giới, đã tố cáo cuốn Thánh Kinh thay tôi: “Tôi thành thật ghê tởm nó như là tôi ghê tởm mọi sự độc ác”.

       Nhưng không phải trong đó chỉ có những sự ác độc và những sự tàn bạo không thể tưởng tượng được. Nếu là chuyện tục tĩu, bạn sẽ thấy nó trong cuốn sách này. Nếu là chuyện dâm ô, bạn sẽ thấy nó trong Thánh Kinh, và bạn không cần phải mất công tìm kiếm. Tôi không khuyên bạn mở ra bất cứ trang nào và đọc cái đoạn nó đập vào mắt bạn đầu tiên. Bạn có thể vi phạm luật kiểm duyệt. Nếu luật kiểm duyệt được thi hành một cách chặt chẽ, cuốn Thánh Kinh sẽ phải bán dấu diếm dưới quầy hàng”.

       (There is no other book in which human life, all life in fact, is so cheap. The friendish Lord of the Old Testament orders the Jews to kill, rape, and torture without pity entire nations, “infant and suckling, young man and virgin, and the man with gray hair”. If they do not obey, they feel the wrath of the Lord’s vengeance themselves. His favorites dutifully massacre thousands, rip up pregnant women, and dash little ones against the stones, putting heads in baskets and multilating their victims. This criminal of all time drowns the entire population of the world except for the family of a drunkard. He hardens Pharaoh’s heart to make it possible to put all the first born of Egypt to the sword. He comes to earth incarnate in such a manner that all male children under two in a vast area must be killed, again with the edge of the sword. Tell me, if you can, that human life is sacred to the Lord.

       The New Testament yields little support for the family as even a Christian priority. Jesus not only shows contempt for his own family, even refusing to speak to them on one occasion (Matthew 12: 46-49) but demands that his followers abandon theirs, specifying that those who wish to be his disciples must “forsake all that he hath” (Luke 14:33)

       The Bible has been used for centuries to persecute millions of human beings, and Christianity has decimated families as Jesus promised it would: “For I have come to set a man at variance against his father, and the daughter against her mother, and the daughter-in-law against her mother-in–law. And a man’s foes shall be they on his own household”. (Matthew 10:35-36). On Judgment Day families will be torn apart. Does anyone still presume to picture the Bible as pro-family and pro-life?

       There wasn’t one page of this book that didn’t offend me in some way. In fact, after a session of searching the scriptures, I always wanted to take a bath with Grandma’s lye soap. And when I encountered the Bible’s disdain for women, I very often almost pitched the good book across the room. I vowed never to be seen in public with an unconcealed Bible in my hands. Thomas Paine, the true savior of the world, denounced the Bible for me “I sincerely detest it as I detest everything that is cruel”.

       But it wasn’t only the cruelty and the unimaginable atrocities. If there is obscenity, you’ll find it in this book. If there is pornography, you’ll find it in the scriptures, and you won’t even have to search. I don’t advise opening aimlessly and reading aloud the first passage that meets the eye. You might violate a censorship law. Strict censorship would mean that the Bible would have to be sold from under the counter).

       

  1. Trong cuốn “Kinh Tình Thương Đối với Tội Ác” (The Gospel of Love Vs Crime”, Truth Seeker, Box 2832, San Diego, California, trg. 6-7) Jack Bays viết như sau:

       “Tín điều về sự đày đọa vĩnh viễntín điều của những kẻ ác ôn. Hãy nghĩ tới hàng ngàn trẻ con và những người vô tưđời sống của họ chất đầy ảm đạm. Những giáo lý này đã trải phủ trái đất với những đống xương vàng của những người dị giáohọc giả. Chúng ta thấy sự đàn áp ngoại đạo của Constantine, Clovis, Justinian, Theodorius và Charlemagne; chúng ta thấy những cuộc thánh chiến trong đó có tới 20 triệu người bị giết; chúng ta thấy sự tàn sát bừa bãi đàn ông, đàn bà, trẻ con ở Jerusalem bởi Godfrey - thấy những nhà thờ Hồi Giáo chồng chất từng đống thây người Saracine - những người Do Thái bị thiêu sống trong các giáo đường Do Thái; chúng ta thấy Coeur de Lion tàn sát hàng ngàn những người bị bắt; sự cướp bóc và tàn sát ở Constantinople bởi dân Frank; chúng ta thấy dân Moor bị đuổi ra khỏi Tây Ban Nha trong những cuộc tàn sát đẫm máu, cảnh giết hại dân Huguenots và Waldenes, sự tàn sát những nông dân Đức, sự tan hoang của Ái Nhĩ Lan – Hòa Lan phủ đầy máu; chúng ta chứng kiến Smithfield và Bartholomew (các cuộc tàn sát nhiều ngàn người vì tôn giáo; TCN), chúng ta thấy Tòa Hình Án xử Dị Giáo với những hình cụ tra tấn ác ôn không thể đếm xuể; chúng ta thấy Auto-da-fé (cuộc lễ sau phiên tòa xử dị giáo, trao nạn nhân cho chính quyền hành hạ và thiêu sống; TCN), - nơi mà những người bị kết ándị giáo bị chế riễu rồi dẫn đi tra tấn hay thiêu sống; chúng ta thấy con người bị căng ra trên cái giá, bẻ trẹo khớp xương, và chân tay bị xé ra; chúng ta thấy họ bị lột da sống – thân xác đẫm máu của họ bị đóng dấu bằng sắt nung đỏ; chúng ta thấy con người bị phủ đầy hắc ín rồi thiêu sống; chúng ta thấy họ bị treo cổ và cắt ra từng mảnh; chúng ta thấy họ bị những móc sắt hơ nóng móc lòi con ngươi ra … lưỡi họ bị kéo ra – xương họ gẫy nát – mình họ bị cả ngàn mũi kim đâm vào; chúng ta thấy những bà già bị trói chặt vào chân những con chiến mã hung hăng, và hàng triệu người bị tra tấn bởi những hình cụ ác ôn mà các bọn cuồng tín tôn giáo có thể nghĩ ra, Bọn người này nhận được quyền lực trực tiếp từ Thần GiaTô vì mọi điều này được dạy ngay trong Thánh Kinh(Tác giả mô tả những sự kiện trong lịch sử GiaTô giáo cùng những cảnh tra tấn trong các tòa hình án. TCN)

       Thật vậy, đó là những gì mà giáo hội GiaTô đã mang tới cho thế giới, thay vì hòa bình và tình huynh đệ của phúc âm về tình thương. Những điều trên đã làm cho GiaTô giáo thành một tôn giáo đẫm máu nhất như chưa có tôn giáo nào làm đen tối mặt trái đất như vậy. Trong thế kỷ vừa qua, hơn 90% các cuộc chiến tranh là chiến tranh của người KiTô giết người KiTô hay người ngoại đạo. Tất cả những chiến cụ khủng khiếp; bom nguyên tử, hơi độc, phi cơ chiến đấu, v.v…. đều là phát minh của người KiTô giáo. Trong bất cứ cuộc chiến nào cũng có những người giảng đạo, linh mục, mục sư ở mỗi phe cầu nguyện và thúc dẩy sự giết chóc như là Jehovah (Chúa Cha) già nua tàn bạo đã làm cho dân Do Thái khi họ tàn sát dân chúng trong vùng đất hứa, chiếm đoạt nhà cửa, gia sức và cả con gái của họ”.

       “Đức quốc xã giết những người Do Thái chỉ vì những việc mà tổ tiên của họ làm trước đó 50 hay 100 năm. Điều này có đúng hay không? Không, nhưng thế còn mười lần đúng hơn là luận phạt con người vì một tổ tiên Adam, làm 6000 năm về trước. Đức quốc xã lùa dân Do Thái vào các phòng sát sinh và giết họ trong vòng vài phút. Thần trong Thánh Kinh hứa vứt con người vào trong một cái hồ lửa, không cho họ chết mà giữ họ hấp hối trong đó vĩnh viễn. Thật là tệ hơn Đức quốc xã tới cả 10.000 lần. Giá thử những người KiTô lúc đầu được phép quảng bá Kinh về tình thương thì cái bản chất độc đoán, hiếu chiến của dân Tây phương đã đỡ đi và những cảnh đổ máu và cực khổchúng tôi kể trên đã có thể tránh được.

       Chúng ta có thể thấy điều này qua sự quan sát ảnh hưởng của Kinh về tình thương trên những dân tộc Đông phương. Lịch sử lúc đầu của Ấn Độ cũng đẫm máu như lịch sử của mọi nước khác, bộ Bách Khoa Tự Điển ghi như vậy, nhưng sau khi Kinh về tình thương (Kinh Từ bi của đức Phật; TCN) truyền tới họ thì bản chất của họ thay đổi, và họ trở thành những người yêu hòa bình và có lòng từ bi đối với mọi sinh vật.

       Vua A Dục là một lãnh chúa chưa từng thất trận, nhưng khi Kinh về tình thương yêu được giảng cho ông ta thì ông ta đã buông gươm xuống và sau đó chinh phục mọi thứ bằng tình thương và tình huynh đệ. Ông đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để truyền bá cái thông điệp đó.” (trg. 21)

       (The dogma of everlasting torment is the dogma of friends. Think of the thousands of children and simple minded adults whose lives have been filled with gloom! These teachings have strewn the earth with the yellow bones of heretics and scholars. We see the persecutions of Constantine, Clovis, Justinian, Theodosius, and Charlemagne; we see the crusades in which twenty million were killed; we see the indiscriminate massacre of men, women and children in Jerusalem by Godfrey – see the mosques piled seven deep in murdered Saracines – Jews burn in their synagogues; we see Coeur de Lion slaughtering thousands of captives; the Franks pillaging and slaughtering in Constantinople; we see the Moors expelled from Spain in bloody slaughter, the murder of the Huguenots and Waldenes, the slaughter of the German peasants, the desolation of Ireland-Holland covered with blood; we witness Smithfield and Bartholomew; we see the Inquisition with its countless instruments of fiendish torture; we see the Auto-de-fe, - where heretics clad in mockery, are led to torture and to death; we seen men stretched upon the rack, disjointed, and torn limb from limb; we see them flayed alive – their bleeding bodiesseared red-hot irons; we see live men covered with pitch and set on fire; we see them hurled headlong from towers to the street; we see them buried alive; we see them hanged and quartered; we see their eyes bored out with heated augers – their tongues torn out – their bones broken – their bodies’ pierced with a thousand needles; we see aged women tied to the heels of fiery steeds and on and on were millions tortured by every fiendish device that cankered minds of religious fanatics could devise. They had authority direct from God for all of it right there in their Bibles.

       Yes, this is what the church brought upon the world; instead of the peace and brotherhood of the gospel of love. It has made Chirstianity the bloodiest religion that ever darkened the face of the earth. In the last century 90% of all the wars have been Christian wars with Christians slaughtering Christians or someone else. All of the hellish war marchines: atomic bombs, poison ‘gas war planes, etc., have been Christian inventions, made and used by Christian nations. In every war there have been preachers priests and rabbis on each side praying and urging on the slaugher just as old brutal Jehovah did for the Israelites while the were massacreing the people of the promised land, to take their homes, their stock and their daugthers)….

       (The Nazis killed the Jews just because of things their ancestors did in Germany 50 or 100 years before. Was that right? No, but it was ten times more right than to punish people for what and ancestor, Adam, did 6,000 years ago. The Nazi brutes herded the Jews into chambers and snuffed their lives out within a few minutes. The Bible God is pledged to put people into a lake of fire and not let them die but keep them there in agony forever. That is 10,000 times worse than the Nazis ever were.

       Had the early Christians been allowed to go on promoting the gospel of love the tyrannical, aggressive nature of the people of the West would have been allayed and most of the bloodshed and misery we have mentioned would have been avoided. We can see this by observing the effects of the gospel of love on the peoples of the East. The early history of India was as bloody as any country, says the Britanica but after the gospel of love was brought to them their whole nature was changed, and they became peaceloving and kind to all creatures.

       King Asoka was a victorious war lord whose armies had never known defeat but when the gospel of love was presented to him he laid down his sword and did all of his conquering after that by love and friendship. He spent the rest of his live in spreading that message).

       

  1. Và sau cùng là một đoạn trong bài “Những Lời Châu Ngọc về Thánh Kinh” (Gems Concerning the Holy Bible) của Robert G. Ingersoll trong cuốn “Ingersoll: Con Người Kỳ Diệu” (“Ingersoll, the Magnificient” Edited by Joseph Lewis, AA Press, Austin, Texas, 1985, trg. 59-60). Ingersoll là một đại tá, một chính trị gia, một diễn giả, một nhà hùng biện, và nhất là một nhà tư tưởng tự do (Freethinker) lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Ông có tên trong lịch sử Hoa Kỳ, trong Tự Điển, trong Bách Khoa Tự Điển, trong Tự Điển điện tử (CD-Rom, Grolier Electronic Publishing, 1996) và những tác phẩm của ông có trong mọi thư viện ở Hoa Kỳ. Đoạn trích dẫn sau đây chỉ là chưa đầy hai trang trong số 27 trang của bài “thuyết giảng” tuyệt vời về Thánh Kinh:

       “Một người nào đó phải nói lên sự thực về cuốn Thánh Kinh. Những nhà giảng đạo không dám vì họ sẽ bị đuổi khỏi các bục giảng. Những giáo sư đại học không dám, vì họ sẽ mất nồi cơm. Các chính trị gia không dám. Họ sẽ bị đánh bại. Các chủ bút không dám. Họ sẽ mất độc giả. Các nhà thương mại không dám, vì họ có thể mất khách hàng. Ngay cả những công chức thường cũng không dám, vì họ có thể bị đuổi. Vậy thì tôi nghĩ chính tôi sẽ phải làm việc này.

       Có nhiều triệu người tin rằng Thánh Kinh là lời mặc khải của Thượng Đế - nhiều triệu người nghĩ rằng cuốn sách này là cây gậy dẫn đường, là nguồn cố vấn và nguồn an ủi, rằng nó chứa đầy hòa bình trong hiện tại, hi vọng trong tương lai - nhiều triệu người tin rằng đó là suối nguồn của luật pháp, công lýtình thương và nhờ có những giáo lý thông tháitốt lànhthế giới có được tự do, của cảivăn minh - nhiều triệu người tưởng tượng rằng cuốn sách này là sự mặc khải từ trí tuệ và lòng thương yêu của Thượng Đế đến với tâm thức con người - nhiều triệu người coi cuốn sách này như là ngọn đuốc chinh phục được sự tối tăm của chết chóc, và tỏa ánh sáng trên một thế giới khác - một thế giới không có nước mắt.

       Họ quên đi cái sự ngu tối và man rợ, sự thù ghét tự do, sự tàn sát tôn giáo ở trong Thánh Kinh; họ nhớ tới thiên đường, nhưng quên đi những tòa hình ngục và sự đau khổ vĩnh viễn. Họ quên rằng cuốn sách này giam hãm đầu óc con người và làm cho lòng người đồi bại. Họ quên rằng cuốn sách này là kẻ thù của tự do trí thức. Các Linh mục, mục sư phân vân là làm sao tôi lại có thể tồi tệ đến độ công kích cuốn Thánh kinh. Tôi sẽ nói cho họ biết:

       Cuốn sách này, cuốn Thánh Kinh, đã truy tố cho đến chết những người thông thái nhất và tốt nhất. Cuốn sách này đã đầu độc những nguồn kiến thức và lạc dẫn năng lực của con người. Cuốn sách này là kẻ thù của tự do, là cột chống của chế độ nô lệ. Cuốn sách này đã gieo những hạt giống thù hận trong gia đìnhquốc gia, nhúm ngọn lựa chiến tranh, và làm cho thế giới nghèo khổ. Cuốn sách này là công sự của hôn quân bạo chúa – là chủ nhân của các nô lệ phụ nữ và trẻ em. Cuốn sách này đã làm đồi bại nghị viện và triều chính. Cuốn sách này đã biến các trường đại học thành thầy dạy của sự sai tráikẻ thù ghét khoa học. Cuốn sách này chất đầy những nước theo KiTô giáo với những tông phái thù hận, độc ác, ngu tối, chém giết lẫn nhau. Cuốn sách này dạy con người giết đồng loạitôn giáo. Cuốn sách này đã lập nên Toà Hình án xử dị giáo, phát minh ra những hình cụ tra tấn, thiết lập những nhà hình ngục trong đó thiện nhân và từ nhân mai một dần, rèn những chuỗi xích trở thành dỉ xét trong da thịt họ, dựng lên những đoạn đầu đài để chặt đầu họ. Cuốn sách này đã xếp những đống củi dưới chân của người lành. Cuốn sách này đã trục lý trí ra khỏi đầu óc của nhiều triệu người và đưa những kẻ khùng vào đầy nhà thương điên.

       Cuốn sách này đã gây nên cảnh cha mẹ làm đổ máu những trẻ sơ sinh. Cuốn sách này đã là trường bán đấu giá trên đó người mẹ nô lệ đứng khi được bán đi, phải chia lìa đứa con. Cuốn sách này chứa đầy thuyền kẻ buôn nô lệ và làm da thịt con người thành món hàng hóa. Cuốn sách này đã nhúm lửa thiêu sống những “mụ phù thủy” và những “thầy pháp”. Cuốn sách này chứa đầy tối tăm với những quỷ và ma, và thân thể con người với những điều ác. Cuốn sách này đã làm ô nhiễm linh hồn con người với giáo điều xấu xa về hình phạt đầy đọa vĩnh viễn. Cuốn sách này coi sự cả tin như là đức tính cao nhất, và sự tìm tòi khảo sát như là tội ác lớn nhất. Cuốn sách này đã đặt kẻ ngu dốt và những vị Thánh nhơ bẩn lên trên triết gia và người nhân đức. Cuốn sách này dạy con người coi thường những niềm vui của đời sống này, để có thể sung sướngđời sau - bỏ phí thế giới này vì thế giới sau.

       Tôi công kích cuốn sách này vì nó là kẻ thù của sự tự do của con người – là sự cản trở lớn nhất của sự tiến bộ của con người. Tôi xin hỏi các linh mục, mục sư một câu: làm sao mà các ông có thể tồi tệ đến mức bào chữa cho cuốn sách này. Cuốn Thánh Kinh đã là thành trì chống đỡ của hầu hết các tội ác. Suốt cuốn Thánh Kinh mở ra là nói về thanh gươm (để giết người) và bó củi (để thiêu sống người). Chúng ta hãy thoát ra khỏi sự tàn bạo của một cuốn sách, nô lệ của sự ngu tối cùng cực, cái không khí quý tộc thống trị.

       Cựu Ước mô tả địa ngục của quá khứ, và Tân Ước, địa ngục của tương lai. Cựu Ước cho chúng ta biết những sự khủng khiếp mà Thượng Đế đã làm, Tân Ước, những sự khủng khiếp mà Thượng Đế sẽ làm. Hai cuốn sách này mang tới cho chúng ta những sự đau khổ trong quá khứ và trong tương lai - sự bất công, sự hấp hối và nước mắt của cả hai thế giới”.

       (Someone ought to tell the truth about the Bible. The preachers dare not, because they would be driven from their pulpits. Professors in college dare not, because they would lose their salaries. Politician dare not. They would be defeated. Editors dare not. They would lose subscribers. Merchants dare not, because they might lose customers. Even clerks dare not, because they might be discharged. And so I thought I would do it myself.

       There are many millions of people who believe the Bible to be the inspired word of God – millions who think that this book is staff and guide, counselor and consoler; that it fills the present with peace and the future with hope – millions who believe that it is the fountain of law, justice and mercty, and that to its wise and begin teachings the world is indebted for its liberty, wealth and civilization – millions who imagine that this book is a revelation from the wisdom and love of God to the brain and heart of man – millions who regard this book as torch that conquers the darkness of death, and pours its radiance on another world – a world without a tear.

       They forget its ingnorance and savagery, its hatred of liberty, its religious persecution; they remember the heaven, but they forget the dungeon of eternal pain. They forget that it imprisons the brain and corrupts the heart. They forget that it is the enemy of intellectual freedom. Ministers wonder how I can be wicked enough to attack the bible. I will tell them:

       This book, the Bible, has persecuted, even unto death, the wisest and the best. This book stayed and stopped the onward movement of the human race. This book poisoned the fountains of learning and misdirected the energies of man. This book is the enemy of freedom, the support of slavery. This book sowed the seeds of hatred in families and nations, fed the flames of war, and impoverished the world. This book is the breastwork of kings and tyrants – the enslaver of women and children. This book has corrupted parliaments and courts. This book has made colleges and universities the teachers of error and the haters of science. This book as filled Christendom with hateful, cruel, ignorant and warring sects. This book taught men to kill their fellows for religions’s sake. This book founded the Inquisition, invented the instruments of torture, built the dungeons in which the good and loving languished, forged the chains that rusted in their flesh, erected the scaffolds whereon they died. This book piled fagots about the feet of the just. This book drove reason from the minds of millions and filled the asylums with the insane.

       This book has caused fathers and mothers to shed the blood of their babes. This book was the auction block on which the slave-mother stood when she was sold from her child. This book filled the sails of the slave trader and made merchandise of human flesh. This book lighted the fires that burned “witches” and “wizards”. This book filled the darkness with ghouls and ghosts, and the bodies of men and women with devils. This book polluted the souls of men with the infamous dogma of eternal pain. This book made credulity the greatest of virtues and investigation the greatest of crimes. This book filled nations with hermits, monks and nuns – with the pious and the useless. This book placed the ignorant and unclean saint above the philosopher and philanthropist. This book taught man to despise the joys of this life, that he might be happy in another – to waste this world for the sake of the next.

       I attack this book because it is the enemy of human liberty – the greatest obstruction across the highway of hman progress. The Bible has been the fortress and defence of nearly every crime. Across the open Bible lay the sword and fagot. Let us free ourselves from the tyranny of a book, from the slavery of dead ignorance, from the aristocracy of the air.

       The Old Testament filled this world with tyranny and injustice, and the New gives us a future filled with pain for nearly all of the sons of men. The Old Testament describes the hell of the past, and the New the hell of the future. The Old Testament tell us the frightful things that god has done, the New the frightful things that he will do. These two books give us the sufferings of the past and the future-the injustice, the agony and the tears of both worlds).

       Tôi hi vọng, với cái lịch sử GiaTô giáo đã được kể sơ lược ở trên, và với những nhận định về cuốn Thánh Kinh vừa qua, chúng ta đã có thể có một cái nhìn toàn bộ về GiaTô giáo. Từ đó, với lương tâm của một con người Việt Nam đúng nghĩa là một con người, chúng ta hãy xét xem cuốn Thánh Kinh có thể là một “Cẩm nang để phục hưng con ngườiđạo lý ở Việt Nam” hay không?

       Có thể có người, nhất là các tín đồ GiaTô giáo, không tin những tài liệu trên là đúng. Tôi khuyên họ hãy mở cuốn Thánh Kinh ra đọc từ dòng đầu tới dòng cuối, rồi đọc lại lịch sử GiaTô La Mã giáo trên hoàn cầu, họ sẽ thấy ngay sự tương quan giữa những điều dạy trong Thánh Kinh và hành động của giáo hội Gia Tô. Họ sẽ thấy ngay là những hành động của giáo hội GiaTô trong suốt 20 thế kỷ nay là bắt nguồn từ những giáo lý trong Thánh kinh chứ không phải là do một vài giáo hoàng, như lời biện hộ gần đây của một đại trí thức GiaTô Việt Nam, bị cái “chước cám dỗ làm điều thiện”. Bản chất các giáo lý đã không thiện rồi và chính những giáo lý không thiện này đã đưa đến những hành động bất thiện. Khi đó họ có thể phối kiểm những điều mà những tác giả kể trên đã viết về Thánh kinh và sẽ thấy họ không có viết sai sự thực, dù bản Thánh Kinh bằng tiếng Việt đã được lược bớt một số mâu thuẫn và những đoạn “không thể đọc được” so với bản tiếng Anh, King James. Tôi cũng cần phải ghi ở đây là những tài liệu dẫn chứng trong bài viết này chẳng qua chỉ là một phần rất nhỏ của toàn bộ những tài liệu đã được xuất bản về lịch sử GiaTô giáo và Thánh kinh GiaTô, và trong phần tài liệu tham khảo ở cuối bài tôi cũng chỉ đưa ra một số tài liệu chọn lọc mà thôi.

       Tôi chắc cũng sẽ có người đưa ra luận cứ như sau: “Đó là chuyện xưa rồi, nhắc lại làm chi. Hiện nay Giáo hội GiaTô đã văn minh, đâu có giết người, đâu có làm gì xấu ác, chưa kể là giáo hội đã tham gia vào bao nhiêu việc thiện ở trên thế giới v.v..”. Tôi đồng ýgiáo hội ngày nay không còn giết người như trong các cuộc Thánh chiến và các tòa hình án xử dị giáo. Nhưng cái tinh thần Thánh chiến và tòa hình án vẫn không thay đổi là bao nhiêu, trong chính giáo hội mẹ, và trong những giáo hội con với sự đồng ý của giáo hội mẹ. Thực ra thì qua bao thế kỷ nhân loại đã văn minh hóa GiaTô giáo nên giáo hội không còn quyền lực và khả năng để giết người bừa bãi như trước nữa. Nhưng những việc làm của giáo hội cho tới ngày nay vẫn không sáng sủa chút nào, và những việc này càng ngày càng được phơi bày ra ánh sáng. Chúng ta hãy đọc vài sự kiện trong lịch sử thế giới cận đại (Joseph L. Daleiden, Sđd, trg. 61-62):

       “Những cố gắng dập tắt mọi sự chống đối các giáo hoàng và cái điều ám ảnh họ về sự duy trì quyền thống trị của giáo hội GiaTô vẫn tiếp tục qua các thời đại. Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nó có tính chất của một hành động bảo toàn lực lượng mà giáo hội dùng để bảo vệ cái quyền lực đang suy giảm của mình bằng cách liên minh với bất cứ ai mà có lợi. Sự hợp tác của các giáo hoàng với những chính quyền phát xít ở Âu Châu và Nam Mỹ cho thấy những biện pháp cực đoan ô nhục mà các giáo hoàng dùng để bảo tồn địa vị của họ.

       Giáo hội chống cuộc chiến đấu giành độc lập của Mễ Tây Cơ và tuyệt thông các lãnh tụ của họ. Sau đó giáo hội chống lại sự thành lập hệ thống cộng hòa liên bangphản đối mạnh mẽ nguyên tắc tự do tín ngưỡng trong hiến pháp Mễ Tây Cơ. Năm 1930 chính quyền hợp hiến ở Á Căn Đình bị lật đổ và một chế độ độc tài phát xít được thiết lập với tình trạng thiết quân luật. Vì chế độ mới tuyên bố trung thành với GiaTô giáo, họ được giáo hội ủng hộ mau chóng. Năm 1936 giáo hoàng nồng nhiệt liên minh với nhà độc tài phát xít Francisco Franco ở Tân Ban Nha trong nỗ lực dẹp quân phiến loạn Tây Ban Nha. Franco thưởng lại bằng cách thiết lập giáo hội GiaTô làm quốc giáo (Quyền lợi này bị bải bỏ khi nhà độc tài Franco chết và một hiến pháp dân chủ được chấp thuận năm 1978). Tuy nhiên, sự liên minh với Franco chỉ là một chuyện ngoài lề trong vai trògiáo hội sẽ đóng trong sự khởi dậy và củng cố quyền lực của Hitler và Mussolini, một vai trò mà các giáo hoàng đều muốn chúng ta đều quên đi. Giáo hoàng Pius XI ký một thoả ước và hiệp định Lateran với Mussolini năm 1929, và gọi Mussolini là “người Thượng Đế gửi xuống”. Bốn năm sau, đại sứ của giáo hoàng là Pacelli, sau trở thành giáo hoàng Pius XII, thúc giục đảng GiaTô bỏ phiếu cho Hitler trong cuộc bầu cử sau cùng, trước khi đảng Đức quốc xã lên cầm quyền.

       Đối với Giáo hoàng thì bất cứ những sự tàn bạo nào của một chính quyền đối với nhân loại cũng không thành vấn đề chừng nào mà chính quyền đó đủ khôn ngoan để cho giáo hoàng giữ được quyền lực. Khi Ante Pavelich dựng lên một quốc gia GiaTô Croatia và giết hại 600,000 người, hầu hết là những người thuộc Chính Thống giáo chống đối sự thống trị của Pavelich, thì Giáo hội GiaTô câm lặng”.

       (The effort to stamp or any opposition to the popes and their obsession with maintaining the rule of the Catholic Church had continued down through the ages. In this century, however, it has been more of a rear guard action, with the Church seeking to protect its dwindling authority by making alliances with whoever would serve its interests. The collaboration of the popes with fascist governments in Europe and South America shows the shameful extremes the popes have been willing to go to, to preserve their position.

       The Church opposed the Mexican war of independence and excommunicated its leaders. Later the Church fought the establishment of the federal republic system and vigorously protested the inclusion of the principle of religious freedom in the Mexican constitution. In 1930 the constitutional government was toppled in Argentina and a fascist dictatorship established, complete with martial law. Since the new regime proclaimed its allegiance to Catholicism, it was quickly supported by the Church. In 1936 the pope was eager to ally himself with Spain’s fascist dictator Francisco Franco in his effort to squash the Spanish rebellion. As its reward the Catholic Church was established as the state religion. (With the approval of a democratic constitution in 1978 after the dictator’s death the Church lost this privilege). The Franco deal, however, was merely an aside to the role the Church would play in the rise of consolidation of power of Hitler and Mussolini, a role the popes would like us all to forget. Pope Pius XI signed a concordat and the Lateran Treaty with Mussolini in 1929, and called him “the man sent by Providence”. Four years later, Papal Nuncio Monsignor Pacelli, who was soon to become Pius XII, urged the Catholic Party to vote for Hitler in the last German election prior to the Nazi takeover.

       It made no difference what atrocities a government committed against humankind as long as it was shrewd enough to let the pope retain his titular authority. When Ante Palevich set up the Catholic state of Croatia and slaughtered 600,000 persons, primarily those belonging to the Orthodox Church who opposed his rule, the Catholic Church was mute).

       Và sau đây là một đoạn liên quan đến vai trò của giáo hội trong lịch sử Việt Nam cận đạiSpellman là người chủ chốt của giáo hoàng làm cho Mỹ tham chiến sâu đậm ở Việt Nam. Theo một bức thư chính thức của Vatican, giáo hoàng “dùng Spellman để khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam”. Mọi viện trợ nhân đạo cho miền Nam đều đi qua các cơ sở của giáo hội GiaTô và chỉ có những người GiaTô là được Diệm bổ nhiệm vào trong chính phủ. Tuy rằng những chính sách như vậy đưa đến việc cải tạo hàng loạt, số tín đồ GiaTô chỉ chiếm vào khoảng từ 12 tới 13 phần trăm của dân số miền Nam. Không lạ lùng gì mà khối đa số Phật Giáo bất bình đưa đến việc công khai chống đối chính sách của Diệm. Tình trạng ngày càng suy kém, Diệm đã dùng đến biện pháp bắt giữ hàng loạt, đàn áp Phật tử, đóng cửa chùa chiền và tu viện. Qua kinh nghiệm quá khứ, Giáo hội chắc hẳn đã biết rằng sự đàn áp chỉ làm cho lý tưởng mạnh hơn. Trước sự quan sát kinh hoàng của thế giới, giới Phật tử đã phải dùng tới hành động chống đối tiêu cực rốt ráo và nhiều tăng sĩ đã tự thiêu. Trong những khoảng thời gian đáng sợ đó, tôi, một tín đồ GiaTô, không nhớ có một lời chỉ trích chính sách của Diệm từ một linh mục hay giám mục GiaTô nào. Tuy nhiên, sự việc đã lên quá mức đối với TổngThống John Kennedy, ông ta thôi không ủng hộ Diệm nữa. Ít lâu sau đó Diệm bị hành quyết trong một cuộc lật đổ chính quyền. Qua cái diễn tiến kinh khủng này, vai trò của giáo hội đã theo đúng cái tiến trình lịch sử nhơ nhớp của giáo hội”. (Spellman was the papal point man to lead America into deeper involvement in Vietnam. According to a Vatican official letter, the pope “turned to Spellman to encourage American commitment to Vietnam”. All US relief to the South was funneled through the Catholic Church’s agencies and only Catholics were appointed to government positions by Diem. Although these policies resulted in a wave of conversions. Catholics still made up only about 12 to 13 percent of the South Vietnamese population. Not surprisingly, the resentment among the Buddhist majority soon resulted in their open resistance to Diem’s policies. As the situation deteriorated, Diem resorted to mass arrests and suppression of the Buddhists, closing shrines and monateries. As the Church should have known from its own early experience, persecution can only strengthen a cause. As a horrified world watched, the Buddhists resorted to the ultimate act of passive resistance and several monks set themselves ablaze. During these terrible times, when I, too, was a Catholic, I don’t recall one word of criticism of Diem’s policies from a Catholic priest or bishop. However, it finally became too much for President John Kennedy, who withdrew US support for Diem. Diem was soon executed in a coup. Throughout this dreadful ordeal the role of the Church followed true to the course of its sordid history).

       Trên đây là những sự kiện lịch sử không thể phản bác về lịch sử giáo hội GiaTô từ ngày đầu cho tới ngày nay, để cho công bằng chúng ta cũng phải xét đến mặt tích cực đóng góp cho nhân loại của giáo hộigiáo hội vẫn thường quảng bá qua những phương tiện truyền thông và sách lược tuyên truyền tinh vi nhất. Tôi sẽ luận về những điểm này trong phần tới : “Phật Giáo với nhiệm vụ gìn giữ và phát huy nền văn hóa dân tộc”.

    1. PHẬT GIÁO VỚI NHIỆM VỤ GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC

       Trong phần mở đầu tôi đã đưa ra quan niệm về nhiệm vụ của Phật giáo trong vấn đề gìn giữ và phát huy nền văn hóa dân tộc. Trong nhiệm vụ này, việc ngăn chặn sự xâm lược văn hóa của các ý thức hệ không tương hợp với nền văn hóa dân tộc phải được đặt lên hàng đầu, vì đây cũng là một hình thức bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta bài ngoại một cách mù quángbảo thủ một cách mù quáng, cho rằng cái gì của chúng ta cũng tốt và cái gì của người khác cũng dở. Vấn đềchúng ta phải phân tích, nghiên cứu cẩn thận xem chúng ta có thể tiếp nhận những gì hay của người và bỏ những gì dở của ta. Chỉ có như vậy cái nền văn hóa dân tộc của chúng ta mới bền vững và hợp với thời đại mới.

       Qua sự trình bày về lịch sử GiaTô Giáo và nội dung Thánh Kinh sơ lược ở trên, một người có một trình độ trí thức tối thiểu cũng nhận ra ngay là quyển Thánh Kinh không thể nào dùng làm cẩm nang để phục hưng con ngườiđạo lýViệt Nam vì nội dung của nó hoàn toàn không phù hợp với con ngườiđạo lýViệt Nam. Một câu hỏi được đặt ra: “Thế trong Thánh kinh không có đạo lý hay sao?” Câu trả lời là “Hơn 90% cuốn Thánh Kinh là những chuyện thuộc vùng đất Do Thái, thuộc lịch sử Do Thái và là những chuyện chém giết, vô luân, độc ác v.v… cùng những tín lý chứ không phải là đạo lý”. Phần còn lại, như Bài giảng trên núi, cũng không có gì đặc biệt, không có gì mới lạ, không có gì theo kịp, khoan nói đến chuyện vượt qua, được những tư tưởng giáo lý của Phật Giáo, Khổng GiáoLão Giáo. Tôi thách đố bất cứ ai có thể đưa ra bất cứ đạo lý nào, tôi xin nhấn mạnh: đạo lý chứ không phải là tín lý, trong Thánh Kinh mà ta không thể tìm thấy trong Nho, Thích, Lão, và có thể minh xác cho đọc giả thấy cái đạo lý trong Thánh Kinh là cái đạo lý như thế nào, có nhất quán hay không, hay là mâu thuẫn với các đạo lý khác cùng ở trong cuốn Thánh Kinh?

       Những tín đồ GiaTô giáo thường không đọc Thánh kinh và thường là những người các Cha “bảo sao nghe vậy” cho nên họ vẫn nghĩ rằng GiaTô giáo là cái đạo cao quý nhất trên hoàn cầu. Họ bị một cái guồng máy nhồi sọ tinh vi nhất trên hoàn cầu đưa vào đầu óc họ những thông tin sai lầm thí dụ như: nền văn minh tiến bộÂu Mỹ là nền văn minh KiTô giáo, và rằng giáo hội GiaTô đứng đầu trong việc tôn trọng nhân quyền, bảo vệ tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, là bạn của dân nghèo, là quán quân trong các việc thiện, là tiền phong trong vấn đề giáo dục mở mang đầu óc con người. Qua cái lịch sử sơ lược kể trên không có cách nào chúng ta có thể chấp nhận những điều “tự nhận” ở trên là đúng sự thực. Sau đây tôi xin đi vào chi tiết từng điểm một.

  1. Giáo hội và nền văn minh Âu Mỹ

       Giáo hoàng và giáo hội luôn luôn nhập nhằng lấy cái nền văn minh Âu Mỹ làm nền văn minh KiTô. Giáo hoàng John Paul II phát biểu là “Một nền văn minh xứng đáng được gọi là văn minh phải là nền văn minh KiTô”. Hồng Y Spellman khi sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ cũng khẳng định họ “đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh KiTô Tây phương”. Chúng ta đã thấy những chính sách đốt sách vở của GiaTô giáo, chính sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương, chính sách đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với Thánh Kinh như thiêu sống Giordano Bruno và biệt giam Galileo Galilei cho đến chết v.v… Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền văn minh hiện thời không? Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết gia tuyệt đối tin và KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại? Hay là nền văn minh diện đại bắt nguồn từ Galilei rồi phát triển qua những khoa học gia, tư tưởng gia mà Giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt giam nữa.

       Gần đây, ở các nước còn nghèo khổ, KiTô giáo nói chung (GiaTô và Tin Lành) đã khuyến dụ dân chúng theo đạo với luận cứ xuyên tạc sự thật: “Hãy nhìn vào các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, kinh tế mở mang, dân chúng sống sung sướng. Đó là những nước theo KiTô giáo và KiTô giáo là nguyên nhân chính của sự giàu sangtự do dân chủ”.

       Đây là một luận điệu nằm trong sách lược lừa dối những ngươờ kém hiểu biết. Sự thực là hiện nay hơn 70% dân GiaTô là thuộc các nước ở Nam Mỹ, Phi Châu, Phi Luật Tân. Dưới sự chỉ đạo tinh thầnvật chất của GiaTô giáo, có nước nào giàu mạnh đâu. Phi Luật Tân là nước hầu như toàn tòng GiaTô giáo từ nhiều thế kỷ, nay Phi Luật Tân giàu sang như thế nào mà phải xuất cảng hơn 400 ngàn người đi làm đầy tớ ở nước ngoài, tình trạng giáo dục, kinh tế có hơn gì Việt Nam ngày nay không? Nhật Bản, Singapore, Đài Loan mở mang tiến bộ như vậy nhưng đâu có phải là các nước theo KiTô giáo. Tại sao ở các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ tình trạng bỏ đạo càng ngày càng gia tăng. Thống kê mới nhất (ngày 20 tháng 7 năm 1996) của Vatican cho biết số người vào trường dòng học làm Linh Mục gia tăng trong các nước nghèo khổ (một nghề ăn trên ngồi chốc tương đối dễ sống) và kỹ nghệ kém mở mang trong khi giảm nhiều ở Âu Mỹ. (The statistics on seminary enrollment support a longtime trend: the demographic center of the faith is shifting to poorer and less industrialized nations). Sự suy giảm ở Mỹ (nước giàu nhất, văn minh nhất, tự do nhất) rất trầm trọng: số tu sinh giảm từ 14,365 xuống còn có 5,692 (giảm hơn 60%) (The drop in North American was even greater: from 14,365 to 5,692).

       Một công cuộc nghiên cứu khác của Linh Mục dòng Dominic, David Rice, cho biết: Trong 20 năm qua có 100,000 linh mục rời bỏ giáo hội GiaTô La Mã - cứ 2 giờ đồng hồ lại có một linh mục bỏ giáo hội ra đi (100,000 Roman Catholic priests have walked out in the last twenty years – more that one in every two hours). Một công cuộc nghiên cứu trong 6 năm của hai nhà xã hội học, giáo sư Richard Schoenherr và Lawrence Young, đại học Wisconsin – Madison đưa ra kết luận: “Cho tới năm 2005, số linh mục ở Mỹ sẽ giảm 40%, từ 35,000 xuống còn 21,000. Vậy chúng ta không lấy làm lạ khi giáo hội đã tập trung sự tuyển mộ linh mụcgiáo dân ở trong các nước nghèo vì ở các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, dân trí đã mở mang, không còn tin vào những lời giả dối đánh lạc dư luận nữa. Và, cũng thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy trong những nước nghèo khổ, người dân sống trong thiếu thốn rất dễ bị lường gạt bởi những bả vật chất nhỏ nhoi và những hứa hẹn tinh thần huyền hoặc.

       Để có một nhận định chính xác hơn về mối tương quan giữa nền văn minh Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của John E Remsburg trong cuốn “Những nhận vơ lếu láo” (False Claims, The Truth Seeker Company, New York, trg. 16-17): “KiTô giáo có liên quan gì tới nền văn minh của dân tộc này? chắc chắn là không và nếu khôngđám mây thiên kiến trước mắt họ, những tín đồ KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên nền văn minh của chúng ta. Họ sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế giới, chính cái thế giới duy lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo hội. Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng tiến bộ như là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến bộ nào, ở trong hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhângiáo hội không kiểm soát được. Giáo hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn diện, chỉ là chân lý. Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo hội là sai sự thực, và, do đó, giáo hội chống đối. Giả thử giáo hội thành một đế quốc trên toàn thế giới, mọi tiến bộ sẽ phải ngưng ngay lập tức. Những triết gia Huxley và Haeckels của chúng ta sẽ bị diệt trừ thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và cái lòng tin mù quáng sẽ là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta. Giáo hội đã cho ta những chứng cớ quyết định về sự thực này. Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo hội ở Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi những thế kỷ đó là thời đại đen tối.

       Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt đầu phát triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló dạng. Lecky nói rằng: “Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh hưởng thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cải để đo sự tiến bộ của chúng ta”. Carlyle nói rằng: “Kiến thức càng tăng, lòng tin càng giảm”. Strauss nói rằng: “Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ lệ thuận với sự ngu tối và man rợ. Tôn giáovăn minh không ở cùng vị thế mà trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, tôn giáo phải lui”.

       (Now did Christianity have ought to do with the civilization of this people? Certainly not; and were it not for the cloud of prejudice before his eyes, the Christians would clearly see that it did not produce our civilization. He would see that instead of the church having civilized the world, the Rationalistic world has for centuries been slowly civilizing the church.

       The very nature of Christianity – I mean orthodox Christianity – precludes the possibility of progression as an inherent principle of itself; and whatever progress has been made, either in the church or outside of it, must be attributed to causes over which she has had no control. The church claims to have the truth. Every proposed change, every new discovery, is to her a perversion of truth, and hence, she opposes it. Were the church to sweep to universal empire, all progress would at one cease. Our Huxleys and Haeckels would be summarily disposed of, the torch of Reason would be extinguished, and the ignis-fatuus of Faith would bcome our only guide. Of the truth of this she has herself given conclusive evidence. For centuries her power in Europe was supreme, and even Christian writers denommate these centuries the Dark Ages.

       Not until Rationalism was born, not until science commenced her carreer, and Christianity began to decay, did our modern civilization dawn. “For more than three centuries”, says Lecky “the decadence of theological influence has been one of the most invariable signs and measures of our progress”. Says Carlyle “Just in the ratio that knowledge increases, faith diminishes”. “The Middle Ages were more religious than ours”, says Strauss, “in proportion to their ignorance and barbarism. Religion and civilization accordingly occupy, not an equal, but an inverted position regarding each other, so that with the progress of civilization, religion retreats”).

       Để rọi thêm một tia sáng vào cái gọi là văn minh KiTô, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn sau đây của Lloyd M. Graham (Sđd, trg. 448-449) về trí tuệ của các Thánh KiTô trong việc mở mang đầu óc và văn minh hóa con người để Âu Mỹ có được nền văn minh ngày nay:

       “Bất cứ người nào bị thống trị bởi tư tưởng tôn giáo đều bị đặt dưới ảnh hưởng của cái năng lực lý luận sai lầm. Đó chính là những nhà lập giáo KiTô lầm lẫn. Ngày nay chúng ta vinh danh những kẻ không xứng đáng về lòng dũng cảm của họ mà không ý thức được cái tội ác mà họ đã phạm phải - sự phá hủy hoàn toàn khoa học và triết lý cổ xưa. Điều này đưa đến 1500 năm đen tối, trong thời gian này dân KiTô không biết ngay cả quả đất tròn. Trong thời đại đen tối, sự tối tămtính cách toàn diện - một ảnh hưởng khó hiểu của cái gọi là “ánh sáng của thế giới” (GiaTô giáo vẫn tự cho là ánh sáng của thế giới: TCN).

       Bây giờ chúng ta hãy so sánh những khoa học gia Hi Lạp (Tác giả muốn nói đến Pythagoras (thuyết trái đất tròn và quay xung quanh mặt trời, thế kỷ 6 trước sự Hoang Mang (B.C. = Before the Confusion), Aristarchus (thuyết mặt trờitrung tâm vũ trụ, thế kỷ 3 B.C., mà 19 thế kỷ sau Copernicus khám phá ra), Eratosthenes (đo chu vi trái đất, thế kỷ 3 B.C.), Hipparchus (kinh tuyến và vĩ tuyến, thế kỷ 2 B.C.), Democritus và Leucippus (thuyết nguyên tử của vật chất, thế kỷ 5 sau Ảo Tưởng (A.D.= After Delusion) với các Thánh KiTô. Đối với vài khoa học gia còn sống sót, người ta nói như sau: “cái tên điên này muốn đảo ngược cả hệ thống thiên văn, nhưng Thánh kinh thiêng liêng dạy chúng ta rằng Joshua ra lệnh cho mặt trời dừng đứng yên lại chứ không phải là trái đất” – và 1300 năm sau một giáo hoàng cũng ra sắc lệnh với cùng ý như vậy. Một luận cứ nổi tiếng khác là “trong ngày phát xét những người ở phía bên kia của trái đất không thể thấy được Chúa từ trên không xuống”. Về sự chuyển động của trái đất, Thánh Augustine (cha đẻ của nền thần học GiaTô và được GiaTô giáo tôn sùng coi như là có trí tuệ siêu việt) nói như sau: “Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam” (Như vậy là Thánh Kinh không biết tới dân Việt Namlẽ dĩ nhiên không làm gì có chuyện cứu rỗi dân Việt Nam. TCN); Và linh mục Incholer nói như sau: “Quan niệm về sự chuyển động của trái đất là quan niệm tồi tệ nhất, nguy hại nhất, xúc phạm nhất trong những quan niệm dị giáo; sự bất động của trái đất là điều thiêng liêng gấp ba lần” và Laclantius kết luận: “Không thể có chuyện con người tin một cách vô lý đến độ cho rằng mùa màng và cây cỏ ở phía bên kia của trái đất lại mọc chổng đầu xuống và con người lại có chân cao hơn đầu”. Làm sao chúng ta có thể áp dụng những lời trên vào con người đã thốt ra những lời đó. Ngày nay, chúng ta biết họ sai lầm về khoa học, nhưng chúng ta vẫn không biết họ sai lầm về thần học”.

       (Anyone domnated by religious thought is under the influence of a reason-perverting power. Such were Christianity’s Confounding Fathers. Today we honor these misbegotten for their courage without realizing the crime they committed – the complete destruction of ancient science and philosophy. This resulted in fifteen hundred years of darkness, in which the Christian people did not even know the earth is round. In the Dark Ages the ‘blackout’ was complete – a curious effect for “ the light of the world”. Now let us compare Greek scientists with Christian saints. Against some scientists still surviving one had this to say: “this fool wishes to reverse the entire system of astronomy; but sacred scripture tells us that Joshua commanded the sun to stand still and not the earth” – and some thirteen hundred years later a pope issued a bull to the same effect. Another famous argument was that “in the day of judgement men on the other side of a globe could not see the lord descending through the air”. Concerning the earth’s motion, St. Augustine had this to say: “It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam”. And Father Inchofer: “The opinion of the earth’s montion is of all heresies the most abominable, the most pernicious, the most scandalous; the immobility of the earth is thrice sacred”. And Lactantius concluded, “It is impossible that men can be so absurb as to believe that the crops and trees on the other side of the earth hang downward and that men have their feet higher than their heads”. How peculiarly applicable are these words to those who uttered them. We now now these men were wrong scientifically, but we still do not know they were wrong theologically).

       Qua những tài liệu dẫn chứng ở trên chúng ta thấy rằng không có một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ văn minh mà có thể gọi là nền văn minh KiTô. Sự nhập nhằng với nền văn minh Tây phương vào làm nền văn minh KiTô là sách lược quen thuộc của GiaTô giáo để khuyên dụ những người kém hiểu biết trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì về lịch sử cũng như bản chất của GiaTô LaMã giáo.

       Một trong những quyền căn bản của con người ở trong các xứ văn minh tiến bộ là quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng v.v…. Sau đây tôi sẽ luận về giáo hộitự do của con người.

  1. Giáo hộitự do của con người

       Lịch sử chứng tỏ rằng, cho đến ngày nay, chưa bao giờ giáo hội GiaTô cổ võ tự do tôn giáo. Theo truyền thống của giáo hội mẹ, các giáo hội con cũng đi vào con đường chuyên chế tôn giáo: Pavelich ở Croatia, Franco ở Tây Ban Nha, Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, Marcos ở Phi Luật Tân v.v. tất cả đều chủ trương độc tôntìm cách tiêu diệt các tôn giáo khác. Hiện nay, GiaTô giáo và Chính Thống giáo còn đang giết nhau ở Bosnia, GiaTô Giáo và Tin Lành cũng đang giết nhau ở Bắc Ái Nhĩ Lan, Gia Tô và Tin Lành đang tranh nhau ảnh hưởng ở các nước nghèo khổ. Trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi là giữa GiaTô và Tin Lành, tôn giáo nào hơn, Robert G. Ingersoll đã trả lời: “Tin Lành hơn vì ít GiaTô hơn, nhưng sự khác biệt giữa GiaTô và Tin Lành chỉ như sự khác biệt giữa một con cá sấu lớn và một con cá sấu nhỏ” (Protestantism is better than Catholicism because there is less of it. But the difference between Catholicism and Protestantism is as much as between an alligator and a crocodile). Ở nơi nào GiaTô giáo ở thế yếu hoặc thiểu số thì giáo hội đòi cho được tự do tôn giáo, khi nào ở thế mạnh hoặc đa số thì không bao giờ tôn trọng tự do tôn giáo. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, vào những thế kỷ 18, 19, trong khi ở Âu Châu GiaTô giáo bắt giữ, tra tấn và thiêu sống hàng trăm ngàn người mà họ kết tội là “dị giáo”, nghĩa là những người không tin và không chấp nhận quyền lực của Giáo hoàng, thì ở Việt Nam họ lại đòi tự do tôn giáo cho những tín đồ GiaTô người Việt phản bội quốc gia và lấy cớ bị đàn áp để thúc đẩy thực dân Pháp xâm chiếm đất nước Việt Nam.

       Hiện nay, ngay trong nội bộ, giáo hội GiaTô cũng không tôn trọng nhân quyềntự do tư tưởng. Giáo hội dành quyền diễn giảng Thánh Kinhkhông chấp nhận bất cứ sự bất đồng ý kiến nào, dù lịch sử đã chứng minh giáo hội đã nhiều lần sai lầm trong quá khứ. Các nhà thần học nổi tiếng như Hans Kung, Leonardo Boff, Charles Curran v.v… vì không đồng ý với giáo điều Vatican nên đều bị Vatican đưa ra những biện pháp trừng phạt tinh thần như cấm dạy học, cấm viết sách v.v… Lẽ dĩ nhiên Việt Nam không có nhà Thần học nào nổi danh và “trưởng nữ” của giáo hội mẹ (ngày xưa là Pháp) đã nổi tiếngngoan ngoãn dể bảo, và không bao giờ cần đến quyền tự do của con người, cho nên vẫn cho rằng Giáo hội GiaTô là thành trì bảo vệ tự do.

       Có lẽ chúng ta cũng nên đọc đoạn sau đây của John Remsburg (Sđd, trg. 24) để có một hiểu biết tổng quát về cái gọi là quan niệm tự do của giáo hội GiaTô: “Giáo hội tự nhận là hội bảo vệ tự do tôn giáo và dân sự. Thực ratự do của con người chưa bao giờ có một kẻ thù nào ghê gớm hơn. Nơi nào mà KiTô là thiểu số thì họ đòi cho được tự do tôn giáo, nơi nào đa số thì họ không bao giờ chấp nhận tự do tôn giáo. Mười ngàn lời tán tụng đã tặng cho những nhà lập Thanh Giáo (một tông phái KiTô ) ở New England, như họ tự nhận, là đã thiết lập tự do tôn giáo ở nước này. Nhưng quan niệm về tự do của Thanh giáo là như thế nào? Họ ủng hộ loại tự do nào? Tự do chỉ được là một tín đồ Thanh giáo! chỉ đơn giản như vậy thôi. Rồi nữa, những ông tòa xử dị giáo Tây Ban Nha cũng ủng hộ tự do tôn giáo – cái tự do chỉ được là một tín đồ Gia Tô ngoan đạo. Sự thật là nếu anh thấy bất cứ ở đâu một tông phái của giáo hội KiTô, tôi không cần biết nó mang cái tên gì – GiaTô hay Tin Lành, Luther hay Tân giáo, Trưởng lão hay Giám Lý – anh sẽ thấy đó là một kẻ thù của tự do. Trái đất của chúng ta đã bị bao phủ bởi tro bụi của nhiều triệu người bị giết, giết bởi giáo hội, chỉ vì họ dám có những ý quan điểm không được chính thống. “Nhưng bây giờ giáo hội không còn giết nữa” hình như tôi nghe nhà bảo vệ tín lý Kitô nói. Không, một con hổ yếu sắp chết càng ngày càng bớt dữ đi. Bây giờ Giáo hội không giết được nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi và thanh gươm đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội, và bây giờ Giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí, thù hận và vu khống”.

       (The Church claims to be the guardian of civil and religious liberty. Yet human liberty has never had a deadlier foe. If a Christian minority has pleaded for religious liberty, a Christian majority never failed to deny it. Ten thousand eulogies have been bestowed upon the Puritan Fathers of New England, for having, as it is claimed, established religious liberty in this country. But what was the Puritan conception of religious liberty? What liberty did they advocate? The liberty to be a Puritan! Simply this and nothing more. So, too did the Spanish Inquisitors advocate religious liberty – the liberty to be a good Catholic. The fact is that wherever you find a fragment of the Christian Church, I care not what name it bears – Catholic, or Protestant, Lutheran or Episcopal, Presbyterian or Methodist – you find an enemy to liberty. Our earth is covered with the dust of murdered millions, murdered by the church, and for no other crime than having dared to entertain opinions that were not orthodox. “But the church does not kill now”, methinks I hear the Christian apologist exclaim. No; a tiger weakened by the pangs of death grows less and less ferocious. The church does not kill now because it dows not have the power to kill. The fabor and the sword have been wrested from her bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now).

       3. Giáo hội và công tác từ thiện

       Một trong những điểm mà giáo hội GiaTô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa ra làm bình phong, lạc dẫn dư luận, làm như tất cả những tín đồ GiaTô đều như Mẹ Teresa cả. Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện này chúng ta ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các công việc từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của GiaTô giáo trong những thế kỷ qua. Mở đầu là Đại Đế Constantine, người đã dùng mọi cách và đã bỏ của cải ra mua toàn thể các tỉnh, các thị trấn để cho dân chúng đi theo đạo mới (Malachi Martin: “The Rise and Fall of the Roman Church”, Bantam Books, New York, 1983, trg. 36 “True Constantine had used ever one of these means to propagate Christianity. He even bought up whole towns and cities to ensure they accepted the new belief”. Và từ đó cho đến này nay, của cải vật chất với nhãn hiệu từ thiện đã là vũ khí hữu hiệu nhất của GiaTô giáo để thu nhặt tín đồ.

       Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy dưới thời Ngô Đình Diệm, các Cha cố Việt Nam được toàn quyền sử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: “Theo đạo có gạo mà ăn”. Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Cha được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo. Tôi không nói là các việc từ thiện của GiaTô giáo không có ích lợi gì, chúng góp phần rất nhiều để làm vơi bớt sự khó khăn mà con người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách sử dụng thì chẳng thiện chút nào.

       Trở lại trường hợp của Mẹ Teresa. Không ai có thể phủ nhận cái lòng từ bi của Mẹ Teresa dù trong vài bài báo người ta đã đặt ra nhiều nghi vấn về cái động cơ chính thúc đẩy Mẹ làm việc thiện. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David Gates có điểm cuốn sách “The Missionary Mission” của Christopher Hitchens viết về Mẹ Teresa. Theo Hitchens thì “Mẹ Teresa là một kẻ “mị dân” chống phá thai và là kẻ “phục vụ cho những quyền lực thế gian”, thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Toà Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đây đủ lý lẽ, ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn cắp món tiền đã biếu cho Mẹ, và đề nghị Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các “sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý; Mẹ đã không hề hồi âm (Tiền mang cho Thánh có đòi được không? TCN)

       Hitchens cũng ghi chú rằng Mẹ đã vào “điều trị ở một vài bệnh viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương”. Hitchens lý luận rằng “Mẹ làm công việc từ thiện không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong một ngày nào đó được kể như một vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo hội” (Hitchens’ Mother Teresa is an anti-abortion “demagogue” and a”servant of earthly powers” cozying up to such a slime as S & L (Savings & Loans) swingler Charles Keating, on whose behalf she wrote to Judge Lance Ito during his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a deputy D.A. explained to her now Keating stole the money he’d donated and suggested she return it to “its reightful owners”; she never answered. Hitchens notes, she herself has “checked into some of the finest and costliest clinics and hospitals in the West”. She does charitable work, he argues, “not for its own sake but… so that she may one day be counted as the beatific founder of a new order and discipline within the Church itself “)

       Tôi chợt nghĩ tới Sư Cô Minh Tú trong bài “Trên Núi Có Một Ngôi Chùa nhỏ”, một bậc tu hành sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất bên cạnh những người xấu số, thiếu thốn đủ mọi thứ nhưng vẫn làm việc trong âm thầm năm này qua năm khác, và chắc chắnchưa bao giờ được vào điều trị ở một bệnh viện tối tân nhất ở Việt Nam, khoan nói đến chuyện bệnh viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương mà phí tổn một ngày có thể đủ nuôi vài chục người xấu số trong một tháng.

       Viết sự kiện này ra tôi không có ý lấy trường hợp cá nhân để tổng quát hóa vấn đề như GiaTô giáo đã toan tính làm trong trường hợp Mẹ Teresa. Một cá nhân không tiêu biểu cho bất cứ một tôn giáo nào, muốn xét đến một tôn giáo chúng ta phải xét đến toàn bộ tôn giáo đó. Bởi vì nếu người ta toan tính đưa Mẹ Teresa ra làm cái bình phong Thánh Thiện của GiaTô giáo thì vụ 400 Linh Mục GiaTô ở Bắc Mỹ can tội cưỡng bách tình dục trẻ con và nữ tín đồgiáo hội đã phải bỏ ra 400 triệu đôla để giải quyết ngoài tòa những vụ trên cho ếm nhẹm (400 triệu đô la làm được nhiều việc thiện lắm) sẽ tiêu biểu cái gì của GiaTô giáo? (Jason Berry: “Lead Us Not Into Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children”, Double day, New York, 1992, Front cover: “In fact, between 1984 and 1992, 400 Catholic priests in North America have been reported for molesting children. To date, Berry estimates, $400 millions has been paid to resolve these cases. One source projects that $1 billion may be paid by century’s end).

       Sự dùng vật chất để ép những người ngoại đạo đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn về vật chất theo đạo lộ liễu đến mức một Ủy Ban Điều Tra Những Hoạt Động của các Giáo Sĩ Thừa Sai tại Ấn Độ đã phải đưa ra những khuyến cáo sau đây, trong cuốn “Tín Ngưỡng của người khác” (“The Faith of Other Men”, A Mentor Book, New York, 1965, trg. 107) của Giáo sư Wilfred Cantwell Smith, một nhà Thần học KiTô nổi tiếng, Giáo sư môn Tôn Giáo Thế Giới và Giám đốc trung tâm nghiên cứu tôn giáo thế giới, đại học Harvard:

       “Nên yêu cầu những thừa sai mà mục đích chính là dụ người vào đạo phải rút lui. Số lượng lớn các nhà truyền giáo ngoại quốc không được hoan nghênhcần phải kiểm soát. Sự dùng các dịch vụ y tế hay chuyên môn như là phương tiện trực tiếp để dụ người vào đạo phải cấm bởi luật pháp. Mọi toan tính dùng vũ lực hay lừa gạt gian dối, hay đe dọa bằng những cách bất chính hay cấp đỡ tài chính hay mọi sự trợ giúp khác, hoặc bởi những phương tiện hay hứa hẹn lừa gạt gian dối, hoặc bằng sự giúp đỡ tinh thầnvật chất, hoặc lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm hay lòng tự tin của bất cứ người nào, hoặc bằng cách khai thác nhu cầu, sự yếu kém về tinh thần (tâm thần) hay nhẹ dạ của bất cứ người nào, hoặc, đại cương là mọi toan tính hay nỗ lực (dù thành công hay không), trực tiếp hay gián tiếp thâm nhập vào ý thức tôn giáo của con người (dù đã trưởng thành hay còn vị thành niên) thuộc tín ngưỡng khác, với mục đích thay đổi ý thức tôn giáo hay tín ngưỡng của họ, để cho hợp với lý tưởngniềm tin của phe đi dụ người ta vào đạo, phải tuyệt đối cấm” (Those missionaries whose primary object is proselytization should be asked to withdraw. The large influx of foreign missionaries is undersirable and should be checked. The use of medical or their professional services as a direct means of making conversions should be prohibited by law. Any attempt by force or fraud, or threats of illicit means or grants of financial or their aid, or by fraudulent means or promises, or by moral and materials assistance or by taking advantage of any person’s inexperience or confidence, or by exploiting any person’s necessiry, spiritual (mental) weakness or thoughlessness, or in general any attempt or effort (whether successful or not), directly or indirectly to penetrate into the religious conscience of persons (whether of age or underage) of another faith, for the purpose of consciously altering their religious conscience or faith, so as to agree with the ideas of convictions of the proselytizing party should be absolutely prohibited…)

       Tại sao người ta lại phải khuyến cáo như vậy nếu các việc thiện của GiaTô giáo chỉ thuần tuý là việc thiện? Từ những nhận địnhtài liệu kể trên chúng ta có thể cho rằng việc thiện của GiaTô giáo là thuần túytính cách nhân đạo hay không. Chưa kể đến chuyện giáo hội GiaTô đã dùng nhiều cơ quan từ thiện như Caritas, Red Cross và một số tu viện trong kế hoạch che dấu tội phạm chiến tranh sau Thế Chiến thứ hai với những dịch vụ như làm thông hành giả, ẩn náu trong các tu viện để chờ cơ hội đưa ra ngoại quốc v.v… (Xin đọc cuốn “Unholy Trinity”, St. Martin’s Press, New York, 1990, của Mark Aarons và John Loftus, một cuốn sách dày 372 trang mô tả chi tiết về những hoạt động của Giáo hội GiaTô trong vấn đề này).

       Còn vài điểm mà Giáo hội tự phong là quán quân, thí dụ như về giáo dục đại chúngđạo đức con người, nhưng tôi chắc quý độc giả đã biết thế nào là nền giáo dục GiaTô và thế nào là đạo đức GiaTô rồi, qua những phần tôi đã trình bày ở trên, nên tôi xin được miễn bàn thêm về những vấn đề này.

       Trước khi đi vào phần kết luận tôi xin có một lời minh định. Tôi phân biệt rõ ràng giữa Giáo hội GiaTô và các tín đồ GiaTô. Nếu những sách lược của Giáo Hội GiaTô đã tạo nên một lịch sử đen tối cho GiaTô giáo, điều này không có nghĩa là các tín đồ GiaTô đều đen tối. Tôi tin rằng trong GiaTô giáo có rất nhiều người đức hạnh không thua bất cứ người nào trong các tôn giáo khác, nhưng, như tôi đã luận ở trên, chúng ta không thể lấy những trường hợp cá nhân để mà tổng quá hóa vấn đề. Tôi cũng quan niệm rằng, tự do tín ngưỡng là quyền thiêng liêng của con người, kể cả quyền mê tín dị đoan. Nhưng tôi không chấp nhận bất cứ ai dùng cái quyền tự do của mình, hay niềm tin của mình, để bóp nghẹt hay tiêu diệt tự doniềm tin của người khác.

       Từ những tài liệu khảo cứu ở trên, tôi đã chứng minh cùng quý độc giả nói chung, và giới Phật tử nói riêng, là quyển Thánh Kinh không thể nào là cẩm nang khôi phục con ngườiđạo lýViệt Nam như ông Nguyễn Văn Chức đã đề nghị. Muốn ngăn chặn cái ý tưởng nguy hại cho dân tộc này, trách nhiệm của chính quyền và mọi người trong nước là phải mở mang dân trí, phổ biến rộng rãi cho dân chúng biết tất cả những sự thực lịch sử, kể cả những sự kiện về lịch sử các tôn giáo. Tôn giáo không phải là chuyện riêng tư mà liên quan đến mọi khía cạnh của xã hội. Tôn giáo không thể đứng ngoài xã hội hay trên xã hội khi có quyền thế. Cho nên đối với mỗi tôn giáo, chúng ta phải có những công cuộc khảo cứu kỹ càng để xem trong mỗi tôn giáo có những điều nào có lợi hay không có lợi cho quốc gia dân tộc, và từ đó mà tìm ra một phương sách giáo dục để cho hợp với nền văn hóatruyền thống dân tộc. Với mục đích này, các cuộc hội thảo công khai, trong đó chúng ta có thể mổ xẻ mọi vấn đề trong tinh thần hòa hoãn, đi tìm sự thực qua những sự kiện lịch sử và những tài liệu khả tín, thẳng thắn và cởi mở, rất là cần thiết trong giai đoạn này, trước ngưỡng cửa thế kỷ 21.

       Như trong phần đầu của bài này tôi đã đưa ra nhận định của Hòa Thượng Thích Đức Nhuận và của các giáo sư Trần Quốc Vượng và Minh Chi, rằng nền văn hóa dân tộc chính là nền văn hóa Phật Giáo. Trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, Đông phương nói chung, Việt Nam nói riêng, phải đối phó với sự xâm lăng của nền văn hóa Tây phương đang ào ạt đổ sang, lợi dụng sự yếu kém kinh tế của các nước Á Đông. Đông phương chỉ có một vũ khí tinh thần duy nhất có thể đối phó được với Tây Phương, đó là tinh thần Phật Giáo. Điều này sẽ rõ ràng hơn qua vài tài liệu tôi sẽ trình bày sau đây.

       Điều rõ ràngnhiệm vụ chính yếu của mọi người dân trong đó Phật tử ắt đóng một vai trò rất quan trọng là chúng ta phải gìn giữ nền văn hóa dân tộc. Gìn giữ bằng cách nào? Chúng ta cần theo con đường kỹ thuật hóa đất nước để cho dân giàu nước mạnh nhưng không Tây phương hóa theo nghĩa tin theo những giáo lý hoang đường, mê tín, phản khoa học, phản nhân vị, phản tổ tiên, phản tổ quốc v.v…. mà lịch sử đã chứng minh đó chính là nguồn gốc của mọi sự suy sụp về luân lýđạo đức của con người.

       Trong bài “Công Nghiệp của 2 Thầy (người Mỹ) Thích Hằng Thiệt và Thích Hằng Triều” đăng trong tờ Đặc San Đại Lễ Phật Đản 2540 của Hội Cư Sĩ Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, trg. 39-51, Bác Sĩ Nguyễn Thanh Giản có cho chúng ta một khuyến cáo rất quý báu: “Chánh đạo từ xưa vẫn ở ngay quê hương các bạn, trong lòng các bạn. Các bạn không cần phải đi tìm ở những nơi nào xa xôi cả. Các bạn phải cảnh giác những gì Tây phương mang tới cho các bạn, vì đa số những cái đó họ đã phế thải cả rồi”.

       Thật vậy, ngày nay không ai có thể phủ nhận là Phật giáo đang phát triển mạnh mẽ vào các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 6, 1994 trích lời của Tracy Cochran, chủ nhiệm cố vấn của tờ Tricycle, như sau: “Nước Mỹ sắp đạt được một sự khám phá quan trọng về Phật Pháp, một sự nở rộ của cái trí tuệ đã làm cho nhiều tỷ người ở phía bên kia của thế giới tỉnh thức” (America, says Tracy Cochran, a consulting editor of Tricycle: The Buddhist Review, is on a verge of a breakthrough in Buddhadharma, a flowering of the wisdom that has enlightened billions of souls on the other side of the world).

       Trước sự phát triển của Phật Giáo vào các xã hội tân tiến Tây phương, và trước sự kiện Tây phương chấp nhận những giá trị tinh thần, nhân bản của Phật Giáo, người Việt Nam chúng ta nên hãnh diện về cái nền văn hóa dân tộc của mình. Đất nước của chúng ta quả thật đã may mắn vì đã được thấm nhuần tinh thần Phật Giáo, một tinh thần chủ lực xây dựng nước và giữ nước như đã được chứng minh trong nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Chúng ta không nên quên rằng, những chiến công chống xâm lăng oanh liệt nhất trong lịch sử Việt Namthời đại Lý, Trần (Thiên hạ Lý Trần bán vi Tăng), thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam.

       Nhìn lại lịch sử thế giới, trong khi những nước ở Phi Châu, Nam Mỹ, Châu Mỹ La Tinh, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân, sau khi bị KiTô giáo theo gót thực dân vào thao túng, các nước này đã mất đi những nền văn hóa bản địa vì chính sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương của KiTô giáo, thì Việt Nam vẫn giữ được phần lớn nền văn hóa dân tộc. Việt Nam thoát được phần lớn quốc nạn này là nhờ ở tinh thần Phật Giáo đã ngấm sâu vào lòng đất dân tộc và lòng yêu nước cao độ của người Việt Nam. Cho nên, không có lý do gì mà chúng ta lại phải bỏ đi cái gia tài quý báu của chúng ta để đi theo những thứ mà Tây phương đang muốn và đã bắt đầu phế thải.

       Văn hóa Phật Giáo không chỉ riêng là văn hóa Việt Nam mà cũng còn là văn hóa Á Đông. Sau đây tôi xin trích dẫn nhận định của một số học giả đã nổi danh trên trường quốc tế:

       

  1. Tiến Sĩ Edward Conze viết trong cuốn “Phật Giáo “ (“Buddhism”): “Tất cả mọi người sống ở Á Châu đều có thể hãnh diện về một tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương cả hơn 500 năm mà còn có thể bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo lực, và không hề bị hoen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo và Thánh chiến” (All those who dwell in Asia can take pride in a religion which is not only five centuries older than that of the West, but has spread and maintained itself without recourse to violence, and has remained unstained by religious wars and crusades).

       

  1. William Hunter viết trong “Lược Sử Dân Tộc Ấn Độ” (A Brief History of the Indian People”): “Tất cả những tôn giáo Á Đông đều phải biết ơn Phật Giáo về giáo lý đạo đức nhất mà giá trị của tôn giáo này còn hữu hiệu cho tới ngay bây giờ mà tột đỉnh của giáo lý này là lòng từ bi đối với mọi chúng sinh, giáo lý của Đấng Toàn Giác” (All Asiatic religions are indebted to Buddhism for the noblest moral element that is effective even today, which culminates in kindness to all that lives and breathes, the doctrine of the perfectly Awakened One).

       

  1. Giáo sư Bapat viết trong cuốn “2500 năm Phật Giáo (“2500 years of Buddhism”): “Phật Giáo thực sự là làn gió xuân thổi từ đầu này tới đầu kia của căn vườn Á Châu và làm nở ra, không những chỉ có những bông sen ở Ấn Độ, mà còn làm nở những hoa hồng ở Ba Tư, hoa đền đài ở Tích Lan, hoa Cúc ở Trung Hoa, hoa Anh ĐàoNhật bản v.v… Toàn bộ văn hóa Á Châu là văn hóa Phật Giáo không có nơi nào ngoài Đông phươngtư tưởng Phật Giáo lại có thể thống nhất. Mỗi quốc gia đều có cách riêng để chấp nhận tư tưởng Phật Giáo theo nhu cầu địa phương, nhưng khi khối Đông phương phải đối đầu với Tây Phương thì tư tưởng Phật Giáo là lực nối kết những quốc gia này lại với nhau. Ở đây chúng ta cần nhấn mạnh sự kiện là, nếu lịch sử Phật Giáo có cho thế giới bài học nào, thì đó là trong sự truyền bá đạo Phật từ thung lũng sông Hằng đến Tích Lan ở miền Nam, cho tới miền Cao Nguyên Trung Á ở phía Bắc, rồi tới các hải đảo Nhật Bản ở phía Đông, Phật Giáo, văn hóa, văn minhgiáo dục là những bạn đồng hành không thể tách rời nhau được” (Buddhism was, in fact a sprint wind blowing from one end of the garden to Asia to the other and causing to bloom not only the lotus of India, but the rose of Persia, the temple flower of Ceylon, the zebina of Tibet, the chrysanthemum of China and the cherry blossom of Japan – Asian culture is as a whole, Buddhist culture. It is Buddhist thought and in no ther than India, China and Japan, representing the East, could be a united one. Each nationality has its own characteristic modes of adopting the thought to its environmental needs, but when the East as a unity is made to confront the West, Buddhist thought culture supplies the bond. Here it would suffice to emphasize the fact that if the history of Buddhism in Asia has any lesson for the world today, it is that: in their long trek from the burning mark of the Gangetic to the gem encrusted rocks of Ceylon in the South, the wind-swept uplands of Central Asia in the North, and the sun-confronting islands of Japan in the East, Buddhism, culture, civilization and education were inseparable friends and companions).

       Thế giới văn minh đang dần dần chấp nhận Phật Giáo song song với sự phế thải những ý hệ phản tự do, phản dân chủ, phản khoa học. Do đó, những ý hệ này đang suy thoái ở Tây phương và đang tìm cách phát triển sang Đông phương qua những sách lược tuyên truyền che đậy sự thực, dùng tiền tài vật chất lường gạt những người kém hiểu biết và đang ở trong những hoàn cảnh kinh tế ngặt nghèo. Người Việt Nam chúng ta cần phải chứng tỏ cho thế giới thấy là chúng ta đã văn minh tiến bộ, không chấp nhận những đồ phế thải của họ, và gìn giữ cái gia tài tinh thần quý báu của chúng ta mà sau bao thế kỷ bây giờ người Tây phương mới bắt đầu nhận ra chân giá trị của nó.

       Ngược lại chúng ta cũng còn có bổn phận phát huy tinh thần Phật Giáo, góp phần truyền bá Phật Giáo vào đại chúng ở trong nước cũng như ở hải ngoại để cho họ thấy đâu là con đường quốc gia dân tộc, đâu là những giá trị tinh thần thiết thực và đâu là những giá trị huyền hoặc. Chúng ta không cần phải ép buộc bất cứ ai, chỉ cần mở mang dân trí, mang đến cho người dân những thông tin xác thực nhất. Một khi dân trí mở mang như các nước Âu Mỹ, tự khắc người dân sẽ thấy đâu là sự thực, sẽ biết cân nhắc giữa phải với quấy, giữa từ biác độc v.v… và tự động họ sẽ nhận ra trách nhiệm phải bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Chúng ta cũng cần mở rộng, truyền bá Phật Giáo vào các xã hội Tây phương để mang ánh sáng chân thực, hòa bình, vị tha, khoan dung v.v… của Phật Giáo đến với những người Tây phương đang bị khủng hoảng về những giá trị tinh thần trong những xã hội của họ.

       Tôi hy vọng tới đây chúng ta đã có thể ý thức được tầm quan trọng của những hoạt động phục vụ Đạo Phật của mọi Phật tử trước ngưỡng cửa thế kỷ 21 và nắm vững được chủ đề “Phật Giáo với nhiệm vụ gìn giữ và phát huy nền văn hóa dân tộc”.

       Trong cuốn “The Final Superstition”, sau khi nghiên cứu tường tận và đánh giá về cái gia tài tinh thần Do Thái – KiTô (Judeo Christian Legacy), Joseph L. Daleiden đã lược duyệt những tín ngưỡng khác (chiếm khoảng 24 trang trong số 443 trang của cuốn sách) như Đa Thần giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Phật Giáo, Hi Lạp Thiên Nhiên Giáo v.v… Về Phật Giáo, ông đã kết luận như sau:

       “Hiển nhiên là rất dễ tuột từ vị thế không truy cầu xuống thuần túy trốn tránh. Tăng sĩ Phật Giáo thường trốn tránh không tham gia tích cực vào vấn đề xã hội. Điều này có nghĩa là quay lưng lại với sự bất công thay vì chống lại bất công (tác giả muốn nói đến một số tăng sĩ Tiểu thừa ở vài quốc gia theo Tiểu thừa Phật giáo ngày xưa). Tuy nhiên, điều này thật xa sự thực đối với những tăng sĩ Việt Nam, những người đã tự thiêu để tập trung sự quan tâm của thế giới vào những nỗ lực của Hoa Kỳ để quyết định tương lai của Việt Nam. Những lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, như Khổng giáo, cái hệ thống tín ngưỡng này đã tồn tại suốt 25 thế kỷ mà không hề có lấy một cuộc Thánh chiến, một Tòa Án xử dị giáo, hay một toan tính đế quốc nào để đi xâm lăng và hủy diệt văn hóa của một dân tộc khác”. (“It should be apparent that it is very easy to slide from a position of nonstriving to pure escapism. The Buddhist monk has often opted to escape from any meaningful social involvement. This can mean turning one’s back to injustice, rather than combating it. However, this was far from ture for those Vietnamese monks who set themselves ablaze to focus world attention on US efforts to determine the future of Vietnam. The best recommendations for Buddhism is that, like Confucianism, this belief system has existed for tweny-five centuries without a single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the culture of another people”).

       Và đây cũng là câu tôi muốn dùng để kết thúc bài viết này.

       GS Trần Chung Ngọc

TÀI LIỆU THAM KHẢO (SELECTED READINGS)

Aarons, Mark & Loftus, John, “Unholy Trinity: How the Vatican’s Nazi Networks Betrayed Western Intelligence to the Soviets” St. Martin’s Press, New York, 1991.

Akerley, Ben Edward, “The X-Rated Bible: An Irreverend Survey of Sex in The Scriptures”, AA Press, Austin, Texas, 1989.

Alves, Rubem, “Protestantism and Repression”, orbis Books, New York, 1979.

Aterin, Karl Otmar Von, “The Papacy and the Modern World”, Weidenfeld & Nicholson, London, 1970.

Baldwin, Louis, “The Pope and the Mavericks”, Prometheus Books, New York, 1988.

Ball, W.P. Foote, G.W. et al., “The Bible Handbook”, AA Press, Austin, Texas, 1986.

Batchelor, Stephen, “The Awakening of the West: The Encounter of Buddhism and Western Culture”, Parallax Press, Berkeley, CA, 1994.

Beeson, Trevor & Pearce, Jenny, “A Vision of Hope: The Churches and Change in Latin America”, Fortress Press, Philadelphia, 1984.

Nino Lo Bello, “The Vatican Empire”, Triden Press, New York, 1968.

Berry, Jason, “Lead Us Not to Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children”, Doubleday, New York, 1992.

Berryman, Phillip, “Liberation Theology”, Pantheon Books, New York, 1987.

Bhushan, Shashi, “Fundamentalism: A Weapon Against Human Aspiration”, Pradeep Kumar, India, 1986.

Binns, L. Elliott, “The Decline and Fall of the Medieval Papacy”, Barnes & Nobles Book, New York, 1995.

Blanshard, Paul ,

  1. American Freedom and Catholic Power”, Beacon Press, Boston, 1950;

  2. Communism, Democracy, and Catholic Power”, Beacon Press, Boston,1951.

Boff, Leonardo,

  1. Church: charism & Power”, Crossroad, New York, 1986;

  2. Faith on the Edge”, Orbis Books, New York, 1989.

Burkett, Elinor & Bruni, Frank, “A Gospel of Shame: Children, Sexual Abuse, and the

Catholic Church”, Viking, New York, 1993.

Bussmann, Clauss, “Who do you say? Jesus Christ in Latin American Theology”, Orbis Book, New York, 1985.

Chu Bằng Lĩnh, “Đảng Cần Lao”, NXB Mẹ VN, CA., 1993.

Chu Văn Trình,

  1. Gia Tô Thực Dân Sử Liệu”, Florida, 1990;

  2. Sách Lược Gia Tô Thực Dân Thống Trị Toàn Cầu”, Florida, 1990;

  3. Gia Tô Thực Dân Chính Sử”, Florida, 1993;

  4. “Gián Điệp Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ”, Florida 1996.

Cao Huy Thuần, “Les Missionaires et la Politique Coloniade Francaise au Vietnam (1857-1914)”, Yale Southeast Asia Studies, 1990.

Carmichael, Joel, “The Birth of Christianity: Reality and Myth”, Doreset Press, New York, 1989.

Cox, Harvey,

  1. The Silencing of Leonardo Boff: The Vatican and the Future of World Christianity”, Meyer-stone Books, Oak-Park, IL., 1988;

  2. Many Mansions: A Christian’s Encounter with other Faiths”, Y Collins, London, 1988.

Cross, Colin, “Who was Jesus”, Barnes & Nobles, New York, 1970.

Croucher, Paul “Buddhism in Australia, 1848-1988”, New South Wales University Press, AU, 1989.

Daleiden, Joseph L., “The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy”, Promethueus Books, New York, 1994.

Dalian, Robert, “Dieu Contre dieu”, dité par l’HOmme Lucide, France, 1974.

Davies, J.G., “The Early Christian Church”, Barnes & Nobles Books, New York, 1994.

Dunn, Joseph, “The Rest of Us Catholics: The Loyd Opposition”, Templegate Publishers, Illinois, 1994.

Đỗ Mậu, “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Văn Nghệ Publishing Co., CA, 1993.

Eaton, Frederick Heese, “Scandalous Saints”, Own Pub., CA, 1994.

Ellul, Jacques, “The Subversion of Christianity”, William B. Eerdmans Publishing Company, Michigan 1986.

Ferm, Deane William, “Third World Liberation Theologies”, Orbis Book, New York, 1987.

Foote, G.W., “Bible Romances”, The pioneer Press, London, 1922.

Forest, Alain & Tsuboi, Yoshiharu, “Catholicisme et Sociétés Asiatiques”, L’Harmattan, Tokyo, 1988.

Friedman, Richard Elliott, “Who Wrote the Bible?” Harper & Row, Publishers, New York, 1989.

Gauvin, Marshall J., “One Hunded Contradictions in the Bible”, The Truth Seeker Company, New York, 1922.

Gibbon, Edward, “The Decline and Fall of the Roman Empire”, Hartcourt, Brace and Company, New York 1960.

Granfield, Patrick, “The Limits of the Papacy”, Crossroad, New York, 1990.

Green, Ruth Hurmence,

  1. The Book of Ruth”, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1982;

  2. The Born Again Skeptic’s Guide to the Bible”, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979.

Greenleaf, Richard E., “The Roman Catholic Church in Colonial Latin America”, Alfred A. Knopf, New York, 1971.

Guillemin, Henri, “Malheureuse Église”, Éditions Du Seuil, Paris, 1992.

Hammer, Richard, “The Vatican Connection”, Chanter Books, New York, 1983.

Thích Nhất Hạnh,

  1. The Miracle of Mindfulness”, Beacon Press, Boston, 1987;

  2. Living Buddha, Living Christ”, Riverhead Books, New York, 1995.

Hanson, Eric O., “The Catholic Church in World Politics”, Princeton University Press, New Jersey, 1987.

Harris, Michael, “Unholy Orders, Tragedy at Mount Cashel”, Penguin Books Ltd., Middlesex, England, 1990.

Hayward, F.H., “Questions for Catholics: A Brief inquiry into the Catholic Argument” Watts & Co., London, 1928.

Hofmann, Paul, “O Vatican! A slightly Wicked View of the Holy See”, Congdon & Weed Inc., New York, 1984.

Humphreys, Christmas, “Zen Comes West”, Allen & Unwin, London, 1960.

Ingersoll, Robert G.,

  1. Some Mistakes of Moses”, Freethought Pres Association, New York, 1967;

  2. “Sixty Five Press Inverviews”, AAP, Austin, Texas, 1983, John Paul II, “Crossing the Threshold of Hope”, Alfred A. Knof, New York, 1994.

Kavanaugh, James “A Modern Priest Looks at his Outdated Church”, Pocket Books, New York, 1968.

Kersten, Holger, “Jesus Lived in India: His unknown Life Before & After the Crucifixion”, Element Books Limited, Rockport, MA, 1994.

Kersten, Holger & Gruber, Elmar R., “The Jesus Conspiracy: The Turin & The Truth About the Resurrection”, Barnes & Nobles Books, New York, 1995.

Las Vergnas, Georges, “Pourquoi J’ai Quitté L’Église Romaine”, Imprimerie Les Comtois, Besancon, France, 1956.

Lê, Nicole-Dominique, “Les Missions-Étrangères et la Pénétration Francaise au Viet Nam”, Mouton & Co., France, 1975.

Lê Trọng Văn,

  1. Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm”, NXB Mẹ Việt Nam, CA, 1989;

  2. Bước qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng hay Bến Bờ Ảo Vọng”, San Diego, CA., 1996.

  3. Pétrus Trương Vĩnh Ký: Tuyển Tập”, San Diego, CA., 1996.

Lea, Henry Charles “The Inquisition of the Middle Ages”, Barnes & Nobles Books, New York, 1993.

Lernoux, Penny,

  1. Cry of the People”, Penguin Books, New York, 1991;

  2. People of God”, Penguin Books, New York, 1989.

Lewis, Joseph, “Ingersoll: The Magnificent”, AA Press, Texas, 1983.

Manhattan, Avro,

  1. The Vatican’s Holocaust”, Ozark Books, Springfield, MO., 1986;

  2. The Vatican Billions”, Paravision Books, London, 1972;

  3. Catholic Imperialism and World Freedom”, Watts & Co., London, 1952;

  4. Vietnam: Why Did We Go?”, Chick Publications, CA., 1984.

Martin, Malachi,

  1. The Keys to this Blood”, A Touchtone Book, New York, 1990;

  2. Rich Church, Poor Church”, G.P. Putnam’s Sons, New York, 1984;

  3. The Decline and Fall of the Roman Church”, Bantam Books, New York, 1983.

Martin, Michael, “The Case Against Christianity”, Temple University Press, Philadelphia, 1991.

McCabe, Joseph,

  1. The Vatican’s Last Crime: How the Black International Joined the World-Plot Against Freedom, Liberalism, and Democracy”, Haldeman-Julius Co., Kansas, 1941;

  2. Rome Puts the Blight on Culture: The Roman Church the Poorest in Culture and Richest in Crime”, Haldeman-Julius Publications, Kansas 1942;

  3. The Church: The Enemy of the Workers. Rome is the natural Ally of All Exploiters”, Haldeman-Julius Publications, Kansas, 1942;

  4. The Truth about the Catholic Church”, Haldeman-Julius Publications, Kansas, 1926;

  5. The Totalitarian Church of Rome: Its Fuehrer, Its Gauleiters, Its Gestapo, and Its Money-Box”, Haldeman-Julius Publication Kansas, 1942.

McLoughlin, Emmet

  1. American Culture and Catholic Schools”, Lyle Stuart, Inc., New York, 1960;

  2. People Padre”, Beacon Press, Boston, 1961;

  3. “Crime and Immorality in the Catholic Church”, Lyle Stuart, Inc., New York, 1962;

  4. Letters to an Ex-Priest”, Lyle Stuart, Inc., New York, 1965.

Morlat, Patrice, “La Répression Coloniate au Vietnam (1908-1940)”, L’Harmattan, Tokyo, 1990.

Nguyễn Xuân Thọ, “Histoire de la Pénétration Francaise au Viet Nam (1858-1897)”, Trung Tâm Văn Hóa Linh Sơn, Hl., 1993.

Nguyệt Đam & Thần Phong, “Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Gia Đình Trị Ngô Đình Diệm”, Tác Giả xuất bản, Sài Gòn, 1964.

Nichols, Peter “The Politics of the Vatican”, Frederick A. Praeger, Publishers, New York, 1968.

Obianyido, Anene, “Christ or Devil? The Corrupt Face of Christianity in Africa”, Delto Publications Limited, 1988.

O’Brien, George Dennis, “God and the New Haven Railway, and Why Neither One is Doing very well”, Beacan Press, Boston 1986.

Padchi, “The Holy Humbugs”, Arivagam, Sri Lanka.

Paris, Edmond, “Genocide in Satellite Croatia: 1941-1945”, The American Institute for Balkan Affairs, Chicago, 1961.

Peters, Edward, “Inquisition”, the Free Press, New York, 1988.

Pigott, Adrian, “Freedom’s Foe – The Vatican”, the Pioneer Press, 1965.

Plaidy, Jean, “The Spanish Inquisition”, Barnes & Nobles Books, New York, 1994.

Rajneesh, B.S., “Priests & Politicians: The Mafia of the Soul”, The Rebel Publishing House, cologne, Germany, 1987.

Rausch, David A., “A Legacy of Hatred: Why Chistians Must not forget the Holocaust”, Moody Press, Chicago, 1984.

Remsburg, John E., “False Claims”, The Truth Seeker Company, New York, 1928.

Rice, David “Shattered Vows, Priests Who Leave”, William Morrow & Co., Inc., New York, 1990.

Robinson, John J., “Dungeon, Fire and Sword”, M. Evans & Company In., New York, 1991.

Sangharakshita, “Buddhism & the West: The Intergration of Buddhism Into Western Society”, Windhorse Publications, Glasgow, Austratlia, 1992.

Schoenherr, Richard & Young, Lawrence, “Full Pews and Empty Altars”, The Universtity of Wisconsin Press, WI., 1993.

Seldes, George, “The Vatican Crisis”, Julian Messner, Inc., New York, 1945.

Schonfield, Hugh J., “The Passover Plot”, Bantam Books, New York, 1966.

Sipe, A.W. Richard, “Sex, Priests, and Power: An Anatomy of a Crisis”, Brunner/Mazel Publishers, New York, 1995.

Smith, Wilfred Cantwell, “The Faith of Other Men”, A Mentor Book, New York, 1965.

Thiering, Barbara “Jesus and the Riddle of the Dead Sea Scrolls”, Harper, San Francisco, 1988.

Trần Tam Tĩnh, “Dieu et César: Les Catholiques dans L’Histoire du Vietnam”, Sudestasie, Paris, France, 1976.

Treece, Henry, “The Crusades”, A Mentor Book, New York, 1964.

Tuck, Patrick J.N., “French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914: A Documentary Survey”, Liverpool University Press, G.B., 1987.

Voas, David, “The Bad New Bible: The New Testatment”, Prometheus Books, New York, 1995.

Wallace-Hadrill, J.M. “The Barbarian West: The Early Middle Ages”, Harper Torch Books, New York, 1960.

Yamamoto, Kosho, “Buddhism in Europe”, Kurinbunko, 1967.

  •  

“Le Cléricalisme: Voilà l’Ennemi! Les Meilleures Pensées Anticléricales de Ferdinand Buisson, Léon Gambetta, Émile Combes, Vicor Hugor, et al”, Herblay (Seine et Oise), Éditions de l’Idée Libre, 1937.

“Holy Bible”, The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982.

“The Holy Bible”, New International Version, Internatioanl Bible Society, CO., 1984.

KiTô Giáo: Từ Thực Chất đến Huyền Thoại”, NXB Văn Hóa, USA 1996.

Thánh Kinh: Cựu Ước và Tân Ước (Bản Diễn Ý)”, Văn Phẩm Nguồn Sống Phát Hành, 1994.

************

***

PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ MỚI

PHẬT LỊCH 2540 – GIAO ĐIỂM

HOA KỲ 1996

Tuyển tập 1

Với các bài viết của Minh Chi - Huyền Cương – Võ Đình Cường – Thích Trung ĐạoThích nữ Karuna Dharma – Bùi Mộng Hùng - Trần Tuấn Mẫn – Đào Nguyên - Trần Chung Ngọc - Hồng Ngọc - Quán Như – Lý Nguyên Quân – Lê Văn Tâm – Cao Huy Thuần – Thích Chơn Thiện – Tinh Tiến.

*

In lần thứ nhất tại California, Hoa Kỳ, tháng 12/1996.

Trách nhiệm thực hiện: Tôn Thất Duy, Tâm Hòa, Thanh Nguyên, Hoàng Phấn, Trung Phong.

Phụ trách biên tập: Trần Văn Chi, Phan Mạnh Lương, Đặng Phương, Hồng Quang, Đỗ Hữu Tài.

*

Sửa bản vi tính lần 2, tháng 8/2004: Nguyên Định.

 ****

************


 

* Và có thể nói thêm: Giáo Hội này làm được những điều mà Giáo Hội kia không thể làm được; và vì vậy, những đóng góp đó có tính cách bổ sung cho nhau chứ không trái chống nhau.

* A mon avis, la principale illusion consiste à penser qua la Vérité est le résultat ultime d’un processus de pensée. L’acte de pensée commence après qu’une experience de vérité a fait mouche (Correspondance 1949-71)

* Trần Văn Giàu, Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam, in trong Phật GiáoLịch sử Tư Tưởng Việt Nam, Viện Triết Học XH, H, 1986, tr. 15

* Phần tục ngữ, ca dao được tham khảo và trích từ: Tục Ngũ và Phong Dao, 2 tập của Nguyễn Văn Ngọc. Mặc Lâm, S, 1968 ; Tục Ngữ Ca Dao Dân Ca Việt Nam của Ngọc Phan, nhà xb. KHXH, H, 1978.

* Thoại đầu thiền: “Thoại đầu là một câu nói hay một mẩu đối thoại có tác dụng làm thúc đẩy hay phát khởi sự đạt ngộ nơi tâm tư người thiền giả…” (Nguyễn Lang, VNPGSL T1, sđd, tr. 109)

* Trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 1930. Keynes hứa hẹn một thiên đàng kinh tế cho con cháu chúng ta trong đó ai cũng giàu có.Vừa hứa hẹn và đồng thời vừa khuyến cáo: nhưng thời kỳ mà ai cũng có tiền rừng bạc biển đó, chưa tới. Ít nhất là 100 năm nữa chúng ta phải giả vờ với chính chúng ta và với kẻ khác là công bằngngu dại và mánh mun là công bằng; bởi vì mánh mun thì có ích trong khi công bằng thì không có ích lợi. Tham lam, cho vay kiếm lời nhiều và cẩn trọng phải được xem là những thần linh trong một khoảng thời gian nữa. Nguyên văn: The time for all (to be rich) this is not yet. For at least another one hundred years we must pretend to ourselves and everyone that fair is fould and foul is fair, for foul is useful and fair is not. Avarice and usury and precaution must be our gods for a little longer still.

** Tri chỉ như hậu hữu định, định nhi hậu năng an, an như hậu năng đắc!

*** If human vices such as greed and envy are systematically cultivated, the enevitable result is nothing less than a collapse of intelligence. A man driven by greeed and envy loses the power of seeing things as they really are… If the whole societies become infected by these vices, they may indeed achieve astonishing things but they become increasingly incapable of solving the most elementary problems of everyday existence, Schumacher, ibid, p27. Seeing things as they are (không gì hơn là chính kiến trong bát chánh đạo).

* As economics deal with man in his environment, we may expect that meta-economics consists of two parts-one dealing with man, and the other dealing with the environment. In another words, we may expect that economics derive from a study of man, and that it must derive at least a larger part of its methodology from a study of nature (Sách đã dẫn p.42).

** “The smallness of the contribution that the most conspicuous developments of economics in the last quarter of the century have made to the solution of the most pressing problems of the times.” Among these problems he lists: “checking the adverse effects on the environment and the quality of life of industrialism, population growth and urbanism”. Sách đã dẫn, p.43.

*** That economics, as currently constituted and practiced, acts as the most effective barrier against the understanding of these problems, owing to it addiction to purely quantitative analysis and its timorous refusal to look into the real nature of things. (op. cit)

* Các trí thức Phật Tử thế giới đã cho thấy khả năng đóng góp của Phật Giáo vào vấn đề bảo vệ môi sinh trong quyển Dharma Gaya, nhiều tác giả, do Allan Hunt Badiner hiệu đính, Đức Đạt Lai Lạt Ma giới thiệu, do nhà xuất bản Parallax ấn hành vào năm 1990).

* xem tập truyện Tình Người của Tâm QuánĐời Sống của Một Tăng Sĩ của TT Bảo Lạc và ĐĐ Như Điển; Tăng Già Việt Nam của Thích Trí Quang.

** Xem thêm Wapola Rahula. What the Buddha Taught, London 1978, Gordon Fraser, 1978 p.p 68-76

* If…we can afford some unemployment in the interest of stability, then we can afford to give thos who are unemployed the goods that enable them to sustain their accustomed standard of living. Ibid, trang 51.

** Buddhist economics is the systematic study of how to attain given ends with the mnimum means. Ibid p.53

*** He does not seem to mind how much mineral matter he wastes and, far worse, how much living matter he destroys… This results in a harsh and improvident treatments upon which we ultimately depend, such as water and trees. Ibid, p54.

* Để có một bức tranh đầy đủ về phát triển kinh tế ngược đầu ở Thái, xin đọc một Phật tử dấn thân, Sulak Sivaraksa, Seeds of Peace, Parallax, Berkeley California, 1992, chương Politics of Greed, pp 3-44

** The industrial society is fundamentally unstable… The conditions which offer individual freedom are unstable in their ability to avoid the conditions which impose rigid organization and totalitarian control. Ibid, p.56.
(Nguồn: Phiên bản cũ: http://old.thuvienhoasen.org)


Xem tiếp tập 2: http://thuvienhoasen.org/a26304/phat-giao-trong-the-ky-moi-tap-2 


Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.