Kinh Thực Tập Quán Niệm

12/06/20143:47 CH(Xem: 7177)
Kinh Thực Tập Quán Niệm
KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG
Thích Nhất Hạnh Việt dịch
Thể kệ: Nguyên Định (chữ đậm)

Kinh Thực Tập Quán Niệm

Công phu thực tập chỉ và quán trong khi đi và đứng, khi ngồi cũng như nằm, không lúc nào bỏ quên, sẽ làm phát sinh ra ánh sáng chiếu rọi trong thế gian, như mây tan trăng hiện.

 

Duy Niệm Phẩm Pháp Cú Kinh đệ lục
惟 念 品 法 句 經 第 六
Kinh Thực Tập Quán Niệm
Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng
Phẩm thứ 6

 

Phẩm này tuy ghi là có 12 bài kệ, nhưng thật ra là có tới 13 bài. Bài thứ 1 nói về phép quán niệm hơi thở. Bài thứ 2 nói về hai yếu tố của sự thực tập thiền định, đó là chỉ và quán. Chỉ là dừng lại, là làm cho lắng dịu, là tập trung tâm ý. Quán là nhìn sâu vào đối tượng mình đang quán chiếu: đó có thể là hơi thở, là hình hài, là cảm thọ, là tâm ý, hoặc là các pháp đối tượng của tâm ý. Bài thứ 4 nói về quán thân, bài thứ 7 nói về quán tâm, bài 11, 12 và 13 nói về các phép tùy niệm: niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Vô Thường và niệm Bố Thí. Ta để ý thì không có niệm Thiên. Bài thứ 13 cũng nói tới ba phép niệm căn bản để đi tới giải thoát (tam giải thoát môn) là quán Không, quán Vô tướng và quán Vô nguyện, tức là Vô tác.

Bài kệ thứ 7 lấy lại hai câu chót của bài kệ thứ 6 (Nhược năng ngộ ý niệm, tri giải nhất tâm lạc) và thêm vào hai câu nữa (ưng thời đẳng hành pháp, thị độ sinh tử não). Vì vậy cho nên trong khi sao chép, người sao chép đã bỏ mất hai câu lặp lại, tưởng đó là dư thừa, cho nên trong nguyên văn chữ Hán, bài kệ thứ 6 có tới sáu dòng thay vì bốn dòng. Vì vậy đếm lại chỉ thấy có 12 bài kệ trong khi đó thực sự là 13. Bài kệ thứ bảy như sau:

Nhược năng ngộ ý niệm

Tri giải nhất tâm lạc

Ưng thời đẳng hành pháp

Thị độ lão tử não.

Sở dĩ ta phục hồi được bài kệ này là nhờ có kinh Pháp Tập Yếu Tụng. Kinh này đã sử dụng bản dịch của kinh Pháp Cú và trong khi sao chép đã không đánh mất hai câu tưởng như là trùng lặp mà không phải trùng lặp.

Phẩm này liệt kê được những phép thiền quán căn bản của đạo Bụt nguyên thỉ, được sử dụng chung cho các tông phái Phật giáo: Duy có phép tu Từ quán chưa nhắc tới, và sẽ được nhắc tới ở phẩm sau.

 

Bài kệ 1

Xuất tức nhập tức niệm                 出  息  入  息  念

Cụ mãn đế tư tánh                         具  滿  諦  思  惟

Tùng sơ cánh thông lợi                  從  初  竟  通  利

An như Phật sở thuyết                  安  如  佛  所  說

Phép tu quán niệm hơi thở vào ra nếu làm cho đến nơi đến chốn thì có thể đem lại sự thực chứng Chân Đế. Ngay buổi đầu thực tập cho đến khi thành tựu viên mãn luôn luôn có sự thông thoáng lợi ích. Phép thực tập này sẽ đem lại sự bình an như Bụt đã nói.

Phép tu quán niệm

Hơi thở vào ra

Đến nơi đến chốn

Thực chứng chân đế

Ngay đầu buổi tập

Đến khi thành tựu

Thông thoáng lợi ích

Đem lại bình an

Như Bụt đã nói.

 

 

Bài kệ 2

Thị tắc chiếu thế gian                    是  則  照  世  間 

Như vân giải nguyệt hiện           如  雲  解  月  現

Khởi chỉ học tư duy                       起  止  學  思  惟

Tọa ngọa bất phế vong                  坐  臥  不  廢  忘

Phát khởi công phu thực tập chỉ và quán trong lúc ngồi cũng như trong lúc nằm, không lúc nào bỏ quên, sẽ làm phát sinh ra ánh sáng chiếu rọi trong thế gian, như mây tan trăng hiện.

Phát khởi công phu

Thực tập chỉ quán

Lúc ngồi lúc nằm

Không lúc nào dừng;

Phát sinh ánh sáng

Chiếu rọi thế gian

Mây tan trăng hiện.

 

 

 Bài kệ 3

Tỳ-kheo lập thị niệm                      比  丘  立  是  念

Tiền lợi hậu tức thắng                    前  利  後  則  勝

Thủy đắc chung tất thắng             始  得  終  必  勝

Thệ bất đổ sanh tử                         逝  不  覩  生  死

Vị tỳ kheo thiết lập được các pháp chánh niệm này sẽ được hưởng lợi lạc ngay trong lúc ban đầu thực tập, sau đó thì công phu càng ngày càng trở nên vững chãi. Hoa trái của công phu cũng càng ngày càng trở nên thù thắng. Công phu này sẽ giúp bậc hiền giả vượt qua được dòng sinh tử.

Tỳ kheo tu tập

Các pháp chánh niệm

Lợi lạc ban đầu

Ngày càng vững chãi

Hoa trái công phu

Ngày càng thù thắng

Vượt dòng sinh tử.

 

 

Bài kệ 4

Nhược kiến thân sở trụ                 若  見  身  所  住

Lục cánh dĩ vi tối                            六  更  以  為  最

Tỳ-kheo thường nhất tâm              比  丘  常  一  心

Tiện tự tri nê hoàn                          便  自  知  泥  洹

 Thành tựu được phép quán niệm về thân rồi thì hành giả sẽ nhiếp niệm được cả sáu giác quan. Duy trì được trạng thái nhất tâm, thì vị tỳ khưu có thể thực chứng được Niết Bàn.

Thành tựu quán thân

Nhiếp niệm sáu giác

Duy trì nhất tâm

Thực chứng Níết bàn.

 

 

Bài kệ 5

Dĩ hữu thị chư niệm                       已  有  是  諸  念

Tự thân thường kiến hành            自  身  常  建  行

Nhược kỳ bất như thị                    若  其  不  如  是

Chung bất đắc ý hành                   終  不  得  意  行

 Thực tập thành công các pháp quán niệm ấy thì tự thân sẽ thường xuyên đạt được trạng thái kiện hành. Chưa được như thế thì vẫn còn chưa cảm thấy thoải mái hoàn toàn.

 Thành tựu quán niệm

Tự thân kiện toàn

Chưa được như thế

Không thấy thoải mái.

 

 

Bài kệ 6

Thị tùy bổn hành giả                      是  隨  本  行  者

Như thị độ ái lao                         如  是  度  愛  勞

Nhược năng ngộ ý niệm                若  能  悟  意  念

Tri giải nhất tâm lạc                       知  解  一  心  樂

Ai thực tập theo được các pháp môn căn bản này thì có thể vượt thoát được biển trần lao của ái dục. Ai có khả năng nhận diện được những tâm hành của mình (khi chúng phát hiện) sẽ có khả năng hiểu được (bản chất) của các tâm hành ấy và đạt tới được niềm hoan lạc do sức định của nhất tâm đem tới.

 

Thành tựu pháp môn

Vượt biển trần lao

Nhận diện tâm hành

Hiểu được bản chất

Nhất tâm an lạc.

 

 

Bài kệ 7

Nhược năng ngộ ý niệm             若  能  悟  意  念

Tri giải nhất tâm lạc                    知  解  一  心  樂

Ưng thời đẳng hành pháp             應  時  等  行  法

Thị độ lão tử não                            是  度  老  死  惱

 Nếu có khả năng nhận diện được các tâm hành thì sẽ đạt tới giải thoát và hưởng được những pháp lạc do cái định của nhất tâm đem lại. Nếu thực tập được đúng lúcđều đặn thì sẽ vượt thoát được phiền não trong cuộc sinh tử.

Nhận diện tâm hành

Đạt tới giải thoát

Nhất tâm an lạc;

Thực tập đúng lúc

Vượt thoát phiền não.

 

 

Bài kệ 8

Tỳ-kheo ngộ ý hành                       比  丘  悟  意  行

Đương lệnh ưng thị niệm              當  令  應  是  念

Chư niệm sanh tử khí                    諸  念  生  死  棄

Vi năng tác khổ tế                          為  能  作  苦  際

 Vị tỳ kheo ý thức được các tâm hành và làm cho tâm mình tương ưng với chánh niệm thì sẽ có khả năng buông bỏ được các ý niệm, như ý niệm sinh tử v.v… và vượt thoát được thế giới khổ đau.

Ý thức tâm hành

Đi cùng chánh niệm

Buông bỏ ý niệm

Vượt thoát khổ đau.

 

 

Bài kệ 9

Thường đương thính vi diệu         常  當  聽  微  妙

Tự giác ngộ kỳ ý                             自  覺  悟  其  意

Năng giác giả vi hiền                     能  覺  者  為  賢

Chung thủy vô sở hội                    終  始  無  所  會

Ta hãy thường nên học hỏi giáo pháp vi diệu (của Bụt) và giác ngộ được ý chỉ (thâm sâu) của các giáo pháp ấy. Có giác ngộ như thế mới có thể gọi là bậc hiền giả, trước sau không còn bị sự sợ hãi trấn ngự.

Học hỏi giáo pháp

Giác ngộ ý chỉ;

Gọi bật hiền giả

Vượt mọi sợ hãi.

 

 

Bài kệ 10

giác ý năng ưng                         以  覺  意  能  應

Nhật dạ vụ học hành                     日  夜  務  學  行

Đương giải cam lồ yếu                   當  解  甘  露  要

Lệnh chư lậu đắc tận                     令  諸  漏  得  盡

Để tâm tương ưng với chánh niệm, đêm ngày thực tập chuyên cần như thế, thì sẽ liễu giải được yếu chỉ Cam Lộ và làm cho tất cả các lậu hoặc chấm dứt.

 

Giữ tâm chánh niệm

Chuyên cần thực tập

Hiểu rõ Cam lộ

Chấm dứt lậu hoặc.

 

 

Bài kệ 11

Phu nhân đắc thiện lợi                   夫  人  得  善  利

Nãi lai tự quy Phật                         乃  來  自  歸  佛

Thị cố đương trú dạ                    是  故  當  晝  夜

Thường niệm Phật Pháp Chúng   常  念  佛  法  眾

 Ai có được cơ duyên lành và cơ hội thuận lợi thì nên thực tập ngay phép quy y Bụt, đêm ngày niệm Bụt, niệm Phápniệm Tăng.

Duyên lành thuận lợi

Tự quy y Bụt

Đêm ngày niệm Bụt

Niệm Pháp niệm Tăng.

 

 

Bài kệ 12

Kỷ tri tự giác ý                                己  知  自  覺  意

Thị vi Phật đệ tử                             是  為  佛  弟  子

Thường đương trú dạ niệm           常  當  晝  夜  念

Phật dữ Pháp cập Tăng                 佛  與  法  及  僧

 Đã là một người con Bụt thì phải nuôi dưỡng tâm tự giác, đêm ngày thực tập phát khởiduy trì chánh niệm về Bụt, Pháp và Tăng.

Dưỡng tâm tự giác

Là người con Bụt

Đêm ngày niệm Bụt

Niệm Pháp niệm Tăng.

 

 

Bài kệ 13

Niệm thân niệm phi thường          念  身  念  非  常

Niệm giới bố thí đức                      念  戒  布  施  德

Không bất nguyện vô tướng         空  不  願  無  相

Trú dạ đương niệm thị                   晝  夜  當  念  是

 Hãy tinh chuyên thực tập các phép quán niệm về Thân, về Vô Thường, về Giới, về Bố Thí, về Không, về Vô Tướng và về Vô Nguyện, đêm cũng như ngày.

Chuyên niệm về Thân,

Vô thường, Vô tướng

Về Giới, về Không

Bố thí, vô nguyện

Đêm cũng như ngày.








Tạo bài viết
18/05/2010(Xem: 150497)
16/05/2010(Xem: 93090)
13/03/2017(Xem: 9609)
19/03/2016(Xem: 23156)
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…