- Viết về kinh Pháp Cú Hán Tạng
- Bài tựa Kinh Pháp Cú
- Kinh Quán Chiếu Vô Thường
- Kinh Học Hỏi và Thực Tập
- Kinh Mở Rộng Tầm Hiểu Biết
- Kinh Bồi Đắp Niềm Tin
- Kinh Nghiêm Trì Giới Luật
- Kinh Thực Tập Quán Niệm
- Kinh Nuôi Lớn Tình Thương
- Kinh Thực Tập Ái Ngữ
- Kinh Đối Chiếu
- Kinh Tinh Chuyên
- Kinh Điều Phục Tâm Ý
- Kinh Hoa Hương
- Kinh Người Ngu Muội
- Kinh Bậc Minh Triết
- Kinh Vị La Hán
- Kinh Vượt Thắng
- Kinh Quả Báo
- Kinh Bất Hại
- Kinh Tuổi Già
- Kinh Thương Thân
- Kinh Thoát Tục
- Kinh Phật Bảo
- Kinh An Lạc
- Kinh Luyến Ái
- Kinh Chế Ngự Phẫn Nộ
- Kinh Thanh Lọc Tâm Ý
- Kinh Phụng Trì
- Kinh Con Đường
- Kinh Tuyết Trên Đỉnh Núi
- Kinh Địa Ngục
- Kinh Điều Phục Chính Mình
- Kinh Chiếc Lưới Ái Ân
- Kinh Lợi Dưỡng
- Kinh Người Xuất Sĩ
- Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại
- Kinh Thoát Vòng Sinh Tử
- Kinh Đời Sống Đạo Lý
- Kinh Vị Phạm Chí
- Kinh Điềm Lành Lớn Nhất
Thích Nhất Hạnh Việt dịch
Thể kệ: Nguyên Định (chữ đậm)
Kinh Vị La Hán
Tâm ý đã thanh tịnh, chánh niệm đã đạt, không còn vướng vào một tham dục nào nữa, vị A La Hán qua được vượt sâu u mê như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ.
Kinh Vị La Hán
Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng
Phẩm thứ 15
Phẩm này có 11 bài tụng. La Hán là bậc đã được giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy, đáng được mọi người tôn kính. Tiếng Pali là arahanta. Bài kệ thứ tư tả vị La Hán như con chim trở về hư không, cao bay vô ngại. Bài thứ 7 nói vị La Hán bình tĩnh như đất, bất động như núi. Bài thứ 2 ví vị La Hán như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ. Bài thứ 10 nói nơi đâu có một vị A La Hán thì nơi ấy trở nên mát mẻ linh thiêng. Bài thứ nhất định nghĩa vị A La Hán là người đã lìa bỏ mọi ưu tư hoạn nạn, thoát ra ngoài mọi hệ lụy, tháo tung được mọi sợi dây ràng buộc, đạt tới sự mát mẻ (Niết bàn), không còn bị các cơn sốt phiền não thiêu đốt.
Bài kệ 1
Khứ ly ưu hoạn 去 離 憂 患
Thoát ư nhất thiết 脫 於 一 切
Phược kết dĩ giải 縛 結 已 解
Lãnh nhi vô noãn 冷 而 無 煖
Lìa bỏ mọi ưu tư hoạn nạn, thoát ra ngoài mọi hệ lụy, tất cả các sợi dây ràng buộc đều đã được tháo tung, mát mẻ, không còn bị một cơn sốt não phiền nào đốt cháy nữa.
Lìa mọi ưu tư
Thoát mọi hệ lụy
Ràng buộc tháo tung
Không còn cơn sốt
Phiền não đốt cháy.
Bài kệ 2
Tâm tịnh đắc niệm 心 淨 得 念
Vô sở tham lạc 無 所 貪 樂
Dĩ độ si uyên 已 度 癡 淵
Như nhạn khí trì 如 鴈 棄 池
Tâm ý đã thanh tịnh, chánh niệm đã đạt, không còn vướng vào một tham dục nào nữa, vị A la hán đã qua được vực sâu u mê như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ.
Tâm ý thanh tịnh
Chánh niệm đã đạt
Không vướng tham dục
Vượt vực u mê
Như con thiên nga
Rời bỏ ao hồ.
Bài kệ 3
Lượng phước nhi thực 量 腹 而 食
Vô sở tạng tích 無 所 藏 積
Tâm không vô tưởng 心 空 無 想
Độ chúng hành địa 度 眾 行 地
Ăn uống chừng mực, không chất chứa của cải, tâm ý rỗng rang không còn vọng tưởng, vượt qua được mọi hành và mọi địa.
Ăn uống chừng mực
Không dồn của cải
Tâm ý rỗng rang
Không còn vọng tưởng
Vượt qua mọi nơi.
Bài kệ 4
Như không trung điểu 如 空 中 鳥
Viễn thệ vô ngại 遠 逝 無 礙
Thế gian tập tận 世 間 習 盡
Bất phục ngưỡng thực 不 復 仰 食
Như con chim bay về hư không, cao bay vô ngại, các tập khí thế gian đã chấm dứt, không còn lo lắng về chuyện ăn uống.
Chim về hư không
Cao bay vô ngại
Chấm dứt tập khí
Không lo ăn uống.
Bài kệ 5
Hư tâm vô hoạn 虛 心 無 患
Dĩ đáo thoát xứ 已 到 脫 處
Thí như phi điểu 譬 如 飛 鳥
Tạm hạ triếp thệ 暫 下 輒 逝
Tâm ý thảnh thơi, không còn hoạn nạn, đã tới được chốn giải thoát như con chim bay tạm thời đáp xuống mà đi.
Tâm ý thảnh thơi
Không còn hoạn nạn
Tới chốn giải thoát
Như con chim bay
Tạm thời đáp xuống.
Bài kệ 6
Chế căn tùng chỉ 制 根 從 止
Như mã điều ngự 如 馬 調 御
Xả kiêu mạn tập 捨 憍 慢 習
Vi thiên sở kính 為 天 所 敬
Điều phục các căn, làm cho an tĩnh như con ngựa hay, buông bỏ được mọi tập khí kiêu mạn, cả chư thiên cũng phải kính ngưỡng.
Điều phục các căn
Làm cho an tĩnh
Như thuần con ngựa
Buông bỏ tập khí
Chư thiên kính ngưỡng.
Bài kệ 7
Bất nộ như địa 不 怒 如 地
Bất động như sơn 不 動 如 山
Chân nhân vô cấu 真 人 無 垢
Sanh tử thế tuyệt 生 死 世 絕
Không giận, bình tĩnh như đất, bất động như núi, đã là vị chân nhân thì không còn bị cấu nhiễm, vì sinh tử và thời gian đã chấm dứt.
Bình tĩnh như đất
Bất động như núi
Chân nhân không nhiễm
Sinh tử không còn
Thời gian đã hết.
Bài kệ 8
Tâm dĩ hưu tức 心 已 休 息
Ngôn hành diệc chánh 言 行 亦 正
Tùng chánh giải thoát 從 正 解 脫
Tịch nhiên quy diệt 寂 然 歸 滅
Tâm tư ngưng nghỉ, ngôn và hành cũng thế, đi theo con đường chánh đạo, đã được giải thoát, yên lặng và trở về Niết Bàn.
Tâm tư ngưng nghỉ
Ngôn hành cũng thế
Theo đường chánh đạo
Giải thoát yên lặng
Trở về Niết bàn.
Bài kệ 9
Khí dục vô khán 棄 欲 無 着
Khuyết tam giới chướng 缺 三 界 障
Vọng ý dĩ tuyệt 望 意 已 絕
Thị vị thượng nhân 是 謂 上 人
Buông bỏ tham dục, không còn dính mắc, vượt mọi chướng ngại ba cõi, vọng tâm đã hết, đó là một bậc thượng nhân.
Buông bỏ tham dục
Không còn dính mắc
Vượt chướng ba cõi
Vọng tâm đã hết
Là bậc thượng nhân.
Bài kệ 10
Tại tụ nhược dã 在 聚 若 野
Bình địa cao ngạn 平 地 高 岸
Ưng chân sở quá 應 真 所 過
Mạc bất mông hữu 莫 不 蒙 祐
Nơi đồng quê hay ở chốn xóm làng, dưới bình nguyên hay trên cao nguyên, địa phương nào có các vị ấy đi tới đều trở nên linh thiêng.
Ở nơi đồng quê
Hay chốn xóm làng
Bình nguyên cao nguyên
Nơi các vị đến
Đều thành linh thiêng.
Bài kệ 11
Bỉ lạc không nhàn 彼 樂 空 閑
Chúng nhân bất năng 眾 人 不 能
Khoái tai vô vọng 快 哉 無 望
Vô sở dục cầu 無 所 欲 求
Ưa những nơi nhàn vắng, ít người lui tới, hạnh phúc thay khi đã đạt tới trình độ không còn vọng động, không còn mong cầu.
Ưa nơi nhàn vắng
Ít người lui tới
Hạnh phúc lắm thay
Không còn vọng động
Không còn mong cầu.